Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dám Bị Ghét

Ở vùng ngoại ô của cố đô được ngợi ca là thành phố ngàn năm lịch sử, có một Triết gia phát biểu rằng, thế giới vô cùng đơn giản và con người có thể hạnh phúc ngay lúc này. Không thể chấp nhận quan điểm đó, một người trẻ tuổi đã tới gặp để hỏi rõ ông thực sự nghĩ gì. Trong con mắt buồn bã của Chàng thanh niên, thế giới chỉ như một cõi hỗn mang đầy mâu thuẫn, không hề có hạnh phúc. Chàng thanh niên: Tôi xin hỏi lại thầy. Có phải thầy cho rằng thế giới đơn giản đến từng ngóc ngách? Triết gia: Đúng vậy. Thế giới đơn giản đến khó tin. Đời người cũng vậy. Chàng thanh niên: Thầy khẳng định đó không phải lý tưởng mà là hiện thực? Nghĩa là, mọi vấn đề trong cuộc đời của thầy và tôi đều đơn giản? Triết gia: Tất nhiên là vậy. Chàng thanh niên: Được thôi. Trước khi tranh luận, tôi xin được trình bày mục đích chuyến viếng thăm lần này. Trước hết, lý do đầu tiên tôi đến đây là để tranh luận cho ra nhẽ với thầy. Và nếu được, tôi mong thầy rút lại ý kiến của mình. Triết gia: Ha ha ha. Chàng thanh niên: Bởi vì tôi đã nghe lời đồn đại về thầy. Rằng có một Triết gia khác người sống ở vùng này đang truyền bá một lý tưởng khó ai có thể làm ngơ. Đó chính là con người có thể thay đổi, thế giới cực kỳ đơn giản và ai cũng có thể hạnh phúc. Với tôi, đó đều là những luận điệu không thể chấp nhận được. Vì vậy, tôi muốn đích thân đến trao đổi với thầy và nếu có điểm gì bất hợp lý, tôi xin phép được điều chỉnh lại... Liệu thầy có phiền không? Triết gia: Không hề. Tôi rất hoan nghênh. Bản thân tôi cũng mong muốn được lắng nghe tiếng nói của những thanh niên như cậu để học hỏi thêm nhiều điều. Chàng thanh niên: Cám ơn thầy. Tôi cũng không có ý định chưa rõ trắng đen đã phủ định thầy. Hãy giả định rằng luận điểm của thầy là đúng, từ đây, chúng ta bắt đầu suy nghĩ. Thế giới đơn giản, cuộc đời cũng đơn giản. Nếu như mệnh đề này có phần nào chân lý thì có lẽ chỉ là trong thế giới của trẻ thơ. Thế giới của trẻ thơ không có những nghĩa vụ thực tế như lao động, nộp thuế, trẻ thơ sống những ngày tự do, thoải mái trong vòng tay che chở của cha mẹ và xã hội, chúng cho rằng cuộc sống như vậy sẽ kéo dài mãi mãi và mình có thể làm được bất cứ điều gì. Cặp mắt chúng đã được che đi để khỏi chứng kiến hiện thực phũ phàng. Vậy nên, đúng là thế giới phản chiếu trong đôi mắt trẻ mang một hình hài đơn giản. Nhưng càng lớn, thế giới lại càng hiện rõ bản chất, nó nhắc đi nhắc lại với chúng ta cái thực tế "Mày chẳng qua chỉ có thế mà thôi", nó biến mọi khả năng được mong đợi trong cuộc đời trở thành bất khả thi. Những tháng ngày hạnh phúc, lãng mạn kết thúc, nhường chỗ cho thời kỳ chủ nghĩa hiện thực tàn khốc. Triết gia: Ừm, thú vị lắm. Chàng thanh niên: Không chỉ có vậy. Con người ta khi trưởng thành sẽ bị ràng buộc bởi những mối quan hệ xã hội phức tạp, bị đẩy cho nhiều trách nhiệm. Bất kể là trách nhiệm trong công việc, gia đình hay trách nhiệm xã hội. Tất nhiên, các vấn đề xã hội mà khi còn nhỏ con người chưa thể hiểu được như sự kỳ thị, chiến tranh, giai cấp cũng đặt ra trước mặt chúng ta, và ta không thể phớt lờ. Tôi nói không đúng sao? Triết gia: Đúng chứ. Cậu cứ tiếp tục đi. Chàng thanh niên: Trong thời đại tôn giáo còn thịnh hành thì có lẽ chúng ta còn có sự cứu rỗi. Khi đó, ý chỉ của các thần chính là chân lý, là thế giới, là tất cả. Chỉ cần nghe theo ý chỉ đó thì sẽ chẳng còn mấy vấn đề cần lo lắng. Nhưng giờ tôn giáo đã mất đi sức mạnh và tín ngưỡng cũng chỉ mang tính hình thức. Không có chỗ dựa tinh thần, ai cũng run rẩy vì bất an, bị giam cầm trong nỗi hoài nghi. Mọi người sống mà chỉ nghĩ đến bản thân. Đó chính là xã hội hiện đại. Vậy, thưa thầy, xin hãy trả lời tôi. Trước một hiện thực như vậy, mà thầy vẫn cho rằng thế giới đơn giản sao? Triết gia: Câu trả lời của tôi không hề thay đổi. Thế giới đơn giản, cuộc đời cũng đơn giản. Chàng thanh niên: Tại sao? Chẳng phải ai cũng thấy thế giới là một mớ hỗn độn đầy mâu thuẫn sao? Triết gia: Đó không phải bản thân thế giới phức tạp, mà là cậu đang thấy thế giới phức tạp. Chàng thanh niên: Tôi sao? Triết gia: Con người không sống trong thế giới khách quan mà sống trong thế giới chủ quan do chính mình tạo ra. Thế giới cậu đang thấy khác với thế giới tôi đang thấy, thêm nữa có lẽ là một thế giới khó có thể chia sẻ với bất kỳ ai khác. Chàng thanh niên: Thầy nói vậy nghĩa là sao? Chẳng phải cả thầy và tôi đều đang sống trong cùng một thời đại, cùng một đất nước và cùng thấy những điều giống nhau sao? Triết gia: Xem nào, trông cậu còn trẻ lắm, vậy cậu đã uống nước giếng vừa mới múc lên bao giờ chưa? Chàng thanh niên: Nước giếng à? Thực ra thì đã khá lâu rồi, nhà bà tôi ở quê có một giếng nước. Uống nước giếng mát lạnh ở nhà bà vào những ngày hè nóng bức là một niềm vui lớn. Triết gia: Có lẽ cậu cũng biết là nhiệt độ của nước giếng quanh năm ổn định ở mức 18 độ c. Đây là con số khách quan, ai đo cũng vậy. Nhưng nước giếng uống vào mùa hè, ta cảm thấy mát lạnh, còn uống vào mùa đông lại cảm thấy ấm áp. Nghĩa là dù nhiệt độ trên nhiệt kế luôn giữ ở mức 18 độ c nhưng cảm nhận vào mùa hè và mùa đông lại khác nhau. Chàng thanh niên: Đó là ảo giác gây ra bởi sự thay đổi của môi trường. Triết gia: Không, không phải là ảo giác. Đối với cậu lúc đó, nước giếng mát và ấm đều là sự thật không thể phủ nhận. Sống trong một thế giới chủ quan là như thế. Nhận định chủ quan rằng chúng ta "thấy như thế nào" là tất cả, và chúng ta không thể thoát khỏi nhận thức chủ quan của mình. Bây giờ, thế giới trong mắt cậu là một mớ hỗn độn, phức tạp, kỳ quái. Nhưng, nếu bản thân cậu thay đổi, thế giới sẽ trở lại hình hài đơn giản. Vấn đề không phải thế giới như thế nào mà là cậu như thế nào. Chàng thanh niên: Tôi như thế nào? Triết gia: Đúng vậy. Có khi cậu đang nhìn thế giới qua cặp kính râm. Hiển nhiên thế giới nhìn qua đó phải u ám rồi. Vậy thì đừng rầu rĩ vì thế giới u ám nữa, chỉ cần bỏ kính râm ra là được. Thế giới cậu thấy khi bỏ cặp kính râm ra có khi lại quá chói chang, khiến cậu buộc phải nhắm mắt lại, có khi khiến cậu lại muốn đeo kính vào. Dù vậy, cậu có dám bỏ luôn kính ra không? Cậu có dám nhìn thẳng vào thế giới này không? Cậu có cái can đảm đó không? Chàng thanh niên: Can đảm ư? Triết gia: Đúng vậy, đây là vấn đề can đảm. Chàng thanh niên: ... Thôi được rồi. Tôi có cả núi ý kiến phản bác nhưng có lẽ nên để sau. Tôi xin xác nhận lại là, thầy cho rằng "con người có thể thay đổi"? Và nếu tôi thay đổi, thế giới sẽ trở lại hình hài đơn giản của nó. Triết gia: Tất nhiên, con người có thể thay đổi. Không chỉ thế, con người còn có thể trở nên hạnh phúc. Chàng thanh niên: Bất kỳ ai, không có ngoại lệ? Triết gia: Không có ngoại lệ, vả lại còn có thể vào bất cứ lúc nào. Chàng thanh niên: Ha ha, một tuyên bố mạnh bạo! Thật thú vị, thưa thầy. Giờ tôi xin phép được phản bác! Triết gia: Tôi sẽ không bỏ chạy hay trốn tránh đâu. Chúng ta cứ thong thả trò chuyện. Quan điểm của cậu là "con người không thể thay đổi" đúng không? Chàng thanh niên: Không thể thay đổi. Hiện tại, chính tôi đang khổ sở vì mình không thể thay đổi đây. Triết gia: Nhưng, cậu cũng mong muốn thay đổi? Chàng thanh niên: Tất nhiên rồi. Nếu có thể thay đổi được, nếu có thể làm lại cuộc đời, tôi sẽ vui sướng quỳ gối trước thầy. Nhưng chỉ sợ lại thành ra thầy quỳ gối trước tôi mất thôi. Triết gia: Được thôi. Sẽ thú vị lắm đây. Nhìn cậu, tôi lại nhớ đến mình thời sinh viên. Nhớ đến mình thời còn trẻ tràn đầy nhiệt huyết, đã tới tận nơi gặp Triết gia để mưu cầu chân lý. Chàng thanh niên: Vâng, đúng thế đấy. Tôi đang mưu cầu chân lý. Chân lý của cuộc đời. Triết gia: Trước đây tôi chưa từng nhận đệ tử, cũng không hề thấy cần thiết phải làm điều đó. Nhưng kể từ khi trở thành môn đồ của triết học Hy Lạp và gặp được một quan niệm khác, tôi có cảm giác trong thâm tâm mình đã chờ đợi một Chàng thanh niên như cậu bấy lâu nay. Một quan niệm khác? Đó là gì vậy? Nào, hãy cùng vào thư phòng của tôi. Sẽ là một đêm dài đây. Tôi sẽ pha cà phê nóng. ❄❄❄❄❄❄❄❄❄ Cuốn sách này tóm tắt tư tưỏng của Alfred Adler (tâm lý học Adler), người được mệnh danh là một trong "ba người khổng lồ của tâm lý học" sánh ngang với Freud và Jung, qua hình thức câu chuyện "cuộc đối thoại giữa Chàng thanh niên và Triết gia". Được sự ủng hộ to lớn ở các nước châu Âu và Mỹ, tâm lý học Adler đưa ra câu trả lời rất đơn giản và cụ thể cho câu hỏi mang tính triết học "Làm thế nào để con người sống hạnh phúc?" Hiểu được tư tưỏng có thể coi là một chân lý thế giới này, cuộc đời bạn từ nay sẽ thay đổi ra sao? Hay sẽ không có gì thay đổi...? Nào, hãy cùng Chàng thanh niên bước qua "cánh cửa". *** Các bạn thường than vãn về các mối quan hệ làm các bạn trở nên mệt mỏi. Người ngoài thì thấy các bạn nhạt nhẽo và vô nghĩa. Bản thân các bạn thì thấy bản thân mình kém cỏi so với mọi người. Quá khứ của bạn cũng chẳng mấy tốt đẹp, đầy những điều buồn đau và nhìn về một tương lai không mấy tươi sáng. Bạn lại sống trong một môi trường đòi hỏi những yêu cầu đầy khắc nghiệt và thậm chí những quy chuẩn hết sức phi lý. Bạn trở nên bế tắc bởi các thứ bao quanh và càng tồi tệ khi phải sống theo khuôn mẫu của người khác. Và cách giải thoát cho bạn là bạn dám sống với cá tính, với nhu cầu của mình. Và Dám bị ghét của hai tác giả Nhật Bản Kishimi Ichiro và Koga Fumitake sẽ là cánh cửa giúp bạn giải quyết những vấn đề trên. Bạn bất hạnh không phải do quá khứ và hoàn cảnh, càng không phải do thiếu năng lực. Bạn chỉ thiếu “can đảm” mà thôi. Nói một cách khác, bạn không đủ “can đảm” để dám hạnh phúc.” [...] Bởi can đảm để dám hạnh phúc bao gồm cả “can đảm để dám bị ghét” nữa. [...] Chỉ khi dám bị người khác ghét bỏ, chúng ta mới có được tự do, có được hạnh phúc. Cuốn self- help mang hình bóng của một tác phẩm văn học kinh điển Khi nhìn tên sách và trang bìa của cuốn sách thì đích thực đây là một cuốn self – help. Nhưng điểm bất ngờ là khi mở những trang đầu tiên, đọc những câu mở đầu chúng ta lại nghĩ rằng đây là một tác phẩm văn học kinh điển. Đó là một cuộc đối thoại giữa Chàng thanh niên và người Triết gia. Tất cả đều có cốt truyện, có nhân vật và sự việc, nó không hề giống những cuốn self – help khác mà các bạn đã từng đọc. Cuốn sách được trình bày một cách sinh động, cuốn hút và văn phong cũng vô cùng mới mẻ, hấp dẫn, đem lại sự cuốn hút, không hề nhàm chán đối với người đọc.     Chàng thanh niên: Tôi xin hỏi lại thầy. Có phải thầy cho rằng thế giới đơn giản đến từng ngóc ngách? Triết gia: Đúng vậy. Thế giới đơn giản đến khó tin. Đời người cũng vậy. Một cuốn sách self – help quá đặc biệt, khi những thông điệp, những bài học được truyền tải qua góc nhìn của chàng thanh niên và nhà Triết gia. Điều này tạo nên một dấu ấn đặc biệt của Dám bị ghét so với những cuốn self - help khác! Cậu bất hạnh bởi cậu tự chọn lấy bất hạnh                    Nhiều người luôn than rằng tại sao tôi lại bất hạnh như thế này? Nhưng cuộc sống này là của bạn, là do bạn điều khiển. Chỉ là bạn có biết tận dụng và tận hưởng nó hay không mà thôi. Chả ai đem đến bất hạnh cho bạn cả vì làm gì có ai sống cuộc sống của bạn, làm gì có ai lựa chọn cách sống thay bạn. Bạn bất hạnh là do chính bản thân bạn tự lựa chọn lấy. Ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời, cậu đã chọn “bất hạnh”. Đó không phải là cậu sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh hay rơi vào tình cảnh bất hạnh, mà vì cậu đã cho rằng đối với bản thân mình “bất hạnh” là một dạng “thiện”. Những câu nói của nhà Triết gia giải đáp những câu hỏi của chàng thanh niên khiến chúng ta có những cái nhìn khách quan hơn về cuộc sống, nhìn bao dung hơn về cuộc đời, đơn giản cách nhìn nhận và cảm nhận. Cuộc đời cậu được quyết định “ngay tại đây, vào lúc này” Nhà triết gia đã giảng giải cho chàng thanh niên rất nhiều điều triết lý liên quan đến tâm lý học Adler. Đặc biệt là vấn đề thay đổi lối sống. Nhà triết gia nói rằng cậu không thể thay đổi bản thân vì cậu quyết tâm không thay đổi. Và cách để thay đổi lối sống chính là quyết tâm từ bỏ lối sống hiện nay. Hơn thế nữa, nhà Triết gia còn nói về các cái cớ để không từ bỏ lối sống hiện tại, những triết lý không hề sáo rỗng như đem lại những nhận thức mới mẻ hơn cho chính chàng thanh niên. Dự thi trượt thì cũng phải làm. Như có thể sẽ trưởng thành hơn hoặc có thể sẽ hiểu ra rằng mình cần phải đi theo con đường khác. Dù thế nào cũng có thể tiến lên phía trước. Thay đổi lối sống hiện tại chính là như vậy đó. Nếu cứ mãi không gửi bản thảo dự thi, sẽ chẳng tiến lên được... Cậu không cho rằng cứ đưa đủ các “lý do không thể làm được” để đáp lại một vấn đề đơn giản – một việc cần phải làm là một cách sống khổ sở sao?... Nhà triết gia còn cho rằng, cuộc đời của chàng thanh niên được quyết định ở chính thời điểm này, chứ không phải là những gì diễn ra ở trong quá khứ, không phải những gì đã xảy ra trước kia. Dù quá khứ có tối tăm đến mức nào chả ảnh hưởng gì đến tương lai cả. Mọi phiền muộn đều bắt nguồn từ quan hệ giữa người với người Chàng thanh niên hỏi nhà Triết gia rằng “Để xóa tan phiền muộn thì chỉ có cách sống một mình trong vũ trụ” nghĩa là sao, chẳng phải nếu chỉ sống một mình sẽ lại bị cảm giác cô độc làm cho phiền muộn hay sao? Và nhà triết gia đáp lại rằng cậu cô độc không phải vì cậu có một mình. Và theo nhà triết gia nói về Adler cho rằng mọi phiền muộn đều bắt nguồn từ mối quan hệ giữa người với người. Vì những phiền muộn nội tâm không hề tồn tại mà trong bất cứ muộn phiền nào đều mang bóng dáng của người khác. Những muộn phiền này được Adler cho rằng, nếu như thế giới chỉ có chính mình, không có xuất hiện người khác, thì sự phiền muộn cũng sẽ tan biến. Cô độc không phải vì chỉ có một mình. Cậu cảm thấy mình bị tách biệt, xa lánh khỏi những người xung quanh, khỏi xã hội, cộng đồng, đó mới gọi là cô độc. Chúng ta cần người khác để cảm thấy cô độc. Nghĩa là con người chỉ trở thành “cá nhân” khi đặt vào các mối quan hệ xã hội mà thôi. Đời không phải là cuộc cạnh tranh với người khác Trong mỗi chúng ta, chắc chắn ai cũng có tâm lý, cuộc đời là một sự rượt đuổi, một sự cạnh tranh khốc liệt để chúng ta vươn lên vị trí số một. Nhưng theo Adler, tâm lý không ngừng phấn đấu để bản thân tiến lên thêm một bước, chứ không phải là tâm lý cạnh tranh để vượt lên trên người khác. Nhà triết gia có những câu nói rất ấn tượng và sâu sắc dành cho chàng thanh niên trẻ tuổi Chàng thanh niên  Ý thầy nói rằng đời không phải là cuộc cạnh tranh? Triết gia                Đúng vậy. Không cần cạnh tranh với ai cả. Chỉ cần không  ngừng tiến lên là được. Tất nhiên cũng không cần so sánh mình với người khác. Chúng ta ai cũng khác nhau. Chẳng có người nào giống hệt người nào về mặt giới tính, tuổi tác, kiến thức, kinh nghiệm , ngoại hình cả. Hãy có cái nhìn tích cực về những điểm khác biệt giữa mình và người khác. Chúng ta không giống nhau nhưng lại bình đẳng với nhau. Tự do thực sự là gì ? Chúng ta nói chúng ta muốn một cuộc sống tự do nhưng bản chất của tự do là gì, thực sự tự do là gì thì lại rất ít người biết. Theo như nhà triết gia tự do thực sự là đẩy bản thân lăn ngược lên dốc. Hay cụ thể hơn là tự do là bị người khác ghét. Chắc hẳn chúng chả muốn ai ghét mình cả. Chúng ta đều muốn ai cũng sẽ hòa hợp với mình. Nhưng để  sống mà không một ai ghét là một cách rất mất tự do. Chúng ta phải xoay sở bản thân chúng ta theo người nọ, theo người kia. Nhiều khi chúng ta cảm thấy thật mệt mỏi khi phải xoay sở như vậy. Nếu muốn được tự do tức là ta không phải xoay sở theo ai cả nghĩa là bị người khác ghét. Cái giá này là cái giá khá đắt chúng ta phải trả để tìm được sự tự do. Không sợ bị ghét mà cứ tiến lên phía trước. Không sống như hòn đá lăn xuống dốc mà cố gắng leo lên con dốc trước mặt. Đó chính là tự do đối với con người. Nếu trước mặt tôi có hai lựa chọn “cuộc đời được tất cả mọi người yêu mến” và “cuộc đời có những người ghét mình”, tôi sẽ không hề băn khoăn mà chọn cuộc đời sau. Tôi quan tâm tới việc mình như thế nào hơn là mình được mọi người đánh giá ra sao. Cũng có nghĩa là tôi muốn sống tự do. Sống hết mình “ngay tại đây, vào lúc này”  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vòng Đầu
Bản dịch khác Tầng Đầu Địa Ngục (do nhà văn Hoàng Hải Thuỷ dịch) Tiểu thuyết Vòng Đầu của Aleksandr I. Solzhenitsyn diễn tả cuộc sống mất tự do trong tù ngục của những chính trị phạm Nga trên Liên bang Xô Viết. Chính tác giả từng sống trong những ngục tù này nên những gì ông viết lại đều rất trung thực, rất sống, làm rung động tâm hồn người đọc. Trong truyện, ông viết lại cuộc đời của rất nhiều tù nhân, mỗi tù nhân là một trường hợp đặc biệt, một cảnh ngộ riêng. Vì muốn diễn tả thật nhiều trường hợp bị tù đày nên trong The First Circle có quá nhiều nhân vật không liên lạc gì đến cốt truyện. Với mục đích làm cho cốt truyện được đúc kết hơn, có liên lạc hơn, chúng tôi đã lược bỏ một số trang khi dịch The First Circle sang Tầng đầu địa ngục. Việc lược bỏ của chúng tôi chỉ làm cho tác phẩm thêm trong sáng, chặt chẽ, cốt truyện vẫn còn nguyên, những nhân vật chính vẫn có đủ mặt. Giá trị văn chương của The First Circle, qua bản dịch của chúng tôi, theo chúng tôi nghĩ, chỉ có tăng chứ không giảm. Chúng tôi mong bạn đọc nhận xét, so sánh, nhận biết sự cố gắng của chúng tôi và đồng ý với chúng tôi rằng khi chuyển ngữ một tác phẩm tiểu thuyết ngoại ngữ sang tiếng Việt, đôi khi việc lược bỏ vài đoạn không liên hệ đến cốt truyện là việc làm cần thiết và hợp lý. *** Trong cuốn tiểu thuyết này, Aleksandr trở thành John le Carre. Chỉ trong trường hợp của nhà văn Nga, khi biết lý lịch của mình là một người bị Liên Xô phủ nhận đích thực, vấn đề diễn ra theo một khía cạnh khác. Trên thực tế, ở phần cuối, chúng ta quay trở lại vũ trụ của cái gulag và hệ thống nhà tù địa ngục của nó khai thác mọi con người đi qua đó. Đó là Gulag, vòng tròn địa ngục của Dante, được dẫn dắt trong trường hợp này bởi một Virgil, người tung ra các khẩu hiệu thân Liên Xô, như thể mọi thứ đều vì một lợi ích cao đẹp hơn, một quê hương có thể loại bỏ bất kỳ cuộc sống hoặc quan điểm đe dọa nào. Nhưng đồng thời cuốn sách này là một cái gì đó khác, nó là một cuốn tiểu thuyết mãnh liệt nhằm tìm kiếm một cổ họng sâu lắng, một tiếng nói cảnh báo Hoa Kỳ về các dự án nguyên tử của Liên Xô. Và năng lượng nguyên tử có trong chiến tranh lạnh, cùng với cuộc chạy đua không gian, hai thử thách lớn, những trận chiến thất thường của người này và người kia, giống như những trò chơi rùng rợn. Tiếng nói đến từ chính Bộ Ngoại giao Nga. Chỉ có điều không ai từ KGB quản lý để tìm ra người gửi tin nhắn, được ghi lại một cách logic, giống như rất nhiều thứ được ban lãnh đạo Liên Xô giám sát. các nhà khoa học ở đó bị giới hạn bởi tính cách đe dọa của họ ... Và nếu ai đó không tiết lộ danh tính của họ, tất cả họ có thể phải trả giá ... *** Alekxandr Isayevich Solzhenitsyn sinh ở Kislovodsk, vùng bắc Kavkaz. Bố mất khi Solzhenitsyn chưa sinh, mẹ đi làm nghề đánh máy để nuôi con. Năm 1923 hai mẹ con chuyển về thành phố Rostov-trên-sông-Đông (Rostov-na-Donu). Từ năm 1926 đến 1936 học ở trường phổ thông, thường bị bạn bè chế giễu vì đeo thập tự và không muốn vào Đội thiếu niên Lenin. Sau đó, nghe theo lời khuyên của các thầy cô giáo, Solzhenitsyn đã tiếp nhận lý tưởng cộng sản, năm 1936 vào Đoàn thanh niên Cộng sản Komsomol. Từ nhỏ Solzhenitsyn đã muốn trở thành nhà văn nhưng có năng khiếu toán học nên năm 1936 ông theo học khoa Toán trường Đại học Rostov để sau này dễ kiếm việc làm. Những năm học ở Đại học Rostov, Solzhenitsyn luôn là sinh viên xuất sắc, được nhận học bổng Stalin. Năm 1937, ông đã từng dự định viết tiểu thuyết về Chiến tranh thế giới thứ nhất với tên Hãy yêu cách mạng. Năm 1939 ông tham gia lớp học hàm thụ ở Đại học Triết - Văn - Sử Moskva danh tiếng thời đó. Năm 1941 tốt nghiệp Đại học Rostov, nhập ngũ và được thưởng hai huân chương với quân hàm đại úy. Thời gian này Solzhenitsyn sáng tác một số tác phẩm, trong nhận thức và tư tưởng bắt đầu có những thay đổi. Tháng 7 năm 1945 ông bị kết án tù 8 năm vì một bức thư viết gửi bạn bày tỏ quan điểm chống lại Chủ nghĩa Stalin. Những năm tháng tù giam, đi qua nhiều nơi trên đất nước đã giúp ông sau này có được chất liệu sống thực cho những tác phẩm của mình. Năm 1952, ông bị ung thư, phải mổ trong bệnh viện tại trại giam và đã qua khỏi. Stalin mất, ông được phục hồi, về sống ở Moskva đến năm 1957 rồi đi Riazan dạy học. Trong thời gian này ông bắt đầu viết tiểu thuyết Tầng đầu địa ngục (В круге первом, 1955-1968) và in truyện vừa đầu tiên Một ngày của Ivan Denisovich (Один день Ивана Денисовича, 1958) cùng một số tác phẩm khác đã khiến ông rất nổi tiếng, đến mức được đề cử nhận giải thưởng Lenin. Năm 1967, sau khi Alekxandr Solzhenisyn gửi một bức thư ngỏ đến Đại hội nhà văn Liên Xô phản đối chế độ kiểm duyệt, ông bị chính quyền và báo chí phê phán kịch liệt, bị khai trừ khỏi Hội nhà văn, bị cấm in sách. Một số tác phẩm của ông không được in ở trong nước nhưng có người đem in ở nước ngoài mà không xin phép ông như Tầng đầu địa ngục, Trại ung thư (Раковый корпус), Tháng 8 năm 1914 (Август четырнадцатого), điều này càng khiến chính quyền Xô Viết phản ứng nhưng ông thì được nhiều người biết đến. Năm 1970, Alekxandr Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không trở về nước được; hai năm sau ông mới đến nhận giải và đọc Diễn từ. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá (Жить не по лжи) và cho in tác phẩm Quần đảo GULag (Архипелаг ГУЛаг) ở Paris, Solzenitsyn bị bắt, bị nhà nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó ông định cư ở Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post, Time NewYork Times. Năm 1991, sau thời cải tổ, chính quyền Liên Xô chính thức xóa án cho ông. Tháng 5 năm 1994 ông trở về sống ở Nga. Năm 2006 ông được tặng giải thưởng nhà nước của Liên Bang Nga vì những đóng góp xuất sắc trong hoạt động nhân đạo. Ngày 3 tháng 8 năm 2008, do căn bệnh đau tim, ông qua đời ở nhà riêng tại ngoại ô Moskva, hưởng thọ 89 tuổi. Trước đó ít lâu, ông đã mắc chứng huyết áp cao. Trong khi con trai ông là Stepan nói ông chết do bệnh đau tim, theo một số ghi nhận khác thì ông chết sau cơn đột quỵ. Hay tin, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đã gửi lời chia buồn tới gia đình Solzhenitsyn. Nhà văn này còn được Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy mô tả là "một trong những lương tâm vĩ đại nhất của Nga trong thế kỷ 20", và rằng: "Sự đấu tranh không khoan nhượng, ý tưởng và cuộc đời dài với đầy sự kiện đã biến Solzhenitsyn thành một hình tượng trong sách vở, kế thừa Dostoyevsky". Vài tác phẩm của Solzhenitsyn đã được dịch ra tiếng Việt trước năm 1975: Một ngày của Ivan Denisovich, Quần đảo Gulag, Tầng đầu địa ngục.   Mời các bạn đón đọc Vòng Đầu của tác giả Aleksandr Solzhenitsyn.
Thế Giới Trẻ Em
“Thế giới trẻ em” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Ibragimov, đề cập đến những trang sử đau buồn của vùng đất Bắc Kavkaz vô cùng xinh đẹp và trù phú, đó là cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996) và lần thứ hai (1999-2000). Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violon đồng thời là nhà vật lý người Nga, nữ y tá người Chechnya và cậu bé tám tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên “Thế giới trẻ em”. Số phận của ba con người được tác giả thể hiện trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, trên nền của những biến động quan trọng diễn ra trong một đất nước vốn là thành trì hòa bình của thế giới. Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé khả năng tư duy thơ trẻ, và để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, nó đã phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì nó xử sự thơ ngây như đứa bé, lúc thì như người lớn để cố sống sót qua cuộc chiến. Câu chuyện về một đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn phải ngẫm nghĩ về thế hệ tương lai của dân tộc. Các cuộc chiến tranh nổ ra trên vùng đất Bắc Kavkaz thanh bình và giàu đẹp đã tàn phá tất cả những gì mà chính quyền Xô viết đã dày công vun đắp hàng chục năm qua và làm thay đổi số phận của hàng vạn con người. Bức tranh bi tráng đó đã được tác giả tái hiện một cách sâu sắc và chân xác từ góc nhìn của những người dân bình thường, là lời cảnh báo về những hậu quả tàn khốc mà chiến tranh có thể gây ra cho con người dù với lý do gì. Có thể chính vì vậy mà dòng cuối của cuốn sách, chính tác giả đã phải cay đắng thốt lên “Xin hãy tha thứ cho tôi và cho tất cả chúng tôi!”. Dẫu vậy, trên cái nền đau thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái với những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng ngàn năm qua làm nên một nước Nga hùng mạnh.   Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân-thiện-mỹ vì một tương lai tươi sáng cho vùng đất Bắc Kavkaz giàu đẹp.  *** Lấy bối cảnh vùng đất Bắc Kavkaz trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, tác giả Kanta Ibragimov kể câu chuyện bi thương của chiến tranh. Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violin đồng thời là nhà vật lý người Nga; nữ y tá người Chechnya và cậu bé 8 tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên "Thế giới trẻ em". Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé sự hồn nhiên của thơ trẻ. Để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, cậu bé phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì cậu xử sự ngây thơ như mọi đứa trẻ, khi lại như người lớn. Câu chuyện về đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn ngẫm nghĩ về tương lai của dân tộc.  Bên cạnh kể chuyện của những nhân vật trong cuộc chiến, Thế giới trẻ em còn là bức tranh hiện thực về chiến tranh. Những cuộc chiến đã tàn phá vùng đất Kavkaz thanh bình và giàu đẹp. Bức tranh bi tráng đó được tác giả tái hiện từ góc nhìn của những người dân bình thường; đó cũng là lời cảnh báo về hậu quả tàn khốc mà chiến tranh gây ra cho con người. Dịch giả Đào Minh Hiệp - người chuyển ngữ Thế giới trẻ em - cho rằng đây là một câu chuyện thấm đẫm chất nhân văn: "Dẫu vậy, trên nền câu chuyện bi thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái và những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng nghìn năm qua, làm nên một nước Nga hùng mạnh. Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân - thiện - mỹ vì một tương lai tươi sáng". Bản thân tác giả Ibragimov từng trải qua các cuộc chiến ly khai ở Chechnya. Ông vốn là một nhà khoa học, Cục phó Tổng cục thuế Liên bang Nga. Sau những gì xảy ra ở Chechnya, ông đưa gia đình trở về thành phố Grozny quê hương (thủ đô của vùng tự trị này). Tác phẩm đầu tay Cuộc chiến đi qua đưa tên tuổi Ibragimov nổi tiếng ở cả Liên bang Nga. Tổng thống Putin đã trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về Văn học nghệ thuật cho Ibragimov. Từ đó, nhà văn liên tiếp cho ra đời nhiều tiểu thuyết được đánh giá cao. Hiện tại Ibragimov tiếp tục nghiên cứu khoa học và giảng dạy để nuôi sống gia đình và sáng tác văn chương để nuôi dưỡng tâm hồn.  Các nhà phê bình văn học Nga nhận xét, sự thành công trong lĩnh vực văn học của Ibragimov là nhờ vốn hiểu biết phong phú và khách quan về miền đất quê hương, hòa quyện với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Điều quan trọng, như tác giả nói, ông "không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức, hay phương pháp sáng tác nào". Lam Thu *** Kanta Khamzatovich Ibragimov sinh ngày 9 tháng 7 năm 1960 tại thành phố Grozny, thủ đô nước Cộng hòa Tự trị Chechnya thuộc Liên bang Nga, trong một gia đình trí thức có cha là tiến sĩ Hóa học, còn bản thân là tiến sĩ Kinh tế, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Cộng hòa Chechnya, phó viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thành phố Grozny, giáo sư Đại học Tổng hợp quốc gia Chechnya. Cho đến trước năm 1999, Ibragimov chỉ được biết đến với tư cách là một nhà khoa học với gần ba mươi công trình và đầu sách về kinh tế. Nhưng kể từ khi Ibragimov công bố tác phẩm văn học đầu tay - tiểu thuyết Cuộc chiến đi qua dày bảy trăm trang viết về vùng đất Chechnya quê hương từ khi chính quyền Xô viết được thành lập tại đây vào năm 1924 và tan vỡ hoàn toàn vào năm 1995, thì tên tuổi của Ibragimov không chỉ được thường xuyên nhắc tới trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Chechnya mà cả ở Liên bang Nga. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn, còn tác giả trở nên nổi tiếng và được đọc nhiều nhất ở nước Nga. Và cái gì đến phải đến, bốn năm sau, tác phẩm văn học đầu tay của một nhà khoa học đã được Tổng thống Nga Vladimir Putin trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về Văn học nghệ thuật năm 2003. Kể từ đó, Ibragimov liên tục cho ra mắt nhiều tiểu thuyết khác và cũng được bạn đọc đánh giá cao, như Kavkaz già nua (2001), Thầy giáo lịch sử (2003), Thế giới trẻ em (2005), Truyện cổ phương Đông (2007), Ngôi nhà hỗn tạp (2009), Avrora (2012), Viện sĩ Piotr Zakharov (2013)… Và theo thông báo của Cơ quan báo chí Tổng thống và Chính phủ Chechnya, nhà văn Ibragimov đã hai lần được đề cử vào danh sách Giải Nobel Văn học: Năm 2010 với Thế giới trẻ em và năm 2012 với Avrora. Sau khi Liên bang Xô viết tan rã vào năm 1991, nước Cộng hòa Chechnya nhỏ bé trong Liên bang Nga bỗng nhiên được nhiều người biết tới bởi các phong trào ly khai bùng phát dữ dội, biến thành các cuộc chiến đẫm máu. Nhà khoa học Ibragimov đã từng có một cuộc sống sung túc và một công việc ổn định ở Moskva (Phó tổng cục trưởng Tổng cục thuế Liên bang Nga), nhưng sau những gì xảy ra ở Chechnya, ông đã từ bỏ tất cả, đưa gia đình trở về thành phố Grozny quê hương, đồng thời trở về với quá khứ của dân tộc bằng các tác phẩm văn học của mình vì những lý do mà theo như lời ông nói là “để không bao giờ được quên những năm tháng đau thương đó và lặp lại những sai lầm khủng khiếp đó”. Thế giới trẻ em là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn đề cập đến những trang sử đau buồn của vùng đất Bắc Kavkaz vô cùng xinh đẹp và trù phú, đó là cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996) và lần thứ hai (1999-2000). Bản thân Ibragimov đã trực tiếp trải qua các cuộc chiến tranh này, và khi được hỏi về những năm tháng đó, ông đã thành thật chia sẻ: “Làm người Chechnya trong khoảng mười, mười lăm năm gần đây chẳng dễ dàng chút nào”. Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violon đồng thời là nhà vật lý người Nga, nữ y tá người Chechnya và cậu bé tám tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên “Thế giới trẻ em”. Số phận của ba con người được tác giả thể hiện trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, trên nền của những biến động quan trọng diễn ra trong một đất nước vốn là thành trì hòa bình của thế giới. Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé khả năng tư duy thơ trẻ, và để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, nó đã phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì nó xử sự thơ ngây như đứa bé, khi lại như người lớn để cố sống sót qua cuộc chiến. Câu chuyện về một đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn phải ngẫm nghĩ về thế hệ tương lai của dân tộc. Các cuộc chiến tranh nổ ra trên vùng đất Bắc Kavkaz thanh bình và giàu đẹp đã tàn phá tất cả những gì mà chính quyền Xô viết đã dày công vun đắp hàng chục năm qua và làm thay đổi số phận của hàng vạn con người. Bức tranh bi tráng đó đã được tác giả tái hiện một cách sâu sắc và chân xác từ góc nhìn của những người dân bình thường, là lời cảnh báo về những hậu quả tàn khốc mà chiến tranh có thể gây ra cho con người dù với lý do gì. Có thể chính vì vậy mà dòng cuối của cuốn sách, chính tác giả đã phải cay đắng thốt lên “Xin hãy tha thứ cho tôi và cho tất cả chúng tôi!”. Dẫu vậy, trên cái nền bi thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái với những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng ngàn năm qua làm nên một nước Nga hùng mạnh. Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân-thiện-mỹ vì một tương lai tươi sáng cho vùng đất Bắc Kavkaz giàu đẹp. Theo nhận xét của các nhà phê bình văn học Nga, sự thành công trong lĩnh vực Văn học của Ibragimov là nhờ vốn hiểu biết phong phú và khách quan của tác giả về lịch sử miền đất quê hương, hòa quyện với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo mà không cần phải dùng đến những thủ pháp giả tạo. Và điều quan trọng nữa, như chính tác giả bộc bạch, là ông “không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức, hay phương pháp sáng tác nào cả, điều đó không chỉ cần thiết trong Văn học mà còn ở tất cả mọi lĩnh vực”. Với những thành tựu trong Văn học, Ibragimov được kết nạp vào Hội nhà văn Chechnya, Hội nhà văn Liên bang Nga và được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn Chechnya. Hiện tại, Ibragimov vẫn tiếp tục làm công tác khoa học và sáng tác văn học. Theo như ông nói, “Công việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy là để nuôi sống bản thân cùng gia đình với năm đứa con, còn văn chương là để nuôi dưỡng tâm hồn”. Tác phẩm của Ibragimov đã nhanh chóng được dịch sang tiếng Anh, Đức, Tây Ban Nha và bây giờ là tiếng Việt. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Người dịch ĐÀO MINH HIỆP *** Lại một lần nữa, thêm một lần nữa tôi trở về chốn này. Tôi đứng đây, chỉ đứng mà chẳng nghĩ ngợi gì cả, đầu óc trống rỗng, thân thể bải hoải, cặp mắt đờ đẫn dõi theo dòng nước đục ngầu của dòng Sunzha. Còn dòng sông, như bao năm nay, vẫn chảy, nhưng tôi có cảm giác, trong đó không còn niềm khát vọng và nhiệt huyết như trước nữa. Tất cả, như mùa đông, đã đến lúc phải dịu lại. Bản thân tôi cũng đã đến lúc phải bình tâm trở lại, phải lùi lại và quên đi tất cả. Nhưng tôi không thể. Tôi cần phải, tôi buộc phải kể về những lỗi lầm của mình, về lỗi lầm chung và tấn bi kịch chung của tất cả chúng tôi… Không phải lần đầu, cũng chẳng phải lần thứ hai tôi đến nơi này, và tôi chờ cho đến khi đã nạp đủ năng lượng để có thể bắt tay vào thực hiện bức tranh tâm huyết của đời mình. Nhưng, than ôi!… Không hiểu tại sao, lúc nào tôi cũng nhớ lại một câu trong đoạn mở đầu tác phẩm Người thầy đầu tiên của Tsinghiz Aitmatov: “Tôi sợ không mang được đến nơi, tôi sợ làm sánh bát nước đầy”, thật đáng tiếc là tôi đã lặp lại điều đó. Tôi cảm thấy đầu óc trống rỗng, mất hết mọi cảm hứng, nhưng tôi vẫn hy vọng, tôi sống bằng niềm hy vọng, tôi rất muốn vẽ được bức tranh quan trọng của đời mình. Và không chỉ một lần tôi đã bắt tay vào việc, nhưng tôi không dám, tôi không thể, tôi không đủ sức, tôi sợ hãi. Mơ ước về bức tranh đó, tôi đã tốn không biết bao nhiêu màu sắc, mà không chỉ có vậy, còn bức tranh thì vẫn cứ ám ảnh tôi. Và để có thể bắt đầu từ một điểm nào đó, tôi lại quay về nơi ấy, đứng rất lâu, cảm nhận sự đau đớn cùng những lỗi lầm và ngẫm nghĩ về những mất mát. Song, tôi cũng chẳng thể nghĩ ra điều gì, chỉ còn lại ký ức, và tôi cũng chẳng nhìn thấy gì, tôi chỉ hướng cặp mắt về phía mặt sông ảm đạm gợn sóng như đang xem một bộ phim rực rỡ sắc màu với một kết thúc khủng khiếp. Dù không muốn xem bộ phim ấy, nhưng tôi không thể dứt ra được. Tôi đã bỏ đi nhưng có một cái gì đó cứ níu kéo tôi lại, vẫy gọi tôi, làm ngực tôi đau nhói, và thế là tôi lại đến cái hoang mạc này, nơi những đám cỏ dại bị khô úa vào mùa đông xuyên qua lớp nhựa đường và bê tông cũ, nhưng rồi lại đơ ra như từ thời xa xưa… Chỉ có dòng Sunzha là vẫn chảy, nó nhìn thấy hết, biết hết, nhớ hết… Và tôi cũng nhớ. Tôi nhớ, nơi đây từng là thành phố Grozny tươi đẹp và tràn đầy sinh lực. Nhiều người bảo, hiện giờ Grozny cũng vậy, nhưng là nói thế thôi, chứ ở đây, giờ trông như hoang mạc, xa một chút là những đống đổ nát, chỉ còn lại cái tên hung dữ của thành phố[1] với những tâm hồn thiếu bản sắc như bóng đen, tất cả đều khoác một màu đen dẫu là mùa đông tuyết phủ trắng, tất cả đều mang vẻ u ám, nặng nề và buồn bã. Nhưng dẫu có thế nào đi nữa, tôi chỉ nhớ đến một thành phố Grozny đẹp như mơ, nơi tôi đã sinh ra, lớn lên, học tập rồi làm việc. Chính tại chỗ này, dạo còn trẻ, tôi đã từng đứng rất lâu. Tại đây, bên bờ sông Sunzha từng có một công viên tráng lệ, quanh năm hoa lá xanh tươi, với đài phun nước cùng những con đường rợp bóng cây, và một cây cầu vắt ngang sông Sunzha. Sau đó, khi người ta xây cây cầu mới lớn hơn, cây cầu cũ này chỉ dành cho người đi bộ, hai bên thành cầu là những bồn hoa màu sắc sặc sỡ. Chính vì vậy mà cây cầu được gọi là Cầu hoa. Cây Cầu hoa này dẫn đến một tòa nhà cổ, đẹp đẽ, hình bán nguyệt. Một nửa tòa nhà dành cho các cơ quan nhà nước, nơi trước đây người bạn gái yêu quý của tôi đã làm việc và buổi chiều sau giờ làm tôi lại đến chống tay lên thành cầu đợi cô ấy. Một nửa tòa nhà còn lại dùng để ở, tầng một là những gian hàng lớn lắp kính với rất nhiều, rất nhiều đồ chơi - đó chính là cửa hàng bách hóa tổng hợp “Thế giới trẻ em”. Phải, tôi cũng có một thế giới trẻ em của mình, nói chung đó là một thế giới hoàn toàn khác cho tới khi trưởng thành. Và tôi là người rất may mắn! Những đứa trẻ hiện nay ở Grozny có một tuổi thơ và tuổi trẻ ra sao? Đó mới là điều đáng nói. Nhưng làm thế nào để cho mọi người biết? Xung quanh là một khoảng trống đáng sợ, thậm chí cũng chẳng còn lại gì từ những cây cầu, chỉ còn lại vài tấm bê tông bám vào trụ cầu phủ đầy tuyết, chắc là chờ cho đến một lúc nào đó người ta cẩu chúng lên để xây dựng lại. Và tôi cũng chờ, tôi mơ ước dựng lại cây cầu của mình, đúng ra là cây cầu nối về quá khứ, nhưng không phải là cái quá khứ sặc sỡ tỏa hương thơm ngát khi tôi còn nhỏ và trai trẻ. Tôi biết, chẳng thà không có cái thời ấy và đừng bao giờ có còn hơn… Phải, tôi muốn nói về quá khứ khác. Về tuổi thơ của người khác, về một thời kỳ khác mãi sau này mới diễn ra. Quả thật, những cây cầu vẫn còn đó, nhưng sự đổ vỡ đã diễn ra rồi. Chuyện xảy ra vào thời kỳ nổ ra cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất[2], cuộc chiến của các phiến quân[3]. Chiến tranh ở Chechnya - chỉ diễn ra ở Chechnya, vì từ thời xa xưa, ở nơi rừng sâu núi thẳm, người ta đã quá quen với các cuộc chiến tranh. Còn các nhóm phiến quân lại rất cần đến chiến tranh, bởi lẽ đó là bối cảnh, là cột thu lôi dư luận, là tấm phông màn màu mè, mà đằng sau tấm bình phong đó là một cuộc chiến không kém phần khốc liệt để tranh cướp tài sản quốc gia, để những kẻ mạnh phân chia lại thế giới. Thôi, Thượng đế phù hộ cho họ… Mà chẳng lẽ Thượng đế lại đứng về phía họ hay sao? Ôi, sao tôi lại nói thế nhỉ! Thật là phạm Thánh?! Tôi đâu có muốn nói về chuyện đó, hoàn toàn không… Tóm lại, trong cuộc chiến lần thứ nhất ở Chechnya, tôi nhớ, cũng như bây giờ, dạo ấy là mùa đông, hình như trước Năm mới, năm 1996. Tôi bay từ Moskva về quê, về Chechnya thăm cha mẹ già mà tôi không thể thuyết phục được họ rời bỏ quê hương. Chuyến đi của tôi phải vòng qua thành phố Grozny, với nhiều “chặng chuyển tiếp”, qua rất nhiều trạm kiểm soát liên hợp với những hàng người nối nhau rồng rắn, bị kiểm tra, thu phí, chấp nhận sự nhẫn nhục và xúc phạm. Mặc dù vậy, tôi vẫn về được đến nhà, ở đấy có mái nhà thân yêu che chở. Tiếng đại bác và tiếng máy bay gào rú suốt ngày không ngớt, trở thành một đặc điểm không thể tránh khỏi của cuộc sống thường nhật, ít ra là người dân địa phương đã quen với tất cả những điều đó, chỉ có điều trái tim của một số người không chịu đựng nổi - vì chúng không được làm bằng sắt. Mặc dù vậy, cuộc sống ở một ngôi làng gần trận tuyến vẫn tiếp diễn, nơi đây vẫn có chợ, có chỗ để thư giãn (miễn là có tiền). Sau hai ngày thăm thú bà con họ hàng, tôi quyết định vào thành phố Grozny: Tôi có việc phải giải quyết, một con nợ cũ đã lâu của tôi, giờ là quan chức của chính quyền mới đang tham gia xây dựng lại thủ đô sau khi bị ném bom, chắc là có tiền. Những người thân khuyên tôi không nên đi vì rất nguy hiểm, khắp nơi vẫn còn bắn nhau loạn xạ, đối với những người không phải dân địa phương, bộ dạng có vẻ giàu có như tôi, chắc chắn sẽ toi mạng ngay tại các trạm kiểm soát liên hợp. Nhưng dẫu sao đi nữa, tiền bạc bao giờ cũng có sức mạnh, thế là người em họ nhận lời chở tôi vào thành phố, không đi đường thẳng mà đi đường vòng nhưng sẽ nhanh hơn vì tránh được những hàng người dài cả cây số bên các trạm kiểm soát. Tuy nhiên, đường này cũng có trạm kiểm soát, chỉ có điều yên tĩnh và vắng vẻ hơn, mặc dù đã là mùa đông nhưng đá vẫn lăn từ trên núi Argun xuống. Một quân nhân liếc vào chứng minh nhân dân của tôi, thấy nơi đăng ký cư trú ở Moskva, liền nhìn thẳng vào mặt tôi khá lâu, khệnh khạng bỏ tay ra khỏi xe, lẩm nhẩm điều gì đó, chăm chú quan sát tôi từ đầu đến chân, rồi hướng ánh mắt vào chiếc áo bành tô dài đắt tiền của tôi. Mời các bạn đón đọc Thế Giới Trẻ Em của tác giả Kanta Ibragimov & Đào Minh Hiệp (dịch).
Sự Thật
Lowen Ashleigh là một nhà văn. Vì khó khăn tài chính nên cô buộc phải nhận một công việc khác thường. Jeremy Crawford, chồng của nhà văn nổi tiếng Verity Crawford, thuê Lowen viết tiếp những tập còn lại trong bộ sách của vợ anh mà vì lý do sức khoẻ cô không thể hoàn thành. Lowen đến nhà Crawford để tìm kiếm thông tin viết sách. Cô tình cờ phát hiện quyển tự truyện của Verity. Đó là những thú nhận khủng khiếp, bao gồm sự thật cái chết của con gái Verity. Lowen quyết định giấu Jeremy quyển tự truyện. Nhưng khi tình cảm Lowen dành cho Jeremy ngày càng sâu đậm, cô nhận ra nếu anh biết về quyển tự truyện sẽ chỉ có lợi cho cô. Dù Jeremy có tận tâm với người vợ tàn tật thế nào đi nữa, sự thật kinh hoàng sẽ khiến anh không thể tiếp tục yêu vợ mình. Một quyển sách kinh dị lãng mạn của Colleen Hoover, tác giả bán chạy số 1 New York Times . *** Nghe có vẻ lạ lùng đối với chúng ta khi nhân vật chính của một câu chuyện được yêu cầu cho một số nhiệm vụ chắc chắn khiến anh ta choáng ngợp. Nó xảy ra với các sĩ quan cảnh sát thông thường chịu trách nhiệm truy đuổi ông trùm của một mafia lớn, hoặc, như trong trường hợp này khi một nhà văn không mấy thành công được giao hoàn thành một số tiểu thuyết của một tác giả khác đã biến mất. Sự nghi ngờ trong những trường hợp này là phổ biến. Nhưng tại sao không đổi, khi khám phá ra điều gì dẫn nhân vật chính đến trung tâm của một cơn bão nghi ngờ, chicha bình tĩnh, luôn thu hút chúng ta bằng cùng một từ tính, với điện tích đó thông báo những cơn gió mạnh và những cảm xúc mãnh liệt không kém ... Lowen Ashleigh, một tác giả đang trên bờ vực phá sản, nhận được một khoản hoa hồng thay đổi cuộc đời: Jeremy, chồng mới của Verity Crawford, một trong những tác giả quan trọng nhất hiện nay, thuê cô ấy hoàn thành loạt sách trong đó tác phẩm của anh ấy là phụ nữ. trước khi bị một tai nạn nghiêm trọng khiến cô hôn mê. Lowen định cư tại biệt thự của cặp vợ chồng đã kết hôn để anh ta có thể làm việc với các ghi chú mà Verity đang làm, hy vọng tìm đủ tài liệu để bắt đầu nhiệm vụ của mình, nhưng điều anh ta không mong đợi phát hiện ra trong văn phòng hỗn loạn là một cuốn tự truyện của Verity chính cô ấy., được giấu kín để nó không bao giờ lộ ra ngoài. *** Colleen Hoover là nữ tác giả được xếp vào hàng có sách bán chạy nhất của New York Times. Năm 2012, bà xuất bản series truyện đầu tiên gồm ba cuốn Slammed, Point of Retreat và This girl. Năm 2013, bà xuất bản series thứ hai bao gồm Hopeless, Losing Hope và Finding Cinderella. Các tiểu thuyết của bà đều viết về những câu chuyện tình yêu đầy đam mê nhưng cũng chứa nhiều uẩn khúc, với một văn phong lãng mạn, tràn đầy thấu cảm và yêu thương. Trong số đó, tiểu thuyết Lạc mất & Hy vọng (Hopeless) gây ấn tượng mạnh với độc giả hơn cả. Cuốn sách đã dẫn đầu bảng xếp hạng của New York Times trong một thời gian dài, trở thành tiểu thuyết dành cho lứa tuổi trưởng thành hay nhất năm 2013. *** Tôi nghe thấy tiếng hộp sọ vỡ cái bốp trước khi máu anh ta bắn vào người tôi. Tôi khiếp sợ quay ngược lại về vỉa hè. Chân tôi vấp vào lề đường suýt ngã nên tôi vội nắm lấy cột biển báo cấm đỗ xe để giữ thăng bằng. Mới vài giây trước anh ta còn đứng trước mặt tôi. Chúng tôi lẫn trong đám đông chờ đèn hiệu đi bộ bật sáng, rồi anh ta bước xuống đường quá sớm ngay khi chiếc xe tải lao đến. Tôi nhào tới trước định ngăn anh ta lại nhưng không kịp nữa. Tôi nhắm tịt mắt lại trước khi đầu anh ta nằm gọn dưới lốp xe, nhưng âm thanh như nút chai rượu sâm banh bật ra vang lên rõ mồn một. Anh ta nhìn điện thoại của mình mà không nhìn đường, có lẽ đó là thói quen tệ hại nhưng chưa từng gây ra sự cố nào trước đó. Chết vì một thói quen. Mọi người đều hoảng hốt. Tài xế xe tải ngay lập tức nhảy ra khỏi xe và quỳ xuống bên nạn nhân, nhiều người chạy đến giúp đỡ. Tôi vội lùi khỏi đám đông. Không cần nhìn cũng biết anh ta không thể qua khỏi. Bây giờ một chiếc xe tang là cần thiết chứ không phải xe cứu thương. Tôi muốn tránh xa hiện trường vụ tai nạn, nhưng đèn đi bộ đã bật sáng và mọi người bắt đầu đổ sang đường. Một số người thậm chí vẫn dán mắt vào điện thoại di động khi đi ngang qua nạn nhân. Tôi đành đứng lại chờ đường bớt đông. Tôi liếc về phía đó, cẩn thận tránh nhìn thẳng vào nạn nhân. Người tài xế đang gọi điện thoại di động, ba bốn người xúm quanh, một số người dùng điện thoại quay lại cảnh khủng khiếp. Nếu ở Virginia nơi tôi sống trước đây, người ta sẽ hoảng loạn la hét, nhiều phóng viên sẽ có mặt sau vài phút. Nhưng ở Manhattan, việc một người đi bộ bị xe đâm xảy ra thường xuyên. Chỉ là giao thông bị ùn tắc trong phút chốc. Sự thờ ơ vô cảm là lý do tôi chuyển đến thành phố này mười năm trước. Tôi muốn sống ở một thành phố bận rộn đông đúc. Không ai chú ý đến tôi. Ở đây tôi vô hình, không bị soi mói đời tư. Tôi yêu thành phố này vì điều đó. “Cô có bị thương không?” Tôi ngước lên nhìn, một người đàn ông chỉ vào tay tôi và áo tôi đầy quan tâm. Anh không phải là một người New York vô cảm. Có lẽ anh từ nơi khác đến. “Cô có bị thương không ?” Người lạ lặp lại. Tôi nhận ra tay tôi dính máu. “Không. Không phải máu của tôi. Tôi đứng gần anh ta khi…”. Tôi lắp bắp, rùng mình vì nhớ lại cái chết khủng khiếp. Tôi luôn cố cứng rắn như mặt đường bê tông dưới chân, nhưng không phải là gỗ đá vô tri vô giác. Những gì vừa chứng kiến khiến bụng tôi xoắn lại và muốn nôn oẹ. Tôi đưa tay bụm miệng nhưng bỏ ra ngay khi cảm thấy có gì đó dính trên môi. Máu. Áo tôi cũng vậy, rất nhiều máu không phải của tôi. Tôi kéo áo ra để nó khỏi dính vào người. Tôi muốn xoa trán, véo mũi để khỏi chết ngất, nhưng sợ lại chạm phải máu. Tôi ngước nhìn người đàn ông. “Mặt tôi có dính máu không?” Tôi hỏi anh. Anh mím môi nhìn con đường chúng tôi đang đứng và chỉ một quán cà phê. “Chắc ở đó có phòng vệ sinh”, anh đẩy lưng tôi đi về hướng đó. Tòa nhà Pantem Press, nơi tôi muốn đến, đã rất gần. Chỉ cách mười lăm, hai mươi feet. Tôi tự hỏi người đàn ông vừa chết đã gần đến nơi anh ta cần đến chưa? Anh giữ cửa cho tôi bước vào quán cà phê. Một người nữ phục vụ tay bưng cà phê định len vào thì chợt nhìn thấy áo tôi. Cô ta vội tránh ra nhường đường. Tôi đi đến phòng vệ sinh nữ nhưng cửa bị khóa. Thấy vậy anh đẩy cửa phòng vệ sinh nam cho tôi đi vào sau anh. Anh không khóa cửa, đi thẳng đến bồn rửa và mở nước. Tôi nhìn vào gương và phần nào nhẹ nhõm vì tình hình không đến nỗi tệ như tôi tưởng. Vài vệt máu trên má đã khô, trên lông mày chỉ dính một chút. Hầu như máu bắn hết vào áo. Anh đưa khăn giấy ướt cho tôi lau mặt. Mùi máu tanh nồng khiến tôi nín thở và lại buồn nôn. Tôi muốn cởi áo ra. Ngay lập tức. Sau khi mở nút áo cởi áo để dưới vòi nước chảy, tôi cầm miếng khăn ướt khác anh đưa cho lau máu dính trên ngực. Anh đi ra cửa, nhưng không phải để cho tôi sự riêng tư với chiếc áo ngực kém hấp dẫn nhất mà để khóa cửa lại. Tôi căng thẳng theo dõi anh qua chiếc gương treo trước bồn rửa. Có tiếng gõ cửa. “Tôi ra ngay”, anh nói. Tôi nhẹ nhõm hẳn, ít ra ai đó bên ngoài sẽ nghe thấy nếu tôi hét lên. Tôi kỳ cọ cổ và ngực, tiếp theo là lau tóc, hết bên này đến bên kia cho đến khi không còn một dấu vết nào. “Đây”, anh mở chiếc nút cuối cùng chiếc áo trắng anh đang mặc. “Cô mặc vào đi”. Chiếc áo khoác đang treo trên tay nắm cửa, chiếc áo sơ mi đưa đã cho tôi, trên người anh chỉ còn độc một chiếc áo lót màu trắng. Anh to cao hơn tôi nhiều, tôi sẽ bị nuốt chửng trong chiếc áo này mất. Tôi không muốn mặc nó đến cuộc hẹn chút nào, nhưng không có lựa chọn nào khác. Tôi cầm nó, lấy thêm vài chiếc khăn giấy lau khô người, sau đó mặc vào và cài nút. Trông chẳng ra làm sao, nhưng không phải lỗi tại tôi. Tôi ném chiếc áo dính máu vào thùng rác rồi chống tay lên bồn rửa nhìn mình trong gương. Đôi mắt tôi mệt mỏi, trống rỗng. Tôi lấy tay chà sát hai má để da bớt tái nhưng vô ích. Trông tôi như một xác chết. Tôi xoay người lại. Anh nhét cà vạt vào túi áo vét. “Tôi không biết cô đã bình tĩnh lại hay vẫn còn sốc”. Tôi không sốc nhưng cũng không bình tĩnh. “Tôi không biết nữa”, tôi thừa nhận. “Anh thì sao?” “Tôi không sao”, anh nói. “Tôi còn chứng kiến nhiều việc tệ hơn nhiều”. Không biết anh có nhìn thấy đầu người đàn ông bị nghiền nát dưới bánh xe tải không. Có lẽ anh đúng là dân New York. Hoặc anh làm ở bệnh viện. “Anh có phải là bác sĩ không?” Anh lắc đầu. “Trước đây tôi làm bất động sản”. Anh bước đến gần, phủi thứ gì đó trên vai áo tôi. Áo của anh. Màu mắt anh tiệp với màu chiếc cà vạt, màu lục nhạt. Anh rất đẹp trai, nhưng tôi có cảm giác anh chán ghét vẻ ngoài của mình. Anh không muốn bị chú ý. Anh muốn vô hình, giống như tôi. Nhiều người đến New York để thể hiện mình. Vài người như chúng tôi đến đây để không ai chú ý đến mình. “Cô tên gì?” anh hỏi. “Lowen”. Anh sững lại vài giây khi nghe tên tôi. “Jeremy”, anh đi đến bồn rửa. Tôi không nén nổi tò mò. Anh đã gặp việc gì mà khủng khiếp hơn cả vụ tai nạn? Vì sao ánh mắt anh thăm thẳm vẻ buồn bã cô độc? “Chuyện gì xảy ra với anh vậy?” Tôi hỏi. Anh nhìn tôi trong gương. “Ý cô là sao?” “Anh nói đã chứng kiến nhiều việc khủng khiếp. Là chuyện gì?” Anh tắt nước, lau khô tay, rồi quay lại nhìn tôi. “Cô thực sự muốn biết?” Tôi gật đầu. Anh ném chiếc khăn giấy vào thùng rác, đút tay vào túi quần, ánh mắt đanh lại. “Tôi đã vớt xác con gái tám tuổi dưới hồ lên cách đây năm tháng”. Tôi hít mạnh và bụm miệng. “Tôi rất tiếc”, tôi thì thầm. Vì con gái anh. Vì đã hỏi anh. “Cô thì sao?” Anh dựa vào bồn rửa chờ đợi câu chuyện của tôi. Có người chia sẻ để bi kịch của bạn bớt bi thảm. Khi bạn trải qua những việc tồi tệ nhất, bạn muốn gặp những người cùng hoàn cảnh, những người gặp chuyện buồn và bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi đằng hắng. Bi kịch của tôi không ghê gớm như của anh. Tôi nghĩ lại mọi việc đã xảy đến với mình và cảm thấy chút ngại ngùng vì nó khá tầm thường. “Mẹ tôi mới mất tuần trước”. Anh không tỏ thái độ gì, chắc anh đã dự đoán nhiều hơn thế. “Vì sao bà mất?” “Ung thư. Bà đến ở với tôi từ năm ngoái. Hôm nay là ngày đầu tiên tôi ra khỏi nhà sau khi mẹ tôi mất”. Chúng tôi nhìn nhau một lúc. Tôi chưa từng nói chuyện của mình với một người hoàn toàn xa lạ. Tôi ngại ngùng muốn kết thúc câu chuyện. Nhưng tôi không biết nói gì và đành im lặng. Anh nhìn vào gương hất vài sợi tóc đen vào nếp. “Tôi có một cuộc hẹn phải đi bây giờ. Cô chắc là cô ổn chứ?” Anh quan sát tôi qua gương. “Tôi ổn.” “Ổn?” Anh quay sang tôi, lặp lại câu hỏi. “Tôi sẽ không sao”, tôi nhắc lại. “Cảm ơn anh đã giúp đỡ.” Tôi bỗng muốn thấy anh cười. Nụ cười của anh như thế nào nhỉ? Nhưng anh chỉ nhún vai “Tốt”. Anh mở khóa cửa cho tôi bước ra, nhưng tôi không vội đi như thể tôi chưa sẵn sàng đối mặt với thế giới ngoài kia. Tôi muốn nói gì đó để cảm ơn hoặc tìm một cái cớ gặp lại anh. Mời anh đi cà phê nhân tiện trả lại áo cho anh có được không nhỉ? Trát tim tôi bồi hồi rung động trước anh – một người lạ tốt bụng. Đột nhiên mắt tôi bắt gặp chiếc nhẫn cưới anh đeo trên tay trái. Tôi hấp tấp ra khỏi quán cà phê hòa vào đám đông trên đường. Xe cứu thương đã đến, giao thông bị chặn ở cả hai hướng. Tôi cần quay lại hiện trường vụ tai nạn để cho lời khai. Ở đó đã có một đám đông những người chứng kiến vụ việc. Tôi tường thuật vụ tai nạn và cho họ thông tin liên lạc của tôi. Tôi ngoái nhìn quán cà phê. Jeremy đang bước ra khỏi quán, tay cầm ly cà phê băng qua đường. Chắc anh không còn nghĩ đến tôi mà nghĩ về vợ anh và những gì phải nói với cô ấy khi về nhà mà không có chiếc áo. Tôi rút điện thoại ra khỏi túi xem giờ. Còn mười lăm phút nữa mới đến giờ hẹn với Corey và nhà xuất bản Pantem Press. Tay tôi vẫn còn run và người lạ không còn ở đây để giúp tôi nữa. Chắc cà phê sẽ có tác dụng, hoặc morphine, nhưng chúng đã bị dọn sạch sau khi mẹ tôi mất. Ước gì tôi cất lại một ít. Mời các bạn đón đọc Sự Thật của tác giả Colleen Hoover & iusach (dịch).
Miền Thơ Ấu
Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Miền Thơ Ấu là câu chuyện về cậu bé 7 tuổi trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú. Đó là không gian ngôi làng bùn lầy nước đọng vùng chiêm trũng Bắc Bộ giữa thập niên 1940 vừa xác xơ nghèo khổ lại vừa lung linh, trong trẻo. Đó là một ngôi nhà ba gian bằng gỗ cũ kỹ và hằng in dấu vết của các thế hệ từ đời cụ kỵ. Là bà cô ngoan đạo  – người phụ nữ trung niên không chồng, lạnh lùng, gia trưởng và luôn tỏ ra mình là người khó tính, keo kiệt. Là anh cu Lớn, anh cu Nhỏ - những người bạn cùng câu cá, cùng chơi chung, cùng khóc cười. Là những câu chuyện ma tưởng tượng. Những lần lén lấy gạo cho một người sắp chết đói. Là những cuộc ngã giá ở cái chợ quê mà phiên nào cũng đầy các sản vật bản địa được người dân trong vùng mang tới… Và, đó còn là những chi li yêu ghét của những người quê tủn mủn nhưng thiệt thà. Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ sở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi… Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! VỀ TÁC GIẢ: Tác giả Vũ Thư Nguyên sinh năm 1933 tại Hà Nội. Bút danh khác: Kim Ân Năm 1988, ông nhận giải A Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Miền Thơ Ấu. Mã hàng 8936144200162 Tên Nhà Cung Cấp Phanbook Tác giả Vũ Thư Hiên NXB NXB Đà Nẵng Năm XB 2018 Trọng lượng (gr) 320 Kích Thước Bao Bì 13 x 20.5 Số trang 300 Hình thức Bìa Mềm Sản phẩm bán chạy nhất Top 100 sản phẩm Tiểu thuyết bán chạy của tháng Giá sản phẩm trên Fahasa.com đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như Phụ phí đóng gói, phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh,... Miền Thơ Ấu Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Miền Thơ Ấu là câu chuyện về cậu bé 7 tuổi trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú. Đó là không gian ngôi làng bùn lầy nước đọng vùng chiêm trũng Bắc Bộ giữa thập niên 1940 vừa xác xơ nghèo khổ lại vừa lung linh, trong trẻo. Đó là một ngôi nhà ba gian bằng gỗ cũ kỹ và hằng in dấu vết của các thế hệ từ đời cụ kỵ. Là bà cô ngoan đạo  – người phụ nữ trung niên không chồng, lạnh lùng, gia trưởng và luôn tỏ ra mình là người khó tính, keo kiệt. Là anh cu Lớn, anh cu Nhỏ - những người bạn cùng câu cá, cùng chơi chung, cùng khóc cười. Là những câu chuyện ma tưởng tượng. Những lần lén lấy gạo cho một người sắp chết đói. Là những cuộc ngã giá ở cái chợ quê mà phiên nào cũng đầy các sản vật bản địa được người dân trong vùng mang tới… Và, đó còn là những chi li yêu ghét của những người quê tủn mủn nhưng thiệt thà. Quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ sở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi… Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! VỀ TÁC GIẢ: Tác giả Vũ Thư Nguyên sinh năm 1933 tại Hà Nội. Bút danh khác: Kim Ân Năm 1988, ông nhận giải A Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam với tác phẩm Miền Thơ Ấu. *** LỜI NÓI ĐẦU Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay, tôi không dám tin rằng sẽ có ngày nó được thấy ánh sáng mặt trời. Nó ra đời như một may mắn không ngờ, như nhờ một phép màu. Đối với tôi, nó có ý nghĩa đặc biệt. Một thời, nó đã là người bạn tâm tình, là cái nạng cho tôi vịn vào mà đi trên con đường vô định. Mùa đông năm 1967 là một mùa đông giá buốt, ít nhất là cho tôi, trong cái xà lim không có sưởi và không có quần áo ấm. Trong mùa đông ấy, không hiểu vì sao, tôi cảm thấy nhớ quê hương nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cái đầu tiên gợi nhớ đến quê hương là mùi khói cay nồng từ những đống lá mà phu quét đường đốt lên để sưởi, ở bên kia bức tường đá của nhà tù. Ở quê tôi người ta thường đốt những đống rấm như thế để khói ngăn sương muối sà xuống những vườn rau. Mùi khói thoang thoảng lọt vào xà lim gây nên một nỗi nhớ cồn cào, da diết. Gối đầu trên đôi tay, tôi nằm dài trên phản xi măng lạnh ngắt mà thả hồn về quá khứ, tự hứa thể nào rồi mình cũng phải viết một cuốn sách về cái làng bùn lầy nước đọng quê hương. Cái làng nhỏ nhoi và nghèo khổ ấy gắn liền với thời thơ ấu của tôi, cái thời không mấy hạnh phúc nếu đứng ngoài nhìn vào, nhưng tuyệt đẹp đối với tôi, mà cũng có thể đối với bất cứ ai từng có một cái quê để mà nhớ. Lúc ấy tôi không nghĩ rằng cuốn sách tôi định viết sẽ được thực hiện không phải ở nơi nào khác, mà trong nhà tù. Ở Hỏa Lò tù nhân bị cấm đủ thứ, nhất là viết, hoặc đọc. Một mẩu giấy báo bị quản giáo phát hiện trong xà lim cũng là một cái tội, người tù giấu nó sẽ bị kỷ luật cùm chân, bị cắt "tiếp tế". Trong năm tù đầu tiên tôi chưa có đủ kinh nghiệm để biết rằng khi cần thiết người tù có thể làm được những việc anh ta không bao giờ ngờ tới. Ở trại quân pháp Bất Bạt (Sơn Tây) sự sống trong xà lim còn tệ hơn ở Hỏa Lò. Tôi hoàn toàn bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Nếu ở Hỏa Lò người tù xà lim còn có thể đoán biết được một sự kiện nào đó xảy ra bên kia những bức tường và hàng rào dây kẽm gai nhờ nghe ngóng được động thái của bạn đồng cảnh ở các xà lim cùng khu, thì ở Bất Bạt cái đó hoàn toàn không có. Những người bị giam ở đây, bên cạnh xà lim tôi, thường đã qua thời kỳ hỏi cung (thẩm vấn). Họ yên tâm nằm chờ, tháng này qua tháng khác, mà cũng có thể năm này qua năm khác, nhưng họ có cái để mà chờ: đó là ngày chắc chắn sẽ được ra tòa lĩnh án. Án có thể ngắn, có thể dài, nhưng họ sẽ được trở về khi mãn hạn. Những người tù chính trị, lại là thứ có tên gọi mỹ miều là “xử lý nội bộ”, thì không thể có xử, cứ việc nằm đấy, không chờ. May cho tôi, ở trại này trong một lần "tiếp tế" vợ tôi lén lút giúi cho tôi một cây bút bi Trung Quốc hai màu. Tôi có một đam mê khó hiểu đối với những cây bút. Vợ tôi biết người ta chẳng đời nào cho tù nhận thứ đồ quốc cấm ấy nhưng đã mang nó cho tôi, tôi sẽ có cách giấu. Tôi vờ xin đi vệ sinh, ở đó tôi kín đáo phá nát cây bút quý giá ấy, chôn những mảnh vỡ của nó xuống đất, rồi luồn hai cái ruột bút bi vào nẹp áo bông để mang vào xà lim. Cuốn sách bắt đầu từ ấy, mùa thu năm 1969. Tôi mải mê viết những trang đầu tiên trên vỏ bao thuốc lá, trên giấy kẹo, trên những riềm báo cũ mà gia đình bọc đồ "tiếp tế" (đến lúc đó nhà cầm quyền đã rộng lượng cho phép chúng tôi được giữ lại một số tờ giấy có in chữ, nhưng phải là thứ cũ, hết sạch thời gian tính). Viết phải rất cẩn thận, không được lãng phí những mẩu giấy hiếm hoi, lại phải canh chừng lính gác năm phút mươi phút một lần lượn lờ qua phòng giam để kiểm tra. Những mẩu "bản thảo" lắt nhắt không thể xếp thành trang, phải đánh số rõ ràng để không lẫn lộn, được gom lại, được cất giấu bằng mọi cách trong cái xà lim nhỏ hẹp. Sau đó là những ngày chờ đợi đến lần được gặp gia đình kế tiếp thì tuồn cho mẹ tôi, vợ tôi mang ra. Khi viết được nhiều, bản thảo tích lại khá dày cũng gây ra mối lo. Mà những cuộc gặp lại khôngcó kỳ có hạn, gia đình muốn gặp thì làm đơn, khi nào người ta rộng lượng cho gặp thì được gặp. Được cái từ năm tù thứ ba trở đi đám quản giáo coi nhà tiếp tế không còn khám xét kỹ mỗi lần tôi được gặp gia đình nữa. Vả lại, chẳng cần khám làm gì - chúng tôi đâu có biết ngày nào tháng nào được gặp vợ con đâu mà chuẩn bị. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng, cho nên lần nào gặp gia đình cũng chuyển ra ngoài được một ít bản thảo. Về sau này, trong xà lim trại Tân Lập (Phú Thọ), việc viết không còn khó như trước, mặc dầu vẫn phải canh chừng để không bị phát giác. Sau nhiều lần yêu cầu kiên trì, chúng tôi thậm chí còn được người ta chiếu cố cho phép gia đình mang cho giấy bút và vài cuốn tiểu thuyết ngoại quốc để đọc. Cuốn sách hình thành dần dần, từng ít một. Một lần các nhân viên công an nghi ngờ tôi chuyển gì ra, họ chặn mẹ tôi và vợ tôi lại để khám, nhưng hai người đã mang được những mẩu giấy của tôi ra ngoài trót lọt. Khi những bản thảo đã gom được kha khá, các em tôi - Vũ Chí Dũng, Vũ Thu Hương và Vũ Thu Hòa - hì hục chép lại. Năm 1976, sau chín năm tù, tôi trở về thì đã có một bản thảo hoàn chỉnh. Các em tôi còn đánh máy ra làm mấy bản sạch sẽ để những người thân đọc. Mẹ tôi đọc xong, bảo: - Mẹ thích. Nhưng sách không in được đâu. Một là, tên của con bị cấm. Hai là, chuyện một nhà, một làng, liệu mấy ai quan tâm? Bố tôi nhận xét: - Dù sao thì nó cũng ghi lại dấu vết một thời kỳ của nông thôn Việt Nam vùng Thiên Chúa giáo. Cứ để đấy, nó sẽ có ích sau này. Cho những nhà nghiên cứu chẳng hạn. Tôi không có ý định viết cho những nhà nghiên cứu. Họ chẳng cần đến tôi. Tôi cũng chẳng có ý định viết để in. Tôi viết vì đó là công việc duy nhất mà tôi có thể làm trong sự ăn không ngồi rồi bất đắc dĩ. Tôi viết vì tôi thèm được làm công việc mà tôi yêu thích. Tôi viết, ít nhất thì cũng để cho các con tôi, chúng không biết thời thơ ấu của tôi đã trôi qua thế nào. Mà chắc gì sẽ có ngày tôi kể được cho các con tôi nghe? Hồi ở trại Bất Bạt tôi không nghĩ tới ngày về. Không ít người đã nằm lại trong các nghĩa trang nhà tù. Những nghĩa trang ấy, thường ở sườn đồi, nếu có đồi, hoặc ở một bãi hoang giữa rừng. Trong cái sự tù của chúng tôi nghĩ tới ngày về là ý nghĩ ngu ngốc. Ý nghĩ viết cuốn sách để lại cho các con đã làm cho cuốn Miền Thơ Ấu có một sắc thái riêng. Nó là hồi ký, nhưng trong lần in đầu tiên nhà xuất bản đặt nó vào loại tiểu thuyết. Trên bìa sách cũng đề rõ Miền Thơ Ấu - tiểu thuyết. Hồi ấy ở Việt Nam chỉ có loại hồi ký là hồi ký cách mạng, do các lãnh tụ kể cho các nhà văn ghi. Người thường không ai viết hồi ký, không được viết hồi ký. Để nó vào dạng tiểu thuyết thì dễ in hơn. Còn có một lẽ nữa, là cuốn sách có hình thức giống tiểu thuyết trong cách viết, trong cách miêu tả nhân vật, dựng lại đối thoại. Tuy nhiên, tên người, tên đất trong cuốn này được giữ nguyên, không thay đổi. Người trong họ ngoài làng sẽ nhận ngay ra người quen khi đọc. Mà người làng tôi thì không quan tâm đến chuyện cuốn sách mà họ đọc thuộc thể loại gì. Tôi cho rằng có thể chép cuộc đời vào sách và tạo ra cho nó một dáng vẻ nghệ thuật, nếu ta nhìn đời theo cách nghệ thuật. Cuốn sách nằm lâu trong đống giấy má vàng úa của một thời chữ nghĩa. Tôi cũng chẳng có thời giờ để ý tới nó vì còn bận đánh vật với những thí nghiệm, chạy đi chạy lại các cơ quan nhà nước kiếm hợp đồng làm hàng gia công, là việc có ích cho sự kiếm sống. Từ khi ra tù tôi làm đủ mọi thứ nghề tạp nham, trong đó việc sản xuất hàng hoá liên quan tới hóa chất cho các tổ hợp thủ công nghiệp đem lại nhiều tiền hơn cả. Mãi tới năm 1987, anh bạn Lê Phát, biên tập viên đài Tiếng nói Việt Nam, một người tò mò thích văn chương, đã khui nó ra trong đống giấy má bừa bộn của tôi. Lê Phát đọc một lèo, anh thích nó, bèn đưa cho nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, nơi nhà văn Hà Mậu Nhai làm giám đốc. Hà Mậu Nhai cũng đọc một lèo, rồi nhắn tôi đến chơi. Anh tỏ ý muốn in cuốn sách. Tôi ngăn anh: - Anh không biết có một chỉ thị cấm in tôi sao? - Tôi biết. - Vậy mà anh vẫn quyết định in? Hà Mậu Nhai nói: - Chừng nào chưa có trước mặt tôi một văn bản pháp luật trong đó ghi rõ quyết định của tòa án cấm không được in Vũ Thư Hiên thì tôi vẫn in. Tôi không ngán những lệnh miệng và những chỉ thị nội bộ. Tôi in, và còn in tên Vũ Thư Hiên to hơn bình thường nữa kia. Tôi ngần ngừ. Tôi không muốn vì cuốn sách của mình mà bạn mình mang vạ. Hà Mậu Nhai nói chỉ cần tôi đồng ý cho in. Tôi miễn cưỡng đồng ý. Cuốn sách được in ra. Tên tác giả được in to hơn bình thường, đúng như Hà Mậu Nhai nói. Hà Mậu Nhai là một nhà văn nhưng không có chân trong Hội Nhà Văn. Anh chỉ có chân trong Xã Hội Những Người Tử Tế. Năm sau Miền Thơ Ấu được giải thưởng loại A của Hội nhà văn Việt Nam, tức là giải nhất, cho sách dành cho thiếu nhi, mặc dầu nhà xuất bản không đưa nó vào danh sách tác phẩm dự thi. Trong chuyện này Hà Mậu Nhai nghĩ như tôi, sách được in ra là tốt rồi, mong gì được giải. Việc trao giải thưởng năm ấy là sự kiện lớn. Đã nhiều năm chuyện xét và trao giải thưởng văn học bị xếp lại, vì chiến tranh, và vì văn chương là cái sự không ra gì, một thứ xướng ca vô loài, dưới mắt các nhà lãnh đạo. Chủ tịch Hội đồng xét giải là nhà văn Tô Hoài. Phùng Quán cũng được giải thưởng, loại B, với tiểu thuyết ba tập Tuổi Thơ Dữ Dội. Hai tên tội đồ, một Xét Lại Hiện Đại, một Nhân văn-Giai phẩm, chiếm hai giải thưởng nhất nhì trong một cuộc thi văn chương, là quá lố. Nhưng đã là năm 1988, hai năm sau khi Đảng cộng sản tuyên bố "đổi mới" và "cởi trói". Nếu là những năm trước, việc làm ngang bướng của Hà Mậu Nhai ắt bị trừng trị. Anh vẫn ngồi yên trên ghế giám đốc cho tới khi qua đời, ba năm sau. Giải thưởng này đối với tôi là bất ngờ, không kém gì việc nó được in ra. Khi mọi người cho tôi biết các báo đều đã đăng tin, tôi mới biết. Việc cuốn sách kể chuyện tầm phào về một làng quê khỉ ho cò gáy mà được giải, lại giải cao, là điều khó tin. Tô Hoài hiển nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc trao giải lần này. Uy tín của nhà văn già đã thắng tính bảo thủ của các cơ quan lãnh đạo tư tưởng của đảng cộng sản. Sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đọc Miền Thơ Ấu trong chương trình "Đọc truyện đêm khuya", nhà xuất bản Kim Đồng ở Hà Nội tái bản một lần, rồi hai lần... So với bản thảo, cuốn Miền Thơ Ấu trong lần in đầu tiên được rút gọn còn một nửa theo yêu cầu của nhà xuất bản. Vì không có giấy. Giấy vào những năm ấy đắt khiếp đảm. Lần xuất bản sau ở hải ngoại không thiếu giấy nhưng lại thiếu những trang bản thảo bị bỏ ra nọ. Chúng nằm lại ở Việt Nam, cách tôi quá xa, không phải xa theo khoảng cách địa lý, mà bởi những khó khăn. Tôi cũng không tìm cách bổ khuyết. Cuốn sách đã có cuộc sống riêng của nó, diện mạo của nó. Chưa chắc gì một sự thay đổi sẽ làm cho nó đẹp hơn. Những gì bị bỏ ra ngoài trong lần xuất bản đầu tiên rồi sẽ được đặt vào một lần xuất bản khác, hoặc một chỗ khác. Câu chuyện về một chú bé trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú đã tìm được độc giả của nó. Thì ra quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn. Tôi bao giờ cũng nhớ về tuổi thơ của mình với tất cả niềm thương yêu dịu dàng, bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ xở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi. Bạn đã bao giờ cho chuồn chuồn ngô cắn rốn chưa? Nếu bạn đã được một con chuồn chuồn ngô cắn rốn một lần để được sặc sụa một lần trong dòng sông quê hương thì bạn là người hạnh phúc đấy. Tôi đã đọc những dòng viết ấm áp và chân thành, và lạ thay, bao giờ cũng đầy nuối tiếc, về tuổi thơ trong sáng của mình nơi Lev Tolstoi, Maxim Gorky hay Paul Vaillant-Couturier. Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô dạy: "Hãy như con trẻ!" Tôi chưa được nghe lời nào thông thái hơn. Nếu tất cả những con người sống trên mặt đất này biết nâng niu gìn giữ trái tim con trẻ trong mình thì chúng ta đã không phải chứng kiến những gì xấu xa mà chúng ta phải chứng kiến: chiến tranh, nhà tù, và mọi sự hành hạ mà con người hàng ngày gây ra cho đồng loại. Bằng cuốn sách bé nhỏ này, tôi muốn chia sẻ với bạn đọc tình cảm trìu mến đối với những gì quý báu nhất trong cuộc đời, những gì bạn và tôi đều có nhưng chóng quên, ở một miền thơ ấu của mỗi chúng ta. VTH.   Mời các bạn đón đọc Miền Thơ Ấu của tác giả Vũ Thư Hiên.