Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Luyện Thi TOEIC Cấp Tốc - Vũ Mai Phương

Luyện Thi TOEIC Cấp Tốc – Vũ Mai Phương

Luyện Thi TOEIC Cấp Tốc – Vũ Mai Phương

Cuốn sách Luyện Thi TOEIC Cấp Tốc – Vũ Mai Phương đính kèm CD là bộ sách ôn thi TOEIC được rất nhiều người lựa chọn phục vụ việc luyện thi TOEIC. Các bạn có thể tham khảo thêm sách của cô Vũ Mai Phương.

Phần thi Part 5 của bài thi TOEIC gồm có 40 câu hỏi. Mỗi câu trong phần này có 1 từ/cụm từ còn thiếu và cần được thêm vào. Thí sinh đọc 4 phương án trả lời cho mỗi câu và chọn phương án trả lời đúng nhất bằng cách bôi đen vào ô tròn tương ứng với câu trả lời A, B, C hoặc D trong tờ bài làm.

Trong dạng bài này, thường có hai dạng câu hỏi: ngữ pháp và từ vựng.Thời gian “vàng” để hoàn tất 40 câu hỏi của phần PART 5 là 15 phút chưa kể tô answer sheet (~20s/câu). Sẽ có những câu bạn không mất quá 5 giây nhưng cũng có những câu phải mất đến gần 1 phút.

Trong 40 câu hỏi của PART 5 thì có khoảng 22 – 25 câu hỏi ngữ pháp và 15 – 18 câu hỏi từ vựng. Do đó, chúng ta cần phải ôn luyện cả hai phần nội dung này. Cuốn sách này chuẩn bị cho các bạn đầy đủ kiến thức về ngữ pháp và từ vựng với số lượng câu hỏi ôn tập, có đáp án chi tiết nhằm giúp các bạn tự học TOEIC tại nhà.

Xem thêm:

600 essential words for the TOEIC Test Giáo Trình Starter TOEIC Tài liệu hướng dẫn thi TOEIC từ A đến Z

Nếu dành thời gian nghiên cứu và tìm hiểu kỹ cuốn sách này các bạn có thể đạt được ít nhất 30 câu trở lên cho phần thi này. Đừng quên đăng ký email để nhận những bộ sách mới nhất từ cô Mai Phương.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

Từ Điển Trái Nghĩa-Đồng Nghĩa Tiếng Việt PDF
Từ đồng nghĩa và trái nghĩa trong tiếng Việt là một đề tài hết sức thú vị. Chúng ta bắt gặp chúng rất nhiều trong đời sống hàng ngày nhưng đôi khi lại lúng túng khi sử dụng. Trong kho tàng của tiếng Việt, những từ đồng nghĩa và trái nghĩa khá phong phú và đa dạng, chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bởi vậy để nói và viết đúng tiếng Việt không thể không tìm hiểu những từ đồng nghĩa và trái nghĩa. Đó cũng là lí do chúng tôi biên soạn cuốn “Từ điển đồng nghĩa - trái nghĩa tiếng Việt” (dành cho học sinh). Tựa đề của cuốn sách đã nói đến đối tượng chủ yếu mà chúng tôi muốn hướng đến đó là học sinh, sinh viên - những người còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Ngoài ra, cuốn từ điển này còn hướng đến đông đảo bạn đọc trong hầu khắp các lĩnh vực. Với tiêu chí dễ hiểu, tiện lợi, dễ tra cứu nên chúng tôi chỉ giải thích mọc từ một cách cô đọng và ngắn gọn nhất, các từ ngoại lai, từ cổ, từ địa phương cũng được chúng tôi mạnh dạn lược bớt.Từ Điển Trái Nghĩa-Đồng Nghĩa Tiếng ViệtNXB Giáo Dục 1994Dương Kỳ Đức, Vũ Quang Hào209 TrangFile PDF-SCAN
PDF VIỆT NGỮ CHÍNH TẢ TỰ VỊ - LÊ NGỌC TRỤ - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Cuốn Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị của giáo sư Lê Ngọc Trụ do nhà xuất bản Thanh Tân in lần đầu ở Sài Gòn năm 1959 đã đoạt giải thưởng văn chương bộ môn biên khảo.Giáo sư Lê Ngọc Trụ (1909 - 1979) là nhà ngôn ngữ học hàng đầu của Việt Nam. Trong gần nửa thế kỷ nghiên cứu ngôn ngữ học và văn hóa Việt Nam, ông đã đóng góp cho xã hội 5 cuốn sách, 56 bài viết về ngôn ngữ, 8 bài về sử học, viết tựa cho 5 cuốn sách, hiệu đính cho 1 bộ từ điển (Việt Nam Từ điển của Lê Văn Đức, 1970, dày trên 2.000 trang) và 12 bài báo khác.Với số lượng công trình trên, có thể nói ông là một trong những nhà ngôn ngữ học viết nhiều nhất ở nước ta vào giữa thế kỷ này. Đóng góp lớn nhất của giáo sư Lê Ngọc Trụ thuộc hai lĩnh vực chính tả và từ nguyên.  
Giúp Đọc Nôm Và Hán Việt (NXB Đà Nẵng 2004) - Trần Văn Kiệm
Nhìn vào hai hàng chữ tiếng Việt, chúng ta thấy hàng chữ Quốc ngữ ngày nay trông đơn giản hơn hàng chữ Nôm mà tổ tiên chúng ta đã từng dùng rất nhiều. Nhưng hàng chữ Quốc ngữ diễn tả âm thanh hay cách phát âm của ngôn ngữ, trong khi hàng chữ Nôm cho chúng ta thấy sự diễn tả ý nghĩa (tượng hình) của ngôn ngữ. Đó là hai đặc điểm khác biệt cơ bản nhất của hệ thống chữ La Tinh (biểu âm) và hệ thống chữ Hán (biểu hình). Ngày nay, sau hơn một thế kỷ chúng ta chính thức dùng chữ Quốc ngữ (hệ thống phiên âm chữ La tinh) để viết tiếng Việt thay thế hoàn toàn cho hệ chữ Hán Nôm, chữ viết của chúng ta trở thành chữ viết rất dễ nhớ và dễ học. Tuy nhiên chính việc dùng chữ Quốc ngữ và ngừng dạy chữ Hán Nôm sau một khoảng thời gian dài đã càng làm cho tiếng Việt của chúng ta ngày càng xa rời cội nguồn của nó. Tiếng Việt của chúng ta có cội nguồn từ hệ thống chữ viết tượng hình nằm trong khối Hán văn (bao gồm Trung Quốc, Nhật, Triều Tiên và Việt Nam), và cũng là một thứ ngôn ngữ có khá nhiều từ đồng âm dị nghĩa mà vốn dĩ trước kia chúng ta dùng hệ thống chữ Hán Nôm để phân biệt. Ngày nay dùng chữ Quốc ngữ, sự phân biệt này thường thông qua văn cảnh. Tuy nhiên, nếu so sánh với nguồn gốc của từ ngữ trong tiếng Việt thì chúng ta có thể liệt kê ra nhiều từ được viết bằng chữ Quốc ngữ được hiểu sai và dùng sai, và khi dùng nhiều trở thành thông dụng và đương nhiên những từ sai cũng được chấp nhận và đưa vào trong vốn từ vựng tiếng Việt hiện đại. Hệ thống chữ Hán là chữ tượng hình dùng để viết lên thứ ngôn ngữ theo lối diễn tả hình tượng và ý nghĩa. Trong khi hệ thống chữ viết theo mẫu tự La Tinh biểu diễn âm thanh, qua âm thanh chúng ta mới hiểu được ý nghĩa. Theo tôi nghĩ, mỗi một thứ chữ viết có những ưu nhược điểm khác nhau. Nếu chữ viết của chúng ta ngày nay dùng hệ phiên âm chữ La tinh có ưu điểm là dễ nhớ dễ học, nhưng lại có nhược điểm là chỉ nhằm cấu tạo phần âm thanh mà không làm nổi bật được đặc tính cấu tạo hình ảnh và nghĩa. Còn chữ Hán, và chữ Nôm của Việt Nam, tuy phức tạp nhưng lại diễn tả được phần nghĩa và giải quyết được phần lớn hiện tượng các từ đồng âm dị nghĩa vốn có rất nhiều trong ngữ vựng của các ngôn ngữ khối Hán văn.Giúp Đọc Nôm Và Hán ViệtNXB Đà Nẵng 2004Trần Văn Kiệm918 TrangFile PDF-SCAN
Từ điển tranh về các loài chim
Cuốn "Từ điển tranh về các loài chim" nằm trong bộ từ điển tranh đã xuất bản của nhóm tác giả Lê Quang Long, Nguyễn Thị Thanh Huyền gồm: "Từ điển tranh về các con vật". "Từ điển tranh về các loài cây", "Từ điển tranh về các loài hoa", "Từ điển tranh về các loại củ, quả"... "Từ điển tranh về các loại chim" để cập đến gần 500 loài chim, bao gồm các loại phổ biến ở Việt Nam và các loài đặc biệt trên thế giới.Mỗi loài chim được giới thiệu tên bằng tiếng Việt, tiếng Latinh, tiếng Anh và tiếng Pháp; giới thiệu tên họ bằng tiếng Việt, tiếng Latinh. Hầu hết các loài đều được mô tả ngắn gọn bằng các kiến thức sinh học như đặc điểm hình dạng, màu sắc, nêu tập tính, mùa sinh sản, nơi phản bà. Mỗi loại chìm được minh hoạ bằng ảnh màu giúp bạn đọc nhận biết dễ dàng hơn.Với nội dung khoa học (dù chỉ ở dạng tài liệu phổ biến kiến thức cho đối tượng đại chúng), với hình thức trình bày đẹp, hấp dẫn, hi vọng cuốn sách sẽ là một tài liệu quý giúp bạn đọc, đặc biệt là học sinh phổ thông có thêm những kiến thức sâu rộng về thế giới động vật nói chung và kiến thức về các loài chim.Trong quá trình biên soạn, các tác giả đã tham khảo nhiều tài liệu quý giá, các công trình chuyên khảo cổ giá trị lớn của Vũ Quý, Nguyễn Cư, Lê Trọng Trải, ... đã sưu tầm tranh, ảnh ở một số tài liệu trong và ngoài nước để đảm bảo sự chính xác về các kiến thức khoa học và sự hấp dẫn của cuốn sách. Giáo sư Lê Vũ Khôi, Giáo sư Võ Quý cũng đã đọc và đóng góp cho bản thảo những ý kiến quý báu. Tuy vậy do được biên soạn lần đầu, từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau nên sách sẽ không tránh khỏi những sai sót. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến của bạn đọc để cuốn sách hoàn chỉnh hơn ở những lần in sau.