Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quả Chuông Ác Mộng

Khi nhìn vào sự điên rồ của thế giới và thế giới của sự điên rồ, chúng ta luôn phải đối diện với câu hỏi: “Thực tại là gì và làm thế nào để chấp nhận nó?” Trong Quả chuông ác mộng, áp lực thực tại đã hủy hoại hoàn toàn Esther Greenwood xinh đẹp và tài năng, đẩy cô vào thế giới trầm cảm, chênh vênh giữa biên cảnh của khát vọng sống và ham muốn chết. Tự tử, một trò chơi u tối khó cưỡng của sợ hãi và tội lỗi, gây nghiện như ma túy, ban đầu chỉ mang tính thử nghiệm - nay vài giọt máu, mai một cơn nghẹt thở, chỉ cốt để xem cảm giác ấy ra sao. Dần dà, nó nhanh chóng bùng phát thành khát vọng điên cuồng của niềm tự diệt *** Đã 56 năm kể từ ngày nữ thi sĩ - nhà văn người Mỹ Sylvia Plath cho ra đời cuốn tiểu thuyết định mệnh Quả chuông ác mộng , một tác phẩm bán tự truyện được phát hành trước vụ tự sát của chính cô chưa đầy một tháng khiến nó mang một màu sắc dự báo đầy ám ảnh. Vì lo sợ cuốn tiểu thuyết có thể tác động tới đời sống của các nhân vật ở ngoài đời, nhà văn ban đầu đã xuất bản Quả chuông ác mộng dưới nghệ danh Victoria Lucas; và phải bốn năm sau cái chết của cô cuốn sách mới được tái bản dưới đích danh Sylvia Plath. Kể từ đó, Quả chuông ác mộng lập tức gây chấn động trong giới độc giả, bán được hàng triệu bản trên khắp nước Mỹ và được đưa vào chương trình giảng dạy phổ thông ở nhiều nơi trên thế giới. Câu chuyện kể về Esther Greenwood, một cô gái trẻ dường như đang đứng trước tương lai trải hoa hồng với công việc thực tập tại một tạp chí danh giá ở New York (Mỹ). Tuy nhiên với bao nỗi lo lắng sợ hãi về vai trò được đòi hỏi ở bản thân đối với gia đình và sự nghiệp, Esther ngày càng cảm thấy bị cô lập khỏi thế giới bên ngoài và dần đánh mất mọi hứng thú và hi vọng, cũng như khả năng thực hiện những nhiệm vụ đơn giản trong cuộc sống thường ngày. Cô bỏ học, bắt đầu tìm cách tự sát, và bị đưa đi chữa trị ở nhiều nhà thương điên. Những sự kiện chính trong truyện đều được rút ra từ chính cuộc đời của nữ nhà văn - công việc biên tập khắc nghiệt tại một nhà xuất bản có tiếng ở New York, ám ảnh tự sát, và những trải nghiệm chữa trị bằng sốc điện thiếu quy chuẩn. Khoảng gần mười năm trước khi sáng tác Quả chuông ác mộng, trong một lá thư gửi người bạn thân Sylvia Plath đã bộc bạch về cuộc vật lộn của mình với chứng trầm cảm: “Cái cách tôi quẩn quanh suốt cuộc đời mình trong bầu không khí loãng thếch dưới quả chuông này quả là khó tin". Quả chuông ác mộng được Công ty cổ phần Sách Tao Đàn và NXB Hội Nhà Văn xuất bản tháng 7.2019 Cả trước và sau Quả chuông ác mộng, hiếm có cuốn sách nào phơi bày những bằng chứng đích xác như thế về bản chất của bệnh tâm thần. Từ đầu truyện, trạng thái cách ly của Esther khỏi thực tại thể hiện rất rõ qua cách cô đón nhận các tác động ngoại lai rất bị động: “Bất chợt tôi cảm nhận được mặt đất dâng lên và đập vào mình. Bùn trào qua kẽ ngón tay...”. Đặc biệt ám ảnh là mỗi khi Esther nhìn vào gương, cô lại thấy hình ảnh ánh xạ kia như một cá thể tách biệt và vô hồn: “Khuôn mặt đang nhìn tôi trong gương giống như đang nhìn qua lưới sắt của phòng giam sau khi bị tra tấn lâu ngày”; “Trong gương phản chiếu hình ảnh tôi với đôi cánh trắng, tóc buộc đuôi ngựa, tái nhợt như hồn ma bồng bềnh giữa khung cảnh bên ngoài”. Plath gọi những cảm xúc này là bị nhốt bên trong một “quả chuông” - biểu tượng cho sự cô lập; chúng mạnh đến mức người ngồi bên trong cảm thấy bất lực trước bất kỳ một quyết định hay nhiệm vụ đơn giản nào của cuộc tồn sinh. Trên thực tế, vào những tháng cuối đời, bệnh trầm cảm đã khiến cho Sylvia Plath không còn khả năng sáng tác bất cứ thứ gì và đẩy cô vào trạng thái bất lực đến điên loạn. Cuối cùng cô đã chọn cách tự sát bằng hơi ga và không may mắn như Esther Greenwood trong sách, Sylvia Plath không bao giờ trở lại cuộc sống đời thường được nữa. Thế nhưng chụp lên quả chuông tâm lý là một quả chuông khổng lồ hơn mang tính xã hội. Phụ nữ Mỹ thời hậu Thế chiến thứ hai, giai đoạn đánh dấu bùng nổ dân số và chủ nghĩa tiêu thụ, được đóng khung trong quan niệm cô ta chỉ có thể trở thành một người phụ nữ đáng mơ ước trong vai trò vợ hiền, mẹ đảm, và phục sức những thứ đồ đắt tiền. Trái ngược với đàn ông, người có thể cùng lúc theo đuổi đam mê, thăng tiến trong sự nghiệp lẫn làm chủ một gia đình thì người phụ nữ chỉ có thể chọn một con đường cho chính mình. Đây chính là chỗ thế giới quan của Sylvia Plath mâu thuẫn với thực trạng xã hội, một phụ nữ đã hình thành tư tưởng nữ quyền từ rất sớm trước khi phong trào nữ quyền của thế kỷ 20 thực sự phổ biến rộng rãi. Trong Quả chuông ác mộng, Sylvia Plath đã gói gọn tư tưởng của mình trong hình ảnh ẩn dụ về cây vả: “Tôi thấy đời mình đang đâm cành trổ nhánh như cây vả xanh tươi trong truyện ngắn đã đọc. Ở đầu mỗi cành, như một trái vả tím mọng, một tương lai tươi sáng đang lấp lánh chào đón tôi. Trái đầu tiên là một người chồng, ngôi nhà và những đứa trẻ, một trái khác là thi sĩ nổi danh, một trái khác nữa là giáo sư kiệt xuất [...] Rồi trên cao, vượt lên những trái vả này là những trái khác mà tôi không thể nào nhận ra. Tôi thấy chính mình đang ngồi trên chạc của cây vả này, người đói lả, chỉ vì không thể quyết định mình sẽ chọn trái nào. Trái nào trong số đó tôi cũng muốn, nhưng chọn một trái nghĩa là bỏ lỡ số còn lại, thế nên tôi ngồi trơ đó, băn khoăn chọn lựa, rồi những trái vả bắt đầu nhăn nheo sạm màu, từng trái, từng trái một rụng rơi xuống chân tôi". Bên cạnh đó, Sylvia Plath còn đưa vào Quả chuông ác mộng yếu tố đồng tính nữ như một phản ứng trước sự thống trị của nam giới. Trong truyện, nhân vật Joan Gilling cũng từng hẹn hò với Buddy Willard, bạn trai cũ của Esther Greenwood. Tuy nhiên về cuối tác giả hé lộ Joan là lesbian và giống như Esther, cô chưa bao giờ thực sự thích Buddy Willard. Yếu tố nữ quyền thể hiện rất rõ khi từ đầu câu chuyện, cả Esther lẫn Joan đều từng đụng độ với những gã đàn ông đểu cáng, hung bạo, ve vãn, thì đến cuối truyện, họ đều được bàn tay hiền hậu của phụ nữ che chở, và Joan thậm chí sinh tình cảm với Esther hay với nữ bệnh nhân Dee Dee: “Một người đàn bà tìm thấy điều gì ở một người đàn bà khác mà cô ta không thấy ở đàn ông? Bác sĩ Nolan ngập ngừng. Rồi bà nói: Sự dịu hiền”. Đối với người ở trong quả chuông thủy tinh, trống rỗng và ngưng đọng như một đứa bé chết non, bản thân thế giới là một cơn ác mộng. Sylvia Plath đã sống giữa cơn ác mộng ấy trong 30 năm ngắn ngủi của đời cô và trút hết những nỗi trăn trở miên trường vào tiểu thuyết duy nhất cô từng viết. Không chỉ dẫn ta đi sâu vào những góc khuất tối tăm của bệnh trầm cảm, Quả chuông ác mộng còn là tâm sự của một phụ nữ với tầm tư tưởng vượt trước thời đại, là tuyên ngôn mạnh mẽ về nữ quyền ngày càng có giá trị giữa thời nay. *** Đó là một mùa hè dị thường, ngột ngạt và oi bức, mùa hè mà người ta đưa vợ chồng nhà Rosenberg lên ghế điện, còn tôi thì chẳng biết mình đang làm gì ở New York nữa. Tôi mù tịt về những vụ hành hình. Ý nghĩ phải lên ghế điện làm tôi phát ốm, nhưng đó là tất cả những gì có thể đọc được từ những tiêu đề giật gân trên báo chí cứ đập vào mắt tôi nơi các góc phố và ở mỗi lối xuống ga tàu điện ngầm ẩm mốc bốc mùi đậu phộng. Chúng chẳng liên quan gì đến tôi, nhưng tôi không thể không tự hỏi sẽ như thế nào khi các dây thần kinh bị thiêu sống. Tôi nghĩ đó hẳn là điều kinh khủng nhất trần đời. New York quả thực tồi tệ. Tầm 9 giờ sáng, sự tươi mát ẩm ướt giả tạo rỉ ra trong đêm đã tan biến như đoạn kết của một giấc mơ ngọt ngào. Chỉ còn lại vẻ xám xịt dưới đáy các thung lũng hoa cương, những con đường nóng rẫy loang loáng dưới ánh mặt trời, những mui xe kêu ri rỉ và lấp lánh sáng, bụi khô như than đỏ đâm vào mắt, tràn vào tận họng. Tôi vẫn tiếp tục nghe về nhà Rosenberg trên radio nhiều đến nỗi khi ở văn phòng làm việc tôi không thể dứt bỏ nó ra khỏi tâm trí. Cũng giống như lần đầu tiên tôi nhìn thấy xác chết. Nhiều tuần sau, cái đầu thi thể - hay đúng hơn là những gì còn sót lại của nó - cứ lềnh bềnh lên món trứng và thịt nguội trong bữa sáng và đằng sau là gương mặt của Buddy Willard, người phải chịu trách nhiệm vì đã chỉ cho tôi thấy nó đầu tiên. Ngay sau đó, tôi cảm thấy như lúc nào cũng phải mang bên mình cái đầu lâu lơ lửng trên một sợi dây, tựa như một quả bong bóng màu đen không có mũi, hôi mùi giấm. (Tôi biết mình có gì đó không ổn vào mùa hè ấy, bởi lúc nào tôi cũng chỉ nghĩ tới vụ án nhà Rosenberg và tôi ngu ngốc hết mức khi mua một lô quần áo đắt tiền, nhưng không chút tiện dụng nào chỉ để treo đầy tủ, và tất cả những thành công nho nhỏ mà tôi đã hạnh phúc khi gặt hái được ở trường trở nên vô nghĩa hoàn toàn khi đứng trước những cửa hiệu bằng đá cẩm thạch và kính, dọc theo đại lộ Madison.) Tôi phải tận hưởng thời khắc đẹp đẽ của cuộc đời. Tôi phải trở thành đối tượng ghen tị của hàng ngàn nữ sinh viên đại học ở khắp nước Mỹ, những cô gái không có mong muốn gì hơn là được dạo chơi với đôi giày da bóng cỡ số bảy mà tôi đã mua ở hiệu Bloomingdale nhân một lần đi ăn trưa, cùng với chiếc thắt lưng và túi xách đồng màu da đen bóng. Rồi khi ảnh tôi xuất hiện trên tờ tạp chí, nơi mười hai đứa chúng tôi đang làm việc, uống martini ở Starlight Roof, mình mặc áo yếm lấp lánh ánh kim cùng chiếc váy phồng bằng vải tulle trắng, được vây quanh bởi nhóm thanh niên xa lạ với cấu trúc xương kiểu Mỹ, thuê riêng cho những dịp thế này - hẳn mọi người sẽ cho rằng tôi đang quay cuồng thực sự. Họ sẽ bảo, hãy nhìn xem cái gì đang xảy ra ở cái đất nước này. Một cô gái tỉnh lẻ sống ở vùng sâu vùng xa nào đó suốt mười chín năm trời, nghèo đến nỗi không mua nổi một tờ tạp chí, đột nhiên nhận được một học bổng đại học, rồi giành hết giải thưởng này sang giải thưởng khác, và tạo ảnh hưởng ở New York ngon lành như thể lái chiếc xe riêng của mình vậy. Chỉ có điều tôi chẳng lái cái gì cả, kể cả bản thân mình. Tôi chỉ đi từ khách sạn đến nơi làm việc hoặc các bữa tiệc, rồi lại từ các bữa tiệc trở về khách sạn và tiếp tục đi làm như một chiếc xe điện tê cóng. Tôi nghĩ mình cũng có thể bị kích động như phần lớn những cô gái khác, nhưng tôi không thể tự phản ứng lại được. Tôi cảm thấy rất bình yên và trống trải tựa như mắt bão khi di chuyển một cách chậm chạp giữa tiếng mưa gào gió thét xung quanh. Mười hai đứa chúng tôi đều ở khách sạn. Chúng tôi vừa đoạt giải trong kỳ thi do một tạp chí thời trang tổ chức dự thi những bài luận, truyện ngắn, thơ và quảng cáo thời trang. Giải thưởng là một công việc ở New York trong vòng một tháng, mọi chi phí đều đã được đài thọ, thêm vào đó là hàng lô hàng lốc những món thưởng khác: vé ba lê, xem trình diễn thời trang, làm tóc tại một tiệm danh tiếng và cơ hội gặp được những người thành đạt trong lĩnh vực mà chúng tôi mơ ước, để nhận được những lời khuyên thích hợp với mình. Tôi vẫn còn giữ cái hộp trang điểm mà họ đã tặng, vốn hợp với một cô nàng mắt nâu tóc vàng: một lọ mascara màu nâu với bàn chải nhỏ xíu, một ô phấn mắt màu xanh hình tròn chỉ vừa đủ lớn bằng đầu ngón tay, và ba thỏi son môi từ đỏ đến hồng, tất cả đều đặt trong một cái hộp nhỏ mạ vàng, mặt trong có kèm gương. Tôi cũng có một cái hộp đựng kính mát bằng nhựa trắng, được khảm xà cừ đủ màu và đính một con sao biển bằng nhựa màu xanh lá cây. Tôi nhận ra rằng việc trao tặng những món quà này chính là cách quảng cáo miễn phí của các doanh nghiệp, nhưng tôi không thể không giữ chúng. Tôi từng hất văng tất cả những món quà trong tầm tay. Suốt một thời gian dài, tôi giấu biệt chúng đi, nhưng rồi khi bình tâm lại, tôi lôi chúng ra và bày khắp nhà. Đôi khi tôi dùng son môi, và mới tuần trước tôi đã cắt con sao biển bằng nhựa khỏi bao kính để làm đồ chơi cho một đứa bé. Cả bọn mười hai đứa chúng tôi đều ở khách sạn, cùng một bên dãy ở cùng một tầng gồm các phòng đơn. Phòng nọ kế tiếp phòng kia làm cho tôi nhớ đến các phòng ở ký túc xá. Đây không phải là một khách sạn đúng nghĩa - tôi muốn nói đến khách sạn mà đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn trên cùng một tầng. Khách sạn Amazon này chỉ dành cho phái nữ, phần lớn là những cô gái cùng lứa tuổi tôi, gia cảnh giàu có, mong ước cho con gái mình sống ở một nơi mà bọn đàn ông không thể lui tới và lừa dối được: tất cả bọn họ đều theo học những trường sang trọng chuyên đào tạo thư ký như Katy Gibbs, nơi họ phải mang mũ, tất dài và găng tay đến lớp; hoặc những người vừa tốt nghiệp các trường như Katy Gibbs và trở thành thư ký cho các ủy viên cao cấp, và cứ quanh quẩn ở New York mong tìm được một anh chàng thành đạt nào đó để kết hôn. Với tôi, những cô gái này buồn tẻ một cách khủng khiếp. Tôi thấy họ nằm phơi nắng, vừa ngáp vừa sơn móng tay và cố giữ cho làn da Bermuda rám nắng, nom họ nhạt nhẽo chết đi được. Tôi lân la tán chuyện với một người trong đám, cô nàng cho biết đã chán ngấy những chiếc thuyền buồm, chán ngấy những chuyến du hành bằng máy bay, và cả việc đi trượt tuyết ở Thụy Sĩ vào dịp Giáng sinh lẫn cánh đàn ông ở Brazil nữa. Đám con gái đó làm tôi phát ốm. Họ khiến tôi ghen tỵ nhưng không dám nói thành lời. Mười chín tuổi đầu, tôi chưa từng bước chân ra khỏi New England trừ chuyến đi New York này. Đây là cơ hội lớn đầu tiên của tôi, thế nhưng giờ đây, nó đang như những giọt nước dần dần trôi tuột qua kẽ tay. Tôi nghĩ một trong những phiền nhiễu của tôi chính là Doreen. Tôi chưa từng quen một đứa con gái nào như Doreen. Cô nàng tới từ một trường nữ sinh dành cho giới thượng lưu ở miền Nam. Cô có mái tóc bạch kim bồng bềnh như một cây kẹo bông quanh đầu, cặp mắt xanh như hai viên mã não trong trẻo, cô cứng cỏi, thanh lịch và ương ngạnh, nụ cười giễu cợt luôn nhếch trên môi. Tôi không cho rằng đó là sự cay độc, mà là kiểu giễu nhại, pha chút thần bí, như thể tất cả mọi người xung quanh đều ngốc nghếch và cô ta có thể buông lời bỡn cợt họ bất cứ lúc nào. Doreen để mắt tới tôi ngay lập tức. Cô làm tôi cảm thấy mình sắc sảo hơn mọi người, còn cô lại là con người rất hài hước. Doreen thường ngồi cạnh tôi mỗi lần hội họp và khi những vị khách danh tiếng tới thăm phát biểu, cô ta thì thầm vào tai tôi mấy lời nhận xét châm chọc tếu táo. Cô ta bảo với tôi rằng trường của cô ta rất chú trọng chuyện thời trang. Tất cả nữ sinh phải có túi xách may cùng một loại với quần áo, thành thử mỗi lần thay đồ lại phải đổi túi xách cho phù hợp. Kiểu chi tiết tỉ mỉ này khiến tôi rất ấn tượng. Nó biểu thị một cuộc sống tuyệt diệu, xa hoa mà suy đồi, và thu hút tôi như một thanh nam châm. Lần duy nhất mà Doreen hoạch họe tôi là về chuyện hoàn thành công việc đúng thời hạn. “Cậu đổ mồ hôi cho việc đó làm gì?” Doreen hỏi, cô nàng mặc nguyên bộ đồ bằng tơ màu hồng đào ngả ngốn trên giường tôi, lấy một miếng giấy ráp giũa những móng tay dài vàng khè vì nicotin, trong khi tôi đánh máy lại bài phỏng vấn một tiểu thuyết gia thuộc dạng best-seller. Đó lại là chuyện khác - còn thường thì chúng tôi khoác những bộ quần áo ngủ mùa hè bằng vải bông và áo choàng mặc ở nhà, hoặc có thể là những loại áo dài bằng vải kiểu mặc ngoài bãi biển. Duy có Doreen mới mặc những loại áo cực mỏng hay bằng ren gần như trong suốt, hoặc váy áo màu da, khiến người cô lúc nào cũng lách tách tình điện. Ở cô có một điểm thú vị nữa là luôn phảng phất một mùi mồ hôi hấp dẫn gợi tôi nhớ tới mùi hương khi ta vò nát những chiếc lá dương xỉ hình quạt giữa các ngón tay. “Cậu nên biết mụ Jay Cee sẽ không nổi điên lên nếu cậu gác câu chuyện này đến mai hoặc thứ Hai đâu.” Doreen châm một điếu thuốc và nhả khói chầm chậm qua lỗ mũi, khiến đôi mắt cô trở nên mơ hồ. “Mụ Jay Cee xấu như quỷ,” Doreen lạnh lùng nói tiếp. “Mình dám cá là lão chồng già của mụ phải tắt hết đèn trước khi gần gũi mụ, bằng không lão sẽ phát nôn ngay.” Jay Cee là sếp của tôi, và tôi rất quý bà, bất kể Doreen có nói gì đi nữa. Bà không phải là loại người phù phiếm vẫn thường thấy trên các tạp chí thời trang với hàng lông mi giả và đồ trang sức hào nhoáng. Jay Cee là người có đầu óc, nên vẻ xấu xí của bà xem ra chẳng có gì hệ trọng cả. Bà nói được vài thứ tiếng và biết rõ những tay viết cứng cựa trong nghề. Tôi cố hình dung ra cảnh bà Jay Cee cởi bộ đồng phục cứng nhắc cùng chiếc mũ dự tiệc, lên giường với lão chồng béo ị của bà, nhưng không tài nào hình dung được. Tôi luôn luôn rất khó khăn khi phải tưởng tượng ra cảnh người ta đang ngủ với nhau. Jay Cee luôn muốn dạy dỗ tôi, tất cả những bà lớn tuổi khác mà tôi quen biết đều như vậy, nhưng tôi cho rằng họ chẳng có điều gì để chỉ bảo tôi cả. Tôi đóng nắp máy chữ rồi khóa lại. Doreen cười nhăn nhở: “Thông minh đấy!” Chợt có tiếng gõ cửa. “Ai đấy?” Tôi không buồn đứng dậy. “Betsy đây. Cậu có đi dự tiệc không?” “Chắc có đấy.” Tôi vẫn không ra mở cửa. Betsy được đưa thẳng từ Kansas về đây cùng mái tóc hoe vàng tết kiểu đuôi ngựa và nụ cười kiểu những cô nàng thiện tâm. Tôi nhớ một lần hai đứa chúng tôi được mời tới văn phòng của một đạo diễn truyền hình mặc bộ đồ sọc, để xem thử có góc độ nào nơi chúng tôi khả dĩ phù hợp với một chương trình của ông không. Và Betsy bắt đầu nói về loại ngô đực ngô cái ở Kansas. Cô nàng hào hứng với thứ ngô chết tiệt này đến mức nhà đạo diễn phải rưng rưng mắt lệ, nhưng sau đó ông ta nói rằng lấy làm tiếc bởi chẳng có gì hữu dụng cả. Sau này, người phụ trách thẩm mỹ thuyết phục Betsy cắt tóc và cho cô nàng lên bìa báo, tôi thi thoảng còn thấy khuôn mặt của cô đang tươi cười trên mẫu quảng cáo “Vợ của P.Q mặc đồ nhà B.H. Wragge.” Betsy lúc nào cũng rủ tôi làm việc cùng cô và vài cô nàng khác nữa, cứ như thể đang cố cứu vớt tôi không bằng. Cô chẳng bao giờ rủ Doreen cả. Doreen lén gọi riêng với tôi là con nhỏ cao bồi Pollyanna. “Cậu có muốn đi cùng taxi với bọn tớ không?” Betsy hỏi vọng vào. Doreen lắc đầu. “Được rồi, Betsy.” Tôi nói. “Tớ sẽ đi cùng với Doreen.” “Ừ!” Tôi nghe tiếng Betsy đi xuống đại sảnh. “Tụi mình ghé qua một lát, khi nào oải quá thì về.” Doreen bảo tôi, dụi tắt điếu thuốc lá vào đế cây đèn đọc. “Rồi tụi mình xuống phố. Những buổi tiệc tùng ở đây làm mình nhớ lại những lần khiêu vũ trong phòng thể chất ở trường. Tại sao chúng nó cứ phải bám lấy bọn Yale? Chúng ngốc bỏ xừ!” Mời các bạn đón đọc Quả Chuông Ác Mộng của tác giả  Sylvia Plath & Trần Quế Chi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiến Trường Vinh Quang
Bản dịch khác của Phạm Văn Ba:  Chiến Trận Chiến trận là tác phẩm mở đầu cho một loạt tiểu thuyết tiếp theo: Danh nhân (chân dung người cha), Thế giới rất gần (về đám tang người cha) và Quà tặng (chân dung người mẹ), kết thúc bằng Như ở trên trời (về cảnh chia li), tất cả hợp thành một bộ sách về gốc gác con người. Khi viết về chiến tranh người ta thường nhắc nhiều tới máu, súng đạn và nước mắt. Tác giả người Pháp nhìn chiến tranh từ một góc khác, không trực diện nhưng xuyên thấu nỗi đau. Giải Goncourt năm 1990 đã vinh danh tiểu thuyết Chiến Trận (Chiến trường vinh quang) của Jean Rouaud để cổ vũ cho nỗ lực làm mới một đề tài tưởng như đã sáo mòn. Tác phẩm như một làn gió mới trong các sáng tác về đề tài chiến tranh của văn đàn Pháp lúc bấy giờ. Nỗi đau của cả nhân loại được cảm nhận từ khung cửa sổ của một gia đình trung lưu ở vùng ngoại ô theo cách riêng. Khi cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ nhất đang trong giai đoạn khốc liệt cho đến cuối những năm 80 của thế kỉ 20 đã có rất nhiều tác phẩm viết về cuộc binh lửa tàn khốc này. Với những tác giả là người lính từ chiến trường trở về, họ mang cái nhìn trực diện về chiến tranh vào trong tác phẩm. Đôi khi hiện thực được lột tả sát tới mức chúng ta tưởng chừng có thể ngửi thấy mùi thuốc súng trên trang giấy. Là một nhà văn sinh ra khi cả hai cuộc Đại chiến Thế giới đã trở thành quá khứ, Jean Rouaud không cố tình đóng vai là “người trong cuộc” để viết về cuộc chiến như cách mà một số nhà văn ở thế hệ ông đã làm. Tác giả viết về chiến tranh bằng tâm thế và góc nhìn của một con người sinh ra sau chiến trận. Những trang văn không nồng nặc mùi thuốc súng nhưng vẫn khiến người ta day dứt. Chiến Trận (Chiến trường vinh quang) là cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh, mang âm hưởng của một cuốn hồi ký gia đình. Từ chính câu chuyện của gia đình mình, tác giả đã khắc họa sâu sắc nỗi đau dai dẳng của chiến tranh. Hơn nửa thế kỷ trước, dưới mái nhà mà ông đang sống, đã diễn ra những cuộc tiễn đưa khiến người ta hoảng sợ. Những người đàn ông và có cả những chàng trai trẻ khoác lên mình bộ quân phục và đi về phía bom đạn. Sự khốc liệt của chiến tranh đã vĩnh viễn cướp họ khỏi vòng tay người thân. Nhưng những người lính ấy không bao giờ chết. Họ vẫn sống trong ký ức của người thân. Một thứ ký ức buồn và dai dẳng như màn mưa dai dẳng của vùng Loire-Inferieure. Đọc những trang đầu của Chiến Trận (Chiến trường vinh quang), nhiều độc giả đặt ra câu hỏi: “Liệu đây có phải là một cuốn tiểu thuyết chiến tranh hay chỉ đơn thuần là một cuốn hồi ký về gia đình?”. Trong những chương đầu, tác giả tập trung miêu tả các thành viên trong gia đình với một bút pháp tỉ mỉ và tinh tế đến lạ lùng, làm cho người đọc có cảm giác như đang xem một cuốn phim tư liệu. Nhà văn dành một tình cảm đặc biệt cho bà cô Marie, một con người sùng đạo, cả đời không kết hôn và nguyện phụng sự cho Chúa. Đây cũng chính là nhân vật mở nút cho cuốn tiểu thuyết tưởng chừng không có kịch tính này. Trước lúc lâm chung, bà Marie liên tục nhắc đến cái tên Joseph. Cái tên gợi cho tác giả nhớ đến người cha tội nghiệp của mình, người ra đi vì bệnh tật khi chỉ mới 40 tuổi. Nhưng không, ông đã nhầm, trong đại gia đình còn một thành viên khác cũng mang tên Joseph. Đó là người anh trai tội nghiệp của bà Marie, người đã tử trận năm 1914, khi mới 26 tuổi. Một chàng trai chưa nếm vị ngọt của hôn nhân và còn nhiều hoài bão.  Vì đau lòng, vì không muốn những người lính thoát chết trong trận can qua cảm thấy tội lỗi, mọi người tránh không nhắc tới ông. Nhưng ông vẫn tồn tại theo cách của riêng mình. Cả đại gia đình đã thực hiện một cuộc hành trình về lại chiến trường xưa để tìm di cốt những người đã ngã xuống. Những người chiến đấu vì đất nước nhưng giờ đây không còn một nắm xương tàn. Với Chiến Trận (Chiến trường vinh quang) Jean Rouaud đã chọn một lối kể chậm rãi, chi tiết và tinh tế, tạo nên một văn phong không lẫn lộn. Nhà văn giống như một nhà điêu khắc đang tỉ mẩn đục đẽo từng con chữ. Càng về cuối tác phẩm, sự khốc liệt và tàn nhẫn của chiến tranh mới lộ rõ. Ở đó, không chỉ có súng đạn, máu và nước mắt. Bom hóa học và những quyết sách lạnh lùng của nhà cầm quyền còn khiến chúng ta ghê sợ hơn nhiều. Bằng một cách dẫn dắt rất riêng, nhà văn người Pháp không phơi bày tất cả hiện thực ra trước mắt người đọc. Ông kín đáo giấu nó vào sâu trong những câu chuyện tưởng chừng chẳng liên quan. Đó là cách Jean Rouaud định vị bản thân và làm mới những đề tài tưởng chừng đã cũ. Lịch sử của một quốc gia là một thứ rất vĩ đại, nhưng đôi khi nó được xây nên từ chính hồi ức của từng gia đình. *** Jean Rouaud sinh ngày 12/12/1952, ông nghiên cứu văn học hiện đại tại trường Đại học Nantes. Sau khi lấy bằng thạc sĩ, Jean Rouaud làm nhiều công việc khác nhau như bơm khí hay bán bách khoa thư y tế. Năm 1978, ông cộng tác với tòa soạn Presse – Océan. Sau khi chuyển đến Paris ông làm việc trong một hiệu sách rồi bán báo. Năm 1988, Jean Rouaud gặp Jérôme Lindon, giám đốc cũng là tổng biên tập của NXB Minuit, người đã phát hiện ra tài năng văn chương của ông. Mời các bạn đón đọc Chiến Trường Vinh Quang của tác giả Jean Rouaud & Phạm Duy Thiện (dịch).
Cây Cam Ngọt Của Tôi
“Vị chua chát của cái nghèo hòa trộn với vị ngọt ngào khi khám phá ra những điều khiến cuộc đời này đáng số một tác phẩm kinh điển của Brazil.” - Booklist “Một cách nhìn cuộc sống gần như hoàn chỉnh từ con mắt trẻ thơ… có sức mạnh sưởi ấm và làm tan nát cõi lòng, dù người đọc ở lứa tuổi nào.” - The National Hãy làm quen với Zezé, cậu bé tinh nghịch siêu hạng đồng thời cũng đáng yêu bậc nhất, với ước mơ lớn lên trở thành nhà thơ cổ thắt nơ bướm. Chẳng phải ai cũng công nhận khoản “đáng yêu” kia đâu nhé. Bởi vì, ở cái xóm ngoại ô nghèo ấy, nỗi khắc khổ bủa vây đã che mờ mắt người ta trước trái tim thiện lương cùng trí tưởng tượng tuyệt vời của cậu bé con năm tuổi. Có hề gì đâu bao nhiêu là hắt hủi, đánh mắng, vì Zezé đã có một người bạn đặc biệt để trút nỗi lòng: cây cam ngọt nơi vườn sau. Và cả một người bạn nữa, bằng xương bằng thịt, một ngày kia xuất hiện, cho cậu bé nhạy cảm khôn sớm biết thế nào là trìu mến, thế nào là nỗi đau, và mãi mãi thay đổi cuộc đời cậu. Mở đầu bằng những thanh âm trong sáng và kết thúc lắng lại trong những nốt trầm hoài niệm, Cây cam ngọt của tôi khiến ta nhận ra vẻ đẹp thực sự của cuộc sống đến từ những điều giản dị như bông hoa trắng của cái cây sau nhà, và rằng cuộc đời thật khốn khổ nếu thiếu đi lòng yêu thương và niềm trắc ẩn. Cuốn sách kinh điển này bởi thế không ngừng khiến trái tim người đọc khắp thế giới thổn thức, kể từ khi ra mắt lần đầu năm 1968 tại Brazil. *** Tóm tắt Cây cam ngọt của tôi là câu chuyện về cậu bé Zezé, một cậu bé 5 tuổi thông minh, tinh nghịch và đáng yêu, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo đông con ở vùng ngoại ô Rio de Janeiro, Brazil. Cậu bé có ước mơ trở thành một nhà thơ cổ thắt nơ bướm. Cuộc sống của Zezé không hề dễ dàng. Cậu phải chịu đựng sự hắt hủi, đánh mắng của cha mẹ và anh chị em. Cậu cũng phải đối mặt với những khó khăn của cuộc sống nghèo khó. Tuy nhiên, Zezé vẫn giữ được trái tim trong sáng và trí tưởng tượng phong phú. Cậu bé tìm thấy một người bạn đặc biệt, đó là cây cam ngọt trong vườn sau nhà. Cậu bé thường tâm sự với cây cam về những niềm vui, nỗi buồn của mình. Cây cam ngọt cũng trở thành nguồn động viên, khích lệ cậu bé trong cuộc sống. Một ngày kia, Zezé gặp gỡ một người bạn mới, đó là Lọ Lem. Lọ Lem là một cậu bé mồ côi, sống lang thang trên đường phố. Lọ Lem đã giúp Zezé khám phá thế giới bên ngoài và dạy cậu bé cách yêu thương. Cuộc sống của Zezé đã thay đổi mãi mãi sau khi cậu gặp Lọ Lem. Cậu bé học được cách đối mặt với những khó khăn và vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Cậu cũng học được cách yêu thương và trân trọng những người xung quanh. Đánh giá Cây cam ngọt của tôi là một cuốn sách hay và ý nghĩa. Cuốn sách đã khắc họa chân thực cuộc sống của những đứa trẻ nghèo ở Brazil. Cuốn sách cũng gửi gắm những thông điệp sâu sắc về tình yêu thương, lòng trắc ẩn và ý nghĩa của cuộc sống. Cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, nhưng lại vô cùng sâu sắc và cảm động. Cuốn sách đã chạm đến trái tim của hàng triệu người đọc trên khắp thế giới. Điểm nổi bật Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Nhân vật được xây dựng chân thực, gần gũi Ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu nhưng lại vô cùng sâu sắc và cảm động Thông điệp ý nghĩa về tình yêu thương, lòng trắc ẩn và ý nghĩa của cuộc sống Kết luận Cây cam ngọt của tôi là một cuốn sách hay và ý nghĩa. Cuốn sách là một món quà tinh thần quý giá dành cho tất cả mọi người. *** Nếu Hảo hán nơi trảng cát của Jorge Amado (1912 - 2002) là cuộc sống của những đứa trẻ mồ côi ở Salvador thì Cây cam ngọt của tôi là cuộc đời của những con người trong khu xóm nghèo ở thủ đô Rio de Janeiro. Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ lần đầu tiên cậu bé Zezé bước vào văn chương và ở lại đó cùng với cây cam ngọt ngào lẫn đắng chát của mình, độc giả tiếp tục khóc cười với cuốn tiểu thuyết thành công nhất của nhà văn José Mauro de Vasconcelos (1920 - 1984) - Cây cam ngọt của tôi (Nguyễn Bích Lan - Tô Yến Ly dịch, Nhã Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà Văn). Cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1968 ở Brazil, khi cơn sốt văn chương châu Mỹ Latin đang lan dần ra toàn thế giới. Nếu Hảo hán nơi trảng cát của Jorge Amado (1912 - 2002) là cuộc sống của những đứa trẻ mồ côi ở Salvador thì Cây cam ngọt của tôi là cuộc đời của những con người trong khu xóm nghèo ở thủ đô Rio de Janeiro. Ở đó, những người lớn tất tả trong cuộc mưu sinh bỏ quên chú bé Zezé nghịch ngợm chật vật trong thế giới tuổi thơ của mình. Trước một thế giới ảm đạm buồn chán, Zezé phải bày đủ trò quậy phá đến mức bị đòn roi. Zezé lấy trí tưởng tượng để làm vũ khí chống lại thế giới người lớn quay cuồng trong tiền bạc nhưng thiếu vắng hạnh phúc và ước mơ. Cậu đặt tên cho cây cam trong vườn là Minguinho và như hai người bạn, chúng trò chuyện với nhau, cùng nhau bước qua một tuổi thơ khốn khó nhưng không tuyệt vọng. Câu chuyện đơn giản nhuốm màu sắc tự truyện vẫn khiến cuốn sách gặt hái được thành công quốc tế, trở thành một tác phẩm mang tính giáo dục cao, dẫu tác giả không tuyên ngôn dưới bất kỳ hình thức nào. Tác phẩm được đưa vào chương trình tiểu học, chuyển thể thành phim và cách đây không lâu trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho một ngôi sao K-pop. Thời đại bất an mà nhà văn sống là thời đại của những nhà độc tài, những cuộc cách mạng, nội chiến liên miên. Cho nên tác phẩm không chỉ là hành trình hướng thiện của một đứa trẻ mà còn là cuộc chiến thu nhỏ diễn ra ở chốn tận cùng, nơi con ngư *** Tác giả: JOSÉ MAURO DE VASCONCELOS (1920-1984) là nhà văn người Brazil. Sinh ra trong một gia đình nghèo ở ngoại ô Rio de Janeiro, lớn lên ông phải làm đủ nghề để kiếm sống. Nhưng với tài kể chuyện thiên bẩm, trí nhớ phi thường, trí tưởng tượng tuyệt vời cùng vốn sống phong phú, José cảm thấy trong mình thôi thúc phải trở thành nhà văn nên đã bắt đầu sáng tác năm 22 tuổi. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết mang màu sắc tự truyện Cây cam ngọt của tôi. Cuốn sách được đưa vào chương trình tiểu học của Brazil, được bán bản quyền cho hai mươi quốc gia và chuyển thể thành phim điện ảnh. Ngoài ra, José còn rất thành công trong vai trò diễn viên điện ảnh và biên kịch. *** Chúng tôi đi xuống phố, tay trong tay, chẳng có gì phải vội. Totoca đang dạy tôi về cuộc sống. Và điều đó khiến tôi thực sự hạnh phúc, được anh trai nắm tay và dạy nhiều điều. Nhưng là dạy về những điều thuộc thế giới bên ngoài. Bởi vì ở nhà, tôi học hỏi bằng cách tự mày mò khám phá và tự làm, tôi mắc lỗi nhiều và vì mắc lỗi, tôi thường bị ăn đòn. Cho tới tận trước đây không lâu, tôi vẫn chưa bị ai đánh bao giờ. Nhưng rồi mọi người nghe được chuyện này, chuyện nọ và bắt đầu nói tôi là quỷ, là quái vật, là tiểu yêu tóc hung. Tôi không muốn biết về điều đó. Nếu không phải đang ở bên ngoài thì tôi đã bắt đầu hát. Hát thú vị lắm. Ngoài ca hát, Totoca còn biết làm điều khác nữa: anh có thể huýt sáo. Nhưng dù cố gắng đến mức nào tôi cũng chẳng thể bắt chước anh huýt sáo được, chẳng âm thanh nào bật ra cả. Để an ủi tôi, anh bảo chuyện đó cũng bình thường thôi, rằng tôi chưa có cái miệng của người huýt sáo. Nhưng vì không thể hát thành lời, tôi hát thầm ở trong lòng. Thoạt đầu điều đó thật kỳ cục, nhưng về sau tôi cảm thấy hát như thế thực sự thú vị. Và lúc này, tôi đang nhớ lại một bài hát mẹ thường hát khi tôi còn bé xíu. Mẹ đứng bên chậu giặt, mảnh khăn buộc quanh đầu để che nắng. Với chiếc tạp dề ôm quanh thắt lưng, mẹ đứng đó hết giờ này đến giờ khác, dầm tay trong nước, khiến xà phòng nổi cơ man nào là bọt. Sau đó mẹ vắt kiệt nước khỏi quần áo và đem ra dây, phơi lên, kẹp lại và kéo chiếc dây phơi lên cao. Mẹ làm thế với tất cả quần áo. Mẹ giặt thuê cho nhà bác sĩ Faulhaber để kiếm thêm chút ít giúp trang trải chi phí sinh hoạt. Mẹ cao, gầy, nhưng rất đẹp. Da mẹ rám nắng, tóc thẳng và đen. Khi mẹ không cột tóc lên, tóc mẹ xõa đến tận thắt lưng. Nhưng tuyệt nhất là khi mẹ hát, và tôi hay quanh quẩn bên mẹ học lỏm. Chàng thủy thủ ơi, chàng thủy thủ ơi Chàng thủy thủ của nỗi buồn ơi Vì chàng Ngày mai em sẽ chết... Những con sóng xô bờ Quăng mình lên bờ cát Chàng ra khơi rồi Chàng thủy thủ ơi... Tình yêu của chàng Chẳng được nổi một ngày Tàu nhổ neo rồi Tàu ra khơi... Những con sóng xô bờ... Bài hát đó luôn khiến lòng tôi dâng trào một nỗi buồn khó hiểu. Totoca giật tay tôi. Tôi bừng tỉnh. “Sao thế Zezé?” “Không sao ạ. Em đang hát thôi mà.” “Hát ư?” “Vâng.” “Vậy chắc anh điếc rồi.” Anh ấy không biết con người ta có thể hát thầm ư? Tôi im lặng. Nếu anh không biết thì tôi cũng chẳng định dạy anh đâu. Chúng tôi đã tới lề đường quốc lộ Rio-São Paulo. Trên đường quốc lộ, có đủ mọi loại xe. Xe tải, xe con, xe ngựa, xe đạp. “Này,Zezé, chuyện quan trọng đây này. Trước hết chúng ta phải quan sát thật kỹ một chiều, sau đó nhìn chiều kia. Bây giờ sang đường nào.” Chúng tôi chạy sang đường. “Em có sợ không?” Tôi sợ, nhưng tôi lắc đầu. “Chúng mình cùng làm lại nào. Sau đó anh muốn xem em đã biết cách hay chưa.” Chúng tôi chạy trở lại phía bên kia đường. “Bây giờ em sang đường đi. Đừng ngập ngừng, bởi vì em lớn rồi mà.” Tim tôi đập nhanh hơn. “Nào. Sang đi.” Tôi chạy sang đường, gần như nín thở. Tôi đợi một chút và anh ra hiệu cho tôi quay trở về chỗ anh. “Lần đầu mà làm được thế là tốt đấy. Nhưng em đã quên một điều. Em phải nhìn cả hai phía xem có xe đang chạy tới không. Không phải lúc nào anh cũng có mặt ở đây để ra hiệu cho em đâu. Chúng ta sẽ thực hành thêm trên đường về nhà nhé. Nhưng giờ thì đi thôi, vì anh muốn chỉ cho em một thứ.” Anh cầm tay tôi và chúng tôi lại bắt đầu bước đi, thong thả. Tôi không cách nào thôi nghĩ về một cuộc trò chuyện cách đây ít lâu. "Totoca." “Gì cơ?” “Anh đã cảm nhận được tuổi chín chắn chưa?” “Thứ vớ vẩn gì vậy?” “Bác Edmundo nói đấy. Bác nói em khôn trước tuổi và rằng chẳng bao lâu nữa em sẽ đến tuổi chín chắn. Nhưng em chẳng cảm thấy có gì khác cả.” “Bác Edmundo bị ngớ ngẩn đấy. Bác ấy luôn nhồi những thứ vớ vẩn vào đầu em.” “Bác ấy không ngớ ngẩn đâu. Bác ấy khôn ngoan đấy chứ. Và khi lớn lên em muốn trở nên khôn ngoan, thành nhà thơ và thắt nơ bướm. Một ngày nào đó em sẽ được chụp ảnh chân dung thắt nơ hẳn hoi.” “Tại sao lại thắt nơ?” “Bởi vì anh không thể trở thành nhà thơ nếu không thắt nơ. Khi bác Edmundo cho em xem ảnh các nhà thơ trong cuốn tạp chí đó, em thấy ai cũng thắt nơ cả.” “Zezé, em phải thôi đi, đừng tin mọi điều bác ấy nói với em nữa. Bác Edmundo hơi biêng biêng đấy. Bác ấy còn hơi xạo nữa.” “Bác ấy là đồ chó đẻ ư?” “Em đã bị tát lệch mặt vì nói bậy quá nhiều mà chưa chừa à! Bác Edmundo không như vậy. Anh nói biêng biệng cơ mà. Nghĩa là hơi hâm hâm.” “Anh bảo bác ấy là kẻ nói xạo mà.” “Đó là hai chuyện hoàn toàn khác.” “Không, có khác gì đâu. Hôm nọ cha kể về ông Labonne với bác Severino, bạn chơi bài của cha, và cha nói, “Lão chó đẻ ấy là một kẻ nói xạo trời đánh thánh vật.” Và chẳng ai tát chả lệch mặt cả.” “Người lớn nói thế thì không sao.” Chúng tôi không nói gì trong vài phút. “Bác Edmundo không... Mà biêng biêng có nghĩa là gì, anh Totoca?” Anh giơ ngón tay chỉ lên đầu, quay quay ngón tay vẽ thành những vòng tròn trong không khí. “Không, bác ấy không phải vậy. Bác ấy tốt lắm. Bác ấy dạy em nhiều điều, và chỉ đánh em có mỗi một lần, lại còn chẳng đánh mạnh nữa.” Totoca giật mình. “Bác ấy đánh em à? Khi nào?” “Khi em hư thật và bị Gloria tống đến nhà bà. Bác ấy muốn đọc báo nhưng không tìm thấy kính. Bác tìm hết chỗ cao đến chỗ thấp và nổi điên thực sự. Bác hỏi bà kính của bác ở đâu nhưng bà không biết. Hai người lục tung cả nhà lên để tìm. Thế rồi em nói em biết kính của bác ở đâu và nếu bác cho em ít tiền để mua bi thì em sẽ nói cho bác biết. Bác đi đến chỗ để áo khoác và lấy ra một ít tiền. “Mang kính ra đây thì bác đưa tiền cho mày.” “Em đến chỗ rương đựng quần áo lấy cái kính ra. Bác nói, Ra là mày, đồ ranh con!” Bác phát vào lưng em và cất béng tiền đi.” Totoca cười phá lên. “Em đến đó để khỏi bị ăn đòn ở nhà thế mà lại bị đánh ở đó. Đi nhanh chân lên một chút, nếu không chúng ta sẽ chẳng bao giờ đến nơi được đâu.” Tôi vẫn đang nghĩ về bác Edmundo. “Totoca, trẻ con nghỉ hưu phải không?” “Gì cơ?” “Bác Edmundo chẳng làm gì cả mà vẫn có tiền. Bác không làm việc, nhưng Tòa Thị chính vẫn trả tiền cho bác hằng tháng.” “Thì sao?” “À thì, trẻ con chẳng làm gì. Trẻ con ăn, ngủ và được cha mẹ cho tiền.” “Nghỉ hưu khác chứ, Zezé. Người nghỉ hưu đã làm việc trong một thời gian dài rồi, tóc đã ngả bạc, chân chậm mắt mờ như bác Edmundo rồi. Nhưng đừng nghĩ về những thứ khó nhằn ấy nữa. Nếu em muốn học nhiều điều từ bác ấy thì tốt thôi. Nhưng khi đi với anh thì không nhé. Hãy cư xử như những đứa con trai khác. Em thậm chí có thể chửi thề, nhưng đừng nhét đầy đầu những thứ khó nhằn. Nếu không anh sẽ không đi chơi với em nữa đâu.” Tôi xị mặt xuống và không muốn nói chuyện nữa. Tôi cũng chẳng muốn hát. Chú chim nhỏ ca hát bên trong tôi đã bay mất rồi. Chúng tôi dừng lại và Totoca chỉ tay về phía ngôi nhà. “Nó đấy. Thích không?” Đó là một ngôi nhà bình thường. Màu trắng với những ô cửa sổ màu xanh dương. Toàn bộ cửa nẻo đều đóng im ỉm và im ắng như tờ. “Có ạ. Nhưng tại sao chúng ta phải chuyển đến đây chứ?” “Thay đổi cũng tốt mà.” Chúng tôi đứng trông qua hàng rào, nhìn cây xoài phía bên này và cây me ở phía bên kia. “Em là đứa hay chạy lăng xăng, nhưng em không biết nhà mình đang có chuyện gì đâu. Cha thất nghiệp rồi, đúng không? Đã sáu tháng kể từ khi cha choảng nhau với ông Scottfield và bị đuổi việc. Em có biết bây giờ Lala đang làm việc ở nhà máy không? Còn mẹ thì sắp đi làm ở thành phố, trong xưởng English Mill đấy, biết không? Giờ thì em biết rồi đấy, đồ ngốc ạ. Ở cái nhà mới này, ta sẽ tiết kiệm được tiền thuê nhà... Cái nhà kia thì cha nợ tám tháng tiền thuê nhà rồi. Em còn quá nhỏ nên không phải lo lắng về những chuyện buồn như thế. Nhưng anh sẽ phải giúp thật lực, xắn tay vào hỗ trợ việc nhà.” Anh đứng im lặng một lát. “Totoca, họ sẽ mang con báo đen và hai con sư tử cái tới đây chứ?” “Dĩ nhiên. Và lão gia nhân này sẽ phải tháo dỡ cái chuồng gà.” Anh nhìn tôi bằng ánh mắt thương xót, trìu mến. “Anh chính là người sẽ dỡ vườn thú và lắp ghép nó lại ở đây.” Tôi thở phào. Bởi vì nếu không tôi sẽ phải kiếm thứ gì đó mới mẻ để chơi với em trai út Luis của tôi. “Em đã thấy anh là người bạn như thế nào của em rồi, đúng không Zezé? Này, em sẽ chẳng mất mát gì nếu nói cho anh biết em đã làm chuyện đó như thế nào...” “Totoca, em thề là em không biết. Em thực sự không biết.” “Em nói dối. Ai đó đã dạy em học.” “Em chẳng học gì cả. Chẳng ai dạy em hết. Trừ phi quỷ sứ dạy em trong giấc ngủ. Jandira nói quỷ sứ là cha đỡ đầu của em.” Totoca bối rối. Anh thậm chí còn cốc đầu tôi mấy cái, cố bắt tôi phải nói cho anh biết. Nhưng tôi không biết mình đã làm được chuyện đó như thế nào. “Chẳng ai tự học cái đó được.” Nhưng anh không biết phải nói gì bởi vì chẳng ai thực sự nhìn thấy người nào dạy tôi học gì hết. Đó là một bí ẩn. Mời các bạn đón đọc Cây Cam Ngọt Của Tôi của tác giả José Mauro de Vasconcelos & Nguyễn Bích Lan (dịch) & Tô Yến Ly (dịch).
Cách Mạng Kiến
1 + 1 = 3? Khó tin nhưng có thật!!! Lũ kiến có thể thèm muốn gì ở chúng ta? Hài hước, tình yêu và nghệ thuật. Con người có thể thèm muốn gì ở lũ kiến? Sự hòa hợp với thiên nhiên, không biết sợ hãi và trao đổi tuyệt đối. Không hề biết nhau, Julie Pinson, một nữ sinh nổi loạn, và 103, kiến thám hiểm, gắng thử làm một cuộc cách mạng trong thế giới riêng của mình để đưa xã hội tiến hóa hơn. Kiến là cuốn sách cầu nối, Ngày của Kiến là cuốn về đối đầu còn Cách mạng Kiến là cuốn sách để hiểu nhau. Nhưng vượt lên trên chủ đề kiến, đó là cuộc cách mạng của con người, cuộc cách mạng phi bạo lực, hình thành từ những ý tưởng mới mẻ mà Bernard Werber đề xuất với chúng ta. Chú ý: bạn không bắt buộc phải đọc những cuốn khác để hiểu toàn bộ câu chuyện. Và tại sao 1 + 1 = 3? Độc giả, hãy đọc cuốn sách và bạn sẽ hiểu! Hồi hộp hấp dẫn hơn cả Harry Potter, đó chính là Werber!!!!!!!!!!!!! *** Kiến đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, giành giải thưởng của độc giả tờ Sciences et Avenir, và là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bernard Werber, nhà văn Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. - “Trong Kiến, Bernard Werber đã làm được cho loài kiến những gì Richard Adams đã làm cho loài thỏ trong đồi thỏ…” – Bantam Doubleday Dell Publishing - “Đây là tiểu thuyết đầu tiên mà nhân vật chính là… kiến.” – Albin Michel - “Bernard Werber đã sáng tạo nên một thế giới loài vật gần gũi và chi tiết đến mức mỗi người đọc đều cảm thấy như mình là một phần của nó” – Kevin Grandfield. *** Bernard Werber sinh năm 1961 tại Toulouse, Pháp. Ngay từ khi mười bốn tuổi, anh đã viết truyện cho một tập san nhỏ về khoa học viễn tưởng. Sau khi học luật tại Toulouse và báo chí tại Pháp, Bernard Werber dành hơn mười năm làm nhà báo khoa học và đã từng cộng tác với rất nhiều tờ có tên tuổi như Nouvel Observateur, Le Point, Ça m'intéresse. Sau đó, anh tập trung vào viết văn. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên xuất bản năm 1992,Kiến, nhà văn này đã nổi tiếng với một phong cách viết độc đáo, pha trộn giữa loại truyện phiêu lưu, khoa học viễn tưởng và triết lý.Kiến đã giành giải thưởng của độc giả tờ Khoa học và Tương lai (Sciences et Avenir). Cuốn thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết về kiến,Le jour des fourmis (Ngày của kiến), ra đời ngay sau đó, đã được nhận giải thưởng lớn của độc giả tờ Elle. Các tác phẩm của Bernard Werber đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng. Với 15 triệu bản bán được trên toàn thế giới, cùng với Marc Levy, Bernard Werber là một trong những nhà văn Pháp đương đại nổi tiếng nhất. Ngoài tiểu thuyết, Bernard Werber còn được biết đến với truyện ngắn, truyện tranh, kịch và phim. Chú ý chỗ bạn đặt chân. Sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết quyến rũ này, bạn dám không nhìn thực tế theo cùng cách hiện giờ nữa. Mời các bạn đón đọc Cách Mạng Kiến của tác giả Bernard Werber & Thi Hoa (dịch).
Người Vợ Cô Đơn
Một người đã bước vào cuộc đời nàng, nhờ đó tất cả những gì đối với nàng đều thấy vô nghĩa; một người mà không ai trong chỗ bạn hữu có quen biết; một nhân vật rất tầm thường, rất ít ai biết, nhưng toàn thể cuộc đời của Têre chạy quanh vừng mặt trời chỉ riêng mắt nàng nhìn thấy, và riêng xác thịt nàng biết vị ấm nóng. Pari xào xạc như gió hú trong ngọn thông. Thân thể đó đè lên thân thể nàng, dù nhẹ đến đâu cũng làm cho nàng ngừng thở. *** Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Landes, một vùng dân cư thưa thớt ở tây nam nước Pháp, được bao phủ rộng bởi những cánh rừng thông. Khi thiên tiểu thuyết bắt đầu, một vụ kiện đang bị bác bỏ. Người tường thuật, Thérèse có địa vị, bị xét xử tội đầu độc chồng mình Bernard bằng cách cho ông uống Fowler’s Solution quá liều, một thứ thuốc chứa thạch tín. Tuy có những bằng chứng vững vàng chống lại mình, bao gồm cả những toa thuốc cô giả mạo, vụ kiện bị ngừng lại; gia đình kết thúc các địa vị xã hội để tránh tai tiếng và bản thân Bernard cũng làm chứng cho lời biện hộ của cô. Trên đường từ tòa án về nhà, Thérèse nhìn lại cuộc sống của mình, cố gắng hiểu được điều gì đã khiến cô tiếp tục đầu độc chồng mình sau khi cô quan sát ông tình cờ uống thuốc quá liều. Cô giả thuyết rằng những hành động của cô là một phần của một “con dốc không thể nhìn thấy”, tạo nên từ những áp lực khi làm mẹ và hôn nhân và cuộc sống ngột ngạt khi làm vợ một địa chủ đạo Thiên Chúa những năm 1920 của nước Pháp thôn dã. Tuy vậy, Thérèse và cả người tường thuật không cung cấp một lời giải thích rõ ràng cho hành vi của cô. Thérèse cho rằng cô có thể âm thầm rời bỏ chồng bây giờ khi vụ kiện đã kết thúc. Thay vào đó, Bernard thông báo rằng cô sẽ sống tại nhà của gia đình ông, Argeluose, một vị trí biệt lập trong rừng thông. Ông thực sự giam cầm cô ở đó, lấy lý do rằng cô đang mắc phải bệnh thần kinh, và thường xuyên xuất hiện trước công chúng với cô để dập tắt mọi lời xầm xì. Mối quan tâm của ông là cuộc hôn nhân sắp tới của em gái ông Anne với một chàng rể được duyệt bởi gia đình, không bị ngăn cản bởi vụ tai tiếng nào hết. Ông chỉ cho phép Thérèse bầu bạn với những người hầu dễ ghét, tách cô khỏi con gái mình, và đe dọa tống cô vào ngục vì tội đầu độc nếu không hợp tác. Thérèse sống chủ yếu nhờ rượu và thuốc lá, rơi vào trạng thái ngẩn ngơ thụ động và mất ngủ. Khi cô được yêu cầu tham dự một bữa dạ yến tổ chức cho Anne, chồng chưa cưới và gia đình anh, cô đã tham dự, nhưng vẻ ngoài hốc hác khiến cho các vị khách bị sốc. Bernard quyết định, không phải bàn cãi nữa, rằng vụ bê bối sẽ không bao giờ hoàn toàn được quên lãng trừ khi Thérèse được phép biến mất. Ông hứa cô có thể rời đi sau đám cưới của Anne, và chuyển cô về Argelous để theo dõi sự hồi phục của cô. Đám cưới trôi qua, ông đưa Thérèse tớiParisvà chào tạm biệt. Không có sự ly thân và li dị chính thức, và ông sẽ chu cấp cho cô để tiếp tục sống. Cô được tự do. Thùy Andịch *** Mauriac không đòi cái tuyệt đối; ông biết rằng cái tuyệt đối không tồn tại với đức hạnh trong trạng thái thuần khiết... FRANÇOIS MAURIAC(11/10/1885 - 01/9/1970) Giải Nobel Văn học 1952 * Nhà văn, nhà thơ Pháp * Nơi sinh:Bordeaux(Pháp) * Nơi mất: Paris (Pháp) François Mauriacđược trao giải Nobel vì những tác phẩm phản ánh bi-hài kịch đời người với một tinh thần thấu suốt và nghệ thuật thuyết phục. Chủ đề chính trong sáng tác của ông là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa Xác thịt và Linh hồn của “những con người sa ngã” và “nỗi cơ cực của con người không có Thượng đế”. François Mauriacsinh trong một gia đình buôn rượu vang giàu có theo Công giáo, mồ côi bố khi chưa đầy hai tuổi, đến sống ở trang trại ông bà ngoại; bảy tuổi đi học, suốt đời mang ấn tượng về phong cảnh miền quê. Tốt nghiệp trung học,F. Mauriacvào học khoa văn chương tại Đại họcBordeaux, sau chuyển đếnParis, làm báo và sớm trở thành nhà văn độc lập. Năm 1909, theo lời khuyến khích của tòa soạn báo Thời đại chúng ta,F. Mauriacxuất bản tập thơ đầu tiênNhững bàn tay gắn kết; nhưng phải đến năm 1922 ông mới nổi tiếng là nhà viết tiểu thuyết có tài với cuốnNụ hôn cho người hủi. Trong Thế chiến I, tuy không phải nhập ngũ vì lí do sức khỏe,F. Mauriacvẫn tình nguyện tham gia tổ chức Hồng thập tự, phục vụ trong quân y viện hai năm ở Balkans, năm 1918 mới giải ngũ. Trong những năm 1920 ông viết hàng loạt tiểu thuyết, trong đó có cuốnSa mạc tình yêuđược tặng giải thưởng cao nhất của Viện Hàn lâm Pháp. Thérèse Desqueyroux(1927) cũng là tác phẩm thành công, được giới phê bình coi là tiểu thuyết Pháp hay nhất đầu thế kỉ XX. Ổ rắn độc (1932) kể về một bi kịch gia đình với nghệ thuật phân tích tâm lí sâu sắc được coi là đỉnh điểm trong sáng tác củaF. Mauriac. Năm 1933, nhà văn được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp. Trong Thế chiến II,F. Mauriactham gia chống phát xít Đức chiếm đóng Pháp, ủng hộ De Gaulle. Tiểu thuyếtCuốn sổ đenđược trao tặng huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh. Sau năm 1945F. Mauriaclàm đại diện Pháp trong tổ chức Liên Hiệp quốc (UNESCO). Lần đầu tiên ông được đề cử tặng giải Nobel vào năm 1946, nhưng phải 6 năm sau mới được trao giải. Từ đó đến cuối đờiF. Mauriacxuất bản thêm 2 cuốn tiểu thuyết, hàng loạt hồi kí (chủ yếu về De Gaulle) và làm báo (giữ những chuyên mục rất nổi tiếng thời bấy giờ). Nhà văn mất năm 85 tuổi, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết cuối cùng. Có thời kìF. Mauriacđược đánh giá là nhà văn Pháp lớn thứ hai trong thế kỉ XX (sau M. Proust), nhưng dần dần uy tín của ông bị giảm sút, theo các nhà phê bình thì chủ yếu là do đề tài và văn phong của ông hơi đơn điệu. *Tác phẩm: Những bàn tay gắn kết (Les mains jointes, 1909), thơ. Đứa con dưới gánh nặng xích xiềng (L’enfant chargé de chaines, 1911), tiểu thuyết. Thịt và máu (La chair et le sang, 1920), tiểu thuyết. Nụ hôn cho người hủi (Le baiser aux lepreux, 1922), tiểu thuyết. Sông lửa (Le fleuve de feu, 1923), tiểu thuyết. Bà cụ tổ (Genitrix, 1923), tiểu thuyết. Giông tố (Orages, 1925), thơ. Sa mạc tình yêu (Le désert de l’amour, 1925), tiểu thuyết. Điều đã mất (Ce qui était perdu, 1926), kí. Thérèse Desqueyroux (Thérèse Desqueyroux, 1927), tiểu thuyết. Những đau khổ của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances du Chrétien, 1928), tiểu luận. Chúa và Mammon (Dieu et Mammon, 1929), tiểu luận. Đau khổ và niềm vui của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances et bonheur du chrétien, 1931), [Anguish and Joy of the Christian Life], tiểu luận. Ổ rắn độc (Le noeud de vipère, 1932), tiểu thuyết. Bí ẩn nhà Frontenac (Le Mystère Frontenac, 1933), tiểu thuyết [The Frontenac mystery]. Đêm tàn (La fin de la nuit, 1935), tiểu thuyết. Các thiên thần đen (Anges noirs, 1936), truyện. Đời Jésus (La vie de Jésus, 1936), tiểu luận. Lặn dưới nước (Plongées, 1938), tập truyện. Asmodée (Asmodée, 1938), kịch. Những con đường của biển (Les chemins de la mer, 1939), truyện. Máu Atys (Sang d’Atys, 1940), thơ. Người đàn bà đạo đức giả (La pharisienne, 1941), kịch. Cuốn sổ đen (Le cahier noir, 1943), tiểu thuyết. Nhật kí (Journal, 1934-1950), hồi kí. Con cừu non (L’Agneau, 1954), tiểu thuyết. Hồi kí nội tâm (Mémoires intérieurs, 1959), luận văn. Điều tôi tin (Ce que je crois, 1962), hồi kí. Nghiên cứu về Charles de Gaulle (1964). Một đứa trẻ ngày nào (Un adolessent d’autrefois, 1969), tiểu thuyết. Ba câu chuyện (Trois récits), tập truyện ngắn. *Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Cuộc tình buồn, Nguyễn Bích Như - Thu Uyên dịch, NXB Tổng hợp Bình Định, 1990/Người vợ cô đơn, Mặc Đỗ dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1997. Bí ẩn nhà Frontenac, Dương Linh dịch, NXB Thế Giới, 1999. Mời các bạn đón đọc Người Vợ Cô Đơn của tác giả François Mauriac & Mặc Đỗ (dịch).