Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ma Ám Ở Dinh Thự Hill

Được mệnh danh là một trong những truyện ma xuất sắc nhất từng xuất bản, CHUYỆN MA ÁM Ở DINH THỰ HILL đã hai lần có phim điện ảnh chuyển thể vào các năm 1963 và 1999, dựng kịch sân khấu vào năm 1964 và 2015. Tiểu thuyết này cũng là nguồn cảm hứng cho bộ phim truyền hình cùng tên ra mắt năm 2018 của dịch vụ trực tuyến Netflix - được đánh giá là phim kinh dị hay nhất của năm. *** “Một trong hai tiểu thuyết siêu nhiên vĩ dại duy nhất trong suốt một trăm năm qua.” — STEPHEN KING   “Có rất ít cuốn sách có thể dọa tôi sự hãi vô cùng... Nhưng CHUYỆN MA ÁM Ở DINH THỰ HILL của Shirley Jackson đã đánh bại tất cả. Tiểu thuyết này từng làm tôi kinh hãi khi còn là thiếu niên và vẫn còn ám ảnh tôi tới tận bây giờ.” — NEIL GAIMAN   *** SHIRLEY JACKSON (1916 - 1965) là một nhà văn người Mỹ được biết đến chủ yếu nhờ các tác phẩm trong dòng truyện bí ẩn và kinh dị. Bà sinh ra tại San Francisco và theo học Đại học Syracuse ở New York, nơi bà gặp chồng mình. Bà đến sống ở North Bennington, Vermont, và đã viết hầu hết các tác phẩm của mình tại đó. Bà xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên vào năm 1948, nhưng thứ khiến danh tiếng bà trở nên nổi như cồn lại là một truyện ngắn được viết cùng năm. Xổ số (The Lottery), với cốt truyện xoay quanh những điều tồi tệ của cuộc sống tại một thị trấn nhỏ, được mệnh danh là một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học Mỹ. Năm 1959, bà sáng tác Chuyện ma ám ở Dinh thự Hill (The Haunting of Hill House), cuốn tiểu thuyết kinh dị siêu nhiên được nhiều người coi là một trong những truyện ma hay nhất từng xuất bản. Bà có bản tính ẩn dật, hiếm khi nói về các tác phẩm của mình, và từng được những nhà văn tài ba như Stephen King, Sarah Waters và Neil Gaiman nói rằng đã ảnh hưởng đến văn phong của mình. *** Không một sinh vật sống nào có thể liên tục chỉ tồn tại trong thế giới thực mà không hóa điên. Ngay cả chim sơn ca và châu chấu cũng được một số người cho là có biết mơ. Dinh thự Hill thì chẳng còn tỉnh táo nữa. Nó đứng một mình trên những ngọn đồi, lưu giữ bóng tối trong lòng. Nó đã đứng như vậy trong suốt tám mươi năm và có thể sẽ tiếp tục đứng vững thêm tám mươi năm nữa. Bên trong, các bức tường tiếp tục vươn thẳng, gạch xếp chỉn chu, sàn nhà chắc chắn, và cửa nẻo đóng kín rất hợp lí. Sự im lặng kiên định phủ lên các lớp gỗ và đá của Dinh thự Hill, và nếu ở nơi đó mà có bất cứ thứ gì qua lại thì nó cũng qua lại một mình. John Montague là một tiến sĩ; ông ta đã lấy bằng nhân chủng học, mơ hồ cảm thấy rằng nếu hoạt động trong lĩnh vực này, ông ta sẽ có thể làm được những việc sát với nghề nghiệp đích thực của mình nhất, ấy chính là phân tích các hiện tượng siêu nhiên. Bởi vì các công cuộc điều tra của mình là hoàn toàn phi khoa học, ông ta sử dụng học vị của bản thân rất cẩn trọng, hi vọng rằng học vấn của mình sẽ giúp công việc mang vẻ khả kính hơn, hay thâm chí mang tính học thuật. Vì không phải hạng người hay xin xỏ, ông ta đã phải chi ra cả một khoản tiền khổng lồ, đồng thời chấp nhận vứt bỏ sĩ diện để thuê Dinh thự Hill trong ba tháng, nhưng ông ta hết sức tin tưởng rằng mọi nhọc nhằn của mình đều sẽ được bù đắp hoàn toàn. Nguyên nhân là bởi dư luận kiểu gì cũng sẽ xôn xao hết cả lên ngay khi ông ta xuất bản công trình chuẩn mực của mình về các nguyên nhân và hậu quả của những nhiễu loạn ngoại cảm trong một ngôi nhà thường bị gọi là “có ma ám”. Ông ta đã dành cả đời tìm kiếm một ngôi nhà bị ma ám đích thức Khi nghe về Dinh thự Hill, mới đầu ông ta cảm thấy nghi ngờ, sau đó là hi vọng, và rồi kiên trì không biết mỏi mệt. Một khi đã tìm thấy Dinh thự Hill, sẽ không có chuyện ông ta buông bỏ nó. Điều Tiến sĩ Montague định làm đối với Dinh thự Hill bắt nguồn từ các phương thức hoạt động của những thợ săn ma dũng cảm thời thế kỉ mười chín; ông ta sẽ đến sống trong Dinh thự Hill và xem chuyện gì xảy ra ở đó. Ban đầu, ông ta định bụng sẽ bắt chước cái bà vô danh từng đến ở tại Ngôi nhà Ballechin* và tổ chức bữa tiệc tại gia kéo dài suốt mùa hè cho những người hoài nghi và các tín đồ, với bóng cửa* và theo dõi ma là những hoạt động thu hút nổi bật. Nhưng người hoài nghi, tín đồ, và tay chơi bóng cửa giỏi ngày nay khó kiếm lắm. Tiến sĩ Montague buộc phải thuê trợ lí. Có thể nguyên cớ là bởi bản chất nhàn nhã của cuộc sống thời Victoria phù hợp với công việc điều tra tâm linh hơn, hoặc có lẽ là chẳng còn mấy ai đo lường thực tại bằng cách tỉ mẩn ghi chép lại các hiện tượng sự việc nữa. Dù gì thì gì, Tiến sĩ Montague không chỉ cần phải thuê trợ lí, mà còn phải đi tìm kiếm họ. Ngôi nhà Ballechin: Một ngôi nhà bị đồn là có ma ở Scotland. Croquet: Một môn thể thao mà trong đó người chơi dùng gậy để đánh trái bóng gỗ qua khung sắt trên sân cỏ. Ra đời vào thế kỉ 13 tại Pháp, đây là môn thể thao dành cho giới thượng lưu. Vì tự coi bản thân là một con người cẩn thận và chu đáo, ông ta đã dành ra cả một khoảng thời gian đáng kể để tìm kiếm các trợ lí của mình. Ông ta tra cứu hồ sơ của các hội tâm linh, những ấn bản báo chí đăng tin giật gân được lưu trữ, báo cáo của những chuyên viên nghiên cứu về các hiện tượng siêu linh, và đã tập hợp được một danh sách tên của những người từng dính líu với các sự kiện phi thường, không bằng cách này thì cũng bằng cách khác, tại bất cứ mốc thời điểm nào, bất kể ngắn ngủi hay khó đáng tin cậy đến cỡ nào. Trước tiên ông ta loại bỏ khỏi danh sách tên của những người đã chết. Sau đó, ông ta gạch bỏ tên của những người xem chừng muốn đánh bóng tên tuổi, không đủ thông minh, hoặc không phù hợp, bởi rõ ràng là họ rất hay chiếm ánh hào quang. Và rồi ông ta đã có được danh sách với tầm một tá cái tên. Sau đó, mỗi người trong số họ đều nhận được thư từ Tiến sĩ Montague, mời đến nghỉ cả hè hay một phần của mùa hè tại một ngôi nhà thôn quê tiện nghi. Nhà đã cũ, nhưng được trang bị đầy đủ hệ thống dẫn nước, điện đóm, hệ thống sưởi tập trung, và chăn nệm sạch. Những lá thư nêu rõ rằng mục đích ở lại tại đây của họ sẽ là quan sát và tìm hiểu về những câu chuyện ghê rợn đã được đồn đại về ngôi nhà trong gần như toàn bộ quãng thời gian tám mươi năm tồn tại của nó. Những lá thư của Tiến sĩ Montague không nói thẳng thừng rằng Dinh thự Hill bị ma ám bởi vì Tiến sĩ Montague là dân làm khoa học, và cho đến khi đã thực sự trải nghiệm một hiện tượng tâm linh ở trong Dinh thự Hill, ông ta sẽ không làm gì quá liều. Do đó, những lá thư của ông ta mang vẻ nghiêm trang mơ hồ nào đó, được gài vào đầy chủ tâm nhằm khơi gợi óc tưởng tượng của một kiểu độc giả rất đặc biệt. Tiến sĩ Montague đã có bốn thư phúc đáp cho những lá thư của mình. Tám ứng viên còn lại có lẽ đã chuyển nhà và không để lại địa chỉ chuyển tiếp, hoặc có thể đã không còn hứng thú với các hiện tượng siêu thường, hay thậm chí còn có khả năng là chưa bao giờ tồn tại. Tiến sĩ Montague viết thư trả lời bốn người đã phúc đáp kia, nêu cụ thể ngày tháng ngôi nhà chính thức dùng để ở được, và gửi kèm theo hướng dẫn chỉ đường chi tiết. Như ông ta buộc phải giải thích, thông tin về đường đến ngôi nhà này khó kiếm vô cùng, đặc biệt là từ cộng đồng người dân quê sống quanh nó. Vào cái ngày trước khi lên đường đến Dinh thự Hill, Tiến sĩ Montague đã được thuyết phục để cho một đại diện của gia đình sở hữu ngôi nhà đến ở cùng mình. Bên cạnh đó, ông ta nhận được bức điện tín từ một trong những người tham gia, xin rút với cái lí do nghe rõ ràng là bịa đặt. Thêm một người khác không hề trình diện hay viết thư nhắn lại gì cả, có lẽ vì vướng phải vấn đề cá nhân cấp bách nào đấy. Hai người còn lại thì đến.   Khi đến Dinh Thự Hill, Eleanor Vance ba hai tuổi. Vì bây giờ mẹ đã mất, người duy nhất trên đời mà cô thực sự căm ghét chính là chị gái của cô. Cô không thích gã anh rể và đứa cháu gái năm tuổi của mình, và cô cũng chẳng có bạn bè gì cả. Nguyên nhân chủ yếu là do quãng thời gian mười một năm cô phải bỏ ra để chăm sóc người mẹ ốm yếu của mình. Giai đoạn ấy đã giúp cô phần nào trở thành một y tá thạo việc, đồng thời cũng khiến cô không thể không chớp mắt trong ánh nắng chói chang. Cô chẳng thể nhớ nổi liệu mình đã có lần nào cảm thấy thực sự hạnh phúc trong quãng đời trưởng thành hay chưa. Những năm tháng cô sống cùng mẹ chỉ toàn cảm giác tội lỗi, với các màn trách mắng vặt vãnh, mệt mỏi triền miên, và nỗi tuyệt vọng khôn nguôi. Cô chưa bao giờ muốn hình thành một bản tính dè dặt và nhút nhát, nhưng do đã phải ở một mình quá lâu, không có ai để yêu thương, thế nên cô luôn thấy ngại và chẳng biết lựa lời ra sao khi nói chuyện với người khác, kể cả khi chỉ là vài lời xã giao. Tên của cô xuất hiện trong danh sách của Tiến sĩ Montague bởi vì một ngày nọ, hồi cô mười hai tuổi và chị gái cô mười tám tuổi, bố của họ bấy giờ mới chết chưa được một tháng, một trận mưa đá đã trút xuống nhà họ, không chút dấu hiệu cảnh báo hay chút mục đích, lí do nào, đá cục rơi xuống từ trần nhà, ồn ã lăn xuống dưới tường, phá vỡ các cửa sổ và đập điên cuồng trên mái. Trận đá tiếp tục trút xuống cách quãng suốt ba ngày. Trong suốt thời gian đó, Eleanor và chị gái cô không sợ mớ đá bằng những người hàng xóm và người hiếu kì hằng ngày vẫn tụ tập ngoài cửa trước, và cả sự quả quyết đầy mù quáng, cuồng loạn của mẹ họ rằng đứng đằng sau toàn bộ vụ việc này là những cư dân độc ác, ném đá giấu tay sống trong khu, vốn đã thù ghét bà kể từ khi bà đến đây. Sau ba ngày, Eleanor và chị gái cô được chuyển đến nhà một người bạn và những viên đá ngừng rơi, đồng thời cũng không bao giờ còn tái xuất hiện nữa, mặc dù Eleanor cùng với chị và mẹ đã trở về sống trong căn nhà ấy, và mối thù hẳn với người dân trong khu mãi không đi đến hồi kết. Ngoài những người mà Tiến sĩ Montague đã tham vấn thì câu chuyện đã bị tất cả mọi người lãng quên. Eleanor và chị gái của cô thì chắc chắn đã quên chuyện ấy, dù lúc vụ việc diễn ra, mỗi người bọn họ đều cho rằng người kia là thủ phạm. Trong suốt quãng đời khốn khổ của mình, kể từ hồi có những kí ức đầu tiên, Eleanor đã chờ đợi một thứ như Dinh thự Hill. Trong suốt quãng thời gian chăm sóc mẹ, nhấc một bà già cáu bẳn từ ghế lên giường, bày ra một lượng bất tận những khay nhỏ gồm xúp và bột yến mạch, giặt giũ mớ đồ bẩn thỉu, Eleanor luôn vững tin rằng đến một ngày nọ, sẽ có chuyện gì đó xảy ra. Cô đã gửi thư chấp nhận lời mời đến Dinh thự Hill, mặc dù anh rể của cô nhất quyết đòi gọi cho một vài người để đảm bảo rằng cái tay tiến sĩ này không có ý định làm trò gì với Eleanor, mấy trò mọi rợ liên quan đến cái chuyện mà chị gái Eleanor tin rằng một phụ nữ trẻ chưa lập gia đình không nên biết. Trong phòng ngủ riêng của hai vợ chồng, chị của Eleanor đã thì thầm rằng, Chưa biết chừng Tiến sĩ Montague nêu đó rốt cuộc đúng là tên của ông ta - chưa biết chừng cái ông Tiến sĩ Montague này SỬ DỤNG phụ nữ để phục vụ cho một... ờm... THÍ NGHIỆM nào đó. THÍ NGHIỆM ấy... em BIẾT mà, cái kiểu ngữ ấy vẫn hay làm đó. Chị Eleanor cứ nói luôn miệng về các thí nghiệm mà mình từng nghe bảo giới tiến sĩ vẫn hay làm. Eleanor không biết gì về những chuyện như thế, hoặc nếu có thì cũng không sợ. Nói tóm lại, Eleanor sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu. Theodora - đó là cái tên dài nhất mà chị sử dụng. Các bản vẽ của chị được kí tên là “Theo”, và trên cửa căn hộ cũng như cửa sổ xưởng vẽ, danh bạ điện thoại, mớ giấy trắng và phía dưới bức ảnh đáng yêu đứng trên bệ lò sưởi của chị, cái tên luôn luôn chỉ là Theodora. Theodora hoàn toàn khống giống với Eleanor. Đối với Theodora, bổn phận và lương tâm là những đức tính của hội Nữ Hướng Đạo. Thế giới của Theodora tràn đầy niềm vui và sặc sỡ những sắc màu mềm mại. Chị lọt vào danh sách của Tiến sĩ Montague bởi vì sau một lần vừa cười đùa vừa mang trên mình hương nước hoa thảo dược vào trong phòng thí nghiệm, bằng cách nào đó chị đã xác định được chuẩn xác mười tám trong số hai mươi thẻ do một người trợ lí giơ khuất tầm mắt và tầm tai, rồi đến mười lăm trong hai mươi thẻ, và đến mười chín trong hai mươi thẻ, chí lấy làm thích thú và hào hứng trước tài năng đáng kinh ngạc của mình. Tên của Theodora nổi bật hẳn trong hồ sơ của phòng thí nghiệm, thế nên lẽ đương nhiên, nó lọt vào tầm ngắm của Tiến sĩ Montague. Theodora lấy làm khoái chí trước lá thư đầu tiên của Tiến sĩ Montague và đã phúc đáp vì tò mò (chưa biết chừng chính khả năng được khơi dậy trong Theodora, thứ từng giúp chị đoán biết biểu tượng ghi trên những tấm thẻ được giơ khuất tẩm nhìn là gì, đã thúc đẩy chị tìm đến với Dinh thự Hill), ấy nhưng chị lại hoàn toàn có ý định từ chối lời mời. Dẫu vậy, khi thư xác nhận của Tiến sĩ Montague được gửi đến, Theodora chẳng hiểu sao lại tự nhiên nổi hứng đi cãi nhau nảy lửa với người bạn ở chung căn hộ. Có thể thủ phạm lại là cái cảm giác thôi thúc đầy cấp bách kia. Cả hai bên đều đã thốt ra những lời mà chỉ thời gian mới có thể xóa nhoà. Theodora đã cố tình và đầy lạnh lung đập vỡ bức tượng nhỏ đáng yêu khắc họa hình ảnh của chị mà người bạn kia đã làm ra, và bạn chị đã tàn nhẫn xé nát tập thơ của Alfred de Musset*, món quà sinh nhật từ Theodora, đặc biệt chú tâm hành hạ cái trang có dòng chữ đề tặng đầy thương mến, cợt nhả của Theodora. Đây tất nhiên là những hành động không thể lãng quên được, và sẽ phải mất thời gian lâu sau họ mới có thể cười đùa được với nhau về chuyện này. Ngay tối hôm đó, Theodora đã viết thư chấp nhận lời mời của Tiến sĩ Montague và ra đi trong sự im lặng đầy lạnh nhạt vào ngày hôm sau. Alfred de Musset (1810 - 1857): Nhà viết kịch, nhà thơ, và tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp giai đoạn thế kỉ 19. Luke Sanderson là một kẻ dối trá. Hắn cũng là một tên trộm. Dì hắn, chủ nhân của Dinh thự Hill, rất thích khoe rằng cháu mình là người được cho ăn học ở những nơi tốt nhất, quần là áo lượt nhất, ăn sơn hào hải vị ngon nhất, và giao du với những thành phần bất hảo nhất mà bà từng biết. Bà sẵn sàng tận dụng mọi cơ hội có thể để tống hắn đi xa cho an toàn trong vòng vài tuần. Luật sư của gia đình đã thuyết phục được Tiến sĩ Montague rằng ông ta sẽ không thể thuê ngôi nhà để thực hiện mục đích của mình nếu không có sự hiện diện tại gia của một thành viên gia đình trong quãng thời gian ông ta lưu lại ở đó. Và có thể là ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ, ông tiến sĩ đã nhận thấy Luke sở hữu một sức mạnh hay bản năng sinh tồn nào đó chẳng khác gì loài mèo, và chính thế mà ông ta cũng muốn đưa Luke đến sống trong ngôi nhà chẳng kém gì bà Sanderson. Dù sao đi nữa, Luke cũng thấy thích thú, bà dì của hắn thì lấy làm biết ơn, và Tiến sĩ Montague thì hết sức hài lòng. Bà Sanderson nói với luật sư gia đình rằng đằng nào thì trong nhà cũng không có gi Luke ăn cắp được cả. Bà bảo rằng chỗ đồ bạc cũ cũng có chút giá trị, nhưng nó tượng trưng cho một khó khăn mà Luke gần như không đời nào vượt qua nổi: sẽ phải bỏ công bỏ sức ra để đánh cắp và biến được chúng thành tiền. Bà Sanderson nói thế là oan cho Luke. Khó có chuyện Luke cuỗm đồ bạc của gia đình, hoặc đồng hồ của Tiến sĩ Montague, hoặc vòng đeo tay của Theodora. Mấy trò bất lương của hắn chủ yếu chỉ giới hạn trong việc lấy mấy xu lẻ từ túi của dì mình và cờ gian bạc lận. Hắn cũng hay bán đồng hồ và hộp thuốc lá do bạn bè của dì hắn quý mến và đỏ mặt tặng. Một ngày nào đó Luke sẽ thừa kế Dinh thự Hill, nhưng hắn chưa bao giờ nghĩ mình sẽ sống trong đó. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Dinh Thự Hill của tác giả Shirley Jackson & Nguyễn Thành Long (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

4MK
4MK - cuốn sách giành giải Audie năm 2018 cho thể loại tiểu thuyết kinh dị, gay cấn. "Nạn nhân đầu tiên, Calli T Hai ngày sau khi bị bắt cóc, gia đình Tremell nhận được tải con gái mình trong hòm thư. Hai ngày sau đó, họ nhận được đôi mắt của cô. Hai ngày tiếp theo, chiếc lưỡi của cô được chuyển đến. Thi thể của cô gái được tìm thấy tại công viên B Bàn tay cô nắm chặt một mẩu giấy nhỏ ghi KHÔNG LÀM ĐIỀU ÁC" Bộ sách 4MK Thriller gồm có: 4MK Cái Chết Thứ Năm Đứa Trẻ Thứ Sáu *** J.D. Barker là một tác giả người Mỹ nổi tiếng quốc tế về phim kinh dị hồi hộp, thường kết hợp các yếu tố kinh dị, tội phạm, bí ẩn, khoa học viễn tưởng và siêu nhiên. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, Forsaken, là người vào chung kết cho Giải thưởng Bram Stoker năm 2014. *** “Nạn nhân đầu tiên, Calli T Hai ngày sau khi bị bắt cóc, gia đình Tremell nhận được tải con gái mình trong hòm thư. Hai ngày sau đó, họ nhận được đôi mắt của cô. Hai ngày tiếp theo, chiếc lưỡi của cô được chuyển đến. Thi thể của cô gái được tìm thấy tại công viên B Bàn tay cô nắm chặt một mẩu giấy nhỏ ghi KHÔNG LÀM ĐIỀU ÁC” Với 4MK, tác giả J.D. Barker được đánh giá là thế hệ tiếp theo của Stephen King và Thomas Harris. Tên sách có vẻ gì khó hiểu, mang tính học thuật và toán học quá… thực chất để ý hình con Khỉ trang bìa thì đây là từ viết tắt của ‘The-4th-Monkey-Killer’ (con khỉ thứ 4 làm điều xấu…chưa hiểu lắm đúng không???), nếu dân văn phòng thì không xa lạ gì 4 bức hình nhân “chú tiểu”, chú thứ nhất: bịt tai – không nghe điều xấu, chứ thứ hai: bịt mắt – không thấy điều xấu, chú thứ ba: bịt miệng – không nói điều xấu, chú thứ tư: khoanh tay sau mông – không làm điều xấu… nhưng nguồn gốc thật sự thì bắt nguồn từ văn hóa Nhật Bản, bốn chú tiểu hiện hành bạn thấy trên bàn làm việc là tượng trưng cho bốn chú khỉ… và 4MK tượng trưng cho con khỉ thứ 4, và tất nhiên con khỉ này được hiện thực hóa trong khuông khổ…đã-làm-điều-xấu. Mình rất thích lối kể chuyện mở ra bằng một kết thúc, và trong tác phẩm này cũng vậy… một tai nạn xe buýt tình cờ đã tông chết kẻ thủ ác và kéo lê xác hắn tận 5m – kẻ đã thực hiện thành công các cuộc tra tấn về mặt thể xác lẫn tinh thần của bất kỳ nạn nhân nào hắn “vô tình” bắt được, tất nhiên là tài xế xe buýt vô can! Bằng bút pháp tả thực… từng chân tơ, kẻ tóc của nạn nhân được tác giả miêu tả đầy mang rợ, tạo cho người đọc cảm giác đang chứng kiến cái ác được diễn ra nhưng vô cùng câm lặng không thể thốt thành lời. Tên thủ ác lần lượt là cắt tai, cắt lưỡi, khoét mắt của nạn nhân và gửi từng bộ phận đấy về cho chính cha mẹ ruột của họ… trước khi phần còn lại của cái xác nằm gói gọn đâu đó bên mặt hồ tĩnh lặng hay công viên thanh vắng… Nếu các bạn đã đọc “Sự im lặng của bầy cừu” thì sẽ thấy quen thuộc với kiểu ra tay tàn ác của kẻ sát nhân nhưng (LƯU Ý: spoil sự im lặng của bầy cừu) Jeam Gumb giết nạn nhân xong mới lột từng tấm da lưng, thì trong căn phòng tối này 4MK tra tấn thể xác họ… ngay khi họ còn sống!!! Tất nhiên không có bất kỳ một cuộc dạo chơi hoặc thuật dẫn dắt tâm lý nào từ kẻ thủ ác trong 4MK (đỡ phải chịu cảm giác nhức nhói về mặt tâm lý so với đọc Sự Im lặng của bầy cừu!) Vẫn phong cách đặt vấn đề quen thuộc của mình… để một cuộc giết người diễn ra cần ba yếu tố “nguyên nhân – động cơ – mục đích”, thế nguyên nhân gì đã khiến 4MK thực hiện cuộc thanh trừng như một kẻ mộ điệu thực thi công lý, và tội ác của hắn hiễn nhiên thách thức các mật vụ điều tra liên bang suốt nữa thập kỳ để rồi một chiếc xe buýt vô tình cán chết hắn, tất nhiên là hắn vừa mới thực hiện thành công một ca “tùng xẻo tai của một bé gái mười sáu tuổi” và cái chết của hắn đặt ra một dấu chấm hỏi rất lớn… cái ác vẫn tiếp diễn cho dù kẻ thủ ác thật sự đã chết??? Không có bất kỳ dòng hồi tưởng nào của kẻ sát nhân, xin nhắc lại đây là bút pháp tả thực, không ảo mộng về quá khứ, không huyễn hoặc tự đặt mình vào vai kẻ sát nhân và tưởng tượng! Tuy nhiên kẻ thủ ác vẫn để lại cuốn nhật ký, và nội dung quyển nhật ký tuyệt đối không liên quan gì về cô gái mười sáu tuổi… cuốn nhật ký như một thái độ tự mãng, một lời thách thức đối với cục điều tra liên bang! Dưới nhận định của một trong các điều tra viên thì “hắn như muốn bất tử, dùng cái chết để trở nên vĩnh hằng”. Điều mình thật sự thích trong tác phẩm này là quá khứ và hiện thực được kể lại song song nhưng ngược lối, có những lúc mình chỉ muốn đọc liên tục nội dung cuốn nhật ký của kẻ sát nhân, để hiểu được nguyên nhân – động cơ – mục đích của cuộc thanh trừng này, và tất nhiên, bài toán không hề đơn giản như vậy, một lần nữa chính các độc giả cũng như các bạn sẽ bị lừa như chính các điều tra viên liên bang mà thôi! Cậu truyện trong nhật ký là gì, cô gái mười sáu tuổi rồi sẽ ra sao??? Tất cả đang chờ các bạn trong cuốn 4MK, và mình chốt hạ câu cuối, hiện thực tàn ác… không có chỗ cho cung đàn ảo mộng đâu, nên đừng đọc vài trang sách đã tự mãng đoán ra được cái kết! Nếu dễ dàng như vậy thì 4MK đã không đạt danh hiệu “Cuốn sách giành giải Audie năm 2018 cho thể loại Tiểu thuyết Kinh dị, gay cấn”! Reviewer: Nhut Phan *** Porter Ngày 1 - 6:14 sáng Lại là nó, tiếng chuông điện thoại réo rắt mãi không dứt. Mình tắt chuông rồi cơ mà. Tại sao lại có chuông báo tin nhắn? Tại sao lại có tiếng chuông kêu nhỉ? Steve Jobs mất, Apple cũng ngắc ngoải theo luôn. Sam Porter lăn người sang bên phải, tay quờ quạng tìm chiếc điện thoại để trên kệ tủ đầu giường. Chiếc đồng hồ báo thức bay xuống, vỡ tan tành dưới nền nhà, kèm theo là tiếng rơi vỡ đặc trưng của món đồ điện tử rẻ tiền xuất xứ Trung Quốc. “Tiên sư cái tay.” Mần mò mãi, khi những ngón tay chạm được tới chiếc điện thoại, Porter rứt nó khỏi dây sạc rồi đưa ra trước mặt, nheo mắt liếc nhìn màn hình nhỏ xíu sáng chói. GỌI CHO TÔI - 911 Tin nhắn của Nash. Porter liếc nhìn sang vợ ở bên kia giường, chẳng thấy người đâu, chỉ thấy một tờ giấy nhắn: Em đi mua sữa, sẽ về ngay. xoxo, Heather Anh cằn nhằn gì đó rồi lại đưa mắt nhìn vào điện thoại. 6:15 phút sáng. Đáng buồn thay cho một buổi sáng tĩnh lặng. Porter ngồi dậy rồi ấn số gọi cho người cộng sự. Nash bắt máy sau hồi chuông thứ hai. “Sam à?” “Ừ, Nash.” Người đàn ông ở đầu dây bên kia nín lặng trong giây lát. “Tôi rất xin lỗi, Porter ạ. Tôi đã đấu tranh rất lâu không biết có nên gọi cho anh hay không. Chắc tôi phải bấm số của anh cả chục lần rồi ấy, nhưng vẫn chẳng dám xuống tay nhấn nút gọi. Cuối cùng tôi quyết định tốt hơn hết là nhắn tin cho anh. Để anh có cớ bơ tôi, anh hiểu chứ?” “Không sao đâu mà Nash. Có chuyện gì thế?” Lại tiếp tục là một khoảng lặng. “Anh sẽ muốn xem tận mắt đấy.” “Xem cái gì?” “Có một vụ tai nạn.” Porter day day thái dương. “Tai nạn á? Chúng ta là Tổ Trọng án cơ mà. Tại sao phải quan tâm tới tai nạn nhỉ?” “Anh phải tin tôi lần này. Anh sẽ muốn xem qua đấy.” Nash nói lại lần nữa. Giọng anh chàng nghe là lạ. Porter thở dài. “Ở đâu thế?” “Gần công viên Hyde Park, ven đường 55. Tôi nhắn anh địa chỉ rồi đấy.” Chuông báo tin nhắn vang lên to tướng sát bên tai, Porter đưa chiếc điện thoại ra xa. Mẹ cha cái thứ iPhone rởm đời! Anh nhìn xuống màn hình điện thoại, ghi lại địa chỉ rồi tiếp tục cuộc gọi. “Tôi sẽ có mặt trong khoảng ba mươi phút. Như thế được chứ?” “Được.” Nash đáp. “Chúng tôi chưa xong việc nhanh đến thế.” Porter ngắt máy rồi nặng nhọc lết hai chân xuống khỏi một bên giường, lắng nghe cái cơ thể năm mươi hai tuổi đang lên tiếng phản đối bằng đủ những tiếng khục khặc, răng rắc. Mặt trời đã dần lên cao, ánh sáng lọt vào trong nhà qua tấm rèm đã kéo xuống của cửa sổ phòng ngủ. Buồn cười thay, căn hộ không có mặt Heather lại trở nên tĩnh lặng và u sầu đến lạ. Đi mua sữa. Trên sàn nhà lát gỗ, chiếc đồng hồ báo thức lóe sáng như thể đang nháy mắt với anh, mặt đồng hồ nứt vỡ bên trên hiển thị những kí tự không còn tương ứng với các con số nữa. Hôm nay sẽ là một trong số những ngày như thế. Mà gần đây có rất nhiều ngày như thế. Porter bước ra khỏi căn hộ sau đó chừng mười phút, khoác trên người bộ cánh chỉn chu, đẹp đẽ nhất vốn thường dành để đi lễ vào Chủ nhật - bộ com lê màu xanh hải quân nhàu nhĩ mua ở cửa hàng Men’s Wearhouse từ gần một thập niên trước - rồi đi hết bốn lượt cầu thang để xuống tới khu sảnh chật chội của tòa nhà. Anh dừng lại trước chỗ để hòm thư, lôi điện thoại ra và bấm số điện thoại của vợ. Bạn đã gọi điện tới số điện thoại của Heather Porter. Vì đây là hộp thư thoại nên khả năng rất cao là tôi đã nhìn thấy tên của bạn trong danh sách cuộc gọi, và tôi có thể cam đoan một điều khá chắc chắn là tôi không hề muốn nói chuyện với bạn. Nếu bạn nguyện tâm nguyện ý cống nạp cho tôi bánh sô cô la hay các loại đồ ăn kiêng giàu dinh dưỡng khác, hãy nhắn tin chi tiết cho tôi và tôi sẽ cân nhắc sắp xếp lại vị trí của bạn trong danh sách những người quen biết và có thể sẽ gọi lại cho bạn sau. Nếu bạn là nhân viên kinh doanh đang tính dụ tôi đổi số thì làm ơn từ bỏ ý định luôn và ngay, tôi là của AT&T trong ít nhất một năm nữa rồi. Còn những người khác, xin hãy để lại lời nhắn. Hãy nhớ cho kĩ, chồng yêu của tôi là một chàng cớm nóng nảy, và chàng ta mang súng theo người đấy nhé! Porter mỉm cười. Giọng nói của cô luôn khiến anh mỉm cười. “Này, Button. Anh đây. Nash gọi điện. Có một vụ ở gần công viên Hyde Park. Anh đang xuống đó gặp anh ấy. Anh sẽ gọi lại cho em sau, chừng nào anh biết mấy giờ có thể về nhà.” Anh nói tiếp. “À mà anh nghĩ là đồng hồ báo thức của chúng ta không ổn rồi.” Anh thả điện thoại vào trong túi áo rồi đẩy người bước ra khỏi cánh cửa, những cơn gió lồng lộng của Chicago nhắc anh nhớ mùa thu sắp qua, nhường chỗ cho mùa đông đang tới.   Mời các bạn đón đọc 4MK của tác giả J. D. Barker.
Ván Cờ Đổi Mạng
Cuốn tiểu thuyết kể câu chuyện về cuộc đấu tay đôi đến chết của một trò chơi cờ vua vẫn chưa kết thúc trong hơn 50 năm. Khi một doanh nhân người Đức bị phát hiện đã bị bắn chết, một bí ẩn mở ra cho người đọc về sự ganh đua của người đàn ông này với một cầu thủ cờ vua Do Thái xuất chúng và mở ra bí ẩn trong quá khứ của họ. *** Mở đầu quyển sách đúng là một vụ án. Một doanh nhân thành đạt đồng thời cũng là một kỳ thủ có tiếng một thời bị chết. Thi thể ông ta nằm ngửa trong vũng máu của chính ông ta, ở chính giữa mê cung, khẩu súng ngắn quân dụng cũ của ông ta được tìm thấy cách đó vài bước. Khẩu súng được lắp ống giảm thanh và đã không ai nghe thấy tiếng nổ. Họ tìm thấy trên bàn làm việc của ông ta là một bàn cờ vua được sắp xếp trong thế trận phức tạp của một ván cờ đang chơi dở. Đó là một bàn cờ rất lạ: những mảnh vải xơ xác cả sáng lẫn sẫm màu được khâu lại với nhau. Những chiếc khuy áo có kích cỡ khác nhau đại diện cho các quân cờ, biểu tượng của mỗi quân được vạch một cách thô sơ lên mặt khuy, có lẽ bằng đinh. Nhưng các bạn chớ có tìm hung thủ làm gì, cũng đừng trông mong gì những pha đấu trí nghẹt thở hay những cuộc phiêu lưu điều tra phá án của một vị thám tử tài ba mà ta thường thấy trong các tác phẩm trinh thám. Hay tìm thấy những khiếm khuyết trong tâm hồn của các nhân vật bị tổn thương về tâm lý trong các tác phẩm trinh thám mà thiên về tâm lý của tội phạm. Bởi cái chết của ông sẽ đưa bạn trở về một thời kỳ mà mỗi lần nhắc lại người ta không khỏi rùng mình. Thời kỳ mà người ta đã phải thốt lên rằng sao nỡ ăn thịt đồng loại của mình. Cái thời kỳ mà Đức Quốc Xã bài trừ người Do Thái, đưa họ đến những trại tập trung, đày đoạ họ, biến người Do Thái thành trò chơi, trò tiêu khiển, mạng họ trở thành ván cược trong một trò chơi rồi sau đó là những vụ thảm sát hàng loạt đẫm máu. Không chỉ là ván cờ thông thường mà đó là ván cờ cuộc đời, ván cờ đổi mạng. Binh Boog *** Người ta nói rằng cờ vua được sinh ra trong đổ máu. Truyền thuyết kể lại khi trò chơi này lần đầu tiên được ra mắt trước triều đình, nhà vua quyết định thưởng cho người phát minh vô danh của nó bằng cách đáp ứng bất cứ sở nguyện nào của ông ta. Phần thưởng nhà phát minh thỉnh cầu có vẻ thật khiêm nhường: tổng số lượng gạo gộp lại khi đặt một hạt gạo lên ô đầu tiên trong số 64 ô của bàn cờ, rồi hai hạt lên ô thứ hai, bốn hạt lên ô thứ ba, cứ như thế. Thoạt đầu, nhà vua vui vẻ đồng ý, song đến khi nhận ra tất cả các kho lương vựa lúa trong vương quốc của mình, hay có khi cả thế gian, cũng không thể cung ứng đủ lượng gạo như thế, ông ta thấy tốt hơn nên giải thoát cho mình khỏi thế khó bằng cách cho chém đầu người phát minh khốn khổ. Truyền thuyết không nhắc tới chuyện nhà vua sau đó còn phải trả cái giá đắt hơn, ông ta bị trò chơi mới mê hoặc tới mức mất trí. Hóa ra chỉ có sự tham lam của chính trò chơi ấy mới bì kịp lòng tham của người phát minh trong truyền thuyết. Các báo ra hôm nay thuật lại cái chết của một người đàn ông tại một ngôi làng nằm cách Vienna không xa. Hôm qua, sáng Chủ nhật, một người có tên Dieter Frisch chết vì bị bắn. Báo cáo pháp y cho biết thời gian tử vong là khoảng 4 giờ sáng, kết quả của một phát đạn súng ngắn ở cự ly rất gần, viên đạn xuyên qua vòm họng và vọt ra qua thùy chẩm. Bài tường thuật trên báo đi kèm một bức ảnh mới chụp gần đây của người chết, cho thấy ông ta đang thư thái ngoài khu sân vườn ngôi biệt thự của mình như một điền chủ miền quê vừa trở về sau cuốc đi dạo thường ngày. Mặc đồ vải lanh sáng màu, ngồi duỗi trên chiếc ghế đan bằng liễu gai, vẻ như ông ta đang chìa bàn tay ra vuốt ve một trong hai con chó cuộn tròn dưới chân. Tôi đã xem bức ảnh đó và thấy thật khó nhận ra khuôn mặt, vì nó bị chìm dưới bóng cái vành một món đội đầu trông giống mũ Panama nhẹ. Chẳng lẽ diện mạo của một con người chỉ đơn thuần là tổng hòa của hình khối và trọng lượng, là những đường nét của một cấu trúc cơ thịt? Hay còn có thứ gì khác lâu bền hơn, nằm bất biến dưới những lớp thời gian tàn nhẫn? Ẩn dưới cái tên và diện mạo đó có khi nào là người tôi quen biết? Chỉ sau một hồi tập trung, những nét mặt đuợc luu giữ thật sâu trong trí nhớ tôi lại hiện lên, nhu một tấm hình trong suốt áp chồng lên khuôn mặt đã bị thời gian bào mòn song trông vẫn còn trẻ một cách ngoan cường đó. Các hàng tít nói nhiều tới sự ra đi của “nhân vật xuất chúng” này, song không hề nói xem chuyện này xảy ra như thế nào. Dưới sức ép từ gia đình nạn nhân, kiên quyết bác bỏ giả thuyết tự sát, gần nhu tất cả các tờ báo đều nhắc đến một “tai nạn”, “sự cố” hay cái chết trong “tình huống khó hiểu”. Cho dù bằng chứng có là gì đi nữa, nó cũng trở nên vô giá trị khi thiếu vắng một động cơ hợp lý. Tất cả những ai từng biết ông ta dường như đều sẵn sàng thề rằng ông ta hoàn toàn không có bất cứ lý do nào để tự kết liễu đời mình. Ông ta chưa bao giờ bị trầm cảm hay tỏ ra chán đời. Lần kiểm tra cuối cùng, mới gần đây, cho thấy sức khỏe ông ta hoàn toàn bình thường, và ông ta có phom dáng đáng để thèm muốn: ở tuổi sáu mươi tám, ông ta vẫn tích cực chơi các môn thể thao ưa thích, tennis và cưỡi ngựa, dù vẫn hơi tập tễnh kể từ cuộc phẫu thuật sau chấn thương do ngã ngựa. Cũng không hề có bất cứ dấu hiệu nào của rắc rối tài chính. Trên thực tế, chỉ vài ngày trước đó ông ta vừa giành được một hợp đồng xây dựng trị giá nhiều triệu đô la từ Bundesbank. Frisch là một trong những người dường như được vận may mỉm cười trong mọi lĩnh vực. Ông ta kết hôn với một người thừa kế giàu có và có bốn con trai, tất cả giờ đây đều có địa vị nổi bật trong xã hội. Ông ta có một cuộc sống ngăn nắp bình lặng, tuần dành ra bốn ngày ở Munich để điều hành việc làm ăn và quay lại Vienna vào thứ Sáu để được lái xe đưa tới nơi ông ta thích rồi dùng toàn bộ thời gian tự do của mình ở đó: một biệt thự nằm giữa khu tư viên mênh mông, bao quanh là khu săn bắn rộng 125 mẫu. Khu tư viên, được xây dựng từ cuối thế kỷ mười tám, từ lâu đã trở thành một điểm thu hút khách du lịch, được mở cửa vào mùa hè. Khách tới thăm được phép tham quan trại nuôi ngựa và tản bộ khắp khu đất, một kiệt tác thực thụ về nghệ thuật làm vườn và điều tiết nước, được thiết kế từ hơn một thế kỷ trước. Điểm nhấn là một mê cung đồng tâm được tạo thành từ những hàng rào cây cao ba mét dẫn tới một khoảng trống hình bàn cờ lát những phiến cẩm thạch vuông màu trắng và đen. Ở hai đầu đối diện của bàn cờ, các quân cờ đã được cẩn thận tạo nên bằng cách xén tỉa những cái cây tán rậm cao bằng người thật. Các quân đen được tạo thành từ thủy tùng, quân trắng từ hoàng dương. Như phần lớn những người ở tuổi mình, Frisch sống nề nếp. Một tuần ba ngày ở biệt thự, đúng 7 rưỡi sáng ông ta dậy và dành ra đúng năm phút dưới bể bơi nước lạnh trong nhà, tiếp đó là vài động tác thể dục mềm dẻo và tiến trình chỉnh trang mặc đồ tỉ mẩn như một nghi lễ. Đến khoảng 8 giờ, đã ăn vận chỉnh tề, ông ta sẽ đi xuống phòng ngồi chơi rộng thênh thang dùng bữa sáng thanh đạm được bưng ra trên những món đồ sứ tinh xảo: tách cà phê đen không đường và ít bánh mì nướng làm hoàn toàn từ bột mì cùng xíu mứt cam. Sau đó, ông ta sẽ lui vào phòng làm việc và dành thời gian còn lại của buổi sáng cho niềm đam mê lớn của bản thân, cờ vua. Ông ta sở hữu tất cả sách vở tài liệu về chủ đề này và tự hào về một bộ sưu tập quý giá những bộ cờ vua cổ. Cho dù đã nhiều năm không thi đấu, ông ta vẫn thuộc hàng kiện tướng và là chủ bút của một tạp chí uy tín về cờ vua. Mọi bằng chứng cho phép phỏng đoán là đã không có gì tác động đến thời gian biểu thường quy của ông ta cho tới tối thứ Sáu cuối cùng. Lái xe đến đón ông ta tại nhà ga ở Vienna như thường lệ. Họ chỉ trao đổi với nhau vài lời trên đường quay về biệt thự, và về tới đó lúc nửa đêm - chính xác là 1 giờ 45 phút. (Người lái xe luôn cẩn thận tính toán thời gian chuyến đi.) Frisch ra khỏi xe, và như thường lệ, trước hết đi tới khu chuồng chó, vuốt ve từng con trong số “cún con” của mình, đáp lại màn chào đón hân hoan của chúng. Sau đó ông ta vào nhà. Như tất cả những thứ Sáu khác. Nhưng ngay sáng sớm thứ Bảy bà hầu phòng lớn tuổi đã để ý thấy một điều lạ lùng trong cách cư xử của ông chủ. Frisch trông có vẻ như đã ngủ rất ít và không ngon giấc. Trên thực tế, bà sẵn sàng thề rằng kể cả có lên giường nằm, ông ta cũng không buồn cởi đồ. Vốn quen lấy thời gian biểu thường quy chính xác như đồng hồ của ngôi biệt thự làm niềm khuây khỏa lớn lao nhất, bà này rất lo lắng trước sự thay đổi đột ngột trong thói quen của ông chủ. Tuy nhiên, là một người làm công tận tụy hết lòng, bà cảm thấy ở vị trí của mình bà không nên nói gì với ai, thậm chí cả với những người làm khác. Bà cũng không báo với vợ Frisch, một phần vì vợ chồng ông ta ở các khu khác nhau của biệt thự và trên thực tế là sống đời riêng, chỉ xuất hiện cùng nhau ở những dịp lễ lạt hiếm hoi có tính nghi thức. Theo lời kể của bà hầu phòng, Tiến sĩ Frisch không hề ăn sáng ngày hôm đó, và bữa trưa của ông, được bưng tới vào giờ thường lệ, còn nguyên trên khay không được đụng đến. Ông ta dường như đã trải qua cả ngày một mình trong nhà, không tiếp vị khách nào. Chỉ khi nhân chứng của chúng ta mang bữa tối tới cho ông ta trong phòng làm việc, bà mới để ý thấy một ngọn đèn đã được bật lên. Nó vẫn bật khi bà đi ngủ vào khoảng 2 giờ sáng. Chủ nhật, quá 8 giờ sáng rất lâu mà vẫn chưa thấy bóng dáng Frisch. Lo lắng trước sự chậm trễ khác thường này, bà hầu phòng lên lầu tới phòng ngủ. Thấy trong phòng không có ai, giường chiếu phẳng phiu, thoạt đầu bà nghĩ ông chủ đã ngủ qua đêm ở nơi khác, dù đó không phải là thói quen của ông ta. Bà bắt đầu nghi ngờ khi thấy không thiếu chiếc xe nào trong gara. Sau đó, bà liên tục gõ cửa phòng làm việc, lớn tiếng gọi tên ông chủ. Không thấy ai trả lời, bà quyết định vào trong phòng, nhưng không có ai trong đó. Đến lúc này, bà cảm thấy mình không có lựa chọn nào khác ngoài đánh thức vợ Frisch, một nước đi không phải không có rủi ro, vì bà chủ nhà bị chứng mất ngủ hành hạ và vào thời điểm đó rất có thể đang tận hưởng thời khắc nghỉ ngơi đầu tiên của mình. Toàn bộ người làm nhanh chóng được huy động để tìm kiếm khắp hai mươi tám căn phòng, các hầm, khu dành cho khách, cuộc tìm kiếm được mở rộng ra tận khu tư viên xung quanh nhưng vẫn công cốc. Cuối cùng, một người nghĩ tới chuyện đưa mấy con chó của ông chủ tới. Hai con chó chăn cừu Đức yêu quý của ông ta đã sủa liên tục suốt buổi sáng. Khi con thứ nhất được thả ra, nó lao thẳng tới chỗ mê cung trong vườn; con thứ hai, được tròng dây, lập tức dẫn họ tới nơi. Thi thể Frisch, nằm ngửa trong vũng máu của chính ông ta, ở chính giữa mê cung; khẩu súng ngắn quân dụng cũ của ông ta được tìm thấy cách đó vài bước. Khẩu súng được lắp ống giảm thanh, và đã không ai nghe thấy tiếng nổ. Họ tìm kiếm xem có lời nhắn nào không nhưng vô ích, tất cả những gì họ thấy trên bàn làm việc của ông ta là một bàn cờ vua được sắp xếp trong thế trận phức tạp của một ván cờ đang chơi dở. Đó là một bàn cờ rất lạ: những mảnh vải xơ xác cả sáng lẫn sẫm màu được khâu lại với nhau. Những chiếc khuy áo có kích cỡ khác nhau đại diện cho các quân cờ, biểu tượng của mỗi quân được vạch một cách thô sơ lên mặt khuy, có lẽ bằng đinh. Trong tất cả các tờ báo tường thuật lại hiện trường được những nhân chứng tìm thấy, chỉ có một bài, trên một tờ báo tỉnh lẻ rất có thể thiếu thông tin trực tiếp, là bình luận về chi tiết có vẻ vặt vãnh này. Bài báo kết luận: “Sẽ không ai biết được vì sao Tiến sĩ Frisch lại chọn một mảnh giẻ rách như thế thay vì bộ sưu tập quý giá nổi tiếng của ông. Có lẽ nó chỉ được dùng cho ván đấu cờ cuối cùng của ông, với cái chết.” Mời các bạn đón đọc Ván Cờ Đổi Mạng của tác giả Paolo Maurensig.
Đốt Cháy Băng Giá
Nếu bạn là cô gái Dusty, nghe tiếng con trai lạ mặt tự nhận là người anh trai Josh mất tích bấy lâu của mình, bạn sẽ hoảng loạn và gọi điện cho cảnh sát? Bạn sẽ khóc oà và chạy vào phòng bố? Bạn sẽ cố ngủ vùi để quên đi giọng nói đầy ám ảnh? Bạn sẽ chạy thẳng vào trong cơn bão tuyết để rồi bị nhấn chìm trong màn đêm đen thẳm? Hay là... Đợi chờ tới đêm mai, Giữa màn đêm mịt mùng, khi bão tuyết gào rú, Chuông điện thoại lại reo... Và người con trai lạ mặt ấy, vẫn đợi bạn...! Sự xuất hiện của cậu bé kì lạ với cuộc điện thoại mỗi đêm khuya đã làm thay đổi cuộc đời Dusty. Những nghi ngờ và rượt đuổi, những bí mật kinh khủng được giấu kín, những sự thật không ai muốn phơi bày, sự sống dậy của một linh hồn tội lỗi... Tất cả cùng cuốn theo mạch câu chuyện để rồi ẩn số tưởng chừng không thể được giải mã dần hé lộ trong ánh sáng ảm đạm của buổi sáng mùa đông sau cơn bão tuyết điên cuồng... Không chỉ là một chuỗi kịch tính khiến bạn chẳng thể rời khỏi trang sách, Đốt Cháy Băng Giá còn mang một ý nghĩa nhân văn to lớn, mà chỉ đến những tình tiết cuối cùng người đọc mới nhận ra. Được thừa nhận về mặt ý tưởng cũng như cách kể chuyện lôi cuốn, Đốt Cháy Băng Giá của tác giả trẻ Tim Bowler đã gặt hái được rất nhiều giải thưởng về Sách hàng đầu như: Giải thưởng Sách Hull 2007, Giải thưởng Sách Highland 2007, Giải thưởng Sách Redbridge 2007, Giải thưởng Sách Trường Stockport 2007, Giải thưởng Sách Teen South Lanarkshire 2008, Giải thưởng Trường Sách Southern 2009, v.v. ... Nếu bạn là một tín đồ của viễn tưởng và kinh dị, Đốt Cháy Băng Giá chính là lựa chọn hàng đầu cho các bạn độc giả trẻ tuổi. Nếu tiết trời đang rét buốt, tốt thôi, hãy chuẩn bị một tách trà thật nóng, một góc quán thật tĩnh mịch, để hoà mình vào từng nhịp thở dồn dập của Đốt Cháy Băng Giá bạn nhé. Và nhớ là: Đốt Cháy Băng Giá không dành cho những cô nàng yếu tim! *** Sinh: 14 tháng 11, 1953 (tuổi 62), Leigh-on-Sea, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Tác giả Tim Bowler là nhà văn người Anh chuyên viết truyện cho lứa tuổi thanh thiếu niên. Ông đã có 19 tác phẩm được xuất bản, đoạt 15 giải thưởng, trong đó có giải thưởng danh giá Carnegie Medal cho tác phẩmCậu bé của sông phát hành vào tháng 8 vừa qua. Nếu như Cậu bé của sông là sự khám phá kỳ diệu, mãnh liệt về những tình cảm gắn bó của một cậu bé mới lớn với người ông bẳn tính thì trong Những cái bóng vừa được phát hành vào đầu tháng 12, Jamie, một cầu thủ quần vợt 17 tuổi luôn tự tìm cách để thoát khỏi cái bóng của cha tồn tại trong cuộc sống của cậu. *** “Tôi sắp chết rồi,” giọng nói lạ cất lên. Dusty siết chặt cái điện thoại. Cô không biết người này là ai. Một tên con trai chạc tuổi cô, căn cứ vào tiếng nói của hắn ta - khoảng chừng mười lăm, mười sáu tuổi, có lẽ lớn hơn một chút. “Có ai ở đầu dây không?” tên đó thì thào. Giọng hắn líu nhíu giận dữ. Cô liếc nhìn đồng hồ. Hai mươi phút nữa là tới nửa đêm. Cô đã trả lời điện thoại ngay lập tức vì nghĩ là ba gọi về báo ông bị kẹt vì tuyết rơi nhưng đang trên đường về. Cô không ngờ lại là tên con trai này. “Có ai ở đó không?” hắn hỏi. “Anh là ai?” Chỉ có tiếng ho khan đáp lại. “Và làm thế nào anh có số điện thoại này?” cô hỏi. “Chúng tôi không nằm trong danh bạ điện thoại.” Lại một tiếng ho nữa nhưng lần này hắn trả lời. “Tôi chỉ nghĩ đại ra một số điện thoại và quay số thôi.” Cô nhăn mặt. Đây hẳn là một trò chơi khăm rồi. Tối thứ Sáu, đêm giao thừa. Một tên con trai nào đó đang chọc phá bạn bè. Nếu lắng nghe thật kỹ, có lẽ cô sẽ nghe thấy được cả tiếng cười thầm bị nén lại ở đằng đó. Nhưng tất cả âm thanh cô nghe thấy là hơi thở khò khè nặng nhọc của hắn ở đầu dây bên kia. Cô nghĩ đến ba đang ở Beckdale hẹn hò. Cô đang vui vẻ ở nhà một mình lần đầu tiên sau nhiều tuần lễ, đặc biệt sau tất cả rắc rối mà cô đã bày ra để khiến ba đi đến cuộc hẹn, nhưng giờ cô ước gì ông mau chóng về nhà. “Cô có nghe tôi nói không?” hắn luống cuống nói. “Tôi đã nói tôi sắp chết mà.” Cô biết đó không phải sự thật. Nếu tên này thật sự gặp nguy hiểm thì hắn ta không thể nào nghĩ đại ra một con số rồi gọi nó. Hắn sẽ gọi 999. “Anh nên gọi cảnh sát,” cô nói. “Tôi không muốn cảnh sát.” “Thế thì là xe cứu thương.” “Tôi không muốn xe cứu thương.” “Nhưng anh nói là anh sắp chết mà.” “Tôi sắp chết đây.” “Thế thì anh cần gọi...” “Tôi không cần gọi bất cứ ai cả. Tôi đã nói tôi sắp chết mà. Tôi không nói là tôi muốn sống.” Một khoảng im lặng nặng nề mà cô chẳng thích thú gì. “Tôi vừa mới dùng thuốc quá liều,” hắn nói. Cô cắn môi, không chắc chắn phải tin vào điều gì nữa và miễn cưỡng bị lôi kéo sâu hơn vào thế giới của tên con trai này. Có thể hắn đang nói thật, có thể không, nhưng cho dù rắc rối của hắn là gì đi nữa thì đó cũng không phải là chuyện người khác có thể giải quyết được. “Tôi không thể giúp anh,” cô nói. “Cô có thể. Tôi chỉ muốn nghe một giọng nói thân thiện thôi. Ai đó để nói chuyện trong khi tôi lịm dần đi.” “Anh cần thành viên của hội bác ái chứ không phải tôi. Tôi sẽ cho anh số của họ.” “Tôi không cần hội bác ái,” hắn nói. “Tôi cần cô.” Chuyện này đang bắt đầu sởn gai ốc rồi đây. Tất cả bản năng của cô mách bảo cô hãy dập điện thoại ngay. Nhưng trước khi cô kịp làm vậy hắn lại nói. “Cô bao nhiêu tuổi?” “Không phải chuyện của anh.” “Cô nghe chừng khoảng mười lăm.” Cô không nói gì. Hắn ta đã đoán trúng, có lẽ chỉ là ăn may nhưng nó vẫn khiến cô lúng túng. “Cô tên gì?” hắn hỏi. “Đấy cũng không phải chuyện của anh.” “Sao cô không cho tôi biết nhỉ?” “Bởi vì nó không liên quan đến anh.” “Tên tôi là Josh.” Cô siết chặt máy điện thoại. Josh - trong tất cả những cái tên nó đã được chọn. Hắn lại nói. “Tôi đã nói tôi tên Josh mà.” “Không, đó không phải tên anh.” Cô đáp. Cô thầm cầu nguyện là mình đã đúng. Cô không muốn bất cứ ai tên là Josh cả. Một khoảng im lặng, rồi hắn nói. “Cô nói đúng. Nó không phải tên tôi. Nhưng cô có thể gọi tôi là Josh nếu cô muốn. Ý tôi là chỉ cần cho tôi có một cái tên là được.” “Tôi không hứng thú với việc đặt tên cho anh.” “Tùy ý cô thôi.” Hắn ta ngừng một chút. “Còn cô thì sao?” “Tôi thì sao cơ?” “Hãy cho tôi một cái tên để tôi có thể gọi cô. Bất cứ cái tên nào cô thích.” Lại một lần nữa bản năng trong cô gào thét bắt cô dập máy. Mấy cái trò tên tuổi này khiến cô cảm thấy dễ tổn thương, đặc biệt là chuyện nói về Josh. Cô bắt đầu cảm thấy thắc mắc về tên này. Hắn hoàn toàn là người xa lạ đối với cô, nhưng lại chọn ra một cái tên vô cùng có ý nghĩa với cô. Có thể đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng cũng có thể hắn biết cô là ai, nơi cô sống và ngay lúc này đang theo dõi nhà cô. Cô liếc mắt nhìn ra phòng khách. Đấy là căn phòng duy nhất trong nhà đang bật đèn sáng, nếu hắn đang quan sát từ bên ngoài, hắn chắc chắn đang nhìn chăm chăm vào ô cửa sổ này. Cô mừng là rèm cửa đã được kéo vào rồi. Nhưng điều đó không khiến cô cảm thấy an toàn hơn. Bản thân Thorn Cottage là một ngôi nhà duyên dáng đẹp đẽ. Vùng ngoại ô của Beckdale cách đó vài dặm về bên phải và không có gì ở bên trái ngoại trừ công viên Stonewell và khu đồng hoang Kilbury, xa xa là cái hồ và những đồi dốc đá, ở đây ít được bảo vệ. “Tôi không phải đang theo dõi qua cửa sổ đâu,” hắn đột nhiên nói. “Tôi không biết cô là ai và sống ở đâu.” Cô rùng mình. Dường như hắn có thể nói ra từng nỗi sợ hãi đang lướt qua tâm trí cô lúc này. Nhưng điều tiếp theo hắn nói mới càng làm tăng thêm nỗi lo sợ của cô. “Daisy à?” Cô cứng đờ người. “Anh nói gì cơ?” “Daisy. Tôi đang cố đoán tên cô. Thứ gì đó đại loại như Daisy.” Cô nuốt khan và lại thấy ánh mắt mình đang liếc về phía những tấm rèm cửa. “Tôi đã bảo rồi,” hắn nói. “Tôi không phải đang theo dõi ngoài cửa sổ đâu.” Bây giờ thì cô hoảng sợ thật sự. Tên con trai này dường như biết mọi điều cô đang làm và đang nghĩ. Cô cố gắng lý trí hơn. Có thể chuyện đó với hắn ta không khó khăn gì. Hắn chắc phải biết một cô gái trẻ trong hoàn cảnh thế này sẽ sợ hãi, nhận ra cô đang thắc mắc hắn ở đâu và có thể đang liếc nhìn ra cửa sổ. Nhưng cái tên Josh, rồi còn... Daisy nữa chứ. Nó không chính xác nhưng cũng gần đúng. “Tôi không phải tên Daisy,” cô chậm rãi nói. “Tôi không nghĩ cô tên đó,” hắn nói. “Nhưng nó gần giống như thế, đúng không?” Cô không trả lời. “Thế... Cô nàng cá tính thì sao?” hắn lại nói. “Tôi có thể gọi cô như thế không? Tôi biết nó thật quái dị nhưng cô nghe có vẻ giống một cô nàng bạo dạn.” Cô thở gấp. Bây giờ thì nghiêm trọng rồi đây. Chỉ duy nhất một người trên thế giới này từng gọi cô là cô nàng cá tính. Đó là cách gọi thân mật người đó dành cho cô, và thật quá mức không bình thường khi hắn có thể đoán được. Anh chàng này biết cô là ai - và còn biết nhiều là đằng khác. “Josh đang ở đâu?” cô lạnh lùng hỏi. “Tôi không biết ai tên Josh cả.” “Anh ấy đâu? Nói cho tôi biết.” “Tôi không biết ai là Josh mà.” “Anh vừa mới nói cái tên Josh một phút trước còn gì.” “Tôi bịa ra thôi. Giống như tôi nghĩ đại ra số điện thoại nhà cô ấy. Và cái tên Daisy nữa.” “Cả cô nàng cá tính nữa?” “Phải. Sao nào? Có ai gọi cô bằng cái tên đó à?” Cô không trả lời, đúng hơn là không muốn trả lời. Lúc này những nghi ngờ đang chạy đua trong đầu cô. Anh chàng này biết nhiều hơn so với những gì hắn chịu thừa nhận. Cô phải tìm hiểu cho ra đó là gì. Một khuôn mặt chập chờn hiền ra trong tâm trí cô: gương mặt cô đã không được thấy từ hai năm nay nhưng nó vẫn luôn ám ảnh từng ngày, đôi khi là từng giờ, thậm chí dường như là từng phút trong đời cô. “Josh đang ở đâu?” Cô lại hỏi. “Tôi đã nói cô rồi. Tôi không biết ai tên Josh cả.” “Anh biết.” “Tôi không biết.” “Nhưng anh vừa nói...” “Tôi không quan tâm mình đã nói gì.” Giọng hắn bây giờ nghe đã có vẻ cáu kỉnh. “Tôi không quan tâm ma xui quỷ khiến thế quái nào, được chứ? Tôi đã nói điều tôi nói. Tôi không biết nó nảy nòi ra từ đâu cả.” Cô cố gắng làm mình bình tĩnh lại. Cô biết phải thận trọng, phải thăm dò tên này nhưng nếu cô dồn ép quá, hắn sẽ gác máy. “Hãy cho tôi biết tại sao anh lại chọn mấy cái tên ấy,” cô nói. Nhưng tên đó không trả lời. Thay vào đó cô nghe thấy hắn đang nôn khan ở đầu dây bên kia. Cô lắng nghe, đầu óc rối bời. Nếu trò này chỉ là diễn kịch thì nó khá là đạt đấy. Tiếng nôn ọe tiếp tục dường như một lúc lâu, rồi đột nhiên ngừng lại. “Anh ổn chứ?” cô hỏi. Không trả lời, chỉ có một tiếng động khác mà cô lập tức nhận ra nó là tiếng gì. “Anh đang uống thứ gì đó,” cô nói. “Là gì thế?” “Rượu rẻ tiền,” có tiếp đáp lại. “Mùi vị như cứt ý.” Cô nghe thấy một tiếng lọc xọc. “Gì thế?” cô hỏi. “Cái gì cơ?” “Âm thanh đó.” “Đây á?” Và cô lại nghe thấy tiếng lọc xọc đó lần nữa. “Phải rồi.” “Lọ thuốc viên,” hắn nói. “Tôi nghĩ mình có thể vật vã lần cuối nhiều nên mang thêm một ít nữa. Nếu mà tôi có thể bỏ cái nắp chết tiệt này ra.” “Nghe này,” cô bắt đầu định nói. Nhưng tên con trai kia không nghe nữa. Hắn ta hình như đã bỏ điện thoại xuống và đang đánh vật để mở lọ thuốc ra. Cô nghe tiếng hắn chửi rủa mình khi vặn cái nắp lọ. Sau đó cô nghe thấy tiếng rên rỉ hài lòng, tiếp theo sau đấy là một khoảng im lặng. “Anh còn đó không?” cô hỏi. Không có tiếng trả lời. Cô cố suy nghĩ. Bây giờ cô tin rằng tên con trai kia đã dùng quá liều thuốc và thậm chí ngay lúc này cũng đang nuốt thêm thuốc nữa. Nhưng cô cũng tin rằng hắn biết điều gì đó về Josh. Cô phải moi cho được những gì có thể từ chỗ hắn. Nhưng trước hết cô phải cứu sống hắn đã, điều đó có nghĩa là phải tìm ra xem hắn đang ở đâu. Nếu may mắn hắn sẽ nói cho cô biết. Có khả năng đây không phải là một nỗ lực tự sát mà là một lời cầu cứu. “Anh còn đấy không?” cô lại gọi.   Mời các bạn đón đọc Đốt Cháy Băng Giá của tác giả Tim Bowler.
Những Miền Linh Dị - Ấn Độ
Những trải nghiệm kinh hoàng đã chia tách hai người bạn, chỉ còn 1 người phiêu bạt sang Ấn Độ tiếp tục hành trình chân tướng. Từ đất nước của nền văn minh sông Hằng cổ xưa và huyền bí, những câu chuyện ly kỳ liên tục truyền về. Phong tục thủy táng trên sông Hằng, truyền thuyết về vua Asoka in dấu trên tám vạn bốn ngàn chùa tháp, bóng ma áo đỏ trên bãi biển Dumas và loài hoa địa ngục Manjusaka, tín ngưỡng thờ thần Silva và làng người mặt bò, thuật yoga Kundalini và người rắn bất tử, các tu sĩ Aghori chuyên ăn xác chết nổi trên sông Hằng, những bức phù điêu sắc dục trong đền thờ thần tình ái Khajuraho... Và hai người bạn lại gặp nhau trong trải nghiệm kinh hồn tại pháo đài ma ám Bhangarh Fort... *** Bộ sách Những Miền Linh Dị gồm có: Những Miền Linh Dị - Tập 1: Thái Lan Những Miền Linh Dị - Tập 2: Nhật Bản Những Miền Linh Dị - Tập 3: Ấn Độ Những Miền Linh Dị - Tập 4: Hàn Quốc ... *** Tôi nằm trên giường, nghe Nguyệt Bính kể chuyện suốt đêm. Khi Nguyệt Bính kể xong câu chuyện cuối cùng thì cậu bạn phòng bên đã mở cửa tập thể dục buổi sáng. Tôi nhìn ra cửa, đôi mắt kèm nhèm và đỏ sọng khiến tôi nhìn cậu bạn mà như nhìn qua một lớp sương mù. Nguyệt Bính nằm vật ra giường: "Mệt quá, tao ngủ tí nhé. Mày nhớ mua cơm chiều cho tao, trưa đừng có gọi tao, có gọi tao cũng chẳng bò dậy nổi." Tuy mắt tôi cũng chực sập xuống, nhưng những câu chuyện của Nguyệt Bính khiến tôi sợ hãi và ám ảnh, cứ nhắm mắt lại là những lời kể của nó lại biến thành hình ảnh hiện ra sống động trong đầu. Tôi buộc phải ngồi dậy rửa mặt, rồi đứng trước tấm bản đồ thế giới treo trên tường ngắm nghía hồi lâu. Đất nước Ấn Độ nằm trong đường viền biên giới, trông y như một viên kim cương cỡ lớn. Ấn Độ, một đất nước gây ấn tượng với người ta bởi vẻ huyền bí vô tận, bởi nền văn hoá độc đáo, bởi nền văn minh cổ đại có lịch sử lâu đời, bởi lịch sử Phật Giáo, bởi Mahatma Gandhi và thi nhân Rabindranath Tagore, nhưng những câu chuyện ly kỳ ẩn sâu trong đó thì không phải ai cũng biết... Nguyệt Bính đã kể cho tôi nghe những câu chuyện đích thân nó đã trải qua, và cả những truyền thuyết lượm lặt được trên đường lang bạt. Tuy đã trải qua những chuyện kinh tâm động phách ở Thái Lan và Nhật Bản, nhưng những câu chuyện nó kể vẫn khiến tôi phải chấn động. Có lẽ đúng như nó nói: "Khi thực sự vươn tới đỉnh cao của khoa học, mày sẽ phát hiện, tất cả những điều người bình thường không thể lý giải nổi. Người thành thị hiện đại chỉ biết đến vài cảnh chiến tranh qua phim ảnh, không bao giờ có thể cảm nhận được sự thực tàn khốc của chiến tranh. Khoảng cách giữa sự thực và hư ảo chỉ là ở chỗ, có dám đặt chân vào một thế giới khác không, có dám động chạm đến những thứ khác biệt không. Giống như hai chúng ta, sau khi bước vào thế giới này, tự nhiên sẽ nhìn thấy thứ mà người khác không bao giờ nhìn thấy, không bao giờ chạm tới." Nó nói đúng, đây chính là số mệnh của chúng tôi! Mời các bạn đón đọc Những Miền Linh Dị - Tập 3: Ấn Độ của tác giả Dương Hành Triệt.