Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới

Cuốn sách “24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới” bắt đầu được phát hành từ 1912 và ngay lập tức lượng phát hành lên tới trên 200 nghìn bản. Nhưng trong suốt 70 năm sau, rất nhiều người Mỹ muốn tìm đọc nó nhưng hoài công vô ích. Tại sao vậy ? Mãi sau này, bí mật trên được hé lộ. Một số ông chủ doanh thương tư bản Mỹ đột nhiên làm ăn phát đạt nhờ đọc quyển sách này. Họ không muốn người khác cũng được học và làm theo “24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới” này nữa. Bằng mọi biện pháp, cuối cùng họ đã thành công trong việc mua đứt bản quyền xuất bản, đồng thời vận động giáo hội ngăn chặn không để cho cuốn sách này tiếp tục được xuất bản. Thế là những điều thần kỳ trong cuốn sách quý giá này đã bị dìm vào bóng tối suốt 70 năm ròng. Vậy cuốn sách này có gì đặc biệt? Giáo sư Charles E. Haanel – tác giả đã đưa ra một phương pháp, khai thác tiềm năng của từng cá nhân rất hoàn chỉnh, giúp bạn đọc nắm được những nguyên tắc cơ bản dẫn tới thành công trên đường đời. Đồng thời, ông đã dựa vào những kinh nghiệm thực tế của bản thân, đúc kết lại thành những nguyên tắc khả thi có tính kinh điển, có thể áp dụng vào kinh doanh và mọi mặt của cuộc sống. Nhà đại Doanh Nghiệp Henry Ford từng nói : “Bất kỳ ai cứ hễ làm được một việc hữu ích đều nhận được một khoản thù lao. Khoản thù lao đó chính là kinh nghiệm mà họ thu được qua việc làm đó. Kinh nghiệm chính là khoản thù lao có giá trị lớn nhất vậy”. Cuốn sách này thực chất là một bản đúc kết kinh nghiệm, nó chính là “Khoản thù lao lớn nhất” ( Theo cách nói của Henry Ford ). Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ hiểu rõ tại sao nhiều ông chủ trở thành các triệu phú, tỷ phú nhanh chóng nhờ vào những kinh nghiệm chỉ dẫn quý giá của sách. Điều thần kỳ vĩ đại nhất cũng đến với bạn khi áp dụng các kinh nghiệm đó vào công việc làm ăn, kinh doanh của mình, bạn sẽ dễ dàng phát hiện ra những kết quả kỳ diệu, hiếm có ấy. Thông thường, chúng ta hay bị truyền thống cũ ràng buộc, dễ bị ảnh hưởng từ hoàn cảnh bên ngoài, thậm chí mọi người coi nhân tố bên ngoài quyết định sự thành bại. Ở đây, tác giả đã bác bỏ điều đó và sẽ hướng dẫn cho bạn biết cách tự khống chế số phận mình. Cuốn sách “24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới (dành cho ông chủ)” không phải là một thứ sách giáo khoa khô khan, vô vị, nhạt nhẻo. Nó có một sức mạnh kỳ diệu, có thể biến một người dân thường thành một nhà triệu phú! Thực ra ban đầu, Giáo sư Charles E.Haanel đúc kết kinh nghiệm thành 24 bài học là theo yêu cầu của hiệp hội doanh thương Hoa Kỳ. Nhưng tác dụng vĩ đại của nó lại khiến chính họ tìm mọi cách hạn chế số người biết đến nó. Sau khi sách được xuất bản một thời gian, giáo hội Mỹ đã đưa ra biện pháp cấm lưu hành. Dù vậy, những bản sao của nó cũng lén lút truyền tay nhau đọc. Năm 1982, dư luận nước Mỹ lại một lần nữa xôn xao đòi xuất bản lại cuốn sách khi biết tin tỷ phú Bill Gates sau khi đọc cuốn sách này, đã bỏ học ở đại học Harvard danh tiếng, đi theo một con đường mới. Từ đó ông trở thành một nhà đại doanh nghiệp vĩ đại nhất của thế giới ngày nay. Vì sao cuốn sách lại trở nên thần kỳ như vậy? Có lẽ lời giải được sáng tỏ dần khi ta nghiền ngẫm từng câu thần chú trong các trang sách này. ***   Con người sinh ra đều bình đẳng, đó là quan niệm được đa số người tin theo. Thực tế trong cuộc sống, con người đâu có được bình đẳng, tuy đều do cha mẹ sinh ra, cấu tạo cơ thể đại thể giống nhau nhưng tư tưởng ý thức lại khác nhau rất xa. Sự khác biệt này do bên ngoài nhìn không rõ nhưng chính nó là nhân tố quyết định thành bại, giàu nghèo, sang hèn, giỏi kém của người đời. Trong cuộc sống người bị thất bại thường luôn miệng than phiền số phận hẩm hiu, thiếu may mắn! không giống như các nhà triệu phú và cho đó là họ có số giàu có. Thực tế, sự khác biệt giữa người bình thường với người thành đạt chính là do tư tưởng và tinh thần quyết định tức là tâm trí quyết định. Tư tưởng con người vốn có sức sáng tạo vô cùng to lớn, tác dụng của nó hết sức phi thường. Mọi vật, mọi việc diễn ra trên thế giới không phải lộn xộn, lung tung mà đều có quy luật nhất định. Thế giới tinh thần của con người cũng có quy luật riêng, giống như thế giới vật chất vậy. Chính các quy luật đang khống chế thế giới đạo đức và thế giới tinh thần của chúng ta. Các bạn nên nhớ kỹ, chính tư tưởng của chúng ta mới là nguồn năng lực và sức mạnh. Chỉ dựa vào ngoại viện, chúng ta sẽ trở thành một kẻ yếu đuối. bạn nên trở thành một kẻ mạnh để giúp đỡ người khác, không nên là một kẻ yếu hèn chỉ biết tiếp nhận sự giúp đở của kẻ mạnh. “Trồng cây nào ăn quả đó” quy luật tự nhiên này cũng thích hợp với bộ não con người. Đầu óc nghĩ nhiều đến những chuyện khó khăn, tiêu cực sẽ là những nhân tố đưa bạn đến chỗ bị thất bại. Trong xã hội ngày nay, khoa học được ứng dụng vào mọi lĩnh vực, con người không ai dám coi thường quy luật nhân quả, ai cũng hiểu rõ cái đạo lý “nhân” sinh ra “quả”. Muốn thực hiện được chí hướng và nguyện vọng của mình, chúng ta cần nỗ lực tạo ra những điều kiện cần thiết. Quy luật thường không được bộc lộ rõ ràng nó ẩn mình trong nhiều biểu tượng và giả tượng khác nhau. Chúng ta phải nghiên cứu, so sánh rất nhiều sự việc riêng lẻ để tìm ra những nét chung, từ đó mới phát hiện được quy luật. Đó là phương pháp “suy lý quy nạp”. Suy lý quy nạp là phương pháp khoa học nhất. Mọi sự việc như đất nước hưng thịnh, học thuật phát triển, tuổi thọ kéo dài… đều là những kết quả bắt nguồn từ phương pháp này. Điều tôi bức xúc muốn làm là giúp các bạn nhận ra cơ hội, tăng cường năng lực suy lý kiên định ý chí, có được trí tuệ trong sự lựa chọn, có tinh thần chủ động tiến tới, kiên nhẫn dẻo dai và giúp các bạn biết cách tận hưởng một cuộc sống có chất lượng cao! Tôi đâu phải là một đạo sĩ, một nhà thôi miên và cũng chẳng phải là một bậc thầy phù thuỷ. Mục đích của cuốn sách này không phải là dùng pháp thuật làm mê muội lòng người, mà để hướng dẫn cho các bạn biết cách sử dụng năng lượng tinh thần của bản thân mình. Tôi tin vào cái đạo lý “trồng cây sẽ có ngày được ăn quả”, rất mong muốn cùng bạn đọc nghiên cứu và thực hành chân lý đó. Tôi tin rằng, nếu các bạn ra sức khai thác nguồn năng lượng tinh thần của mình, nhất định sẽ không bị nó phụ bạc. Có được năng lượng tinh thần, tức là các bạn đã cảm nhận được những quy tắc cơ bản của giới tự nhiên, hòa hợp thành một thể thống nhất với giới tự nhiên vĩ đại. Điều đó cũng có nghĩa các bạn sẽ có một nguồn sức mạnh dồi dào không bao giờ cạn kiệt. Có được năng lượng tinh thần, các bạn đã trở thành một khối nam châm đồ sộ cuốn hút người khác, được mọi người hâm mộ, vây quanh. “Hãy làm giàu thêm cảm nhận của bạn về sinh mệnh, hãy khống chế chắc bản thân, chăm lo bảo vệ sức khỏe, tăng cường khả năng ghi nhớ, nâng cao khả năng quan sát, hãy nhìn thẳng vào cơ hội và khó khăn. Tất cả những điều đó có thể làm thay đổi số phận hàng triệu người trên hành tinh này.” Năng lực quan sát có thể giúp bạn nhìn rõ bản chất của sự việc, khắc phục được các hiện tượng do dự, hoài nghi, u uất, lo sợ. Cuốn sách này sẽ giúp các bạn bồi dưỡng năng lực quan sát, tăng cường tính độc lập, nâng cao được tầm nhìn xa. “Coi trọng và tiếp thu sử dụng các nguyên tắc chính xác là điều quan trọng bậc nhất”, đó chính là một câu danh ngôn của chủ tịch tập đoàn gang thép Albert Gali (Mỹ) và nó cũng là một pháp bảo giúp ông thành đạt! Mục đích của cuốn sách này không phải chỉ là hướng dẫn cho bạn đọc biết được các nguyên tắc chính xác, cũng không phải là một thứ sách giáo khoa giảng dạy người học. Bởi loại sách đó đã quá nhiều, mà nó còn muốn giúp bạn đọc biết cách thực hành các nguyên tắc đó. Nó cho các bạn biết: Một số khá đông suốt ngày vùi đầu vào sách vở, chăm chú nghe thầy giảng bài nhưng rồi suốt đời chẳng làm nên trò trống gì. Đó là vì các nguyên tắc trên sách vở là vô dụng, phải vận dụng được nó vào cuộc sống mới có giá trị. Cách học thông minh nhất là phải vận dụng các nguyên tắc trên sách vở vào cuộc sống. Mọi việc trên đời này đều đang biến đổi, đang vận động. Các quan niệm tư tưởng của con người cũng không ngừng biến động. Thế giới sinh vật, thế giới khoáng vật đều đang biến động. Người da đen hay da trắng, người giàu hay nghèo, giáo dân đạo này và đạo khác, giới thượng lưu hay giới lao động thấp kém, tất cả đều đang biến đổi, đang làm cách mạng, đang thay đổi các quan niệm tư tưởng của mình. Ngày nay, khoa học phát triển rầm rộ, phát hiện ra vô số tài nguyên, vô số khả năng và lực lượng mới. Các nhà khoa học ngày càng khó khẳng định thật chắc chắn một lý luận nào đó mà cũng rất khó phủ định một luận đề xem ra có vẻ rất vô lý! Thế kỷ XX là một thời kỳ hết sức huy hoàng trong lịch sử nhân loại. Thế kỷ XXI sẽ còn sáng tạo ra những kỳ tích mới, sức mạnh tinh thần và sức mạnh tâm linh, có những bước tiến bộ vĩ đại. Từ phân tử đến nguyên tử, từ nguyên tử tới lượng tử, mọi thực thể hữu hình trên thế giới đều đã được con người “vi hóa” (làm nhỏ) đến cực điểm. Do đó, công việc tiếp theo của chúng ta là phải “vi hóa” tinh thần, tìm ra “lượng tử” của tinh thần. Lực lượng mạnh nhất trong giới đại tự nhiên là gì? Là một thứ lực lượng vô hình. Theo đạo lý đó lực lượng mạnh nhất của con người là lực lượng tinh thần. nó cũng là một thứ lực lượng vô hình không được xem thường. Tư duy là phương thức hoạt động duy nhất của tinh thần, quan niệm là sản phẩm duy nhất của hoạt động tư duy. Sức mạnh tinh thần được thể hiện qua con đường duy nhất – hoạt động tư duy. Sự biến động của sự đời chẳng qua chỉ là công việc của tinh thần. Suy lý, xét đoán là một quá trình của tinh thần. Quan niệm là do tinh thần thai nghén. Nêu vấn đề thực chất là logic học – ngọn đèn pha chiếu sáng của tinh thần. Khi chúng ta suy nghĩ về một chủ đề nào đó, tổ chức cơ thể con người sẽ có biến động. Đó là vì sự suy nghĩ tất sẽ gây ra phản ứng vật chất trong cơ thể, ví dụ như đại não, thần kinh, cơ bắp chẳng hạn. Khi người ta lột bỏ được cái cũ, cái mới sẽ xuất hiện. Đó chính là quá trình đi từ thất bại đến thành công, một sự tái sinh trong tinh thần. Vì vậy, sinh mệnh sẽ có ý nghĩa mới, niềm vui mới, hy vọng mới. Trước đây bạn mò mẫm trong bóng tối u ám, nhưng nay bạn nhìn thấy cơ hội thành công và sẽ phát hiện ra một khả năng mới. Bạn suy nghĩ nhiều về thành công và niềm vui đó sẽ bức xạ sang người khác, tự nhiên họ trợ giúp bạn tiến lên đỉnh cao hơn. Muốn giành được ưu thế vượt bậc, bạn cần tin rằng và chuẩn bị thật tốt từ trước – có một thế giới hoàn toàn mới xuất hiện. Charles F. Haanel Mời các bạn đón đọc 24 Bài Học Thần Kỳ Nhất Thế Giới của tác giả Charles E. Haanel.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Tuổi Già Tập 2 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 2 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuyệt Mật Trong Buồng Lái - Patrick Smith
Hơn bao giờ hết, đi máy bay là tâm điểm của sự tò mò, thích thú, lo lắng, và tức giận. Trong các chương sau đây, tôi sẽ cố gắng hết sức để đưa ra câu trả lời cho những ai tò mò, làm yên lòng những ai lo lắng, và những sự thật không ngờ dành cho những ai bị đánh lừa. Có lẽ các bạn khi cầm trên tay cuốn sách này đều nhận biết rõ đây là một tác phẩm kiến thức phổ thông, bình thường như mọi cuốn sách giáo khoa hay cẩm nang khoa học thường thức. Nhưng tôi tin là cuốn sách này phi thường hơn thế. Để làm được điều vĩ đại trên, cần nhiều hơn những năm miệt mài thực tập căng thẳng trong buồng lái và những chuyến bay thực nghiệm nguy hiểm, nhiều hơn những tố chất cần có của một phi công, nhiều hơn cả một cái đầu lạnh và một trái tim gan dạ, và thật nhiều hơn những may mắn không tên. Không thể hiểu rõ được những điều trên nếu ta chưa từng đọc qua cuốn sách này. *** “Tuyệt mật trong buồng lái là tài liệu nên nằm trong túi lưới đằng sau mỗi ghế ngồi.” —David Pogue, thông tín viên tờ The New York Times và tổng biên tập chương trình PBS “Là một cây viết xuất sắc, Patrick Smith mang đến một chuyến du lịch đầy tiếng cười trong một ngành vốn bị hiểu lầm—một chuyến đi vào thế giới hàng không, chẳng hề có những thuật ngữ rắc rối mà đầy ắp sự hài hước và hiểu biết sâu sắc.” —Christine Negroni, nhà văn chuyên viết về hàng không và tác giả của cuốn sách Flying Lessons “Đặc sắc và cung cấp kiến thức tuyệt vời. Một thành tựu cao xa, một cuốn sách không thể thiếu được dành cho bất kỳ ai di chuyển bằng đường hàng không, nghĩa là tất cả mọi người. —James Kaplan “Patrick Smith cực kỳ thông hiểu về ngành hàng không hiện đại và truyền tải thông tin xuất sắc bằng tiếng Anh, chứ không bằng tiếng phi công. Smith là người bạn cùng buồng lái, bạn đồng hành, cây viết, và người giải thích lý tưởng.” —Alex Beam, Boston Globe “Thật vui thích làm sao khi được đọc những lời giải thích và bình luận tao nhã đến ngạc nhiên của Patrick Smith. Thế giới cần có một người viết thật đơn giản và hợp lý kiểu E. B. White về chủ đề mà tất cả mọi người đều thắc mắc.” —Berke Breathed “Thực tế một cách xuất sắc và thật khiến người ta vững tâm.” —Cath Urquhart, The Times (London) “Giá mà tôi có thể gấp gọn Patrick Smith rồi cất anh ta vào vali của mình. Dường như anh ta biết mọi điều đáng để biết về ngành hàng không.” —Stephen J. Dubner, đồng tác giả cuốn Kinh tế học hài hước “Sắc sảo và sâu sắc.” —Joe Sharkey, The New York Times “Tuyệt vời.” —Rudy Maxa, the Savvy Traveler “Ask the Pilot thực sự khiến cho việc đi máy bay trở nên vui vẻ. Patrict Smith làm sáng tỏ được trải nghiệm này và nhắc chúng ta nhớ đến sự kỳ diệu của hàng không. Anh cũng có óc hài hước tuyệt vời—đây là điều rất quan trọng khi mà bạn bị nhồi nhét vào ghế 14D trên một chiếc máy bay tầm khu vực.” —Chris Bohjalian, tác giả cuốn sách The Night Strangers và Midwives Mời các bạn đón đọc Tuyệt Mật Trong Buồng Lái của tác giả Patrick Smith.
Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng
Ý nghĩa cuộc đời mình là gì? Phải chăng mục đích chỉ là để sống lâu hơn, hay nên tìm kiếm một mục đích lớn lao? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại héo mòn trong lú lẫn? Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, từ bí ẩn ikigai được nhắc đến. Trong tiếng Nhật, Ikigai có nghĩa là “đi tìm mục đích sống của đời bạn” hoặc là “một lý do để thức dậy mỗi sáng”. Người Nhật quan niệm rằng mỗi người đều có một ikigai – mục đích sống. Và theo người dân của ngôi làng sống thọ nhất thế giới tại Nhật Bản, tìm ikigai là chìa khóa để có được cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Sở hữu một ikigai rõ rãng tức là mỗi sáng thức giấc, bạn có thể vùng dậy với cảm giác vui sướng, sẵn sàng sống một ngày thật năng động, hạnh phúc và đầy ý nghĩa. Trong cuốn sách Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng này, các tác giả đã tiến hành phỏng vấn người dân sống tại làng Ogimi, ngôi làng có tỷ lệ người thọ trên trăm tuổi cao nhất thế giới. Từ đó, hé lộ bí quyết hạnh phúc và trường thọ của họ, đồng thời đem đến cho bạn những công cụ thực tiễn để khám phá ikigai của bản thân. Cuộc sống không phải là một vấn đề cần giải quyết. Chỉ cần nhớ rằng phải có thứ gì đó khiến bạn bận rộn làm những điều mình yêu thích trong khi có những người yêu quý bạn ở bên. Ikigai của mỗi người là khác nhau, nhưng có một điểm chung là tất cả chúng ta đều đang tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống. Khi dành nhiều ngày để gắn kết với thứ có ý nghĩa với bản thân, chúng ta sẽ sống hạnh phúc hơn.  Hãy tìm ra và theo đuổi ikigai của mình, để mỗi sớm thức dậy, bạn biết mình đang sống vì điều gì. *** Điều gì mang lại ý nghĩa cho cuộc sống? Lý do tồn tại của bạn là gì? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại giạt trôi trong một thế giới đầy mơ hồ và mỏi mệt? Người Nhật quan niệm rằng mỗi người đều có một ikigai - mục đích sống. Và theo người dân của ngôi làng sống thọ nhất thế giới tại Nhật Bản, tìm ra ikigai là chìa khóa để có được cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Sở hữu một ikigai rõ ràng tức là mỗi sống thức giấc, bạn có thể vùng dậy với cảm giác vui sướng, sẵn sàng sống một ngày thật năng động, hạnh phúc và đầy ý nghĩa. Trong cuốn sách này, các tác giả đã tiến hành phỏng vấn người dân sống tại Ogimi, ngôi làng có tỷ lệ người thọ trên trăm tuổi cao nhất thế giới. Từ đó, hé lộ bí quyết hạnh phúc và trường thọ của họ, đồng thời đem đến cho bạn những công cụ thực tiễn để khám phá ikigai của bản thân. Hãy tìm ra và theo đuổi ikigai của mình, để mỗi sớm mai thức dậy, bạn biết mình đang sống vì điều gì. *** HÉCTOR GARCÍA Sinh ra tại Tây Ban Nha, ông đồng thời có thêm quốc tịch Nhật Bản, nơi ông đã sống hơn mười năm. Ông từng làm kỹ sư phần mềm cho Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu tại Thụy Sĩ. Sau đó, ông chuyển đến Nhật Bản và phát triển phần mềm nhận dạng giọng nói cũng như công nghệ phục vụ cho các công ty khởi nghiệp của thung lũng Silicon muốn tiến vào thị trường Nhật Bản. Ông là chủ trang blog nổi tiếng kirainet.com và là tác giả của A Geek in Japan, một cuốn sách bán chạy hàng đầu tại Nhật Bản. FRANCESC MIRALLES Sinh ra và lớn lên tại Barcelona, ông theo học chuyên ngành báo chí, văn học Anh và tiếng Đức. Hiện ông làm công việc biên tập, dịch thuật, viết thuê và cả sáng tác nhạc. Ông là một tác giả nổi tiếng với nhiều đầu sách bán chạy. Tiểu thuyết Love In Lowercase của ông đã được dịch sang 20 thứ tiếng. *** LỜI NÓI ĐẦU IKIGAI: Một từ bí ẩn Mối lương duyên hình thành nên cuốn sách này bắt đầu từ một đêm mưa ở Tokyo, khi chúng tôi lần đầu trò chuyện tại một quán bar nhỏ trong thành phố. Do khoảng cách địa lý xa xôi giữa Barcelona và thủ đô của Nhật Bản, chúng tôi chưa bao giờ gặp mặt dù từng đọc tác phẩm của nhau. Thế rồi, một người bạn chung kết nối hai chúng tôi, khởi đầu cho một tình bạn dẫn đến dự án này và dường như tình bạn đó được định trước để tồn tại suốt đời. Trong lần gặp gỡ tiếp theo, diễn ra một năm sau đó, chúng tôi đi dạo quanh một công viên ở trung tâm thành phố Tokyo, bàn luận về các xu hướng trong tâm lý học phương Tây, đặc biệt là liệu pháp ý nghĩa (logotherapy), liệu pháp giúp mọi người tìm ra mục đích sống trong cuộc đời mình. Chúng tôi nhận thấy rằng liệu pháp ý nghĩa của Viktor Frankl đã trở nên lỗi thời trong giới trị liệu tâm lý, họ ưa chuộng các trường phái tâm lý học khác, dẫu cho mọi người vẫn đang không ngừng tìm kiếm ý nghĩa trong những việc họ làm và cách họ sống. Chúng ta tự hỏi bản thân những điều như: Ý nghĩa cuộc đời mình là gì? Phải chẳng mục đích chỉ là để sống lâu hơn, hay nên tìm kiếm một mục đích lớn lao? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại héo mòn trong lú lẫn? Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, từ bí ẩn ikigai được nhắc đến. Khái niệm này của người Nhật, dịch nôm na là “niềm hạnh phúc của việc luôn bận rộn”, cũng tương tự liệu pháp ý nghĩa, nhưng còn đi sâu hơn nữa. Đây có lẽ cũng là một lý giải cho tuổi thọ phi thường của người Nhật, đặc biệt là trên đảo Okinawa, nơi cứ 100.000 dân lại có 24,55 người sống trên 100 tuổi - vượt xa tuổi thọ trung bình toàn cầu. Về lý do cư dân trên hòn đảo phía Nam Nhật Bản này sống lâu hơn cư dân tại bất cứ đâu trên toàn thế giới, các nhà nghiên cứu cho rằng một trong những bí quyết - bên cạnh chế độ ăn uống lành mạnh, cuộc sống bình dị nơi thôn dã, trà xanh cùng khí hậu cận nhiệt đới (với nhiệt độ trung bình tương đương Hawaii) - chính là ikigai, thứ định hình nên cuộc sống của họ. Khi nghiên cứu khái niệm này, chúng tôi khám phá ra rằng chưa có bất kỳ cuốn sách nào trong lĩnh vực tâm lý học hay phát triển cá nhân được dành riêng để truyền tải triết lý này tới phương Tây. Liệu ikigai có phải là lý do Okinawa có nhiều người sống lâu trăm tuổi hơn bất kỳ nơi nào khác? Bằng cách nào ikigai thúc đẩy mọi người sống năng động cho tới tận cuối đời? Bí quyết để sống lâu và hạnh phúc là gì? Khỉ tìm hiểu sâu hơn, chúng tôi khám phá ra một nơi đặc biệt, Ogimi, một thị trấn nông thôn nằm ở tận cùng phía Bắc hòn đảo với dân số khoảng ba nghìn người, tự hào là nơi có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới và được mệnh danh là “Làng Trường thọ”. Okinawa là nơi trồng shikuwasa nhiều nhất Nhật Bản - một loại quả họ Chanh (hay còn gọi là chanh lõm) chứa hàm lượng lớn chất chống ô xi hóa. Bí quyết sống thọ của người dân Ogimi là đây chăng? Hay là thứ nước tinh khiết được dùng để pha loại trà Moringa của họ? Chúng tôi quyết định gặp gỡ trực tiếp những người sống lâu trăm tuổi Nhật Bản để tìm hiểu bí quyết của họ. Sau một năm chuẩn bị, đem theo máy quay và thiết bị ghi âm, chúng tôi tới ngôi làng - nơi người dân nói thổ ngữ cổ và theo tôn giáo duy linh tôn thờ các tinh linh rừng có mái tóc dài được gọi là bunagaya. Ngay khi đặt chân đến, chúng tôi đã cảm nhận được sự thân thiện đáng kinh ngạc của người dân nơi đây, họ cười đùa không ngớt giữa những ngọn đồi xanh tươi được tưới tắm từ nguồn nước thanh khiết. Khi thực hiện phỏng vấn những cụ già lớn tuổi nhất làng, chúng tôi nhận thấy một thứ còn mạnh mẽ hơn cả những nguồn tài nguyên thiên nhiên đang hiển hiện nơi đây: một niềm vui khác thường chảy trong người dân bản địa và dẫn dắt họ suốt chặng đường đời dài lâu và lý thú. Một lần nữa, lại là từ ikigai bí ẩn. Nhưng nó chính xác là cái gì? Làm thế nào để có được? Chúng tôi chẳng bao giờ hết kinh ngạc khi biết rằng thiên đường của cuộc sống gần như vĩnh cửu này lại tọa lạc chính ở Okinawa, nơi 200.000 sinh mạng vô tội bị tước đoạt vào cuối Thế chiến thứ hai. Vậy nhưng, thay vì dung dưỡng lòng hận thù đối với người ngoại quốc, người Okinawa lại sống theo tôn chỉ ichariba chode, một thành ngữ địa phương mang ý nghĩa “đối xử với mọi người như anh em, cho dù bạn chưa từng gặp họ”. Hóa ra một trong những bí quyết hạnh phúc của người dân Ogimi chính là cảm nhận bản thân là một phần của cộng đồng. Ngay từ nhỏ họ đã thực hành yuimaaru, hay còn gọi là làm việc nhóm, và quen với việc giúp đỡ người khác. Nuôi dưỡng tình bạn, hấp thụ ánh sáng, nghỉ ngơi điều độ và rèn luyện cơ thể thường xuyên đều là những yếu tố để có được sức khỏe tốt, nhưng cốt lõi của joie de vivre,[1] thứ truyền cảm hứng cho những con người trăm tuổi nơi đây tiếp tục hưởng niềm vui sinh nhật và trân trọng mỗi ngày mới, chính là ikigai. Mục đích của cuốn sách này là hé lộ bí quyết của những người trăm tuổi tại Nhật Bản và cung cấp công cụ để bạn tìm ra ikigai của chính mình. Bởi lẽ, người tìm thấy ikigai của bản thân sẽ có được tất cả những gì mình cần cho hành trình dài lâu và hạnh phúc suốt chặng đường đời. Chúc bạn có một cuộc hành trình hạnh phúc!   Héctor García và Francesc Miralles Mời bạn đón đọc Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng của tác giả Héctor García & Francesc Miralles.