Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gái Một Con

Gái Một Con - bộ truyện tâm lý xã hội đời thực hay của tác giả Nguyễn Nhật Thương.  Thùy là cô gái nhà quê thiếu hiểu biết, bị cưỡng hiếp trong một đêm mưa và từ đó mang thai không biết ai là cha đứa bé. Cuộc sống cơ cực khi cái thai ngày càng lớn dần, hàng xóm miệt thị cha mẹ ruồng bỏ, cô bỏ lên thành phố khi mang thai tháng thứ 8, chuỗi ngày đầy tủi nhục lại tiếp diễn.. *** - Kìa, con nhà bà Loan đấy, tí tuổi đầu mà bụng đã ỉnh lên rồi. - Con Thuỳ đấy hả, nghe nói nó chửa hoang mà, không biết bố đứa bé là ai luôn. - Ôi dào, bọn mới lớn bây giờ đàn đúm lắm, cứ tụ bạ với mấy thằng thanh niên làng bên rồi ỉnh ra, biết được của đứa nào. Những lời bàn tán, vài cái chỉ trỏ, ánh nhìn miệt thị đều chĩa thẳng vào tôi, một cô gái chỉ mới 17 tuổi nhưng đã chửa ở tháng thứ 8. Nghiệt ngã 1 chỗ tôi lại chẳng biết bố đứa trẻ là ai. Nhà tôi thuộc loại hộ nghèo của xã, bố mẹ tôi cũng đã có tuổi nhưng vẫn phải đi cày ruộng thuê cho người ta, ai có sai gì thì làm nấy. Dưới tôi còn 2 đứa em, 1 trai, 1 gái. Đứa em trai đã học lớp 8 hay gọi nó là Tèo, còn đứa em gái mới chỉ 5 tuổi, đứa con muộn của bố mẹ tôi nên tôi hay gọi nó là Út. Tôi lên lớp 10 đã nghỉ học để đi làm thêm, chứ nhà đã nghèo còn nuôi 5 miệng ăn thì mình bố mẹ tôi không đủ. Hoàn cảnh của nhà tôi thường xuyên phải chạy sang hàng xóm vay từng bò gạo, xin từng cọng rau. Nói thật, với độ tuổi như tôi bảo tôi đi xin xỏ như vậy cũng có chút xấu hổ. Rồi vào 1 cái đêm mưa tầm tã cách đây khoảng 8 tháng, mẹ tôi sai tôi cầm 2 bò gạo sang trả cho bà Lý ở làng bên. Tôi nói trời mưa nên để mai nhưng mẹ tôi nói bà ấy sang đòi nhiều lần rồi nên không kéo dài nữa. Tôi với tạm chiếc nón đã nát che lên đầu rồi chạy vội sang làng bên, trời mưa, đường làng lại đất bùn dễ trơn trượt, đèn thì lại yếu, tôi phải dò dẫm từng bước mới đến được cái nhà 2 tầng đang bật đèn sáng trưng mà gọi cửa: - Bà Lý ơi! Tiếng chó ở trong nhà sủa vang lên cả xóm, người phụ nữ có hình dáng mập mạp ì ạch đi ra: - Đứa nào đấy? - Cháu Thuỳ, con mẹ Loan. Mẹ cháu bảo sang trả cho bà 2 bò gạo tuần trước vay. Bà ta nghe vậy liền lấy cái ô bật lên rồi đi ra: - Cả buổi thì đéo đến, mưa gió lại mò đến. Tôi đưa 1 túi bóng đựng 2 bò gạo được buộc kỹ qua song cửa cổng cho bà. Bà Lý cầm lấy nó rồi quát lên: - Giời ạ, trời mưa thì phải cho nó vào cái gì chứ, mày để như thế này thì còn đéo gì là gạo nữa. Tôi nghe vậy liền lấy bàn tay lên vuốt gương mặt đã ướt như chuột lội rồi nói với bà: - Cháu buộc kỹ rồi, không sao đâu bà. - Thế này mà không sao à? Tao cho nhà mày mượn gạo tử tế, giờ mày trả cái đồ vứt đi như thế này à? Tôi nghe vậy cũng thấy khó chịu nhưng vẫn cố nhịn vì nhà tôi cũng thường xuyên vay mượn của bà: - Sao lại đồ vứt đi ạ? Gạo này nhà cháu vẫn nấu ăn bình thường, gạo ngon đấy ạ. - Nhà mày thì làm đéo gì có tiền mà mua gạo ngon. Nói rồi bà quăng túi gạo kia vào cái xô rác để ngay đấy rồi nói: - Thôi, về bảo với mẹ mày là tao cho. Đi về đi. Vay mượn kiểu này thì lần sau ai dám cho vay. Nói rồi bà liền đi vào nhà, còn tôi đứng đấy nhìn chằm chằm vào túi gạo đã nằm im ở trong xô rác đấy mà đôi mắt đỏ hoe. Cái cảm giác uất ức và nhục nhã sộc thẳng lên mũi, đi vay thì bị xỉ vả, đi trả thì cũng bị lăng mạ. Giữa con người với nhau, tôi tự hỏi họ có cần phải cay nghiệt đến như vậy không? Lững thững đi bộ trở về mà hai hàng nước mắt chua chát vẫn cứ chảy dài theo màn mưa. Bỗng 1 cơn gió lớn kéo đến thổi bay chiếc nón tôi đang đội, mưa trút xuống đầu làm tôi vội vã chạy đến 1 cái chòi bỏ hoang gần đấy. Cả người lúc này đã ướt nhẹp, gió thổi làm tôi lạnh mà run rẩy. Sấm chớp bắt đầu đánh ầm ầm khiến tôi khiếp sợ, cái bóng đèn vàng duy nhất thắp sáng đường đi bỗng nhiên vụt tắt, xung quanh chỉ 1 màu tối đen. Tôi run rẩy tìm chiếc điện thoại để bật đèn pin, nhưng sơ qua mới biết lúc đi không có mang theo. Đang định tính bỏ chạy 1 mạch về nhà thì từ 1 phía phát lên tiếng hát say sỉn của 1 gã nào đấy. Tôi sợ quá đứng lùi vào bên trong, gã say sỉn kia tay cầm 1 chiếc đèn pin nhỏ soi qua soi lại rồi chĩa thẳng vào người tôi làm tôi chói mắt phải đưa tay lên che: - Ế, em gái....trời mưa mà đứng đây làm gì? Đợi người yêu à? Đường thì vắng, lại tối đen, gặp một gã say ỉn thì đứa con gái nào chẳng sợ. Tôi không nhìn gã, cũng không trả lời định quay người chạy đi thì ai ngờ lão vứt chiếc đèn pin sang 1 bên rồi lao đến ôm chầm lấy tôi: - Ấy...chạy đi đâu...ở lại đây trú mưa với anh! Tôi lúc này hoảng sợ cực độ, cố gắng vùng vằng đẩy gã ra rồi la lên: - Bỏ tôi ra, đồ khốn nạn. Khi tôi đẩy được gã ra liền chạy đi, ai ngờ gã túm lấy tóc tôi giật ngược lại về sau rồi tát tôi 1 cái đau khủng khiếp: - Mẹ mày, mày nói ai là đồ khốn nạn đấy? Bố mày lại băm chết cụ mày giờ. Tôi đã bắt đầu có những tiếng khóc, trời lại tối chẳng rõ được mặt gã, 2 tay chỉ biết vung loạn xạ mà đánh trả lão rồi la lớn lên: - Cứu tôi với, làm ơn...có ai không? Gã vẫn không chịu buông tôi ra, thêm phần trời mưa to, sấm chớp đánh mạnh nên hầu hết mọi nhà đều đóng cửa không nghe thấy. Lúc này gã liền đấm mạnh vào bụng tôi, cơn đau khủng khiếp kéo đến khiến tôi không còn sức kháng cự. Gã túm đầu tôi kéo vào bên trong cái chòi, đẩy tôi ngã xuống đất. Tôi gào khóc khủng khiếp, lồm cồm ngồi dậy muốn bỏ chạy khỏi con thú hoang này nhưng gã nhanh tay túm được chân tôi kéo lại, 2 bàn tay bẩn thỉu dùng sức cởi khoá quần của tôi. Tôi kinh hãi cố gắng dẫy đạp, rồi gào lên: - Cút, thằng chó, tránh xa khỏi tao.....Có ai ngoài đó không? Cứu tôi. Lời vừa dứt, lão tát tôi thêm 1 cái nữa, sức của đàn ông làm tôi choáng váng: - Con đĩ, câm mồm cho bố mày không tao giết đấy. Tiếng sấm lớn vang trời, cơn mưa rào khủng khiếp, trời tối đen như mực, tất cả như đang hùa với gã mà chống lại tôi. Thi thoảng vài tia chớp loé lên, tôi chỉ kịp nhìn thấy đôi mắt đỏ ngàu như mãnh thú của gã, bàn tay vơ vội nắm đất ném vào mặt gã. Ông trời không có mắt, gã ra sức tát tôi rồi lại đấm vào bụng, cả người đau ê ẩm làm tôi chẳng còn sức chống cự. Chiếc áo sơ mi ướt nhẹp bị cởi phăng ra, quần bò cũng được kéo xuống đến cẳng chân, từng khấc da thịt tôi bị gão bấu xé đến đau nhức. Tôi còn chỉ biết gào khóc với trời, ai đó làm ơn giúp tôi thoát khỏi tên súc vật này. Nhưng trời cao chẳng nghe thấy, cái cảm giác đau đến xé da thịt khi gã đưa cái thứ bẩn thỉu ấy vào trong người tôi, nó thật khủng khiếp. 2 bàn tay tôi cào xuống mặt đất đến tứa máu, nước mắt với mưa ngoài kia phả vào làm người run rẩy và đau xót. Lần đầu tiên của tôi, cuối cùng cũng đã mất, mất bởi 1 kẻ say không rõ mặt, ở một nơi bẩn thỉu đến ngay cả chiếc giường cũng chẳng có, nó thê thảm và nhục nhã vô cùng. Con súc vật ấy ở trên người tôi mà bộc lộ thú tính, giọng nói của gã làm tôi ghê tởm, cơn đau từ phía dưới vẫn kéo đến từng đợt quặn thắt. Sau khi thoả mãn, gã mặc lại quần áo rồi bỏ đi như chưa có chuyện gì. Cả người tôi đau nhức gắng gượng ngồi dậy, giữa trời đen mà mò mẫm từng cái áo, cái quần mặc vào. Nước mắt suốt từ khi ấy đến giờ vẫn chưa ngừng lại, tôi thất thần lê từng bước dưới trời mưa giông đấy, ngửa mặt lên nhìn 1 mảng đen uất hận mà nức nở khóc. Tôi trở về nhà, cố giấu bố mẹ truyện này. Mẹ tôi thấy tôi ướt nhũn cũng lên tiếng hỏi: - Mưa sao không ở lại trú lúc rồi về? Tôi cố quay mặt mình về phía không ánh sáng mà nói: - Con thấy mưa lâu tạnh nên không trú nữa, giờ vào tắm 1 cái là được. Nói rồi tôi cũng né nhất có thể đi vào lấy quần áo rồi chạy vội vào nhà vệ sinh, đã phải dùng hết mấy chậu nước mới cảm thấy mình sạch sẽ 1 chút rồi mới trở về phòng mình. Thấy con Út đang nằm say sưa ngủ, tôi vẫn phải nhẹ nhàng trèo lên giường rồi quay lưng về phía nó, nước mắt lại chảy trào ra trong sự cố kìm nén của tôi. Tháng ngày về sau qua đi, tôi cố gắng quên cái đêm ám ảnh đấy nhưng có lẽ kiếp trước tôi gây nghiệp nên kiếp này phải gánh lấy hậu quả. Bụng tôi qua thời gian mỗi lúc 1 lớn lên, đến khi mẹ tôi sinh nghi và đưa đi khám mới biết thai đã được 6 tháng. Tôi còn nhớ cái ngày hôm ấy, bà mặc kệ tôi manh bụng chửa cầm cán chổi vụt vào người tôi rồi chửi: - Mẹ mày, đúng là con mất dạy, mày còn không nói là của đứa nào? Tôi khóc lóc đến sưng húp cả mắt, 2 tay cứ ôm lấy người minh mà nức nở nói: - Mẹ ơi, con xin lỗi, nhưng con thật sự không biết? Con là bị cưỡng bức. Bố tôi lúc này ở trong nhà ném cái ghế gỗ ra ngoài rồi quát lớn: - Mày còn già mồm à? Hay là ngủ với nhiều thằng quá nên không biết? Đúng là loại con gái hư hỏng, mày cút khỏi đây đi. Đừng bôi tro chát trấu vào mặt bố mẹ mày. Con Út thấy tôi bị đánh chạy lại ôm lấy chân mẹ tôi mà gào khóc: - Mẹ ơi, mẹ đừng đánh chị Thuỳ nữa, chị Thuỳ rất thương Út. Mẹ tôi vì giận quá cũng đẩy con Út ra làm nó ngã xuống rồ gào lên, tôi thấy vậy khóc lóc định chạy lại đỡ lấy nó thì bà lại cầm cán chổi vụt vào người tôi: - Loại mất nết, tao phải đánh chết mày! Thằng Tèo lúc này đi học về thấy vậy liền chạy lại đỡ lấy con Út rồi dỗ dành, nó đủ lớn cũng đủ sợ bởi những trần đòn từng chịu nên chẳng dám lao vào can ngăn. Bà con hàng xóm đã bắt đầu kéo sang đông rồi xúm lại, lúc này cô Hiền, nhà bên cạnh nhà tôi liền chạy đến can ngăn: - Thôi, đừng đánh nó nữa, chuyện đã lỡ rồi, giờ nó còn đang bụng mang dạ chửa, không may có như thế nào hỏng cả mẹ lẫn con thì lúc đấy hối không kịp. Bố tôi nghe vậy gương mặt tức giận rõ rệt mà quát lên: - Loại nó là phải đánh chết, sống làm gì cho xấu mặt. Tôi lúc này chỉ biết ôm cái bụng to của mình mà đứng đấy khóc. Không ai hiểu cho tôi, không ai tin tôi, tất cả chỉ trong phút chốc đều quay lưng lại, tôi đau ghê gớm, đau cả thể xác, đau lẫn tinh thần. Sau vài lời khuyên của mấy người hàng xóm, bố mẹ tôi mới dần xuôi, tôi cũng từ đấy mang thêm cái mác "con chửa hoang" ở trong cái làng này, để rồi đi đâu cũng bị mấy bà tám chuyện lôi ra bàn tán như vậy đấy. Mới đầu bị nói tôi còn tủi thân khóc, nhưng sau quen rồi nên cũng cố chai lỳ mà lờ họ đi. Giống như hôm nay, mấy bà vừa nói vừa chỉ trỏ đấy, tôi còn đi lại cười rồi chào từng người, sau đó còn thêm cho câu: "Hôm nay cháu thấy con A/thằng B nhà cô/nhà bác mới đi với ai vào nhà nghỉ ấy. Không nói khéo lại ỉnh ra thì khổ." Đấy, cứ phải đáp trả như vậy tôi mới hả dạ được. Con người mà, kẻ nào yếu thì kẻ đó thua thôi. Tôi đi trở về căn nhà mái ngói lụp xụp, con Út thấy bóng tôi từ trong nhà chạy ra ôm lấy chân tôi rồi xoa cái bụng đang lớn: - Chì Thuỳ, em bé sắp ra ngoài chưa? Tôi vòng tay xoa lấy đầu nó rồi dẫn vào trong nhà nói: - Sắp rồi, còn 1 tháng nữa là Út được bế cháu. Con bé nghe vậy thích lắm nhảy tưng tưng. Mẹ tôi lúc này từ trong bếp đi ra nói: - Làm sao rồi? Tôi nghe vậy nét mặt có chút buồn nhìn bà: - Con hỏi vài nơi nhưng không ai nhận cả. Bà lúc này cáu lên: - Ai mà nhận con chửa như mày làm. Rồi không may làm việc có sao thì họ gánh cục nợ à? Tôi nghe bà nói vậy cũng tủi thân lắm nhưng cố nhịn mà cúi mặt đi vào nhà thì bà lại lẽo đẽo theo sau: - 5 cái miệng ăn chưa đủ còn rước thêm cục nợ về nhà. Rồi đẻ đái thì bán nhà đi, con với cái, không biết kiếp trước tao gây ra nghiệp gì nữa! Tôi lúc này đã không nhịn được nữa mà ứa nước mắt ra rồi nói: - Mẹ không phải lo, con tự lo được! - Mày lo cái thân mày còn chưa xong thì mày đòi lo cái gì? Việc làm không có, rồi ôm cả cái cục nợ kia, đời chỉ có bốc cứt mà ăn. Tôi thực sự không thích bà nói đứa bé trong bụng là cục nợ. Cho dù nó không có bố, nhưng nó cũng là máu mủ của tôi, là cháu ngoại của bà, tại sao bà lại có thể cay nghiệt như vậy: - Con lo thế nào thì kệ con, mẹ không phải quan tâm. Có bốc cứt thì cũng là con chứ không phải ai cả mà mẹ phải lên tiếng. - A, con này, tao đang nuôi 2 đứa mày mà nói mày còn cãi lại à? Bố tôi lúc này từ ngoài đi vào lại quát: - Vả vào mồm nó, đúng là cái loại mất nết, loại bất hiếu. Tôi nghe đến đấy đã chẳng thể nào kìm chế nổi. Đi ra ngoài thì thiên hạ chửi bới, trở về nhà thì bố mẹ mỉa mai. Bao nhiêu uất ức tôi cố nhẫn nhịn liền bùng phát lên. Tôi gào trong nước mắt: - Bố mẹ cứ hở tí là đòi đánh con, ngày không đánh thì ngày lại chửi. Dù sao đứa bé cũng là cháu ngoại của bố mẹ mà. Ai ngờ tôi vừa dứt, bố tôi đi lại tát vào mặt tôi một cái rồi giận dữ nói: - Tao không có cái loại cháu hoang này. Gương mặt tôi đã đầm đìa nước mắt, tôi đưa tay lên ôm lấy 1 bên má đỏ rộp mà nhìn ông uất ức rồi gào lên: - Con không ở cái nhà này nữa? Con sẽ đi khỏi đây cho bố mẹ vừa lòng. Nói rồi tôi cũng bỏ chạy ra phía ngoài, bố tôi ở sau còn nói với theo: - Mày đi được thì mày đi luôn đi, đừng mò về đây nữa. Tôi khó lóc chạy ra đến phía cổng, thì con Út đang chơi bên hàng xóm chạy về thấy tôi liền túm lấy: - Chị Thuỳ, chị đi chơi à, cho Út đi với. Tôi nhìn thấy nó mà lòng đau khủng khiếp, từ từ ngồi xuống rồi đưa tay lên ôm lấy má nó, nói trong nước mắt: - Út ở nhà ngoan, nghe lời bố mẹ. Chị Thuỳ đi làm về sẽ mua nhiều đồ chơi cho Út nhé. Con bé nghe vậy lại không chịu liềm túm lấy tay tôi rôi mếu máo: - Không, Út không chịu đâu. Chị Thuỳ đừng đi. Nghe nó nói vậy mà cổ họng tôi nghẹn đắng, chậm rãi quay đầu lại phía sau nhìn căn nhà cũ kỹ đã từng là mái ấm mà chợt thấy đau lòng. Tôi quay lại hôn nhẹ vào trán con Út rồi nói: - Út ngoan, Út sẽ nghe lời chị Thuỳ nhé. Nói rồi tôi cũng đẩy con bé ra mà chạy đi, con Út thấy vậy lại khóc lóc đuổi theo 1 đoạn rồi ngồi phịch xuống đất mà gào lên. Tôi lúc này cứ phải tự nhủ lòng mình "không được quay lại, không được quay lại" mà cứ chạy thẳng về phía trước, về một tương lai mờ mịt mà tôi cũng chẳng thể nào rõ nữa.   Mời các bạn đón đọc Gái Một Con của tác giả Nguyễn Nhật Thương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma - Tadeusz Dolega-Mostowicz
Tađêus Đôuenga Môxtôvich (Tadeusz Dolega Mostowicz, 1898 - 1939) là nhà văn xuất sắc của nền văn học Ba Lan thời cận đại. Ông là tác giả của những tiểu thuyết tâm lý xã hội theo khuynh hướng tình cảm rất được ưa chuộng (Thầy lang, Giáo sư Vintrurơ), nhưng nổi tiếng nhất với các tác phẩm hiện thực phê phán đặc sắc: Đường công danh của Nikôđem Đyzma. Hoạt động văn học trong cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy hấp dẫn của T.Đôuenga Môxtôvich diễn ra trùng với thời kỳ hai mươi năm tồn tại và phát triển của nước Ba Lan tư sản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 - 1939), trong bối cảnh đất nước vừa giành lại được độc lập sau hàng thế kỷ bị các thế lực đế quốc chia cắt, xâu xé, hoàn toàn bị xóa tên trên bản đồ thế giới, để rồi chẳng mấy chốc lại rơi vào nanh vuốt của bè lũ phát xít Đức. Chính thời kỳ giai cấp tư sản dân tộc non yếu được nắm tay lái con thuyền quốc gia vừa bị lọt vào cái “mắt bão” - vùng tạm thời yên tĩnh giữa những cơn bão táp hung bạo trên toàn thế giới, song không thiếu những rối ren phức tạp trong nước - là thời kỳ thuận lợi cho chủ nghĩa cơ hội phát triển, thời kỳ những nghịch cảnh, những đảo lộn xã hội diễn ra liên tiếp, tập trung và sôi động hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là thời kỳ được T.Đôuenga Môxtôvich lấy làm bối cảnh cho quyển tiểu thuyết xuất sắc nhất của ông. Đường công danh của Nikôđem Đyzma quả là hiển hách, đáng ngạc nhiên, bởi đó gần như là cuộc hội tụ của biết bao “ngẫu nhiên may mắn, bao “số đỏ”, đến mức khiến người đời phải chóng mặt, ngỡ ngàng. Ở chương đầu sách, y chỉ là một anh công chức cấp thấp ở tỉnh lẻ bị mất việc, đang lang thang tìm việc làm, túi rỗng không và chiếc dạ dày lép kẹp. Ấy thế mà tới những trang cuối sách y đã là một triệu phú cỡ lớn, chủ một cơ ngơi nông - công - nghiệp khổng lồ, chính khách số một của đất nước, người được chính tổng thống mời ra đảm nhiệm sứ mạng thành lập nội các mới, nhằm chèo lái con thuyền quốc gia qua cơn bão chao đảo! Cái gì đã khiến Nikôđem Đyzma leo nhanh và cao đến thế trên những bậc thang danh vọng của cuộc đời? Cái gì là nguyên nhân thật sự mở ra con đường công danh đầy huyền thoại của kẻ vô học “bất tài chi tướng” kia? Tại sao giữa lòng cái xã hội quý tộc - tư sản, với những thể chế ngỡ như chặt chẽ, với quy luật cạnh tranh khốc liệt kia lại nảy nòi một cái nỗi oái oăm nhường ấy? Nhà văn đã không đứng ra thuyết minh, trả lời và kết luận thay người đọc, nhưng qua bức tranh liên hoàn hiện thực mà ông đã dựng lên, người đọc nhận thức được rằng: nguyên nhân chính tạo nên bước đường công danh lừng lẫy của nhân vật kia chính là bởi cái xã hội đang sống chỉ có tôn ti, trật tự, luật lệ, kỷ cương về phương diện hình thức mà thôi. Còn bên trong, guồng máy của nó lại hoạt động bằng một loại “nhiên liệu” vạn năng duy nhất là đồng tiền. Trong cái xã hội ấy, ngài luật sư có uy tín nhất, đồng thời cũng là người bảo trợ cho Hội Bảo vệ gia đình (mặc dù là chuyên viên sừng sỏ nhất trong lĩnh vực ly hôn!) đã trắng trợn vòi tiền “công” vì lấy được lời chứng của những người đã chết. Trong xã hội ấy, người ta có thể thuê giết một mạng người với một trăm đồng bạc, có thể đổi trắng thay đen dễ như trở bàn tay, có thể dựng ra cả một tiểu sử huy hoàng để tô son trát phấn cho một anh dốt nát nhà quê đóng tuồng làm “người hùng”, làm “chính khách”, làm nhà “kinh tế thiên tài”... Cái xã hội mà ngay ở những cấp cao nhất của chính quyền, cũng chỉ là một lũ người dốt nát, bất lực, mâu thuẫn nhau, chỉ giỏi ăn chơi cãi vã. Cái xã hội mà “phương sách” hữu hiệu nhất là tiền cộng với lừa đảo, dối trá. Những nghịch cảnh của xã hội được lột trần đến lõa lồ trước mắt người đọc, bởi mấy ai ngờ rằng một “hội đồng” dâm của các vị phu nhân lá ngọc cành vàng, vợ con các “ông lớn”, lại có khả năng điều hành thật sự bộ máy quốc gia, đến mức tống cổ ngài thứ trưởng kiêm đổng lý văn phòng hội đồng bộ trưởng đi... Tàu, chỉ vì ngài sắp lật mặt nạ “người tình chung” của các bà! Xuyên suốt tác phẩm là hai quá trình có hướng ngược nhau, diễn ra đồng thời, ở một con người - đó là nhân vật chính: Nikôđem Đyzma. Y leo nhanh đến mức đáng kinh ngạc trên những bậc thang danh vọng, nhưng lại tụt dài về phương diện nhân cách, từ cái trong sạch của một con người bình thường xuống vũng bùn nhơ nhớp của những tội lỗi ghê gớm nhất. Ban đầu, dù thất nghiệp, đói rách, Đyzma vẫn còn lương tâm trong sạch, thấy cái phong bì của cậu bé bưu điện đánh rơi y còn thương tình gọi với theo để trả, nhặt được giấy mời đi dự tiệc (gửi một người khác), y mang đến tận nhà (bụng thầm mong được trả công vài đồng bạc), y biết đỏ mặt ngượng khi bịa ra một câu chuyện phạm tội vô hại kể cho một cô gái làm tiền. Thế rồi, chỉ qua một bữa tiệc mà y lấy hết gân cốt đến dự nhằm thỏa mãn cái đói, y đã nhảy một bước lọt vào xã hội thượng lưu, để ngấm dần vào người “độc dược” hiệu nghiệm lấy làm kim chỉ nam cho mọi hành vi đối nhân xử thế: lừa đảo. Không những y không hề ngần ngại khi lừa cơ cướp cả cơ nghiệp lẫn cô vợ xinh đẹp của ông chủ đã hết lòng đối xử tử tế với y, mà y còn không run tay khi thuê bọn lưu manh, giết một người ân nhân cũ để bịt đầu mối, không hề áy náy khi ra lệnh cho bọn cảnh sát đánh đập dã man một cô gái vô tội đã nặng lòng yêu y. Sở dĩ y tha hóa nhanh như thế về phương diện đạo đức chỉ bởi y đã tiếp xúc với những “tinh hoa” của giới cầm quyền. Xét về phương diện ấy, Đyzma cũng là một nạn nhân của xã hội tư bản - một nạn nhân “tự nguyện”. Sự trèo nhanh leo cao của y không phải là thành quả đạt được bởi những thủ thuật không mấy tinh khôn mà y đã học được ở các “tinh hoa” thượng lưu xã hội kia (như kiệm lời để giấu dốt, nhắc lại ý của người khác nhận rằng là của mình…). Mà có nguyên nhân sâu xa hơn: đó là sự mâu thuẫn giữa các giới cầm quyền, các cá nhân có thế lực trong guồng máy xã hội, đó là sự dốt nát trong đánh giá của các giới đó đối với Đyzma. Các vị đại diện cao cấp nhất của xã hội đã không có khả năng phân biệt thật giả, đã ngộ nhận về khả năng - thậm chí tài năng - của Đyzma, đã đưa y lên những địa vị cao sang, đã để y đánh lừa một cách “hào hiệp” nhất. Đúng như lời chàng công tử bá tước Pônimirxki gào lên kết thúc quyển sách: “Không phải hắn dắt mũi các người đâu! Chính các người đã bê cái đồ súc vật ấy đặt lên thành tượng đài! Chính các người! Hỡi lũ người đánh mất hết những tiêu chuẩn lý trí!”. Mỉa mai hơn, Đyzma được leo lên cao đến thế còn chính vì y đã làm thỏa mãn được dục vọng thấp hèn của các vị “phái đẹp” quý tộc trong những cuộc “hành lễ bí mật” mà thực chất là những cuộc hành lạc tập thể, những cuộc loạn hôn không tiền khoáng hậu. Trong các “tài năng” đã đưa Đyzma lên những địa vị cao sang, có “tài” đĩ đực! Trong số những nạn nhân khác của cái xã hội nhầy nhụa đó, người đọc còn nhận thấy một điều: Người càng có địa vị xã hội thấp hèn, thậm chí càng ở “dưới đáy” thì phẩm chất đạo đức lại càng trong sạch. Cô gái Manka dù phải bán thân nuôi miệng, nhưng vẫn ý thức được sự ghê tởm của cái “nghề” mà mình bắt buộc phải làm, vẫn giữ một tình yêu chân thật đối với Đyzma, và vẫn biết căm phẫn tột độ khi tình yêu ấy bị bội bạc. Dù bị đánh đập dã man, nhưng dẫu sao Manka cuối cùng cũng nhận ra bộ mặt thật của Đyzma. Đáng thương cho một phụ nữ xinh đẹp, yếu đuối mà lại muốn hưởng lạc như bá tước tiểu thư Nina, cho đến cuối cùng vẫn không hiểu rằng mình bị đánh lừa, vẫn không hiểu được bản chất người chồng “lý tưởng” và “lỗi lạc” của mình! Ý nghĩa tố cáo và phê phán của tác phẩm còn tập trung cao ở hình tượng chàng bá tước “điên” Pônimirxki. Chàng là nạn nhân của một trò lừa đảo đã khiến cha chàng khuynh gia bại sản, rồi lại trở thành nạn nhân của một vụ lừa đảo mới, còn trắng trợn hơn, đê mạt hơn. Không phải ngẫu nhiên tiếng nói gần với sự thật nhất, tiếng cười châm biếm sâu cay nhất đối với những nghịch cảnh xã hội lại được tác giả đặt vào miệng một người “điên”, một người “tâm thần”, vốn có một địa vị cao sang, một gia sản giàu có, một học thức uyên bác, nhưng rốt cuộc vẫn bị vứt ra một xó vườn, hay cùng lắm - làm đầy tớ dạy tiếng Anh cho chủ. Các yếu tố ngẫu nhiên, bất ngờ được sử dụng để xây dựng con đường công danh cho Đyzma đều hợp lôgích, không gây ấn tượng giả tạo, khiên cưỡng. Chất bi và hài được kết hợp hài hòa, trong đó cái hài được tập trung cao, tạo nên một tiếng cười mỉa mai, sâu cay đối với cả bộ máy nhà nước tư sản, từ cấp thấp lên cấp cao nhất. Nhà văn đã thể hiện một bộ mặt xã hội với những biểu hiện sinh động lạ thường qua một bút pháp tưởng như dửng dưng, khách quan mà sắc sảo, tinh tế. Người đọc Ba Lan còn hâm mộ tác phẩm của T.Đôuenga Môxtôvich vì nhà văn đã dựng lại hết sức sống động, hết sức thực từ ngôn ngữ, thói quen, phong tục, tập quán đến cảnh sinh hoạt và bầu không khí của xã hội thượng lưu quý tộc những năm 20 - 30. Do vô tình hay hữu ý, nhiều tác phẩm hiện thực phê phán thường sa vào chủ nghĩa tự nhiên trong phản ánh hiện thực xã hội. Trong Đường công danh của Nikôđem Đyzma T.Đôuenga Môxtôvich đã tránh được hạn chế này. Tác giả đã không khai thác những yếu tố thấp hèn hoặc kích thích ở những cảnh “gay cấn”, để một mặt duy trì mức độ chân xác của tính cách nhân vật, mặt khác tạo được hứng thú thẩm mỹ lành mạnh. Tác phẩm sử dụng nhiều yếu tố hư cấu nhưng rất thực, và tả được cái thực của xã hội, bởi lẽ nhà văn đã chọn những không gian thích hợp để những yếu tố hư cấu kia hiện ra trong những dáng vẻ thực của đời. Cũng như nhiều tác phẩm hiện thực phê phán khác, Đường công danh của Nikôđem Đyzma không tránh khỏi những nhược điểm khách quan do thời đại cũng như những nhược điểm chủ quan do nhận thức của tác giả. Mâu thuẫn xã hội mới được miêu tả ở tầng lớp trên, mâu thuẫn giai cấp mới chỉ lướt qua. Tác giả tập trung mô tả và phê phán cái xấu xa, cái phản động, nhưng chưa nêu được những phẩm chất tốt đẹp cũng tồn tại song song trong xã hội ấy. Xã hội trong tiểu thuyết đang chao đảo, nhưng rồi sẽ đi đến đâu, theo con đường nào… Thực ra, công bằng mà nói, đó cũng là những nhược điểm khó tránh nếu đặt tác phẩm và người viết trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mình. Bằng những giá trị nghệ thuật lớn lao, tiểu thuyết hoạt kê của T.Đôuenga Môxtôvich đã phản ứng khá mạnh mẽ chống lại một xã hội lố lăng, qua đó gián tiếp bênh vực quyền tồn tại và phát triển của những con người lương thiện, trung thực. Chính vì vậy, ngay sau khi ra đời, Đường công danh của Nikôđem Đyzma liền được xem là một hiện tượng văn học đặc sắc ở Ba Lan. Tác phẩm được in lại nhiều lần và cũng được đưa lên màn ảnh ở Ba Lan, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài. Đọc Đường công danh của Nikôđem Đyzma và tìm hiểu thân thế sự nghiệp của T.Đôuenga Môxtôvich, người đọc Việt Nam không khỏi bất giác nghĩ tới Số đỏ của Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) và chợt thú vị về những nét tương đồng giữa hai tác giả cũng như hai tác phẩm. Hai tác giả sống gần như đồng thời với nhau, ở hai phương trời xa cách nhau hàng chục nghìn cây số, song đều tài hoa sắc sảo, đều từ giã cuộc đời giữa tuổi sáng tạo rực rỡ, để lại cho đời những tác phẩm sống mãi. Chúng tôi hy vọng rằng, với bản dịch ra tiếng Việt trực tiếp từ tiếng Ba Lan này Đường công danh của Nikôđem Đyzma sẽ giúp bạn đọc nước ta làm quen với một nhà văn tài hoa của dân tộc Ba Lan, đồng thời xuyên qua cái nhìn đầy phê phán với những hiện tượng bệnh hoạn của xã hội tư sản, thêm trân trọng gìn giữ và phát triển những giá trị thật sự tốt đẹp đang quyết liệt đấu tranh chống các hiện tượng xã hội tiêu cực xuất hiện trong hoàn cảnh xã hội phức tạp của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, góp thêm một tiếng nói nghệ thuật chống lại các biến tướng của chủ nghĩa cơ hội. Hà Nội, 01 - 1987 Hồng Diệu *** Tác phẩm:  Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma Thầy Lang Giáo Sư Wilczur Mời các bạn đón đọc Đường Công Danh Của Nikodem Dyzma của tác giả Tadeusz Dolega-Mostowicz.
Đức Mẹ Mặc Áo Choàng Lông
Xuyên suốt cuốn sách là một bản tình ca nhẹ nhàng, sâu lắng mà cũng không kém phần cảm động. Chuyện kể về tình yêu giữa Raip Efendi một người Thổ Nhĩ Kỳ có niềm đam mê với hội họa và Maria Puder - 1 họa sĩ người Do Thái với đôi mắt đen và làn da trắng muốt như tuyết, người mà Raip vẫn gọi là "Đức mẹ". Hai người họ gặp nhau ở Berlin và cũng tình cờ yêu nhau một cách say đắm cuồng nhiệt. Tuy ban đầu Maria có vẻ khá khắt khe, vạch ra ranh giới rõ ràng với Raip nhưng cô biết rằng bản thân đã yêu anh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cô luôn dằng xé cảm xúc bản thân vì cô đã mất niềm tin ở đàn ông từ lâu, chính Raip đã đem lại cho cô một hi vọng sống mới. Còn đối với Raip thì Maria thực sự là 1 "Đức mẹ" với đôi mắt đen rất khác biệt với các cô gái anh từng gặp, anh yêu cô bằng cả trái tim chân thành. Tuy nhiên cuộc đời rất không công bằng khi cướp đi mạng sống của Maria, khiến Raip phải chờ đợi suốt 10 năm trong vô vọng vì tưởng rằng cô đã phản bội anh để theo người đàn ông khác. Anh cưới vợ và sống một cuộc sống như người mất đi mọi tri giác, mọi cảm xúc của anh đã chết đi khi anh biết tin Maria vì sinh đứa con gái cho anh mà mất đi, để lại trong anh nỗi tuyệt vọng và dày vò suốt cuộc đời. Đến cuối đời anh vẫn sống trong sự cô đơn, bị sỉ nhục bởi chính người thân trong gia đình, anh chỉ tìm thấy sự bình yên khi ở bên Maria mà thôi. Một câu chuyện tình cảm động rất đáng để đọc. *** SABAHATTIN ALI sinh ngày 12 tháng 2 năm 1906 tại thành phố Egiơnidere, nay là thành phố Ardinê thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Bungari. Vào đầu thế kỷ này thành phố vẫn thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng sau cuộc chiến tranh Bancăng ( 1912 - 1913 ), Bungari đã thu hồi mảnh đất ấy về mình. Năm 1927, sau khi tốt nghiệp trường trung học, Ali trở thành người thầy giáo nông thôn. Cuộc sống ở miền Iodơgađa ( Vùng trung tâm Anatôli ) đã làm cho ông kinh tởm. Những biến động lớn lao của xã hội hầu như không vang động được đến đây. Xung quanh vẫn là sự bóc lột tàn tệ, sự bất công, áp bức được khoác bộ mặt mới ngày càng tinh vi hơn, thâm độc hơn. Sự xung đột sâu sắc với cuộc sống xung quanh đã dẫn Ali đến ý nghĩ tự sát. Khó có thể nói được số phận của anh sẽ ra sao nếu như không có niềm an ủi duy nhất là văn học.  Vào cuối những năm 20 của thế kỷ, vì thiếu những giáo viên có kinh nghiệm, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã gởi một số giáo viên trẻ ra nước ngoài để học tập thêm. Lợi dụng cơ hội này như là một khả năng để thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt tù túng ở nông thôn và để tìm hiểu thêm về thế giới, Sabahattin Ali đã cố gắng thi đậu kỳ thi tuyển sinh. Năm 1928 anh được gởi sang Đức học tập, đầu tiên ở Pốtxđam, sau đó ở Berlin.  Cũng như nhiều thanh niên tiến bộ khác lúc bấy giờ, Ali mơ ước xóa bỏ sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc đối với nhân dân lao động. Anh đã cảm thấy điều ấy rất thấm thía ngay tại quê hương mình. Từ một đất nước lạc hậu, hoang tàn sau chiến tranh, Ali sang Đức là nhằm mục đích nắm vững kiến thức khoa học, văn hóa để phục vụ cho tổ quốc. Nhưng trong thời gian đó chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Đức đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng tiến dần đến việc nắm lấy chính quyền. Sự căm thù các giá trị tinh thần, văn hóa và nghệ thuật của bọn phân biệt chủng tộc và sô-vanh đã làm cho một số sinh viên Thổ Nhĩ Kỳ đang học tập tại đó trở thành những người chống chủ nghĩa phát xít tích cực.  Một lần trong cuộc tranh luận, một người Đức theo chủ nghĩa xã hội - dân tộc đã xúc phạm đến lòng tự trọng của những sinh viên Thổ Nhĩ Kỳ, Sabahattin Ali đã tát cho y một cái. Lợi dụng sự kiện này những người lãnh đạo hội kiều dân Thổ đã đưa Ali về nước. Đã từ lâu, người thực tập sinh bướng bỉnh cùng với những lời nhận xét cay độc, độc địa đối với bọn sinh viên Đức và Thổ Nhĩ Kỳ theo chủ nghĩa sô-vanh đã làm cho giới lãnh đạo để ý, khó chịu.  Bất chấp những kinh nghiệm cay đắng, Ali không hề có ý định dấu diếm những quan điểm chính trị của mình. Nhà văn, thường đọc thơ cho học sinh và đồng nghiệp nghe. Một trong những độc giả của anh lại là tên chỉ điểm của mật thám trá hình, qua sự tố giác của y, Sabahattin Ali bị bắt vào mùa hè năm 1938. Tòa án hình sự thành phố Kônhi đã xử anh 14 tháng tù giam vì tội "đã thóa mạ những nhân vật cao cấp của chính quyền ". Ali bị giam ở pháo đài Xinôp trên bờ biển Đen.  Tình bạn với những người cộng sản trong nhà tù Xinôp đã giúp Ali hiểu về chủ nghĩa Mác một cách sâu sắc, khơi dậy trong lòng anh sự khát khao hiểu biết một cách khoa học những quy luật xã hội.  Vào đầu cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai, trong đất nước Thổ Nhĩ Kỳ những thế lực đen tối bắt đầu ra sức hoành hành. Những tên phát xít người Thổ đã tổ chức những cuộc biểu tình và những vụ tàn sát đẫm máu. Các câu lạc bộ mà thực chất là các tổ chức phát xít được Berlin đài thọ đã ra sức truy lùng, theo dõi những trí thức yêu nước, tiến bộ để sau đó tìm cách thủ tiêu, giết hại. Vào năm 1939, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ còn tìm cách che đậy lập trường và thiện cảm của mình đối với chủ nghĩa phát xít, song hai năm sau, khi mà những chiến thắng tạm thời của Hitle ở mặt trận phía Tây làm xao động thế giới, thì chiếc mặt nạ của chính phủ cũng rơi ra. Thủ tướng Thổ lúc bấy giờ đã công khai lên tiếng " mong muốn tiêu diệt nước Nga Xô-Viết ".  Các tầng lớp nhân dân tiến bộ trong nước lúc đó đã phải đương đầu rất khó khăn với những thế lực phản động. Và trong cuộc đấu tranh này cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Sabahattin Ali : " Quỷ ám " đã giáng cho bọn phát xít bản địa một đòn đích đáng.  Trước đó tên tuổi nhà văn đã rất nổi tiếng qua những tác phẩm nói về những người công nhân, nông dân, những người thợ thủ công nghiệp và tầng lớp trí thức. Đó là tập thơ " Gió và núi " ( 1934 ), ba truyện ngắn : " Chiếc cối xay " (1935 ), "Arba " ( 1936 ), " Tiếng nói " ( 1937 ), cuốn tiểu thuyết "Uxup từ Kulzacka " ( 1937 ) và bây giờ là " Quỷ ám " (1940 ). Cũng theo lời Nazim Hikmet những tác phẩm trên đã làm cho Sabahattin Ali " trở thành thủ lĩnh của một trường phái văn học, mở ra một hướng đi mới trong văn xuôi Thổ Nhĩ Kỳ ". Hướng đi này trên quê hương nhà văn được gọi là : "Chủ nghĩa hiện thực xã hội."  Vào đầu những năm 40, một trong những chủ đề thu hút nhà văn là sự khủng hoảng trong ý thức cá nhân. Bằng kinh nghiệm sống của mình, Ali đã nhận thấy rằng chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản không thể dễ dàng từ bỏ những đặc điểm của mình dưới sự tác động của những yếu tố bên ngoài. Nhà văn đã đề cập đến vấn đề này trong cuốn truyện vừa " Đức Mẹ mặc áo choàng lông ".  Có lẽ đây là tác phẩm tâm huyết nhất của nhà văn, chứa đựng ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nếu như không tính đến người dẫn truyện thì trong tác phẩm chỉ có hai nhân vật. Những nhân vật khác chỉ xuất hiện vài chỗ và cũng rất ngắn. Thành phố Berlin sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, sự khủng hoảng kinh tế thế giới, những cuộc tranh luận của những sĩ quan Đức theo chủ nghĩa phục thù…toàn bộ những vấn đề này chỉ là một tấm phông cho những hoạt động của nhân vật chính, một thanh niên trí thức Thổ Nhĩ Kỳ trong câu chuyện bị hoàn toàn tách ra khỏi quê hương, sống trong thành phố Berlin xa lạ, không người thân thuộc. Người thanh niên đó cũng giống như Sabahattin Ali lúc còn trẻ mơ ước một tình yêu trong sáng, lành mạnh như là một biện pháp duy nhất để nhận thức cá nhân mình. Và một tình yêu như vậy đã đến với anh và nó đã chỉ cho anh thấy rõ hơn bản thân mình : một con người có cuộc sống nội tâm phong phú, có một tâm hồn trong sáng, cao thượng. Nhưng để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, để trở nên xứng đáng với tình yêu của mình thì tất cả những điều ấy hãy còn chưa đủ.  Cuốn truyện vừa của Ali cũng giống như một tác phẩm văn học chân chính khác là một bức tranh tổng hợp phức tạp về nhiều mặt của cuộc sống. Mọi người đọc có thể tìm thấy ở đó những điều bổ ích cho mình, còn chính tác phẩm đã trao cho độc giả chiếc chìa khóa để mở ra những điều lý thú khác mà trong cuốn sách không nói đến.  Đối với những người đọc tinh ý thì có thể nhận thấy nhân vật của tác phẩm mang nhiều nét của chính Sabahattin Ali lúc còn trẻ, đặc biệt là trong thời gian ông học tập tại Berlin. Một số nhà phê bình Thổ Nhĩ Kỳ dựa vào đó đã khẳng định rằng đây là tác phẩm tự thuật của nhà văn. Nếu như điều ấy là đúng thì chỉ đúng ở một điểm duy nhất : Sau nhiều năm, trở lại với những suy tư thời trai trẻ, Sabahattin Ali đã hoàn toàn đoạn tuyệt với những ảo tưởng ngây thơ của mình. Ông đã chỉ rõ rằng con người sống bằng những ước mơ lãng mạn của mình, dù cho đó là những ước mơ cao đẹp nhất, trong sáng nhất nhưng nếu không được củng cố bằng những tri thức thực tế của cuộc sống thì sẽ không có khả năng thay đổi được điều gì. Hơn nữa những ước mơ ấy có khi lại trở thành những cạm bẫy mà không dễ gì thoát ra nổi. Một tình yêu đôi lứa cao đẹp cũng chỉ có thể giúp cho nhân vật chính của chúng ta thoát khỏi sự vô nghĩa, đơn điệu trong cuộc sống của anh ta mà thôi.  Năm 1948, sau khi mãn hạn tù 3 tháng vì làm báo " Pasa nổi tiếng ", Sabahattin Ali đi đến quyết định cần phải rời khỏi Thổ Nhĩ Kỳ để tiếp tục cuộc đấu tranh. Ý nghĩ đầu tiên của ông là sang Bungari, đất nước nơi đã sinh ra ông và hiện đang có nhiều người Thổ sinh sống. Nhưng lý do quan trọng hơn cả là ở đó nhân dân đã và đang thực sự làm chủ vận mệnh của mình. Trong số những người bạn tù với Sabahattin Ali có một người tự xưng là đảng viên Cộng sản, anh ta hứa sẽ giúp nhà văn trốn ra nước ngoài. Nhưng thực chất đó là một kẻ khiêu khích do mật vụ cài vào.  Vào đầu tháng 3 năm 1948, Sabahattin Ali biến mất. Mãi đến vài tháng sau các báo mới đưa tin phát hiện thấy xác nhà văn trong khu rừng Karabain gần biên giới Bungari. Những người thân phải khó khăn lắm mới nhận được ra Sabahattin Ali.  Từ đó đến nay đã 38 năm trôi qua. Ngày nay những kẻ thù chính trị của nhà văn cũng phải thừa nhận rằng những sáng tác của ông đã trở thành những tác phẩm cổ điển trong nền văn học Thổ Nhĩ Kỳ. Bằng những tác phẩm và chính cuộc sống của mình, nhà văn đã và đang là tấm gương sáng chói cho một thế hệ nhà văn trẻ tiến bộ của Thổ Nhĩ Kỳ noi theo.  Hàng năm, người ta trao cho những nhà văn xuất sắc nhất giải thưởng cao quý mang tên Sabahattin Ali và đó là niềm tự hào của nền văn học tiến bộ Thổ Nhĩ Kỳ.   Mời các bạn đón đọc  Đức Mẹ Mặc Áo Choàng Lông của tác giả Sabahattin Ali.
Cô Gái Mắt Nâu - Lisa Kleypas
Series Travis Family gồm có: Sugar Daddy Blue Eyed Devil - Người Tình Hoạt Ngôn Smooth Talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) *** Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Tác phẩm: Người Tình Hoạt Ngôn Chuyện Xảy Ra Giữa Mùa Thu Bí mật đêm hè Ngoài Vòng Tay Anh Là Bão Tố Người Tình Của Tiểu Thư Sophia Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê Devil in Winter A Wallflower Christmas Scandal in Spring Again The Magic Smooth-talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) Bỗng Gặp Được Anh Giá Nào Cũng Yêu Giá Nào Cũng Yêu ... *** Là một chuyên gia hôn lễ dày dặn kinh nghiệm, tôi đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho bất kì sự cố nào có thể xảy ra. Trừ bò cạp. Con quái vật cứ bò tới bò lui cạnh hồ bơi tự nhiên như nhà nó ấy. Trên đời này, còn thứ gì đáng nguyền rủa hơn bò cạp nữa chứ. Thường thì nọc độc của nó sẽ không giết chết bạn đâu, nhưng nó sẽ làm bạn thấy thà chết đi còn sướng hơn. Quy tắc đầu tiên để giải quyết những tình huống cấp bách là: không được mất kiểm soát. Nhưng con bò cạp đang bò như bay về phía này thì tôi còn hơi đâu mà quan tâm quy tắc hay là nội quy gì nữa chứ . Trong cơn hoảng loạn, tôi lục lọi túi xách, mà… trời đất quỷ thần ơi, cái túi nặng khủng khiếp, tới nỗi mỗi lần để ở ghế hành khách, cái nút báo động thắt dây an toàn trong xe tôi lại báo lên inh ỏi. Tay tôi rà qua cả tỷ thứ, nào là khăn giấy, bút bi, băng keo cá nhân, chai nước khoáng Evian, mấy thứ chai dưỡng tóc này nọ; rồi lăn khử mùi, nước khử trùng tay, lotion, bộ dụng cụ làm móng, trang điểm các kiểu; tới nhíp, hộp kim chỉ, chai hồ, tai nghe, kẹo ngậm, thanh sôcôla, các loại thuốc nhức đầu, đau bao tử,…còn có cả cây kéo, cây giũa móng, lược, chui bông tai, thun cột tóc, băng vệ sinh, thuốc tẩy vết ố, cây lăn quần áo, kẹp tăm, dao lam, băng keo hai mặt, và tăm bông nữa này. ... Mời các bạn đón đọc tập 4 của series Travis Family: ​Cô Gái Mắt Nâu của tác giả Lisa Kleypas
Hảo Hán Nơi Trảng Cát - Jorge Amado
Hảo hán nơi Trảng cát là câu chuyện kể về nhóm một trăm đứa trẻ mồ côi và bụi đời sống bằng tài xoay sở láu cá và tính liều lĩnh trong những khu ổ chuột nóng bức và những con hẻm bẩn thỉu ở Salvador. Dẫn đầu bởi cậu nhóc mười lăm tuổi Pedro Bala, nhóm hảo hán có những nhân vật quan trọng như một cu cậu nói dối thành nghề tên “Cẳng Nhũn”, một “Giáo sư” thông minh và “Gã Mèo” dậy thì sớm. Chúng đã thực hiện trót lọt những vụ trộm và đào thoát thành công khỏi những con người chuẩn mực và được ưu tiên ở Brazil. Nhưng khi công chúng phản ứng dữ dội và yêu cầu chính quyền phải bắt hết lũ “giặc con” này, thì số phận của bọn trẻ bỗng chốc trở thành một cuốn phim cay đắng và vô cùng thương tâm về tình yêu và tự do trên vùng đất bị kìm kẹp. Viết về tuổi trẻ sôi nổi bằng những ngôn từ giàu cảm xúc, Hảo hán nơi Trảng cát là một trong các tác phẩm phổ biến nhất trong giới học sinh sinh viên ở Brazil. Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, được chuyển thể thành truyện tranh và phim điện ảnh. Tại Việt Nam, đây cũng là một tác phẩm ưa thích của nhiều thế hệ và sức hấp dẫn của nó vẫn còn mãi theo thời gian. *** Trong Hảo hán nơi trảng cát - một tác phẩm sinh động, từ ngữ được sử dụng rất giản dị - Jorge Amado đã kể một câu chuyện về những cậu bé nghèo sống trong một nhà kho bỏ hoang trên sông Salvador. ðó là những cậu bé chỉ mới 9 đến 16 tuổi gặp gỡ nhau trong những trò ngỗ nghịch và ăn cắp vặt, khiến thuyền trưởng Bahia cũng phải khiếp sợ. Từ chàng thủ lĩnh dũng cảm với vết sẹo trên mặt Pedro Bala (Bullet) tới cậu Pirulito ngoan đạo (Lolly pop)-vẫn cầu nguyện hằng đêm để rửa tội cho những lỗi lầm của mình; từ cậu Giáo sư khôn ngoan (Teacher)-người có học duy nhất trong nhóm, tới cậu Gato quyến rũ-một tay ma cô mới vào nghề; mỗi cậu có tình tình, cách nhìn cuộc suống rất riêng và cả những ước mơ viển vông nhất. Tai tiếng của cả bọn lan truyền khắp thành phố, khiến cho cả báo chí, cảnh sát, tòa án vị thành niên cùng các “gia đình kiểu mẫu” phải bất bình giận dữ. Nhưng vẫn còn có những người tốt giúp đỡ các cậu: cha Jose Pedro, mẹ Don'Aninha, anh công nhân João de Adão (John Adam) và chàng Queirdo-de-Deus (God Beloved) nhảy capoeria. Các cậu bé lớn lên và đi con đường riêng của mình: người làm thủy thủ, nghệ sĩ, tu sĩ; kẻ làm làm ma cô, cướp đường. Chàng thủ lĩnh Pedro Bala của chúng ta thì lên đường chiến đấu để thay đổi số phận cho những người nghèo khốn khổ nhất. Dù chịu ảnh hưởng bởi lý tưởng cộng sản tại thời điểm tác phẩm được viết, nhưng Hảo hán nơi trảng cát đã vượt qua lý tưởng chính trị của chính tác giả vào thời điểm đó. Tuổi thơ trong sáng của các em phải lớn lên trong một thế giới người lớn khắc nghiệt, các cậu bé được sống tự do như ý chúng nhưng tự do ấy cũng đầy cạm bẫy. Câu chuyện đã mở ra góc nhìn về những mảnh đời bé nhỏ vẫn còn giá trị tới tận ngày nay. Hồng Quân dịch *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ Hải Trình Ven Bờ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)    Mời các bạn đón đọc Hảo Hán Nơi Trảng Cát của tác giả Jorge Amado.