Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thời Hoang Dã

Một kị sĩ dưới cái lạnh âm hai mươi lăm độ giữa thảo nguyên mênh mông. Một cô gái điếm giữa căn phòng khách sạn vắng. Sáu đứa trẻ trong một container tại kho hàng bỏ hoang. Một phụ nữ dưới đáy hố khai thác sỏi. Một giáo sư điểu học bên ngoài căn lều giữa mùa dzüüd khủng khiếp. Họ đều không còn sống khi được tìm ra. Họ được phát hiện gần như cùng thời điểm. Các cuộc điều tra đưa Yeruldelgger cùng cộng sự đến với lãnh thổ nhiều quốc gia, khiến câu chuyện mở ra một hướng hoàn toàn khác Sau Công lý thảo nguyên, Ian Manook lại gói gọn những phong cảnh, tập tục, ẩm thực và cả những bí mật của một vùng đất xưa nay vẫn luôn bí ẩn với thế giới vào trong một cuốn “đại” trinh thám, nơi ông một lần nữa tái khẳng định tài năng trong việc xây dựng các tình tiết và soi chiếu sâu sắc vào nhiều vấn đề của xã hội hiện đại. Giải thưởng Saint-Pacôme cho thể loại trinh thám năm 2015. *** Bộ sách Yeruldelgger gồm có: Công Lý Thảo Nguyên Thời Hoang Dã ... *** Ian Manook (tên thật là Patrick Manoukian) sinh ngày 13/8/1949 tại Meudon, Pháp. Sau khi tốt nghiệp Luật châu Âu và Khoa học chính trị thuộc Đại học Sorbonne và Học viện Báo chí Pháp, ông làm phóng viên độc lập, biên tập viên và nhà văn.Ông là người ưa thích du lịch, và đã đi rất nhiều nơi: Mỹ, Canada, Ấn Độ, Kathmandu, Iceland, Belize, Braxin,…Trong sự nghiệp viết văn, ông đã được nhận giải Gulli 2012 cho tiểu thuyết Anh em Bertignac. Công lý thảo nguyên là tiểu thuyết trinh thám đầu tiên của Patrick Manoukian, được viết dưới bút danh Ian Manook, đã đạt nhiều giải thưởng danh giá: SNCF, Elle Polar, Quais du polar (năm 2014) và Audiolib 2015,… và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   ***   …và đặt tay lên cò súng. Rụt cổ trong chiếc áo choàng lót lông có mũ, thanh tra Oyun cố gắng tìm hiểu tổng thể mọi việc. Cô ngồi xổm trên lớp tuyết lạo xạo và cúi xuống để nhìn cho rõ hơn. Cái lạnh rạch đứt hai bên đồng tử của cô, còn không khí giá buốt như cào xoang mũi mỗi lần hít vào. Cảm giác chẳng khác gì đang hít phải những mảnh thủy tinh vỡ. Xung quanh cô, thêm một dzüüd[^b1] khủng khiếp nữa bao trùm lên thảo nguyên trắng xóa. Đây là năm thứ ba liên tiếp nỗi bất hạnh trắng giáng xuống đất nước này. Những mùa đông lạnh giá vùng cực dài dằng dặc nối tiếp bằng những mùa hè nóng hừng hực quá ngắn ngủi. Những cơn bão tuyết kéo dài nhiều ngày khiến người ta không thể nhìn thấy cả căn lều, lạc lối để rồi đứng chết cóng khi chỉ cách lều có một mét. Rồi đến những ngày bầu trời xanh như sơn mài bị xuyên thủng bởi vầng dương nhỏ xíu trắng bệch chiếu lên một vùng đất đông cứng trong băng. Oyun không có chút ký ức nào về những dzüüd như thế trong tuổi thơ của mình. Lần đầu tiên cô còn nhớ là mùa đông năm 2001. Một mùa đông khắc nghiệt và kéo dài tới mức bảy triệu gia súc đã chết trên toàn quốc. Cô nhớ như in trong ký ức hình ảnh hàng nghìn người du mục, mới vài tháng trước còn đầy kiêu hãnh và cứng cỏi, bị đẩy dạt về thành phố để ăn xin và chết trong im lặng, rét cóng dưới cống ngầm ở Oulan-Bator. Đàn ông mất hết ngựa, phụ nữ mất hết bò và dê, trẻ con thì mất hết cừu non, thậm chí cả lũ cún con. Mùa đông năm đó đã cướp đi nhiều sinh mạng ở Mông Cổ hơn cả mấy chiếc máy bay đâm vào tòa tháp đôi ở Manhattan. Và trong hai năm tiếp theo, những dzüüd khác đã tàn sát nốt những gì còn lại của đàn gia súc yếu ớt. Đã từng có những nỗi bất hạnh đen, những mùa hè nóng như thiêu làm mặt đất nứt nẻ bị nung cháy đến tận tầng sâu, lẫn những nỗi bất hạnh trắng khi mà tuyết trùm kín thảo nguyên dưới một lớp vỏ băng giá. Hai nỗi bất hạnh khiến lũ gia súc bị bỏ mặc suốt mùa đông. Những con vật tản mát đi tìm thức ăn, lạc đàn, rồi chết vì đói và lạnh. Chỉ tới mùa xuân người ta mới tìm thấy hàng nghìn cái xác gầy trơ xương, bị tuyết làm chín cả da lẫn thịt. Thậm chí là hàng triệu, khi một dzüüd hội tụ trong nó nỗi bất hạnh còn lớn hơn cả hai nỗi bất hạnh đen và trắng. Đống xác nhỏ là chỗ nhô lên duy nhất trong bán kính nhiều kilômét thảo nguyên xung quanh. Oyun tự hỏi điều gì có thể lý giải sự hiện diện của nó, nhưng tránh tìm câu trả lời ở phía chân trời. Không khí lạnh căm khiến đường viền của những chỏm núi trở nên rõ nét tới mức mắt cô nhức như bị xé. Cô tập trung vào đám xác chất đống. Người lính lái chiếc xe bọc thép cổ lỗ từ thời Liên Xô xuống khỏi buồng lái chiếc AT-L cũ kỹ rồi đi tới bên cô. Cô nghe thấy tiếng cửa đóng sập lại, đanh gọn như tiếng một thân cây rỗng bị gãy, rồi tiếng lạo xạo đều đều của tuyết bị ép lún xuống dưới đôi bốt anh ta đi. Không nói một lời, anh ta ngồi xổm cạnh cô, đưa cho cô một cái ca sắt tây rồi lấy bình giữ nhiệt từ trong cái áo vạt dài truyền thống chần bông. “Ở trên cùng là một con bò Tây Tạng thuần hóa, cái này thì chắc rồi!” người lái xe xác nhận. “Một con bò Tây Tạng thuần hóa hoặc một con bò lai,” Oyun chỉnh lại. “Người du mục ở đây chỉ có bò lai. Hiếm khi có bò Tây Tạng hoang dã.” “Hoặc một con bò lai,” người lái xe nhượng bộ trong lúc xoay nắp chiếc bình giữ nhiệt giữa hai bàn tay đeo găng lót lông cừu to tướng. Anh ta tự rót cho mình một ca trà bơ nóng bỏng trước khi mời Oyun một ca. Là bò thuần hay bò lai, điều đó cũng chẳng làm thay đổi gì nhiều. Cái xác bị phanh bụng của con vật phủ lên những cái xác khác. Băng bện thành những lọn lấp lánh các đốm sương giá trên bộ lông và trong bụng con vật. Con vật phủ phục, bốn chân xoạc ra, nom thật ghê tởm, phủ phần ruột gan đóng băng lên những thứ nằm dưới bụng nó. Ít nhất cũng không có mùi gì. Vào mùa hè, khi nhiệt độ ở cùng địa điểm lên tới hơn bốn mươi độ, đống xác chết này hẳn đã phả ra mùi xú uế không thể nào chịu nổi. Không khí lạnh giá khử trùng cho mọi thứ, kể cả nỗi kinh hoàng. Người lái xe cúi xuống để nhìn qua những rẻ sườn bị gãy của con vật, rồi lách một bàn tay vào giữa khối phủ tạng cứng đơ, rắn chắc… “Bò cái!” anh ta nói. “Đây là con cái.” “Cũng chả quan trọng!” Oyun vừa thở dài vừa bấu chặt ngón tay vào ca trà. “Thế còn bên dưới?” “Bên dưới là một con ngựa,” người lái xe nói không chút do dự. Có thể nhận ra điều đó nhờ những chiếc móng đóng vào bốn cái chân bị bẻ trật khớp nằm lẫn lộn với chân của con bò Tây Tạng. Phần thân con vật mà Oyun nhìn thấy có vẻ đã bị gãy ở lưng. Xác một con bò cái Tây Tạng bị phanh bụng phủ lên xác bị đánh gãy của một con ngựa, trong điều kiện âm hai mươi lăm độ và ở cách Oulan-Bator năm trăm kilômét, đây không hẳn là cuộc điều tra thuộc đội cảnh sát hình sự. Có lẽ cô sẵn sàng để lại vụ này cho cảnh sát địa phương. Thế nhưng lại còn cái chân đó. Một cái chân đi ủng, bàn chân vẫn còn mắc vào bàn đạp thúc ngựa, trồi ra giữa phần lưng đóng băng của con ngựa chết và cái bụng mở phanh của con bò Tây Tạng. “Đó là người kỵ sĩ,” anh lính giải thích. “Tôi hơi nghi ngờ chuyện đó,” Oyun đáp, hai bên hông đột nhiên đau buốt vì giá lạnh và mệt mỏi. “Vấn đề là tìm xem anh ta làm gì ở đó!” “Anh ta đã ở trên lưng ngựa,” người lính nhận xét. “Phải, và bây giờ anh ta ở dưới con bò!” nữ thanh tra bực bội. “Ta đã có manh mối gì về việc đây có thể là ai chưa?” “Chưa,” người lính trả lời. “Ta mới chỉ có mỗi cái chân.” “Và anh đã không tìm cách kéo anh ta ra để tìm kiếm manh mối sao?” “Tôi là quân nhân,” người lính bật ra cụt lủn. Oyun quay đầu nhìn anh ta chằm chằm không chút e dè. Yeruldelgger đã kể với cô về những người du mục trở thành viên chức nhà nước. Mọi điều tạo nên phẩm chất của người du mục cũng chính là hạn chế của người viên chức. Nhất là nếu anh ta lại là quân nhân. “Dẫu sao cũng có thể thử tìm hiểu xem người này là ai, phải không?” Oyun quỳ gối xuống tuyết mà không chờ câu trả lời, rồi nắm lấy chiếc ủng mà băng giá đã gắn chặt phần da vào bàn đạp. Cô cố kéo cái chân của xác chết ra nhưng không ăn thua. Cẳng chân, cứng đơ như một thân cây hóa thạch, không nhúc nhích lấy một li. Cô liền chống người tạo thành đồn bẩy, tì vai vào xác con bò, và trong lúc thực hiện hành động của mình, cô bắt gặp ánh mắt người lính. Anh ta không có vẻ tán thành việc cô làm. “Sao hả?” cô bực bội, thở hổn hển vì gắng sức. Cô vã mồ hôi dưới lớp áo khoác, trong khi hai lá phổi của cô như bị băng giá phủ kín từ bên trong. Cô không trong tâm trạng có thể chịu đựng vẻ uể oải cam chịu của người lính. “Không nên làm thế,” anh ta lẩm bẩm chê trách. “À vậy hả? Thế sao lại không?” nữ thanh tra vừa đáp lại vừa kéo cái chân như một tên tù khổ sai đẩy mái chèo. “Vì băng giá.” “Bởi vì anh tin là nó…” Có thứ gì đó gãy rắc và Oyun ngã bật ra sau trong tiếng lạo xạo của tuyết bị đè bẹp. Khi cô nhổm dậy, khuôn mặt bị giá lạnh cứa vào, Oyun giật mình kinh hãi vội ném ngay cái cẳng chân ra xa. “Tôi từng thấy những mùa dzüüd làm thân bạch dương bị đóng băng tới tận lõi khiến chúng trở nên giòn như thủy tinh,” người lính giải thích. “Thế nên một cái chân…” “Tôi không tin chuyện đó!” Oyun vừa lẩm bẩm vừa nhặt cái chân đóng băng cứng giơ lên. Cả xương lẫn da thịt bị bẻ gãy ngang đùi, cũng như phần vải của ống quần. Nó không còn chút đặc tính nào của một cái chân người. “Ít nhất tôi cũng có thứ để yêu cầu xét nghiệm ADN…” Cô nhìn lần cuối đống xác chết nhỏ, ngẫm nghĩ một lát, rồi ra hiệu bảo anh lính lại gần. “Theo anh, chúng ta có thể chằng một sợi xích vòng quanh rồi dùng xe của anh kéo bật cả đống này lên được không?” “Cô sẽ làm gãy con ngựa và có thể là cả người kỵ sĩ nữa…” “Chúng ta không thể để anh ta lại đó suốt mùa đông được! Sớm muộn gì lũ thú ăn xác chết cũng tìm tới.” “Cô có thể nán lại hai ngày không?” “Ở đây á?” Oyun thốt lên. “Ở chỗ tôi, tại đồn.” “Làm thế sẽ giúp công việc của tôi tiến triển như thế nào?” “Nếu cô muốn mang ba cái xác của cô về, cần rã đông chúng, và tôi biết phải làm thế nào.” “Phải, tôi cũng đã nghĩ tới chuyện đó,” Oyun đáp. “Chúng ta có thể đốt lửa xung quanh…” “Chúng sẽ không trụ được qua đêm đâu. Ở đồn có một chiếc lều cũ do những người du mục bỏ lại sau một mùa dzüüd. Chúng ta sẽ quây lều xung quanh đống xác. Rồi đốt hai hay ba lò than bên trong, và tôi có hai chiếc máy sưởi điện nhỏ. Tất cả sẽ tan chảy trong hai mươi bốn giờ. Cô có thể ra về với trọn vẹn anh chàng gãy chân của cô.” “Này, nói năng tôn trọng một chút!” Oyun cắt ngang. “Đó là một nạn nhân.” “Tôi đâu phải người đã bẻ giò anh ta!” người lính nói đùa. “Đồng ý. Nhưng dù sao cũng tôn trọng anh ta. Tôi đủ hối tiếc về những gì mình đã gây ra cho anh ta rồi.” “Cô không phải hối tiếc đâu, cô em. Cô giúp anh ta chán vạn ra rồi!” “À thế sao?” “Phải. Tổ tiên chúng tôi nghĩ rằng phải bẻ xương người chết để linh hồn họ có thể thoát ra. Họ để người chết ngoài thảo nguyên mà không chôn cất để cho thú hoang tới gặm xương và giải phóng linh hồn những người này.” Oyun chợt nhớ Yeruldelgger từng kể cho cô nghe điều tương tự. Cô cũng nhớ lại tất cả những gì ông đã dạy cô về việc tôn trọng lều du mục. “Nhất trí về chiếc lều, nhưng đừng xúc phạm các linh hồn từng sống trong đó.” “Cô đừng có lo. Các linh hồn đã rời khỏi căn lều này từ lâu rồi. Hơn nữa chúng ta sẽ không bít kín các khe. Chúng ta chỉ phủ kín nó bằng mái lều lớn thôi. Linh hồn người xưa trú ẩn trong lớp dạ. Chúng ta sẽ không quấy quả họ.” “Được,” Oyun đáp, cô bắt đầu thấy có cảm tình với anh chàng quân nhân ngày càng ít chất quân nhân và nhiều chất du mục này. “Tôi sẽ quay lại cùng anh. Tôi nợ nạn nhân cụt chân khốn khố này điều đó.” Trước khi quay trở lại chiếc xe bọc thép, cô đưa mắt nhìn đống xác lần cuối, và người lính đoán ra điều cô đang nghĩ. “Tôi từng thấy lũ bò Tây Tạng nhảy chồm lên như dê bất chấp trọng lượng của chúng. Người ta nghĩ chúng lờ đờ và điềm đạm, nhưng nếu bị săn đuổi, chúng có thể trở nên nhanh nhẹn và hung hãn. Người kỵ sĩ có thể đã đuổi theo con bò cái để bắt nó về chuồng. Có thể con ngựa của anh ta đã trượt chân, và thế là trong cơn hốt hoảng, con bò cái đã nhảy chồm tới đè lên anh ta trước khi anh ta kịp nhảy khỏi ngựa.” “Và làm gãy lưng con ngựa sao?” “Một con bò cái to có thể nặng tới ba trăm kí lô.” “Nhưng nếu vậy thì vì sao con bò cái lại bị phanh bụng ra?” “Chúng ta không biết người kỵ sĩ ở bên dưới là người như thế nào. Có khi anh ta có một cây urga. Có thể là cây sào buộc thòng lọng đã gãy trong cú ngã và con bò cái bị xuyên thủng bụng chăng?”   Mời các bạn đón đọc Thời Hoang Dã của tác giả Ian Manook & Lê Đình Chi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vụ Án Bí Ẩn Ở Styles (Thảm Kịch Ở Styles)
Sau thời gian tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất, đại úy Hastings quay trở về Anh dưỡng bệnh. Ông được người bạn cũ, cựu luật sư John Cavendish mời về điền trang của gia đình ở Styles, Essex để nghỉ ngơi. Tại đây Hastings đã làm quen với đại gia đình của nữ chủ nhân Emily Inglethorp, một gia đình có nhiều người đáng mến nhưng cũng nhuốm điều gì đó kỳ lạ. Sau vài ngày ở Styles, Hastings bất ngờ được chứng kiến một vụ án bí ẩn. Trong một đêm đẹp trời, bà Emily Inglethorp đột nhiên qua đời với những dấu hiệu của một người bị đầu độc strychnine. Tình cờ là trong khoảng thời gian đó thám tử Hercule Poirot, một thám tử lừng danh người Bỉ và là bạn cũ của đại úy Hastings, cũng đang sống lưu vong ở gần Styles. Poirot lập tức được John Cavendish mời về điều tra vụ án theo lời khuyên của Hastings. Ban đầu mọi nghi ngờ đều đổ dồn vào ông Alfred Inglethorp nhưng duy nhất chỉ có thanh tra Poirot tìm mọi cách bảo vệ cho ông khỏi bị bắt và đưa ra tòa. Một nghi phạm khác của vụ án, bác sĩ chuyên ngành độc dược Bauerstein hóa ra lại là một gián điệp người Đức trà trộn ở vùng đồng quê Anh. Cuối cùng sau thời gian liên tục khám xét tòa nhà và tìm kiếm bằng chứng, Sở Cảnh sát Anh Scotland Yard, đứng đầu là Chánh thanh tra Japp, đã bắt giam John Cavendish vì ông cựu luật sư gây ra nhiều sự nghi ngờ nhất. Tuy nhiên tại tòa, luật sư của John đã nhanh chóng bác bỏ được mọi lập luận của bên công tố vì không có bằng chứng trực tiếp nào chứng minh được John đã giết mẹ của ông. Vụ án kết thúc một cách bất ngờ khi Poirot chỉ ra rằng chính ông Inglethorp đã cùng với cô Evelyn Howard, bạn thân của bà Emily, giết vợ mình với mưu đồ chiếm đoạt tài sản thừa kế. Cô Evelyn Howard trước đó luôn tỏ ra khinh ghét ông Inglethorp với lý lẽ để bảo vệ bà Emily, nhưng thực chất chỉ là để che mắt mọi người về quan hệ họ hàng của cô với ông Alfred. Còn ông Inglethorp đã tìm mọi cách để bị bắt và kết án ngay từ đầu chẳng qua vì ông ta tin rằng mình không thể bị kết tội lần đầu tiên do thiếu bằng chứng, và như thế sẽ không thể bị kết án lại theo luật Bất hồi tố của Anh. Viên thám tử thông minh cũng giải thích lý do ông để cho John Cavendish bị bắt và đưa ra tòa mặc dù ông có bằng chứng chứng minh sự vô tội của John, đó là vì ông muốn dùng hoàn cảnh đó để hàn gắn mối quan hệ rạn nứt giữa John và Mary Cavendish. Vụ án kết thúc với việc Cynthia, cô gái mồ côi, và Lawrence Cavendish trở thành một cặp tình nhân. *** Nhân dịp Trẻ vừa phát hành thêm 2 cuốn mới về Poirot, xin được phép đăng review về lần xuất hiện đầu tiên của vị thám tử đầu quả trứng, coi như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng thân thiện để khuyến khích Trẻ xuất bản trọn bộ Agatha nhanh hơn.  ồ, hắn không phải thủ phạm -> đệch, hóa ra hắn là thủ phạm thật". Nói chung là dù không được đặc sắc như mấy tuyệt tác Vụ ám sát ông Roger hay Tàu tốc hành Phương Đông, nhưng vẫn rất xuất sắc, nhất là khi đây mới chỉ là tiểu thuyết đầu tay của Agatha Christie. Vậy nên, dù vẫn còn mấy điểm khá lấn cấn, ví dụ như việc thủ phạm tự giúp Poirot lật mặt mình, nhưng nhìn chung đây vẫn là một quyển sách mà mọi tín đồ của thể loại trinh thám đều nên có trên giá sách. Điểm: 8/10 Người viết: Phô Ních *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Vụ Án Bí Ẩn Ở Styles (Thảm Kịch Ở Styles) của tác giả Agatha Christie.
Hãng Thám Tử Tư (Những Kẻ Đồng Phạm)
Hãng thám tử tư/ Những kẻ đồng phạm Nguyên tác: Partners in Crime Năm phát hành: 1929 Thám tử: Tommy và Tuppence Giới thiệu: Sáu năm đã qua từ sau khi nhà Beresfords cộng tác phá án trong The Secret Adversary (Kẻ thù bí mật). Hiện nay Tommy làm công việc bàn giấy ở Sở Mật vụ Anh, còn Tuppence, mặc dù cực kì không hài lòng, vẫn phải ở nhà. Vì vậy, khi Giám đốc Cục tình báo Anh đề nghị họ điều hành hãng thám tử quốc tế, cả hai đều hào hứng nắm lấy những cơ hội phiêu lưu mới. 15 câu chuyện nhại lại các thám tử trong tiểu thuyết nổi tiếng với độc giả những năm 1920. Trong mỗi câu chuyện, Tommy và Tuppence bắt chước một phong thái và phương pháp của một thám tử hoặc đội thám tử, bao gồm cả Sherlock Holmes. (Nguồn bài giới thiệu: Fanpage Hội những người thích truyện trinh thám của Agatha Christie) *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Hãng Thám Tử Tư (Những Kẻ Đồng Phạm) của tác giả Agatha Christie.
Trổ Tài Thám Tử
T ruyện hình sự - tên gọi chung cho những tác phẩm văn xuôi có chủ đề là việc khám phá ra sự thật trong một vụ tội phạm (thường là sát nhân hoặc trộm cắp) - ban đầu chỉ phục vụ nhu cầu giải trí của người đọc nhưng đã có những bước tiến rất dài trong thế kỷ 20 và đã trở thành dòng sản phẩm chủ yếu của ngành xuất bản tại nhiều nước Tây phương, đặc biệt là ở Mỹ. Nhiều nhà văn tên tuổi lẫy lừng chỉ nhờ viết truyện hình sự, như Arthur Conan Doyle, George Simenon hay Agatha Christie, và cả một bậc thầy văn học như Jorge Luis Borges cũng từng viết thể loại này (cùng viết với Adolfo Bioy Casares dưới bút hiệu chung Honorio Bustos Domecq). Tại Mỹ, nơi có nền báo chí thuận tiện cho loại truyện giải trí, truyện hình sự đã phát triển mạnh mẽ. Chính sự cạnh tranh quyết liệt giữa các tác giả và các nhà xuất bản, cộng thêm phần thưởng tài chánh hậu hĩ (nhuận bút cao, tác phẩm sau khi ra đời dưới dạng sách có thể được chuyển thể cho kịch nghệ hoặc điện ảnh) đã khiến các tác giả không ngừng tìm tòi và làm mới cho truyện hình sự. Kiến thức của đủ mọi ngành (y học, sinh hóa, luật pháp, tội phạm học, tâm lý học, lịch sử, xã hội học và thậm chí cả khảo cổ học) đã được các tác giả khai thác để việc khám phá tội phạm trở nên ly kỳ hơn, và do đó hấp dẫn hơn. Truyện hình sự ngày nay thực sự đã trở thành một dòng văn học, đòi hỏi ở người đọc một trình độ kiến thức nhất định. Văn hình sự phản ảnh rất rõ lối sống, suy nghĩ và ngôn ngữ thường ngày của những tầng lớp bình dân và thế giới ngầm. Nó tràn ngập tiếng lóng và đủ kiểu nói ngọng hoặc nói sai văn phạm của dân nhập cư hoặc ít học trong xã hội và do đó góp phần tồn lưu và phổ biến thứ văn nói thường nhật của các tầng lớp thấp, khẳng định sự tồn tại và giá trị của nó bên cạnh dòng văn nói và văn viết bác học hoặc văn chính quy. Không dừng lại ở đó, nghệ thuật hình sự đã lan vào tới giáo dục. Tại nhiều trường tiểu học tại Mỹ, các thầy giáo đã trình bày kiến thức bài học dưới dạng truyện hình sự (một vụ trộm cắp, cháy nổ, mất tích, hay một biến cố kỳ quái) và học sinh chỉ có thể tìm được câu hỏi nhờ vào kiến thức đã hoặc đang học. Kiến thức đó có thể là khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội. Nhiều cuộc thi viết loại truyện kỳ án dựa vào kiến thức học đường như thế đã được tổ chức hàng năm ở rất nhiều trường học. Cách làm này khiến việc dạy học trở nên hứng thú hơn cho cả thầy lẫn trò, và cũng khẳng định sức hấp dẫn không thể cưỡng được của văn học hình sự. Tập truyện các bạn đang cầm trên tay gồm những truyện hình sự đã được dịch và cắt tỉa ở phần đoạn kết với mục đích là khuyến khích các bạn suy luận dựa trên sự kiện trong truyện và vận dụng kiến thức phổ thông để tìm ra sự thật đằng sau vụ án. Tập truyện có ba phần: Phần I gồm những truyện tương đối ngắn và đơn giản, coi như phần tập dợt suy luận theo nhiều hướng khác nhau. Phần II gồm những truyện dài và phức tạp hơn, thường là của các tác giả thành danh với truyện hình sự, rất giỏi trong việc tung hỏa mù (làm rối trí người đọc) và tạo kết thúc bất ngờ dựa trên kiến thức ở nhiều lãnh vực chuyên môn. Sau cùng, bạn sẽ tìm thấy câu trả lời cho các vụ án ở phần III (Kết quả phá án) ở cuối sách. Hy vọng đây sẽ là một cuộc chơi thể thao trí tuệ, vừa giải trí vừa giúp bạn rèn luyện óc quan sát và suy luận trong những giờ rảnh rỗi. Phạm Viêm Phương *** Khoản lương cuối cùng Jay Matthews V ăn phòng Công ty Carson nằm phía trên một ngân hàng trong một tòa nhà nhỏ ở đường Hawthorne. Một phụ nữ béo lùn đón tôi ở hành lang. “Tôi là thư ký của ông Carson”, bà ta nói, chìa ra bàn tay múp míp. “Tôi là thanh tra Nancy Marshall”, tôi nói, bắt lấy bàn tay đó. Bà ta dẫn tôi đến phòng họp và giới thiệu tôi với Brad Carson. “Chào thanh tra”, Carson nói, “Hy vọng cô sẽ tìm ra kẻ giết bà vợ tội nghiệp của tôi”. “Đó là việc của tôi mà”, tôi nói và bắt đầu đọc bản báo cáo. “Sáng thứ bảy, bà Carson, giám đốc công ty, ở trong văn phòng một mình. Vào lúc 10 giờ 30, ông Carson đến và thấy một nhân viên cũ rời khỏi tòa nhà”. “Eddie Morton”, Bà béo nói. “Eddie Morton”, Carson lặp lại. “Tôi sa thải Morton tuần trước”. Tôi tiếp tục. “Ông Carson tới văn phòng và thấy bà Carson đã chết. Cửa văn phòng đã bị tông vào”. Tôi nghĩ rằng không cần phải đọc tiếp rằng bà Carson tội nghiệp cũng đã bị đập vỡ đầu. Tôi tiếp tục. “Phòng điện thoại ở tầng hầm đã bị phá hỏng. Mọi điện thoại trong tòa nhà đều bị ngắt liên lạc”. “Tôi biết tại sao rồi”, Carson hớn hở. “Hắn làm vậy để ngắt hệ thống báo động. Nếu có cánh cửa bị phá là hệ thống báo động sẽ kích hoạt và gọi cho cảnh sát”. Ông ta nhìn tôi tự mãn. “Mà Morton đã từng làm bảo trì cho công ty điện thoại mà”. “Ông Carson, ông đến văn phòng vào thứ bảy để làm gì?” Tôi hỏi tiếp. “À, tôi biết vợ tôi sẽ ở đây xem xét các báo cáo...” “Báo cáo gì vậy?” “Báo cáo kiểm kê hàng. Có thất thoát trong kho hàng vừa bị phát hiện. Tôi nghĩ Morton giết vợ tôi vì sợ bị vạch mặt”. Ông ta nhìn bà béo lùn, và bà ta gật đầu. “Tôi đã gọi điện cho bà ấy, nhưng điện thoại bị treo. Tôi biết là có chuyện không ổn”. “Vậy là ông vào văn phòng, thấy xác vợ mình và gọi 911”. “Đúng vậy, nhưng tôi qua cây xăng bên kia đường. Điện thoại bị treo mà, nhớ không?” Tôi nhớ. Tôi muốn chắc rằng ông ta cũng nhớ. “Tôi là người cuối cùng thấy bà ta còn sống”, bà béo lùn lên tiếng. Tôi nhướng mày chờ đợi. “Tôi đang soạn mấy hồ sơ thì bà giám đốc đến. Chúng tôi nói chuyện vài phút rồi tôi đi. Trên đường đi ra tôi thấy Eddie Morton lái xe vô. Lúc đó khoảng 10:20, hay 10:25 gì đó”. Không tìm biết được gì thêm, nên tôi quay trở lại Sở Cảnh sát. “Vụ Carson ra sao rồi?” Phụ tá Emerson hỏi. “Carson cho rằng một nhân viên cũ, Eddie Morton, đã làm vụ này, để tránh không bị vạch mặt ăn cắp. Carson thấy Morton rời tòa nhà ngay trước khi phát hiện xác chết”. Emerson thấy ngay là tôi chưa tin chắc. “Nhưng...” “Bà thư ký cũng ở hiện trường trong khoảng thời gian xảy ra vụ án”. “Bà ta có đủ mạnh để phá cửa không?” “Cánh cửa đó là đồ dỏm. Một thằng nhóc cũng đạp tung ra được”. Mời các bạn đón đọc Trổ Tài Thám Tử của tác giả Nhiều Tác Giả.
Tội Ác
"Mùa đông lạnh cóng, thời tiết đặc biệt của New York rất ăn khớp với hiện trường rùng rợn đến thấu xương của vụ giết người được phát hiện tại Nhà thờ Đức mẹ đồng trinh. Trong tu viện biệt lập có hai bà sơ nằm đó - một người đã chết, một người bị thương nặng - đó là nạn nhân của một kẻ tấn công giấu mặt. Tội ác dã man đó có vẻ như không có động cơ nhưng việc mổ tử thi của bác sĩ khám nghiệm Maura Isles đã cho thấy một điều đáng kinh ngạc: Sơ Camille hai mươi tuổi đã sinh con trước khi cô bị giết. Sau đó, lại có thêm một xác chết nữa được tìm thấy ở nơi không ai để ý đến. Bác sĩ Maura Isles và thám tử Jane Rizzoli đã cùng khám phá ra một sự cố đã xảy ra từ lâu và nó kết nối các vụ giết người với nhau. Khi bí mật từng bị chôn vùi được đưa ra ánh sáng, Maura Isles thấy mình bị cuốn đi một cách cưỡng lại được vào cuộc điều tra xảy ra ngay tại nhà cô... và nhận dạng kẻ giết người một cách quá bất ngờ mà cô không thể ngờ tới." "Các trạng thái tình cảm tăm tối, những bí mật nguy hiểm xuyên suốt cuốn tiểu thuyết trinh thám ly kỳ và bất thường này... Đây là một câu chuyện nữa khiến người ta thắt ruột, thót tim của một cây bút thực sự tài hoa." - Thời báo Romatics (Top Pick) *** Tess Gerritsen là một bác sĩ điều trị và một tác giả nổi tiếng thế giới. Tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của bà về sự trì hoãn trong y học đã dành được rất nhiều lời khen ngợi. Harvest là cuốn sách bán chạy nhất theo tờ Thời báo New York. Bà cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy khác như The Mephisto Club, Vanish, Body Double, The Sinner, The Apprentice, The Surgeon, Life Support, Bloodstream và Gravity. Tess Gerritsen sống tại Maine. Có thể ghé thăm website của bà tại địa chỉ www.tessgerrritsen. Là nhà tâm lý giải nghệ nên khi chuyển sang viết lách, nữ nhà văn người Mỹ Tess Gerritsen tỏ ra rất thấu hiểu nội tâm của các nhân vật của mình. Văn phong của bà bị ảnh hưởng bởi xu hướng diễm tình trong những tiểu thuyết mà bà đọc khi còn trẻ, nhưng sau đó đã được chuyển hóa một cách vô cùng mượt mà, hiệu quả sang thể loại trinh thám đen tối hơn. Dù vậy, Tess Gerritsen vẫn giữ được nhiều tình tiết rất ngọt ngào đậm chất phái nữ, giúp cho các tác phẩm như Call After Midnight (1987), Peggy Sue Got Murdered (1994), The Bone Garden (2007)... tạo được ấn tượng lâu dài trong lòng người đọc. Đặc biệt, những kiến thức về hình sự, tội phạm cũng được nữ nhà văn nghiên cứu rất kỹ và chuyển tải đầy đủ, trọn vẹn, hợp lý trong những cuốn sách của mình. Tác phẩm: Nạn Nhân Thứ Tư (Rizzoli & Isles #1) Quái Vật (Rizzoli & Isles #2) Tội Ác (Rizzoli & Isles #3) Chôn Sống (Rizzoli & Isles #4) Biến Mất (Rizzoli & Isles #5) Dấu Của Quỷ (Rizzoli & Isles #6) Mùa Gặt Mạng Sống Mong Manh Khu Vườn Xương Titanic Trong Vũ Trụ ,,, *** Thành phố Andhra Pradesh Ấn Độ Người lái xe không chịu đưa ông đi xa hơn. Cách đó một dặm, ngay sau khi họ vượt qua nhà máy hóa chất Bát Giác, vỉa hè đã nhường chỗ cho con đường bụi bặm. Lúc này, người lái xe càu nhàu là xe của anh ta đã bị cây bụi cào xước hết cả. Dạo này có mưa nên các vũng bùn khiến bánh xe bị sa lầy. Điều đó đã đưa họ đến nơi nào ? Phố Stranded, cách thành phố Hyderabad 150 cây số. Howard Redfield nghe những lời phàn nàn và biết rằng đó chỉ là sự dạo đầu cho lý do thật sự mà người lái xe không muốn đi tiếp. Chẳng ai dễ dàng thú nhận là mình nhát gan. Không còn cách nào khác, Redfield phải đi bộ từ đoạn đó. Ông trườn lên phía trước để nói vào tai người lái xe và liền ngửi thấy mùi mồ hôi của anh ta. Qua gương chiếu hậu, chỗ có những chuỗi vòng lạo xạo đang đung đưa, ông thấy đôi mắt đen sẫm của anh ta đang nhìn mình chằm chằm. - Anh sẽ chờ tôi chứ ? Ở ngay chỗ này, trên đường - Redfield hỏi. - Bao lâu ? - Có lẽ một tiếng. Lâu đấy. - Có cóc gì mà xem xét. Chẳng ai sống ở đây nữa đâu. - Cứ chờ ở đây. Chờ đi rồi tôi sẽ trả anh gấp đôi khi về thành phố. Redfield lấy ba lô, ra khỏi chiếc xe điều hòa và nhanh chóng lội xuống chỗ lầy lội. Ông đã không đeo ba lô từ hồi còn là một cậu sinh viên đại học, đi khắp châu Âu trên đôi giày vải. Giờ, ông cảm thấy lạ là ở tuổi năm mươi mốt, lại tung tẩy ba lô trên đôi vai đã mềm nhão của mình. Nhưng ông sẽ rất khó chịu nếu đến bất cứ nơi ẩm thấp nào trên đất nước này mà không mang theo chai nước uống tinh khiết, thuốc chống côn trùng, kem chống nắng và thuốc tiêu chảy. Cả chiếc máy ảnh nữa, ông không thể bỏ quên. Ông vã hết mồ hôi trong cái nóng của buổi chiều tối. Ông nhìn lên trời và nghĩ: Tuyệt ! Mặt trời đang lặn và tất cả bọn muỗi sẽ bay ra lúc chập tối. Bữa tối của chúng mày đây, lũ đáng nguyền rủa ! Ông đi xuống đường, cỏ cao che mất lối đi và ông giẫm vào một vũng nước khiến đôi ủng ngập trong bùn tới mắt cá chân. Rõ ràng là mấy tháng trời không có phương tiện nào đi lối này và thiên nhiên đã nhanh chóng chiếm lại địa hạt của mình. Ông dừng lại, thở dốc và đập lũ côn trùng. Ông quay lại và không thấy chiếc xe nữa. Điều này khiến ông khó chịu. Có tin được là người lái xe sẽ chờ ông không ? Phải khó khăn lắm anh ta mới đưa ông xa mức này và càng lo lắng hơn khi họ bị xóc nẩy lên như phi ngựa trên con đường ngày càng xóc. Ở đây toàn bọn người xấu, anh ta nói vậy, rồi những chuyện khủng khiếp đã xảy ra ở chốn này. Họ có thể biến mất và ai thèm quan tâm đi tìm họ ? Redfield bấm chân đi tiếp. ... Mời các bạn đón đọc Tội Ác của tác giả Tess Gerritsen.