Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thể Xác và Tâm Hồn

Xuất bản năm 1943, tác phẩm Thể xác và Tâm hồn thành công vang dội khi được vinh danh tại giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Bộ tiểu thuyết được công chúng và giới phê bình văn học đánh giá cao, nhưng cũng đồng thời làm dấy lên tranh luận sôi nổi về những góc khuất của nghề Y được phơi bày trong tác phẩm.  Bức tranh hiện thực sâu sắc trong hoạt động y tế cũng như đời sống xã hội nước Pháp vào nửa đầu thế kỷ XX đã được tác giả khắc họa chân thực với những bất công trong xã hội, những tình yêu éo le, những cảnh đời ngang trái, những kẻ cơ hội, những bác sĩ cố chấp... Và cả những tâm hồn cao thượng, những y bác sĩ tận tâm, dám hy sinh, dám dấn thân và đi đến tận cùng đức tin của mình. *** Thể xác và Tâm hồn: Câu chuyện xúc động về ngành Y Theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, "Thể xác và tâm hồn" như một bức panorama, phơi bày những khía cạnh về đời sống ngành y của nước Pháp, rộng ra là cả thế giới. Từ xưa đến nay, Y học gắn liền với tiến trình phát triển của nhân loại. Thuở xa xưa, nhiều nền văn minh đang ở đỉnh cao rực rỡ phút chốc bị xóa sổ vì những dịch bệnh khủng khiếp. Điều đó chứng minh rằng, con người cần chăm sóc sức khỏe, hay cần phải phát triển y học trước nhất. Vì vậy, ngành y ở Việt Nam luôn là một trong những ngành quan trọng được đầu tư vì sự phát triển toàn diện của người dân. Trong năm vừa qua, Việt Nam được y tế thế giới biểu dương là quốc gia thành công nhất trong phòng, chống dịch COVID-19, huy động được toàn bộ hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tham gia phòng chống COVID-19 với chi phí thấp nhất. Có được thành công như vậy phần lớn nhờ những đóng góp không mệt mỏi của toàn dân nói chung và đội ngũ y bác sĩ nói riêng. Chính vì thế Phúc Minh Books cho ra mắt bộ sách Thể xác và tâm hồn của tác gia Maxence van der Meersch, một bộ sách nổi tiếng về ngành y thế kỉ 19 như một sự tri ân đối với những người anh hùng tuyến đầu đã hy sinh chống dịch. Thể xác và tâm hồn được xem là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong văn nghiệp của Maxence Van der Meersch. Bộ tiểu thuyết tâm lý xã hội này từng được vinh danh Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943 và dịch sang 13 ngôn ngữ khác nhau. Maxence Van der Meersch (1907-1951) là một trong những nhà văn nổi bật của văn học Pháp thế kỷ XX. Ông từng tốt nghiệp ngành Luật, nhưng lại có niềm đam mê đặc biệt với văn chương. Tác phẩm đầu tay - La Maison dans la dune (1932) - đã đặt nền móng cho sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1936, Maxence Van der Meersch gây tiếng vang lớn với tác phẩm L'Empreinte du dieu (Dấu ấn của Chúa), được trao giải Goncourt danh giá. Đến năm 1943, tài năng văn chương của ông tiếp tục được khẳng định với tiểu thuyết Corps et Âmes (Thể xác và Tâm hồn) - Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Bối cảnh câu chuyện diễn ra tại thành phố Angers những năm 1937 - 1938, Thể xác và Tâm hồn đã vẽ nên một bức tranh hiện thực rộng lớn, sâu sắc về đời sống xã hội, cũng như hoạt động y tế tại Pháp trong những năm nửa đầu thế kỷ XX, liên quan đến các bệnh lý tâm thần và bệnh lao. Hình tượng nhân vật chính Michel cũng chính là cuộc đời của bác sĩ Paul Carton, một vị bác sĩ mà nhà văn Maxence Van der Meersch vô cùng biết ơn và ngưỡng mộ - bởi ông cho rằng vợ mình, Thérèse, sống sót khỏi bệnh lao là nhờ công ơn của Paul Carton. Điểm nổi bật của nhân vật chính - Michel tuy là một chàng trai có xuất phát điểm tốt hơn đám bạn, có cha là một vị bác sĩ tiếng tăm, có địa vị trong giới Y học tại trường Đại học nổi tiếng, nhưng anh không vì thế mà kiêu ngạo. Trái lại anh hết sức học tập trau dồi khả năng phẫu thuật cũng như y đức. Dường như trái ngược với những cậu bạn cùng khóa chỉ chăm chăm dựa vào thế lực và nạn chia bè phái giữa các giáo sư đầu ngành với nhau để tiến thân, Michel chủ trương tin vào bản thân cũng như những giá trị cốt lõi. Cậu sẵn sàng từ bỏ sự sắp xếp của cha trên con đường hoạn lộ tươi sáng để được sống độc lập. Michel còn dành thời gian để theo đuổi cách chữa bệnh lao mới, đồng thời sống vì người bệnh mà không toan tính cũng như trục lợi trên bệnh tình của họ. Bản thân tác phẩm này khi ra mắt tại Pháp đã bị giới y học chỉ trích nặng nề bởi họ cho rằng Maxene van der Meersch chỉ là kẻ ngoại đạo không am hiểu sâu sắc về ngành y, nhưng nó lại được giới phê bình và công chúng đón nhận bởi nhà văn đã lột tả, khá chân thực những góc khuất của giới y-bác sĩ trong bối cảnh xã hội Pháp những năm 1937-1938 (Vấn nạn rượu bia, mại dâm; hậu quả của đời sống sinh hoạt thiếu khoa học, cách khám chữa bệnh quan liêu tắc trách, tranh giành danh vọng, địa vị trong gia đình/xã hội). Vậy nên tính thời đại của câu chuyện trong Thể xác và tâm hồn thực sự vẫn còn giá trị trong thời đại ngày nay. ***  “Thể xác và tâm hồn ” - cuốn sách tri ân những “Anh hùng áo trắng“  Bộ sách “Thể xác và tâm hồn “ của tác gia Maxence van der Meersch, một bộ sách nổi tiếng về ngành y thế kỉ 19 như một sự tri ân đối với những người anh hùng tuyến đầu đã hy sinh chống dịch COVID-19. “Thể xác và tâm hồn” của tác gia Maxence van der Meersch, một bộ sách nổi tiếng về ngành y thế kỉ 19 như một sự tri ân đối với những người anh hùng tuyến đầu đã hy sinh chống dịch. "Thể xác và tâm hồn" được xem là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong văn nghiệp của Maxence Van der Meersch. Bộ tiểu thuyết tâm lý xã hội này từng được vinh danh Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943 và dịch sang 13 ngôn ngữ khác nhau. Maxence Van der Meersch (1907-1951) là một trong những nhà văn nổi bật của văn học Pháp thế kỷ XX. Ông từng tốt nghiệp ngành Luật, nhưng lại có niềm đam mê đặc biệt với văn chương. Tác phẩm đầu tay - La Maison dans la dune (1932) - đã đặt nền móng cho sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1936, Maxence Van der Meersch gây tiếng vang lớn với tác phẩm L’Empreinte du dieu (Dấu ấn của Chúa), được trao giải Goncourt danh giá. Đến năm 1943, tài năng văn chương của ông tiếp tục được khẳng định với tiểu thuyết Corps et Âmes (Thể xác và Tâm hồn) - Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Bối cảnh câu chuyện diễn ra tại thành phố Angers những năm 1937 - 1938, "Thể xác và Tâm hồn" đã vẽ nên một bức tranh hiện thực rộng lớn, sâu sắc về đời sống xã hội, cũng như hoạt động y tế tại Pháp trong những năm nửa đầu thế kỷ XX, liên quan đến các bệnh lý tâm thần và bệnh lao.Hình tượng nhân vật chính Michel cũng chính là cuộc đời của bác sĩ Paul Carton, một vị bác sĩ mà nhà văn Maxence Van der Meersch vô cùng biết ơn và ngưỡng mộ - bởi ông cho rằng vợ mình, Thérèse, sống sót khỏi bệnh lao là nhờ công ơn của Paul Carton.  Điểm nổi bật của nhân vật chính - Michel tuy là một chàng trai có xuất phát điểm tốt hơn đám bạn, có cha là một vị bác sĩ tiếng tăm, có địa vị trong giới Y học tại trường Đại học nổi tiếng, nhưng anh không vì thế mà kiêu ngạo. Trái lại anh hết sức học tập trau dồi khả năng phẫu thuật cũng như y đức. Dường như trái ngược với những cậu bạn cùng khóa chỉ chăm chăm dựa vào thế lực và nạn chia bè phái giữa các giáo sư đầu ngành với nhau để tiến thân, Michel chủ trương tin vào bản thân cũng như những giá trị cốt lõi. Cậu sẵn sàng từ bỏ sự sắp xếp của cha trên con đường hoạn lộ tươi sáng để được sống độc lập. Michel còn dành thời gian để theo đuổi cách chữa bệnh lao mới, đồng thời sống vì người bệnh mà không toan tính cũng như trục lợi trên bệnh tình của họ. Bản thân tác phẩm này khi ra mắt tại Pháp đã bị giới y học chỉ trích nặng nề bởi họ cho rằng Maxene van der Meersch chỉ là kẻ ngoại đạo không am hiểu sâu sắc về ngành y, nhưng nó lại được giới phê bình và công chúng đón nhận bởi nhà văn đã lột tả, khá chân thực những góc khuất của giới y-bác sĩ trong bối cảnh xã hội Pháp những năm 1937-1938 (Vấn nạn rượu bia, mại dâm; hậu quả của đời sống sinh hoạt thiếu khoa học, cách khám chữa bệnh quan liêu tắc trách, tranh giành danh vọng, địa vị trong gia đình/xã hội.) Vậy nên tính thời đại của câu chuyện trong "Thể xác và tâm hồn" thực sự vẫn còn giá trị trong thời đại ngày nay. Bảo Châu *** Giới thiệu tác giả và tác phẩm MAXENCE VAN DER MEERSCH, nhà văn Pháp, sinh năm 1907 tại thành phố Roubaix, tốt nghiệp ngành Luật và Văn chương, mất năm 1951. Tác phẩm “NGÔI NHÀ TRONG CỒN CÁT” (1932), TỘI LỖI CỦA THẾ GIAN (1934), MARIA, CÔ GÁI VÙNG FLANDRE (1935), DẤU VẾT CỦA CHÚA (1936, giải thưởng VIỆN HÀN LÂM GONCOURT), THỂ XÁC VÀ TÂM HỒN (1943, giải thưởng VIỆN HÀN LÂM PHÁP), CÔ GÁI NGHÈO (1948) v.v...   THỂ XÁC và TÂM HỒN là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội vô cùng phong phú, nó phơi bày trước mắt người đọc một bức tranh đời thực rộng lớn và sâu sắc: những bất công đầy dẫy trong xã hội đồng tiền khi đám thượng lưu giàu có mặc sức hưởng thụ và chà đạp lên đạo lý, nhân phẩm, còn người lao động nghèo sống trong cảnh tối tăm cùng cực; những tâm hồn cao thượng dám đấu tranh cho lý tưởng nhân đạo và lẽ phải: những tình yêu éo le và những cảnh đời ngang trái, những tài năng say mê hy sinh vì sự nghiệp và những mánh khóe chạy theo bả vinh hoa... Bên cạnh đó người đọc sẽ còn bị lôi cuốn về những trang viết chân thực và thú vị về một nghề nghiệp rất cao cả, rất cực nhọc và cũng rất bí hiểm: ngành y. Mời các bạn mượn đọc sách Thể Xác và Tâm Hồn của tác giả Maxence Van der Meersch.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lý Trí Và Tình Cảm - Jane Austen
Lý trí và Tình cảm (tiếng Anh: Sense and Sensibility) là một tiểu thuyết của nhà văn Anh Jane Austen. Được xuất bản năm 1811, nó là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Austen được xuất bản, dưới bút danh "A Lady." Câu truyện xoay quanh Elinor và Marianne, hai người con gái của ông Dashwood với người vợ thứ hai. Họ có một người em gái, Margaret, và một người anh trai cùng cha khác mẹ tên là John. Khi người cha qua đời, tài sản của gia đình được trao lại cho John, và ba người con gái cùng với bà mẹ phải sống trong một hoàn cảnh không mấy dư dả. Họ tới ngôi nhà mới, một ngôi nhà ở nông thôn của một người họ hàng xa, nơi mà họ trải nghiệm cả tình yêu và nỗi buồn khi tình yêu tan vỡ. Tuy nhiên, cuối cùng Elinor và Marianne đều có được hạnh phúc. Cuốn sách đã được nhiều lần chuyển thể thành phim điện ảnh và truyền hình, bao gồm phim truyền hình năm 1981 (Rodney Bennett); phim điện ảnh năm 1995 (Lý An); một phiên bản bằng tiếng Tamil tên là Kandukondain vào năm 2000; phim truyền hình trên BBC vào năm 2008 (John Alexander). Mời các bạn đón đọc Lý Trí Và Tình Cảm của tác giả Jane Austen.
Vô Tri - Milan Kundera
Trong 'Vô tri', Milan Kundera kể câu chuyện hồi hương của Irena và Josef, và ta đọc thấy qua chuyến đi khó khăn đó, họ đồng thời trở về với những đòi hỏi sâu kín của tâm tư. Sau 20 năm sống ở nước ngoài, Irena về thăm tổ quốc Bohême và thành phố Praha của tuổi thơ cô. Thực ra, cô không háo hức với chuyến đi này lắm, vì lúc này ở Pháp cô đã sống yên ổn với công việc, căn hộ và các con. Cô về đơn giản là do sự thúc giục của chồng cô, Gustaf, một người đang thấy có nhiều cơ hội làm ăn ở Praha khi bộ máy kinh tế thị trường ở đó đang mở hết công suất. Nhưng điều làm cô đau đớn ngay trước lúc lên đường là một người bạn cô ở Paris đã xem chuyến trở về Praha này như là chuyến trở về mang ý nghĩa nhân sinh lớn lao vì không như vậy cô sẽ thiếu hẳn một chiều kích quyết định để đánh giá con người: chiều kích lịch sử. Sylvie đã phớt lờ hai mươi năm sống ở Paris của Irena - hai mươi năm ấy cô đã xây dựng cho mình một khoảng trời riêng đủ ấm áp, đủ hạnh phúc, và đủ những đường nét nhân văn chính yếu. Khi Irena nói: “Tớ sống ở đây được hai mươi năm rồi. Cuộc đời tớ là ở đây!” thì Sylvie im lặng khó chịu, ngầm muốn nói rằng (Irena) không được phép lảng tránh những sự kiện vĩ đại đang diễn ra “tại nước cậu”. Với Sylvie, đó là Cuộc Trở Về Vĩ Đại, có thể sánh với cuộc trở về của Ulysse trong sử thi Hy lạp Odyssée. Mời các bạn đón đọc Vô Tri của tác giả Milan Kundera.
Bức Thư Tình Cuối - Jojo Moyes
Anh yêu em – ngay cả khi trên trái đất này không có anh, không có tình yêu hay thậm chí không tồn tại cuộc sống này – anh vẫn yêu em. Thư Zelda gửi ScottFitzgerald Đó là vào năm 2010. Khi Jennifer Stirling tỉnh dậy trong bệnh viện, cô không thể nhớ gì - kể cả tai nạn xe hơi trước đó đã khiến cô bất tỉnh, kể cả người chồng và thậm chí bản thân cô. Cô cảm thấy mình như người xa lạ trong chính cuộc sống của mình cho đến khi cô bắt gặp lá thư tình, ký tên là B, rủ cô bỏ chồng theo anh ta. Nhiều năm sau, năm 2003, nhà báo Ellie phát hiện ra một lá thư tương tự trong xấp hồ sơ bị bỏ quên của mình. Cô bị cuốn hút bởi câu chuyện và hy vọng câu chuyện đó sẽ giúp ích cho sự nghiệp của cô. Có lẽ nếu những người yêu nhau này có kết cục hạnh phúc, cô sẽ tìm ra được một kết cục hạnh phúc cho chính cuộc đời cô. Ellie tìm kiếm mọi thứ để viết lại và giúp cô nhìn ra được sự thật trong mối quan hệ tình cảm của cô. Trong tác phẩm này, câu chuyện tình song đôi được tác giả lồng ghép khéo léo, với nhiều chi tiết hấp dẫn, lãng mạn, và đôi lúc nóng bỏng. Một ngày vào năm 1963, Jennifer Stirling tỉnh dậy trong bệnh viện, cô không thể nhớ gì - kể cả tai nạn xe hơi trước đó đã khiến cô bất tỉnh, kể cả người chồng và thậm chí bản thân cô. Cô cảm thấy mình như người xa lạ trong chính cuộc sống của mình cho đến khi cô bắt gặp lá thư tình, ký tên là B, rủ cô bỏ chồng theo anh ta. Kể từ đó, cô phải sống trong sự giằng xé nội tâm, cũng như luôn muốn tìm kiếm người kí tên B đó là ai. Song song đó là phải luôn đối phó với người chồng, một doanh nhân thành đạt, chuyên quyền và dường như ông biết về người tên B của cô… Nhiều năm sau, năm 2003, nhà báo Ellie phát hiện ra một lá thư tương tự trong xấp hồ sơ bị bỏ quên của mình. Cô bị cuốn hút bởi câu chuyện một phần là vì cô tìm thấy mình giống như nhân vật nữ trong bức thư - Jennifer và một phần hy vọng câu chuyện đó sẽ giúp sự nghiệp của cô thăng hoa. Cô nghĩ rằng có lẽ nếu Jennifer và “B” có kết cục hạnh phúc, cô sẽ tìm ra được một kết cục hạnh phúc cho chính mình. Do đó, Ellie tìm kiếm mọi thứ để viết lại câu chuyện tình yêu đó. Có thể nói, Bức thư tình cuối là câu chuyện tình yêu đẹp, sâu sắc, cuốn hút với cái kết bất ngờ. Tác giả Jojo Moyes:  Cô sinh năm 1969. Năm1992, cô nhận được học bổng cao học báo chí của tờ The Independent để theo học tại City University. Năm 1994, cô làm việc tại Hồng Kông cho tờ Sunday Morning Post. Jojo Moyes làm cho The Independent được mười năm, từ trợ lý biên tập tin tức đến phóng viên mảng truyền thông và nghệ thuật. Từ năm 2002, cô theo đuổi nghề viết tiểu thuyết, với quyển đầu tiên Sheltering Rain. Với tác phẩm Bức thư tình cuối, cô được đông đảo bạn đọc biết đến và đã đoạt giải tiểu thuyết lãng mạn năm 2011 tại Anh. Mời các bạn đón đọc Bức Thư Tình Cuối của tác giả Jojo Moyes.
Hồ Sơ Một Tử Tù - Nguyễn Đình Tú
Đọc xong cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Đình Tú, tôi nghĩ đến một khái niệm còn khá mới mẻ với nền văn học nước ta, đó là loại Tiểu thuyết tội phạm học. Khuất Quang Thụy Cũng phải nói ngay rằng đây cũng chỉ là một khái niệm tương đối mà chúng tôi nghĩ tới trong khi tìm cách tiếp cận cuốn tiểu thuyết đầu tay này của một tác giả trẻ. Nếu bạn không đồng ý với khái niệm này thì cũng chả sao, bạn có thể có một cách hình dung khác để tiếp cận tác phẩm kể trên và có thể cũng sẽ có được những kiến giải lý thú Trở lại cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Nội dung của cuốn sách dường như chả có gì mới. Câu chuyện xoay quanh một tên tội phạm bị khép án tử hình với một quá trình diễn biến khá phức tạp để biến một thanh niên nhà quê hiền lành chất phác trở thành một tên giết người nguy hiểm... Nhưng đọc xong cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, ta không có được cảm giác kiểu như "thế là đã rõ", "thế là xong việc", và rồi chúng ta có thể yên tâm bỏ cuốn sách xuống để chìm vào giấc ngủ hay thanh thản bước vào những công việc thường nhật mà không còn bất kỳ sự vương vấn nào về số phận của nhân vật hay về những vấn đề mà cuốn sách đã xới lên. Sự kiện cuối cùng trong cuốn sách của Nguyễn Đình Tú đặt dấu chấm hết cho số phận của nhân vật chính bằng đoạn đầu đài. Tất cả dường như rất minh bạch, rất đúng trình tự pháp luật. Nhưng không hiểu sao, đọc đến đây, chúng ta vẫn có cảm giác rằng cái chết chưa phải là sự trả giá cuối cùng cho những tội ác mà kẻ tử tù và những kẻ tòng phạm của hắn ta đã gây ra với đời. Vụ án chưa phải là đã khép lại. Vì còn có những câu hỏi quan trọng khác chưa được trả lời. Trong đó có cả câu hỏi: những ai, cái gì, hoàn cảnh nào đã xô đẩy một con người vốn có "tính bản thiện" trở thành một kẻ giết người? Khi đưa kẻ tử tội lên đoạn đầu đài, trong mỗi con người chúng ta đều xuất hiện một cảm giác giống như cảm giác của nhân vật Bằng, bạn học cũ của kẻ tử tội, nay lại là một luật sư bào chữa cho kẻ tội đồ, ấy là dường như mình cũng là kẻ có lỗi, có can dự vào quá trình trở thành kẻ tội phạm của bị cáo. Anh ta nhắc lại lời một ông thầy chung rất đáng kính của cả hai người: “Đáng tiếc, nhưng đáng tiếc hơn là tất cả chúng ta đều có lỗi mà không biết". Cái cảm giác gột rửa ấy xuất hiện khi đọc xong cuốn sách, chúng ta bỗng hiểu rằng, dường như kẻ bị đưa lên cọc xử bắn kia cũng là một nạn nhân mà mỗi chúng ta, ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp đều có lỗi, đều tham gia xô đẩy hắn ta vào con đường tội lỗi để dẫn tới kết cục bi thảm này. Trong cuộc đời nhiều khi chúng ta vô tình gây ra tội ác, hoặc gieo những mầm mống tội ác mà không biết. Đến khi cáimầm ác ấy nảy cành, xanh lá gây hoạ cho đời thì chúng ta lại dửng dưng, coi như mình là kẻ ngoài cuộc vô can, thậm chí chúng ta lại nhân danh pháp luật và đạo đức để phán xử chính những tội ác mà chúng ta đã góp phần gieo mầm và nuôi dưỡng mà không hề hay biết? Có lẽ đây chính là điều khác biệt quan trọng nhất khiến cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú vượt qua khỏi sự thường tình của những cuốn "sách hình sự" "sách vụ án" và có giá trị như một cuốn tiểu thuyết tội phạm học rất đáng được chú ý. Là một cử nhân luật và cũng từng là một cán bộ pháp lý của quân đội một thời gian trước khi trở thành nhà văn, chắc chắn Nguyễn Đình Tú có kiến thức khá vững vàng về "tội phạm học". Nhưng khi khảo sát khái niệm này ở góc độ một nhà văn, Nguyễn Đình Tú đã có những ý tưởng mới mẻ sâu sắc hơn những dòng lý luận khô khan. Anh đã cố gắng thông qua ngôn ngữ và hệ thống hình tượng để lý giải quá trình hình thành nhân cách của một con người cũng như quá trình tha hoá một nhân cách. Anh cũng đã hiểu một cách cặn kẽ khái niệm của Max - Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội - nên đã đi tìm câu trả lời từ những nguyên nhân xã hội, từ môi trường sống để tìm cách lý giải vì sao con người có thể trở thành những kẻ tội phạm, để từ đó đi đến một định đề rằng, quá trình hình thành nhân cách của một con người là một quá trình xã hội, trong đó mỗi con người chỉ có thể hoàn thiện mình thông qua sự không ngừng vươn lên chiến thắng mọi hoàn cảnh, khắc phục những hạn chế của hoàn cảnh và những cái mà chúng ta vẫn thường gọi là sự trớ trêu của số phận. Phạm Bạch Đàn, nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết sinh ra và lớn lên tại một làng quê nghèo có một nghề truyền thống khá oái oăm là nghề khai thác đá. Cái nghề khai sơn phá thạch ấy tuy gian khổ thật, nhưng chắc chắn nó cũng nuôi sống nổi nhiều kiếp người và sẽ cứ tự nhiên nhi nhiên mà sống nếu không có những sự tác động của thời cuộc. Trong cái làng nhỏ bé ấy cũng có đủ thứ chuyện do thời thế đưa lại như cải cách ruộng đất với những nỗi oan sai làm đảo lộn thang giá trị đạo đức truyền thống, với cuộc kháng chiến chống Mỹ long trời lở đất và rồi với những cái sai, cái đúng trong những chính sách quản lý kinh tế, quản lý xã hội ở nông thôn. Trầm luân là vậy nhưng cái cậu bé đẻ rơi bên gốc cây bạch đàn ngày nào vẫn vượt qua được những hạn chế của hoàn cảnh và số phận để trở thành một học sinh giỏi, thi đỗ vào một trường đại học tại thủ đô. Số phận của Phạm Bạch Đàn đã bước sang một trang mới với những thách thức mới thoạt nhìn tưởng như không ác liệt, gian khổ như bao năm sống vật vã với luống cày và hòn đá ở quê hương, ăn đói mặc rách để cắp sách đến trường, nằm trong ổ rơm nhưng vẫn mơ tới một chân trời tươi đẹp. Những gì mà cậu sinh viên mới này nhìn thấy ở trường đại học hóa ra còn có nhiều điều kinh khủng hơn, đáng ngạc nhiên hơn những gì cậu từng nhìn thấy trong suốt cả quãng đời niên thiếu cộng lại? Tiện đây cũng xin nói ngay rằng người viết những dòng này cũng không khỏi ngạc nhiên và thán phục trước sự dũng cảm, chân thành của tác giả đã khiến những người đọc yếu bóng vía như tôi toát cả mồ hôi hột khi chỉ với vài chục trang sách, tác giả đã cho ta thấy sự băng hoại đến như thế nào của "nền văn hoá và đạo đức học đường" của xã hội ta. (Tôi rất mong đó chỉ là một sự thật đã được “tiểu thuyết hoá” và nó chỉ là sự thật của một thời điểm ngắn ngủi nào đó mà thôi). Thế là từ giảng đường trường đại học, chứ không phải từ đời sống lam lũ ở làng quê là nơi Phạm Bạch Đàn đi những bước đầu tiên tới đoạn đầu đài, anh đã bị đuổi khỏi trường đại học. Dĩ nhiên những lỗi lầm của Đàn cũng có căn nguyên từ quá khứ xa xôi, từ gốc gác xuất thân của anh, nhưng điều quan trọng nhất là bản thân anh cũng chưa đủ bản lĩnh để vượt qua những thử thách đó. Không phải ở vào thời buổi ấy, tất cả sinh viên có xuất thân từ những gia đình nông dân nghèo khổ đều hư hỏng cả. Tuy vậy, Đàn cũng đã quyết tâm làm lại từ đầu. Sau một năm vừa lao động vừa học tập, anh lại thi đỗ vào Đại học. Nhưng con đường làm lại của anh lại "vướng vào cơ chế", một quy chế vu vơ nào đó được đặt ra rằng những sinh viên đã bị đuổi học thì phải hai năm sau mới được thi để trở lại trường. Anh đã nhanh nhảu đoảng trong việc sửa chữa khuyết điểm! Nếu có được cơ hội thứ hai trở lại trường Đại học, số phận Đàn có thể đã khác đi chẳng? Chán nản, thất vọng, anh trở lại làng quê trong bối cảnh ở đó đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa cơ chế cũ và cái mới đang hình thành nhưng chưa thắng thế. Anh ủng hộ cái mới, nên anh càng thất vọng hơn. Anh vừa thương cho phận mình vừa thương cho làng xóm “Đói. Đói dài rạc. Đất ấy, ruộng ấy, màu mỡ thế, tươi tốt thế mà thóc cứ lép, sản cứ thấp, sống trên đất luá mà cứ thèm gạo, sống bên núi đá mà cứ nhà tranh vách đất, cứ lầy lội lép nhép trên con đường nhão nhoét, lồi lõm ổ trâu ổ gà. Đám trai làng bạn Đàn kéo nhau đi đào vàng...." Đàn cũng buông trôi theo số phận, nhập vào cái số đông đi tìm vận may nơi rừng thiêng nước độc, để mình rơi vào một môi trường hắc ám, đầy cạm bẫy, đó chính là bước trượt dài của nhân cách, của số phận, đó là cú hích đưa anh tới con đường tội lỗi và... tới đoạn đầu đài. Những gì diễn ra sau đó trên bãi vàng dường như đã là điều tất nhiên, tuy rằng anh cũng đã có đôi lần tìm cách chống lại hoàn cảnh, chống lại số phận, chống lại cả những cái ngẫu nhiên, chống lại cả sự trôi trượt để giữ lấy chút phẩm giá còn lại, nhưng rốt cuộc anh là người bại trận. Xung quanh hình tượng trung tâm kể trên, Nguyễn Đình Tú đã có những thành công nhất định khi xây dựng nên hàng loạt nhân vật phụ, tạo nên sự đa dạng về nhân cách trên cái nền chung của xã hội nước ta ở vào một giai đoạn nhập nhằng giữa quá khứ và hiện tại. Qua những nhân vật này, chúng ta có được sự hình dung về cuộc sống của những làng quê nghèo, của trường đại học và cả một phần xã hội của những con người sống mấp mé giữa lằn ranh đen - trắng, đó là thế giới của những kẻ tội phạm và những người có thể trở thành tội phạm bất kỳ lúc nào. Cái ranh giới giữa có tội và không có tội ở đây thật mỏng manh. Vả chăng, sự mong manh ấy đâu chỉ có ở cái xã hội thu nhỏ quanh những bưởng vàng? Khảo sát những mối quan hệ nhân quả trong cuốn sách của Nguyễn Đình Tú, chúng ta còn có thể chỉ ra nhiều kẻ tội phạm vô hình khác. Đó là kẻ tội phạm mắc những tội danh không được ghi trong những bộ luật thành văn, nhưng không phải vì thế mà sẽ không bị kết án, ít ra cũng là tại toà án lương tâm. Triết lý Nhân - Quả, Thiện - Ác của đạo Phật, tình thương Cơ đốc giáo và những quan niệm đạo đức truyền thống cũng đã được tác giả huy động để làm rõ thêm cái vùng còn mờ nhoè bất cập của những thứ lý luận khô khan, duy lý về luật pháp, về tội ác và sự trừng phạt và về nhiều thứ oái oăm, nhiêu khê do con người đặt ra để tự ràng buộc mình và ràng buộc đồng loại nữa Với những vấn đề rất nghiêm túc được đặt ra trong cuốn sách, Nguyễn Đình Tú đã chứng tỏ mình là một cây bút có trách nhiệm và có tham vọng. Tuy vậy, cũng có thể dễ dàng nhận thấy anh chưa đạt được nhiều lắm cho những mục tiêu nghệ thuật, nhất là nghệ thuật tiểu thuyết. Bố cục của cuốn sách chưa thật chặt chẽ, có chương còn rời rạc. Những đoạn trích dẫn hoặc thuật kể điển tích của Phật giáo, Ki tô giáo chưa nhuyễn và hơi tham lam. Ngoài nhân vật chính, những nhân vật có hình hài, có cá tính chưa nhiều. Có một số nhân vật xuất hiện có "tính thời vụ", được tác giả tung ra khi cần thiết và sau đó thì mất hút hoặc chỉ là những cái bóng mờ nhạt... Bù lại, Nguyễn Đình Tú đã thành công khi tạo ra được cho mình một cách tiếp cận hiện thực khá mới mẻ và một lối kể chuyện có sức cuốn hút. Ít nhất khi đọc cuốn sách này, chúng ta cũng bị lay động và buộc phải suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn, ít phiến diện hơn về một số vấn đề đặt ra trong cuộc sống hôm nay. Đó chính là sự khởi đầu tốt đối với một nhà tiểu thuyết. Và sau 8 năm ra đời, Hồ sơ một tử tù cũng đã khẳng định được sức sống riêng của nó với bốn lần tái bản, một lần làm phim, hai lần vinh danh giải thưởng lớn của Bộ Công an. 8 năm ấy Nguyễn Đình Tú cũng đã chứng tỏ khả năng tiểu thuyết của mình với một loạt tác phẩm như Bên dòng Sầu Diện, Nháp và mới đây nhất là Phiên bản. Đến tiểu thuyết Phiên bản, lại một lần nữa, khái niệm tiểu thuyết tội phạm học trở nên rõ ràng hơn trong tôi, nhưng đó sẽ là nội dung của một bài viết khác khi có dịp quay trở lại vấn đề này. Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Một Tử Tù của tác giả Nguyễn Đình Tú.