Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ánh Sáng Trên Đường Đạo (Mabel Collins)

LỜI GIỚI THIỆU

Kỳ xuất bản cuốn sách này lần thứ nhất, phát hành năm 1885 trên trang đề tựa được miêu tả như sau: “Một luận văn dành riêng cho những ai chưa hiểu biết về Minh Triết Đông Phương và muốn hấp thu ảnh hưởng của nó”. Nhưng chính cuốn sách này lại mở đầu như sau: “Những quy luật này được viết ra dành cho tất cả các hàng đệ tử“. Dĩ nhiên lời miêu tả sau thì rõ ràng và đúng hơn là trong đoạn lược sử của cuốn sách.

Bản nguyên tác của sách hiện nay là do Chân Sư Hilarion đọc cho bà Mabel Collins viết khi bà đang ở trong trạng thái thụ động như một đồng tử. Bà là một mệnh phụ rất quen thuộc trong giới Minh Triết Thiêng Liêng. Bà đã từng cộng tác với bà Blavatsky trong việc làm chủ bút tờ báo Lucifer. Chân Sư Hilarion nhận được bản nội dung cuốn sách này do chính tự tay Sư Phụ của Ngài tức là Đấng

Cao Cả mà các sinh viên Minh Triết Thiêng Liêng một đôi khi gọi là Đức Vénetian, nhưng Đức Vénetian cũng chỉ soạn thảo một phần của sách mà thôi. Sách này đã trải qua ba giai đoạn mà chúng ta sẽ lần lượt ghi nhận sau đây.

Mãi cho đến bây giờ, tác phẩm này chỉ là một cuốn sách nhỏ, nhưng khi chúng tôi thấy nó lần đầu tiên thì nó còn nhỏ hơn bây giờ. Đó là một cuốn sách viết tay trên những tờ lá gồi, cũ xưa đến đỗi ta không đoán tuổi nó được. Sách này cũ đến nỗi ngay trước Thiên Chúa giáng sinh, người ta đã quên tên tác giả và ngày phát hành sách, nguồn gốc sách đã bị quên lảng trong những đám mây mờ của thời tiền sử xa xôi. Sách gồm mười tờ lá gồi và trên mỗi tờ chỉ có ba hàng chữ viết. Vì là một cuốn sách viết tay trên lá gồi như thế, chữ được viết theo dọc tờ giấy, từ trên xuống dưới (như chữ nho) chứ không viết xuyên ngang trang giấy từ trái sang phải như ta thường viết bây giờ. Mỗi hàng chữ là một câu châm ngôn ngắn, đầy đủ ý nghĩa. Tìm mua: Ánh Sáng Trên Đường Đạo TiKi Lazada Shopee

Để cho ba mươi hàng chữ này được trình bày rõ ràng minh bạch, trong bản in mà quý bạn đang đọc, chúng được in bằng kiểu chữ lớn hơn và nghiêng. Trong nguyên bản, có những câu châm ngôn được viết theo lối chữ Bắc Phạn cổ xưa.

Chân Sư Vénetian đã dịch sách này từ tiếng Bắc Phạn ra tiếng Hy Lạp để các môn đệ của Ngài thuộc môn phái Alexandria đọc. Trong một kiếp, Chân Sư Hilarion đã là một môn đệ đó, mang tên là Iamblichus. Không những Đức Vénetian dịch các câu châm ngôn, Ngài còn thêm vào đó những lời giảng nghĩa cần được đọc cùng với bản nguyên tác.

Thí dụ, nếu nhận xét về ba câu châm ngôn đầu tiên, ta thấy đoạn văn đầu số 4 (kế tiếp) rõ ràng là dụng ý làm lời bình luận cho 3 câu trên, vì vậy, ta phải đọc như sau:

“Ngươi hãy tiêu diệt lòng tham vọng, nhưng hãy làm việc như những kẻ lòng đầy tham vọng.

Ngươi hãy tiêu diệt lòng ham sống, nhưng hãy tôn trọng sự sống như những kẻ đầy lòng ham sống.

Ngươi hãy tiêu diệt lòng ham muốn sự tiện nghi, nhưng hãy sung sướng như những kẻ chỉ sống để hưởng lạc thú.”

Tất cả những lời giảng giải và bàn rộng của Chân Sư Vénetian được in bằng chữ thường. Những lời này (cùng với bản nguyên tác của các câu châm ngôn) làm thành cuốn sách đã được phát hành lần đầu, năm 1885, vì Chân Sư Hilarion dịch sách từ tiếng Hy Lạp ra tiếng Anh nên mới có bản dịch như ngày nay. Khi sách vừa được in xong, Ngài lại thêm vào đó những câu chú giải riêng của Ngài rất có giá trị. Trong kỳ xuất bản thứ nhất, những lời chú giải này được in trên những trang giấy rời, phía sau phết keo để dán lên đoạn đầu hay đoạn cuối sách vừa được in xong.

Trong bản in mà quý bạn đang đọc đây, những lời chú giải được xếp đặt vào chỗ thích hợp, nhưng chữ được in nghiêng và có in chữ chú giải ở phía trước mỗi lời chú giải.

Trong mỗi kỳ tái bản về sau, người ta thêm vào đó những chương với lời đề tựa “Bình Luận” và theo tôi hiểu thì bà M.C. đã nghĩ rằng chính Chân Sư Hilarion đã cảm hứng bà, giống như khi bà viết nội dung sách đó. Tuy nhiên không phải đúng vậy đâu, vì bất cứ ai chịu khó đọc những lời bình luận ấy cũng sẽ nhận thấy rõ rằng tác giả thuộc về một môn phái Huyền Bí Học hoàn toàn khác biệt với môn phái các Chân Sư của chúng ta.

Bài luận văn ngắn và viết rất hay về “Nhân Quả” cũng do Chân Sư Vénetian viết và được thêm vào kỳ xuất bản đầu tiên của cuốn sách này (1).

Cuốn là bài thứ nhất trong số ba bài luận văn hằng giữ một vị trí độc đáo trong văn chương Minh Triết Thiêng Liêng, đó là những lời chỉ dạy mà những vị đã đi trên Đường Đạo ban ra cho những kẻ muốn noi theo con đường đó. Tôi nhớ ông Subba Row, đã quá cố, có một lần nói với chúng tôi rằng những quy luật này có nhiều mức độ ý nghĩa khác nhau. Ông nói rằng ta có thể học đi học lại những quy luật ấy như những lời chỉ đạo thích hợp cho mọi trình độ cao thấp khác nhau.

Trước hết, chúng thích hợp với kẻ chí nguyện đang đi trên con Đường Nhập Môn, rồi kẻ nào đã thật sự bước vào Con Đường Thánh Đạo lần thứ Nhất, cũng học lại những quy luật này một lần nữa nhưng ở một trình độ cao hơn. Người ta nói rằng sau khi đắc quả Chơn Tiên và đang tiến đến những quả vị cao hơn, hành giả vẫn có thể học lại những quy luật trên thêm một lần nữa, các quy luật này vẫn được coi như là những lời chỉ đạo với một ý nghĩa cao hơn. Theo cách đó, đối với những ai đã hiểu được trọn vẹn ý nghĩa thần bí của cuốn sách này thì sách sẽ đưa họ đi xa hơn là với bất cứ cuốn sách nào khác.

Rồi đến cuốn “Tiếng Nói Vô Thinh” do chính bà Blavatsky ghi chép lại cho chúng ta; thực ra sách này ghi chép lại ba bài thuyết pháp của Đức Aryasanga, Vị Đại Giáo Chủ (mà hiện nay chúng ta được biết là Chân Sư Kỳ xuất bản chữ Việt đầu tiên này nó không được in ra.

Djwal Kul; sau này ba bài thuyết pháp đó được đệ tử của Ngài là Alcyone nhớ và chép lại trên giấy. Sách này ghi những lời chỉ đạo khiến ta tiến đến quả vị một vị La Hán.

Trên nhiều phương diện, sách được soạn thảo hoàn toàn khác với quan điểm của Chân Sư Hilarion. Thật vậy, nếu người sinh viên cần mẫn so sánh những điểm giống nhau và khác nhau trong hai cuốn sách thì đó ắt hẳn là một công việc rất hứng thú.

Cuốn thứ ba trong loại sách hướng dẫn ta trên Đường Đạo mới vừa được Alcyone đưa ra; Alcyone chính là vị đã ghi chép giùm chúng ta các bài thuyết pháp của Đức Aryasanga. Trong cuốn “Dưới Chân Thầy“, Alcyone nhắc lại cho ta nghe những lời giáo huấn mà Chân Sư Kuthumi mang ra dạy Alcyone với mục đích chuẩn bị cho ông được Điểm Đạo lần thứ Nhất. vì vậy, phạm vi cuốn sách này nhỏ hẹp hơn các cuốn khác, nhưng nó lại có ưu điểm là vô cùng rõ ràng và giản dị vì những lời giáo huấn trong sách phải làm sao cho một trí óc hồng trần rất non nớt có thể thông hiểu được.

Cuốn sách viết tay bằng tiếng Bắc Phạn tối cổ, là nguồn cội xuất xứ của cuốn “” cũng được dịch ra tiếng Ai Cập, và nhiều lời giải nghĩa của Chân Sư Vénetian có các âm thanh giáo lý của Ai Cập hơn là âm thanh giáo lý Ấn Độ. Dù Ai Cập hay Ấn Độ, thật là không còn có viên ngọc báu nào quý giá hơn tác phẩm này trong văn chương Minh Triết Thiêng Liêng của chúng ta - không còn cuốn sách nào khác có thể đền bù xứng đáng công phu học hỏi tỉ mỉ và cần mẫn nhất của chúng ta.

Nhưng xin hãy đọc đoạn văn trích trong lời nói đầu của cuốn “Dưới Chân Thầy“:

“Thật là chưa đủ chút nào nếu ta chỉ nói suông rằng những lời dạy bảo này thật đúng chân lý và tốt đẹp: ai muốn thành công thì phải thực hành và tuân theo đúng những lời chỉ dạy. Một người sắp chết đói mà chỉ nhìn đồ ăn và nói suông rằng: Đồ ăn ngon quá! thì người ấy có no bụng được đâu. Người ấy phải thò tay gắp lấy mà ăn. Cũng giống như thế, thật là chưa đủ chút nào nếu các bạn chỉ nghe thấy lời Chân Sư dạy mà thôi; các bạn phải thực hành điều Ngài dạy, phải theo dõi từng tiếng nói, phải nhận xét từng dấu hiệu bóng gió xa xôi. Nếu các bạn bỏ qua một dấu hiệu hay một tiếng nói thì dấu hiệu hay tiếng nói này sẽ mất đi mãi mãi vì Chân Sư không bao giờ nói hai lần.”

Được soạn thảo với mục đích rõ rệt là thúc đẩy sự tiến hóa của những kẻ đang đi trên Đường Đạo, các cuốn sách này đưa ra những lý tưởng mà người thế gian ít khi được chuẩn bị để có thể chấp nhận chúng. Con người chỉ thật sự hiểu được các lời giáo huấn nếu người đó áp dụng chúng trong đời sống. Nếu không thực hành những lời giáo huấn này, người đó không sao hiểu được cuốn sách này và sẽ nghĩ rằng đây là một cuốn sách vô ích và không thực tế.

Nhưng nếu các bạn thành thực cố gắng để sống theo sách này thì ánh sáng sẽ chiếu rọi vào sách ngay. Chúng ta chỉ có thể thưởng thức viên ngọc báu vô giá này theo cách đó mà thôi.

C.W. LEADBEATER

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ánh Sáng Trên Đường Đạo PDF của tác giả Mabel Collins nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Ấn Độ giáo nhập môn
Đến Ấn Độ bạn sẽ thấy các tượng thần ở khắp mọi nơi. Những tượng thần được đặt trong những ngôi đền lộng lẫy và trên những bàn thờ nhỏ bên đường, hoặc được tạc ngay vào đá. Ta bắt gặp ánh mắt độ lượng của các vị thần từ những tờ áp phích quảng cáo, những tờ lịch, poster phim. Những bức tượng thần nhỏ xíu hay những món trang sức có hình các vị thần lẫn trong những sạp hàng và trong những tủ kính trưng bày. Những vị thần đã hòa vào cuộc sống của những làng quê lẫn thành phố tại Ấn Độ, và giờ đây những vị thần còn xuất hiện trong những cộng đồng người Ấn Độ ở khắp nơi trên thế giới, từ Caribbean đến Bắc Mỹ, từ Nam Phi đến các nước Đông Á... Các vị thần xuất hiện ở khắp mọi nơi, dưới đủ mọi dạng thức, biểu thị sự phong phú và đa dạng của văn hóa Ấn Độ. Đất nước Ấn Độ luôn hiện hữu trong tâm trí hàng triệu người trên khắp thế giới như một xứ sở thần bí với những đền đài lộng lẫy, những tượng thần kỳ lạ, với sông Hằng linh thiêng và các nhà tu khổ hạnh trầm tư dưới ánh mặt trời nhiệt đới.Ấn Độ còn là nơi phát xuất những tôn giáo lớn của nhân loại: Hindu giáo, Phật giáo… và là một trong những nền văn minh phong phú nhất, có ảnh hưởng nhất đến tiến trình lịch sử. Tại Ấn Độ, Hindu giáo (hay Ấn giáo) không phải chỉ là một tôn giáo mà là cả một nền văn hóa, và vượt ra ngoài ranh giới của văn hóa, Ấn giáo đã hòa tan vào đời sống tâm linh và xã hội của người Ấn và đặt ra nhiều vấn đề về bản chất của vũ trụ và con người.Quyển sách này sẽ dẫn các bạn vào hành trình tìm hiểu về xứ sở thần bí này và về đời sống tinh thần của nó - Ấn Độ giáo.
Mấy thầy tu huyền bí ở Tây Tạng và Mông Cổ (Scan) - Đoàn Trung Còn
Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông CổĐoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhMẤY LỜI ĐẦU MẤY LỜI ĐẦU MẤY LỜI ĐẦUSách này được phân làm ba phần: Sách này được phân làm ba phần: Phần thứ nhất, từ mục thứ nhất đến mục thứ 9, là những điều trông thấy của bà Alexandra David Neel trong thời gian bà du hành bên xứ Tây Tạng. Phần thứ nhất, từ mục thứ nhất đến mục thứ 9, là những điều trông thấy của bà Alexandra David Neel trong thời gian bà du hành bên xứ Tây Tạng.Phần thứ hai, từ mục thứ 10 cho đến mục thứ 17, ghi lại những cuộc khảo sát và nghiên cứu của ông Jean Marquès Rivière, một người Pháp có đến Tây Tạng và thọ giới xuất gia, tu trì trong các ngôi chùa lớn bên ấy. Riêng về ông J. M. Rivière, sẽ được đề cập đến trong mục thứ 10. Phần thứ hai, từ mục thứ 10 cho đến mục thứ 17, ghi lại những cuộc khảo sát và nghiên cứu của ông Jean Marquès Rivière, một người Pháp có đến Tây Tạng và thọ giới xuất gia, tu trì trong các ngôi chùa lớn bên ấy. Riêng về ông J. M. Rivière, sẽ được đề cập đến trong mục thứ 10.Phần thứ ba, trích dịch trong quyển “Từ Súc sinh, Nhân loại đến Thánh thần” của ông Ferdinand Ossendowski, một nhà mạo hiểm người Ba-lan đã từng đến Mông Cổ và Tây Tạng. Ông này được một vị thượng tọa chùa Na-ra-băn-si, là người được tôn sùng như một vị Phật sống thời nay, ban cho một chiếc nhẫn quý. Nhờ vậy, nên khi đi qua các nơi trong xứ Mông Cổ và Tây Tạng, ông thường được người ta ủng hộ một cách nhiệt thành. Nhất là giới tăng sĩ ở các chùa luôn đón tiếp ông như một người đã đắc Đạo đi truyền Pháp. Nhờ vậy mà ông được biết lắm điều huyền bí trong chốn cửa Thiền. Phần thứ ba, trích dịch trong quyển “Từ Súc sinh, Nhân loại đến Thánh thần” của ông Ferdinand Ossendowski, một nhà mạo hiểm người Ba-lan đã từng đến Mông Cổ và Tây Tạng. Ông này được một vị thượng tọa chùa Na-ra-băn-si, là người được tôn sùng như một vị Phật sống thời nay, ban cho một chiếc nhẫn quý. Nhờ vậy, nên khi đi qua các nơi trong xứ Mông Cổ và Tây Tạng, ông thường được người ta ủng hộ một cách nhiệt thành. Nhất là giới tăng sĩ ở các chùa luôn đón tiếp ông như một người đã đắc Đạo đi truyền Pháp. Nhờ vậy mà ông được biết lắm điều huyền bí trong chốn cửa Thiền.Ở đây, xin nói qua về bà Alexandra David Neel. Bà là một nhà tu người Pháp. Có kẻ nói bà là người Mỹ, song theo lời tự nhận của chính bà, thì bà là người Pháp. Vì ham mộ giáo lý đạo Phật nên bà đã từng đặt chân đến nhiều nơi có những ngôi chùa xưa và tham học với nhiều vị danh tăng. Bà đã viếng khắp cõi Thiên Trúc, có làm lễ ở những nơi thờ dấu tích và tro tàn xá-lợi của đức Phật. Bà cũng có đến nước Nhật, dự nhiều buổi lễ trang nghiêm trong các chùa lớn do các vị lão tăng chủ trì. Bà có sang Trung Hoa, từng sống cuộc đời thanh tĩnh giữa chư tăng trong một số ngôi chùa cổ ở Bắc Kinh. Đặc biệt là bà có viếng qua khắp những miền linh thiêng trong xứ Tây Tạng, nương náu trong vòng mười bốn năm ở các đỉnh núi tuyết, gần gũi với các vị danh tăng đạo cao đức cả. Chính bà có quen thân với đức Ban-thiền Lạt-ma, một trong các vị đứng đầu hàng tăng sĩ Tây Tạng mà khắp xứ đều tôn trọng và xem như là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Bà là người tận tâm với Phật Pháp, đã từ bỏ nếp sống phong lưu, quý phái mà chịu nhọc nhằn sống đến các nơi hẻo lánh để cầu Đạo, cho nên bà biết nhiều chuyện tích rất hay. Tuy chính phủ Tây Tạng vẫn cấm người da trắng vào xứ này, song bà được chính giới tăng sĩ giúp đỡ nên bước đường tu niệm và nghiên cứu của bà đều được dễ dàng hơn. Bà có soạn nhiều quyển sách giá trị về Phật giáo và về phong tục xứ Tây Tạng. Có thể kể ra đây một số như là: Ở đây, xin nói qua về bà Alexandra David Neel. Bà là một nhà tu người Pháp. Có kẻ nói bà là người Mỹ, song theo lời tự nhận của chính bà, thì bà là người Pháp. Vì ham mộ giáo lý đạo Phật nên bà đã từng đặt chân đến nhiều nơi có những ngôi chùa xưa và tham học với nhiều vị danh tăng. Bà đã viếng khắp cõi Thiên Trúc, có làm lễ ở những nơi thờ dấu tích và tro tàn xá-lợi của đức Phật. Bà cũng có đến nước Nhật, dự nhiều buổi lễ trang nghiêm trong các chùa lớn do các vị lão tăng chủ trì. Bà có sang Trung Hoa, từng sống cuộc đời thanh tĩnh giữa chư tăng trong một số ngôi chùa cổ ở Bắc Kinh. Đặc biệt là bà có viếng qua khắp những miền linh thiêng trong xứ Tây Tạng, nương náu trong vòng mười bốn năm ở các đỉnh núi tuyết, gần gũi với các vị danh tăng đạo cao đức cả. Chính bà có quen thân với đức Ban-thiền Lạt-ma, một trong các vị đứng đầu hàng tăng sĩ Tây Tạng mà khắp xứ đều tôn trọng và xem như là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Bà là người tận tâm với Phật Pháp, đã từ bỏ nếp sống phong lưu, quý phái mà chịu nhọc nhằn sống đến các nơi hẻo lánh để cầu Đạo, cho nên bà biết nhiều chuyện tích rất hay. Tuy chính phủ Tây Tạng vẫn cấm người da trắng vào xứ này, song bà được chính giới tăng sĩ giúp đỡ nên bước đường tu niệm và nghiên cứu của bà đều được dễ dàng hơn. Bà có soạn nhiều quyển sách giá trị về Phật giáo và về phong tục xứ Tây Tạng. Có thể kể ra đây một số như là:– Những cuộc thuyết pháp của các vị Lạt-ma) – Những cuộc thuyết pháp của các vị Lạt-ma)– Cuộc du hành của một người phụ nữ Paris đến Lhassa – Cuộc du hành của một người phụ nữ Paris đến Lhassa– Pháp thuật vì ái tình và tà thuật – Những phong tục xứ Tây Tạng mà rất ít người biết đến – Pháp thuật vì ái tình và tà thuật – Những phong tục xứ Tây Tạng mà rất ít người biết đến– Vị Lạt-ma đắc ngũ thông – Vị Lạt-ma đắc ngũ thông– Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng – Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây TạngPhần thứ nhất trong sách này có 9 mục, được soạn từ nơi quyển “Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng” vừa kể trên. Quý độc giả có lòng muốn tu học, nên xem qua cho biết sự tu luyện khó nhọc, cam go của các vị tăng sĩ trên vùng cao núi tuyết. Quý ngài sẽ thấy nhiều sự linh diệu, ly kỳ và nhiều phép huyền vi của các vị tu hành chân chính. Phần thứ nhất trong sách này có 9 mục, được soạn từ nơi quyển “Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng” vừa kể trên. Quý độc giả có lòng muốn tu học, nên xem qua cho biết sự tu luyện khó nhọc, cam go của các vị tăng sĩ trên vùng cao núi tuyết. Quý ngài sẽ thấy nhiều sự linh diệu, ly kỳ và nhiều phép huyền vi của các vị tu hành chân chính.Soạn dịch và cho ra đời quyển sách này, tôi mong muốn là sẽ góp được một phần nào phổ biến rộng thêm giáo lý nhà Phật, khuyến khích những ai còn nghi ngờ trở nên tin chắc, giúp cho các vị cư sĩ tu tại gia đem lòng tín phục mà công nhận rằng: tinh thần được trau luyện kỹ thì trở nên mạnh mẽ vô ngần, và cầu cho các bậc xuất gia càng dũng mãnh mà tiến tới trên đường đức hạnh và giải thoát. Soạn dịch và cho ra đời quyển sách này, tôi mong muốn là sẽ góp được một phần nào phổ biến rộng thêm giáo lý nhà Phật, khuyến khích những ai còn nghi ngờ trở nên tin chắc, giúp cho các vị cư sĩ tu tại gia đem lòng tín phục mà công nhận rằng: tinh thần được trau luyện kỹ thì trở nên mạnh mẽ vô ngần, và cầu cho các bậc xuất gia càng dũng mãnh mà tiến tới trên đường đức hạnh và giải thoát.Đoàn Trung Còn Đoàn Trung Còn Đoàn Trung Còn
Bồ Đề Đạt Ma quán tâm pháp - Thích Minh Thiền
Tài liệu này ghi lại phần luận của Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma trong quyển sách Bồ-Đề Đạt-Ma Quán Tâm Pháp do thầy Minh Thiền dịch và giảng giải tại chùa Hội Tông, Phú Định, vào năm 1973, xuất bản bởi Nhà xuất bản Quế Sơn, Võ Tánh. Quán Tâm Pháp là tên chung cho ba thiên luận về Huyết Mạch, Ngộ Tánh và Phá Tướng.   LUẬN HUYẾT MẠCHBa cõi lăng xăng đều từ một tâm. Phật trước Phật sau đều chỉ dùng tâm truyền tâm, chẳng lập văn tự. Có người hỏi: Nếu không lập văn tự, vậy lấy gì là tâm?Đáp: Ông nói tôi tức là tâm của ông, tôi trả lời với ông tức là tâm của tôi.Nếu tôi không có tâm thì lấy đâu biết để trả lời với ông; ông nếu không có tâm thì làm sao ông biết hỏi tôi. Cho nên biết: Hỏi tôi tức là tâm của ông đó. Từ lũy kiếp đến giờ, nhẫn đến hành tung hoạt động bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào đều là cái tâm vốn có của ông, đều là Phật vốn có của ông. Cái nghĩa “chính tâm là Phật” là như thế. Ngoài tâm này rốt ráo không có Phật nào khác có thể được. Nếu lìa tâm này mà tìm Bồ-đề, Niết-Bàn, thì thật là không tưởng. Tánh chơn thật của mình không phải pháp nhân pháp quả, đó là nghĩa của tâm. Tự tâm là Niết-Bàn. Nếu nói ngoài tâm có Phật và Bồ-Đề có thể được thì thật là không tưởng.Phật và Bồ-Đề ở chỗ nào? Ví như có người dang tay bắt hư-không có được gì không? Vì sao thế? Vì hư-không chỉ có tên chớ nào có hình tướng! Bắt đã chẳng được, bỏ cũng chẳng được. Thế là hư-không không thể bắt được.Trừ tâm này ra mà tìm Phật rốt rồi không được cũng giống như vậy. Phật là tự tâm làm ra. Tại sao lìa tâm mà tìm Phật? Phật trước Phật sau chỉ nói về tâm. Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm; ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm. Nếu nói ngoài tâm có Phật vậy Phật ở đâu? Ngoài tâm đã không Phật sao lại còn làm ra cái thấy có Phật để mà dối gạt lẫn nhau, rồi không thể rõ được cái tâm vốn có của mình, lại bị vật vô tình nó nhiếp mất tự do; nếu không tin hiểu như thế, để tự dối gạt thật là vô ích. Phật không lỗi lầm, chúng sanh điên đảo chẳng biết giác ngộ tâm mình là Phật. Nếu biết tự tâm là Phật chớ nên tìm cầu Phật ngoài tâm.(Lược trích)
HỌC LÀM PHẬT (TRANH CHĂN TRÂU) - THÍCH TRƯỜNG LẠC
Nhan đề sách "Học Làm Phật" không đúng hẳn với nội-dung. Thật ra đây là cuốn "Tranh Chăn Trâu" hay "Thập Mục Ngưu Đồ", một cuốn sách rất được nhiều người biết đến trong Phật-học. Sách gồm có 3 phần: một là "Họa" = tranh vẽ, là 10 bức tranh vẽ cảnh mục-đồng chăn trâu, từ lúc khởi đầu trâu đi lạc hoặc trâu còn hung dữ cho đến khi bắt được trâu và huấn-luyện cho thuần-thục; hai là "Tụng" là những bài kệ (4 câu) đi kèm theo mỗi búc họa, và ba là "Luận Giải" là những bài bình-luận hoặc giảng-giải thêm những bức họa và những bài tụng, cần cho người sơ học dễ nắm bắt được ý-nghĩa. Hiện nay có nhiều sách "Thập Mục Ngưu Đồ", và 3 phần nói trên tuỳ-nghi thay đổi nhiều ít dài ngắn theo mỗi soạn giả.