Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF Ngải Nghệ Huyền Bí - Huỳnh Liên Tử

Thường thường chúng ta hay nghe nói bùa ngải... 2 tiếng hay gọi chung, về bùa chú thì ít nhiều người ta có khái niệm về tiếng đó hơn, còn ngải thì có nghe nhưng nhiều người không rõ lắm nó là gì ? xuất xứ từ đâu, linh nghiệm ở chỗ nào v.v... nay post cuốn sách này lên mong các thành viên có hiểu biết về lĩnh vực huyền bí tâm linh này vui lòng bổ sung cho đề mục thêm phong phú...!Người ta thường nói nhiều về Ngải, nhưng trên thực tế không ai hiểu ngải là gì? Do đâu mà có? Ngay cả những người đã chuộc ngải về dùng cho gia sự cho chính bản thân mình mà chỉ hiểu một cách mơ hồ rằng "Đó là một quyền phép có sức mạnh về huyền bí, hay nói đúng hơn là một ma lực dẫn đắt người dùng ngải đi đến mục đích mà mình mong muốn".Thực ra ngải cũng chỉ là một dược chất, một loại thảo mộc mà các nhà chuyên môn đặc biệt đã tinh luyện gieo trồng, nuôi nấng trong phạm vi thần quyền, nói một cách rõ ràng hơn là họ dùng quyền phép bí thuật của họ để truyền vào cây ngải hoặc củ ngải và cũng tuỳ theo quyền phép và giá trị của loại cây hoặc củ để đánh giá trị của từng loại ngải một. Ngải là 1 loại thực vật ngoại biến càn khôn, thường mọc trong những vùng rừng núi, nhiệt đới như Thất Sơn, Trường Sơn Việt Nam, Lai Châu, Vân Nam Trung Quốc hay Tà Lơn, Lục Sơn bên Cao Miên.Ngải có rất nhiều loại, tính tất cả vừa nguyên thủy vừa lai giống có thể đến gần 800 loại, có 1 số đã có tên khoa học và đã được công nhận tính năng chữa bệnh hay giúp ích cho cơ thể con người bởi các nhà nghiên cứu khoa học, nhưng đa phần vẫn còn trong bí ẩn mà tên gọi chỉ được truyền miệng qua kinh nghiệm dân gian hay các ngải sư với nhau.Ngải là loài thực vật có củ, nhỏ nhất thì nhỏ hơn củ nghệ 1 chút (như ngải đen, ngải nàng thâm, nàng xoài) lớn thì có thể bằng bắp vế người đàn ông lực lưỡng (như ngải mãnh hổ, cuồng phong, ngải tượng v.v...) Ngải có tánh linh tự nhiên kỳ diệu, ví dụ như 1 củ ngải khô đã vài năm để trong nhà không chạm đất, nhưng khi để vô chậu kêu 1 câu chú mời thần ngải về chứng thì 1 vài tuần nó sẽ tự động mọc mầm sống lại, lên cây trổ hoa như thường, hoặc có những người làm ăn, buôn bán vô tình trồng 1 vài chậu ngải bún (còn gọi là ngải hẹ) ở trước nhà mục đích chỉ để làm kiểng, nhưng tự nhiên từ đó đông khách đắt hàng, ăn nên làm ra mà nhơn chủ đâu biết là mình đã trồng loại ngải quyến khách cầu tài như vậy, loại này tên khoa học là auttum crosscus có bán ở các chợ ươm cây, trồng cây kiểng trên xứ Mỹ, tuy nhiên cùng 1 loại mà có phân màu sắc khi trổ hoa, cũng do màu hoa mà biết được ít nhiều về sự linh ứng của từng loại theo kinh nghiệm các thầy ngải. Loại trổ bông màu trắng là mạnh nhất, loại bông màu đỏ đứng hàng thứ 2, loại màu vàng vào hàng 3 và sau cùng là loại có bông màu xanh tím nhạt (thứ này thấy thường ở Mỹ), tại hạ có 1 người bạn chuyên môn về những loại này xưa ở đường NGUYỄN TRƯỜNG TỘ chuyên giúp thân chủ cầu tài, khá giả chẳng hạn như nhà sách HỒNG DÂN cũ, thẩm mỹ viện THẠCH THẢO cùng nhiều người trong giới kinh doanh trước 75...Ngải so với bùa thì mạnh bạo, nhạy bén hơn nhưng về độ bền thì không như bùa, những chuyện gì cần giải quyết cấp tốc, hiển hiện trước mắt tạo tín tâm cho thân chủ nể phục thì các thầy hay dùng ngải ! Nói như vậy không có nghĩa là ngải mạnh hơn bùa, vì nếu người không học bùa thì không thể luyện ngải được. Bởi vì cần có bùa chú để triệu ngải về, mời ngải ăn (cúng ngải) tom (cột) ngải lại không cho đi bậy và người khác không phá được, sai khiến ngải nhứt nhứt đều phải qua phù chú của chư vị tổ sư...!Các pháp sư luyện ngải qua 2 cách sau đây:Ngải chậu và ngải khô:1) Ngải chậu là cây ngải tươi hay bụi ngải tươi được bứng từ rừng về hoặc được gây giống ra mà trồng ở trong chậu để luyện.2) Ngải khô là củ ngải đã đào lên từ bụi ngải trong rừng, trên núi hay trong chậu trồng của thầy mà đem phơi sương, nắng cho thọ khí âm dương sau 3 ngày thì đem vô nhà cúng và luyện. Luyện ngải chậu cách hay nhất là kiếm 7 cái đầu ông táo (miếng trên của cái lò đất) bỏ hoang nơi chùa, miểu, đình thần v.v... đem về bầm nhuyễn trộn với đất thiên nhiên, tuyệt đối không dùng phân (bất cứ phân gì) sau đó lấy 1 miếng chì vẽ khắc chữ bùa tom (cột) để dưới đít chậu, lấy 1 cái hột gà sống dùng mực đỏ vẽ thêm chữ bùa chủ dụng mà mình muốn luyện cho chậu ngải đó, ví dụ như: ngải thương, ngải ăn nói ngoại giao, ngải cầu tài, ngải quan tư tất thắng (ra toà thưa kiện) v.v... Lễ vật để cúng khởi đầu cuộc luyện rất đơn giản chỉ gồm: 3 cái hột gà sống, 1 dĩa gạo muối, 1 ly nước lạnh, 3 chung rượu trắng, 1 dĩa nổ (nếp rang hay bắp rang bong vỏ) đốt 2 cây đèn cầy bên cạnh, còn lại 3 cây nhang đốt thì cắm vô chậu ngải, khởi sự luyện luôn luôn vào lúc chiều chạng vạng (lối giờ Dậu) đầu tiên pháp sư niệm chú hội ngải 3 lần, chú thỉnh 36 mẹ tổ ngải 3 lần rồi chú nguyện, van vái tên họ tuổi của mình (ngưòi luyện) ngày, giờ, năm, tháng này v.v....tôi muốn luyện chậu này gồm loại ngải gì... nói ra (có thể luyện 2, 3 thứ chung 1 chậu cũng được) sau khi tác bạch xong thì định thần, bắt ấn niệm chú sên (đọc thổi) vô chậu ngải, thông thường luyện khoảng 15 phút là được, với cây ngải đã cao lối 2 tấc thì tinh luyện khoảng 21 ngày liên tục thì ngải đã biết chào thầy, chào là khi thầy niệm 1 câu chú hỏi thăm lá ngải sẽ đong đưa qua lại về hướng thầy mặc dù lúc ấy trời không có gió... và cứ thế tiếp tục luyện cho đến khi thấy như có bóng trắng thoáng ẩn hiện là ngải đã có thần, trong thời gian luyện ngải ông thầy tuyệt đối không được ăn tỏi sống, vì thực ra ngải là loại mang khí rất thanh, khác với tỏi được nhà Phật liệt vào ngũ vị tân (tỏi, hành, hẹ, nén, kiệu) mà các vị xuất gia đều phải kiêng cữ... và cứ tiếp tục luyện đều đặn như vậy, càng lâu thì ngải càng mạnh, và mỗi tháng cúng ngải 2 lần vào ngày mùng 2 và 16 âm lịch như bên bùa cúng binh, tướng vậy. Đến 1 thời gian nào đó đã đủ thì pháp sư chọn ngày thâu ngải, cũng nhang đèn trứng, nổ v.v... khấn vái đợi khi tàn nhang thì đào gốc lấy củ đem vô nhà, việc đầu tiên sau khi rửa sạch là pháp sư phải cắn 1 củ nhai nuốt liền, vì theo thầy truyền là có như vậy ngải nó mới mến và phục tùng thầy lâu dài...!Sau khi để lên dĩa đặt ngay bàn thờ binh, tướng đối diện bàn tổ, (bàn binh thấp dưới rún, bàn tổ phải cao trên ngực) pháp sư bắt đầu đọc chú kêu ngải ở với mình, các loài ngải thực là linh lắm, tính ý họ như các cô gái e dè, dịu dàng nhưng dấu kín những phong ba, khi luyện các thầy phải dổ ngọt vuốt ve, thủ thỉ... nói chuyện với ngải như những cô tình nhân, thế cho nên từ trước đến nay các ngải sư cao tay, vang tiếng đều là cô độc không vợ không con, vì nếu các nàng ngải biết thầy lấy vợ là hè nhau vật hoặc phá vợ thầy đau bệnh nặng hay rề rề không hết khó làm ăn lắm, các loại ngải ở Việt Nam ta và Miên, Thái, Lào hay dùng đều cùng loại nhưng khác thổ âm địa phương đôi chút thôi, người mình hay gọi : nàng thâm, nàng mun, nàng xoài, nàng gù, nàng trăng, nàng hồng v.v... đều là tiêu biểu cho phái đẹp.Nói về pháp lực thì ngải rất mạnh và nhạy, chắc ít nhiều trong chúng ta có nghe qua những mẫu chuyện ngày trước ở Việt Nam đại khái như: cô nọ xách giỏ đi chợ tự nhiên có 1 bà xa lạ đến nói vài câu cô bỗng đờ đẫn lột tháo dây chuyền, bông tay, chiếc lắc... cho bà xa lạ đó, chừng 10, 15 phút sau mới hoàn hồn thì bả đã đi mất tiêu rồi ! Đó chính là công năng của ngải, bùa không thể làm con người mất cả hồn vía lập tức như vậy.Còn về mặt lý tính thì ngải nó đơn giản như ta nuôi con chó, con mèo vậy thôi, cho nó ăn đều vỗ về vài câu mỗi ngày là sai nó làm gì nó làm đó, không hề phân biệt thiện, ác trước khi làm, do đó những phù thủy có tâm thuật bất chánh thường hay luyện ngải để trục lợi, còn luyện ngải khô là khi thầy ngải khám phá ra những bụi hay đám ngải hoang trong rừng mà củ đã già, tốt hoặc ngải thầy trồng sau vườn lấy giống mà chưa luyện trong chậu kịp thì được lấy củ, rửa sạch và cũng để lên dĩa để trên bàn binh, tướng, nhưng thầy phải chiều chiều cúng vái niệm chú sên vô dĩa ngải đó như cách luyện ngải chậu vậy ! Thời gian có thể là 360 ngày, 100 ngày 72, hoặc 36 ngày hay ít nhứt là 21 ngày mới đủ linh nghiệm.Ngải khi đã luyện khô rồi được sử dụng các cách như sau:Khi có thân chủ lại nhờ việc gì đó, ông thầy đầu tiên hỏi tên họ tuổi đương sự, sau đó nhang đèn triệu thỉnh rồi cắt vài lát ngải khô hoặc cho nguyên cả củ nhỏ gói trong giấy cấp cho thân chủ, cũng có khi tuỳ việc mà sên thêm 1 vài lát cho ngậm vào miệng khi đi ăn nói như lúc ra toà, đi đòi nợ hoặc mượn tiền. Còn có thân chủ làm những nghề như buôn bán địa ốc, bán bar hay là chị em ta cần sự thương mến, chiếu cố của khách hàng thì thầy bảo mang đến 1 chai dầu thơm, bỏ ngải vào đó, chú nguyện tên tuổi, mục đích cầu gì v.v... kêu ngải theo trợ giúp người này... đương sự sau đó khi dùng chỉ cần mỗi ngày khấn 36 mẹ tổ ngải và xức dầu đó xung quanh miệng, nói người ta nghe, xức 2 chân mày nhìn người ta mến và xoa vào 2 tay bắt tay, vổ vai, vuốt ve đụng chạm thì người thương chuyện khó hoá dễ !Thực ra khi mình xài ngải cũng như bùa, là không có chuyện phải chuộc, phải thỉnh để xài hoài, nếu không sẽ bị điên khùng như nhiều người nghĩ, đó chỉ là lòng vụ lợi của mấy ông thầy, muốn thân chủ trở lại hoài để cúng tiền, trả công cho ông mà thôi, nên nếu lâu người đó mà không đến thì ông thầy làm phép trục (kêu đến) người đó không an trong dạ, xuôi khiến chuyện này chuyện kia phải đến thầy mới trở lại bình thường, xét ra là vị thầy như vậy vốn không đủ tư cách với thiên chức pháp sư của ông ta và cũng không thấu đáo về luật nhân quả vậy !Nói đi thì cũng nói lại, có nhiều thân chủ cũng bạt mạng, vì mục đích mà bất chấp, gạt cả ông thầy xính vính như chơi, ví dụ có cô là dân giang hồ mưu việc đoạt chồng người mà khi đến thầy bảo là chồng mình theo vợ bé, có người muốn mượn tiền người khác mà lại nói là người đó thiếu tiền mình v.v... có nhiều người thắc mắc rằng: "à....tại sao làm thầy mà không biết để cho họ qua mặt v.v...", thực ra ông ta chỉ là thầy bùa chớ đâu phải thầy bói, có nhiều ông còn không biết thiên cang, địa chi, ngũ hành nạp âm là gì (mấy thầy ở quê), nếu có người luyện cao thì có thiên linh mách bảo hoặc ngải mách, ma xó v.v... còn nhiều thầy chỉ là nghề tổ phụ truyền lại tam sao thất bổn biết bao nhiêu hành bấy nhiêu, mà đa số là có óc tự mãn, xem mình là cái rốn của vũ trụ, không học hỏi trao dồi thêm, hoặc là biết mình kém về mặt đó nhưng vì tự ái hảo cũng không chịu hạ mình bổ khuyết..., nói vậy không có nghĩa là mấy thầy đó làm không linh ứng, khi mà thần chú hoặc ngải nghệ đúng tầng số sử dụng, đúng chiêu bài thì nó sẽ phát huy công năng ghê gớm lắm!Có nhiều ông thầy luyện ngải, trồng ngải kín cả sau vườn, xem như không còn tính theo chậu nữa mà tính theo bao nhiêu mét vuông, đằng đó là 3 mét tai tượng ngải, nơi này là 2 thước mẹ nàng thâm v.v..., mỗi khi chạng vạng tối, ở từ các vườn lân cận gần bên, nhìn vào vườn ngải nhang cắm đỏ rực theo hình bát giác bao xung quanh vườn càng tăng thêm màu sắc huyền bí, ma quái khiến cho những kẻ dù bạo gan cách mấy cũng cảm giác như lành lạnh, rờn rợn nơi tóc gáy.Khi ngải mà chúng đã trổ thành vườn dày đặc như vậy, thì khi cúng cho ăn hột gà và nổ phải nhiều lắm, khi các loại ngải lá đã cao tới và hơn rún thì thẩy hột gà vô lẫn trong vườn ngải, hôm sau ra chỉ còn lại vỏ không (có thực 100%) có nhiều thầy nuôi ngải tà như: huyết nhân ngải, thiên linh ngải, khô lâu ngải v.v... còn cho ăn cả gà sống nguyên con, mỗi lần đọc kinh, túc thần chú cho ăn là cả vườn ngải xoay vần, chuyển động như gió mạnh đè trên những đám lúa, bờ cỏ ngoài bờ đê, dưới ruộng. quăng con gà vào gà kêu quác quác vài ngày sau cũng thấy lông và xương.Ngày trước lúc còn thời Đệ Nhị Cộng Hoà, sư huynh thứ tư của tại hạ làm pháp sư kiêm thầy ngải có giúp cho 1 bà tướng (xin không nói tên vì tôn trọng chuyện tư ẩn của người), số là chồng bà áp phe áp phung gì đó tận bên Miên đã nhiều lần mới bị hỏi thăm sức khỏe, bị đình chức và chờ thẩm vấn điều tra có nguy cơ ảnh hưởng đường quan vận của ông ta, thậm chí có thể đi tù mất chức... nhờ bạn bè quen biết giới thiệu bà đến gặp ông sư huynh "nhí" của tôi (lúc đó ổng chỉ khoảng 21, 22 tuổi) lúc đó hành nghề ở dốc cầu chữ Y phía bên quận 8, bà vô gặp vị sư huynh này thoạt đầu bán tín, bán nghi vì thấy ổng còn trẻ quá, nên lời lẽ không cần khách khí lắm, bà mang dép đi thẳng vô nhà, ngoài sân 2 anh lính có súng ngồi trên xe jeep đợi bà, ông thần vai sư huynh tại hạ lúc ấy vừa xuất sư hạ san chưa đến 1 năm, nhờ tổ đãi làm đâu được đó nhứt hô bá ứng, thân chủ nườm nượp các giới, thậm chí mấy cô bán bar, chị em ta trước là đệ tử thầy chà Harul chợ Nancy, thầy Tám Thọt nổi tếng Cầu Sơn, thầy 5 Răn Bùa Mọi ở Gò Vấp cũng về theo ổng, hơi bị xốc vì thái độ lưng lửng của bà anh ta chẳng nói gì, quyết định chơi bà tướng sang trọng đeo đầy hột xoàn kia 1 cú lấy oai. Ảnh đi thẳng tới bàn tổ nhón lấy 3 nén hương đốt lên rồi lặng lẽ miệng niệm chú triệu ngải và vừa niệm vừa đưa 3 cây nhang cho bà tướng cầm theo thông lệ như mọi thân chủ khi đến:Thiên linh thần ngải ma lai môn cà la hán môn cà la hán mặc mặc, 12 cửa rừng, 13 cửa rặc y lịnh pháp sư triệu khiển... anh niệm liên tục như vậy độ chừng 4, 5 lần thì tướng quân phu nhân cứ kẹp nhang trong tay mà xá lia xá lịa bàn tổ không tự chủ được động tác của đôi tay mình mà toàn thân thì cứ run bây bẩy miệng muốn kêu 1 tiếng mà không được, độ chừng 5 phút thấy đã đủ ông thầy nhí mới đọc chú xả, thâu ngải về, sau đó tướng phu nhân mặt còn xanh mét mới hoàn hồn và nhũn nhặn trình bày vấn đề của chồng bà v.v... vị sư huynh tại hạ khi ấy mới ôn tồn bảo: "Bà về đi trong 21 ngày trở lại sẽ có tin vui", bà dạ rang mấy tiếng và dọt lẹ không quên bỏ lại xấp giấy bạc 1000$ có hình mấy con voi kéo gỗ, nếu tại hạ nhớ không lầm là khoảng 4, 5 chục ngàn gì đó, sau đó hơn độ 1 tuần bà trở lại báo tin mừng và "tạ ơn thầy", chồng bà thoát nạn bình an, trong giới quân đội lúc ấy có đồn chồng bà chắc là quen biết thâm tình, đồng liêu cùng tổng thống THIỆU nên chừng như được che chở cũng nên, bà đến khi đó có cầm nửa triệu tiền do ngân hàng quốc gia VIỆT NAM phát ra để hậu tạ ông thầy, nhưng sư huynh tại hạ chỉ cười và nói rằng : "Thưa bà! đây là phúc chủ may thầy thôi, bà có thể kiếm ngôi chùa hay nhà thờ nào cần đó thì cúng vào dùm tôi đi, hehe... nếu còn dư coi như tôi mua phần nào cách cư xử của bà với thuộc cấp và kẻ hạ bên ngoài".

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Tâm Linh Và Suy Ngẫm (Trần Quốc Hưng)
MỘT CUỐN SÁCH CÔNG PHU, NHỮNG SUY NGẪM TÍCH CỰC VỀ THẾ GIỚI TÂM LINH! LỜI ĐẦU SÁCH I. NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG II. VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG III. TÔN GIÁO Tìm mua: Tâm Linh Và Suy Ngẫm TiKi Lazada Shopee IV. TÀ ĐẠO, HỦ TỤC V. TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VI. PHONG TỤC, TẬP QUÁN VII. NGOẠI CẢM VIII. CÓ GÌ ĐÁNG CHÚ Ý IX. NHỮNG LÝ GIẢI THÚ VỊ X. TIN HAY KHÔNG TIN XI. TÍN NGƯỠNG XII. CON NGƯỜI BẢN LĨNH, HIỂU BIẾT, TỰ TIN XIII. ANH HÙNG, THIÊN TÀI VÀ ĐỊA LINH NHÂN KIỆT XIV. GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ TỐT ĐẸP CỦA DÂN TỘC XV. KHOA HỌC, KỸ THUẬT PHÁT TRIỂN XVI. CON NGƯỜI THỜI VĂN MINH, HIỆN ĐẠI Lời Cuối Sách Tài Liệu Tham KhảoĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tâm Linh Và Suy Ngẫm PDF của tác giả Trần Quốc Hưng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tái Sinh Ở Phương Tây (Vicki Mackenzie)
Ghi chú: Về tác giả Vicki Mackenzie, bà chào đời năm 1947 tại Anh, con của một sĩ quan hải quân,, lớn lên tại Úc, tốt nghiệp đại học Queensland University và làm ký giả cho báo nhật báo Sun tại Sydney. Sau này bà di chuyển qua Luân Đôn, viết cho các nhật báo như Daily Sketch, Daily Mail, Sunday Times, Observer, Daily Telegraph, Sunday Telegraph, Daily Express, Mail on Sunday và đóng góp cho nhiều tạp chí quốc gia. Vào năm 1976, bà nghỉ phép một tháng để dự một khóa thiền tại Nepal. Từ đó cuộc đời bà chuyển hướng. Bà muốn dùng ngòi bút để viết báo và viết sách nhằm mang Phật giáo và thuyết luân hồi đến công chúng Tây Phương. Bà đã viết những cuốn Reincarnation: The Boy Lama; Reborn in the West: The Reincarnation Masters (bài Hazel Denning nằm trong cuốn này); A Young Man of The Lama: A Tale Of Drugs, Hot Sex, and Violence in The Fall Of Tibet; Cave in the Snow: A Western Woman’s Quest for Enlightenment (hồi ký của Tenzin Palmo); Why Buddhism?: Westerners in Search of Wisdom; Child of Tibet (viết chung với Sonam Yangchen). *****Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tái Sinh Ở Phương Tây PDF của tác giả Vicki Mackenzie nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ta Là Cái Đó (Nisargadatta Maharaj)
Contents 1. Ý thức “Ta hiện hữu”. 1 2. Nỗi ám ảnh về thân xác. 3 3. Hiện tại sinh động. 6 4. Thế giới thật ở ngoài tâm.. 9 Tìm mua: Ta Là Cái Đó TiKi Lazada Shopee 5. Cái gì được sinh ra phải chết đi 11 6. Thiền. 13 1. Ý thức “Ta hiện hữu” Hỏi: Theo kinh nghiệm thường ngày, thế giới đột nhiên xuất hiện ngay khi người ta thức dậy. Vậy nó từ đâu đến? Maharaj: Trước khi bất cứ gì có thể xuất hiện thì phải có người để nó xuất hiện đối với người đó. Tất cả mọi xuất hiện và biến mất bao hàm một sự thay đổi đối với một hậu cảnh bất biến. Hỏi: Trước khi thức dậy tôi không có ý thức. Maharaj: Theo nghĩa nào? Đã quên đi, hay chưa từng kinh nghiệm? Thế không phải ông vẫn kinh nghiệm ngay cả khi không có ý thức? Liệu ông có thể tồn tại mà không biết? Có phải một sự ngắt quãng trong ký ức là bằng chứng của sự không tồn tại? Liệu có hợp lý khi ông nói về sự không tồn tại của ông như là một kinh nghiệm thực tế? Thậm chí ông cũng không thể nói rằng tâm ông đã không tồn tại trong khi ngủ. Thế không phải ông tỉnh dậy khi được gọi hay sao? Và ngay khi thức dậy, không phải ý thức “Ta hiện hữu” xuất hiện trước tiên? Một mầm mống nào đó của ý thức chắc chắn phải tồn tại ngay cả trong khi ông ngủ hay bất tỉnh. Khi thức dậy, kinh nghiệm diễn ra: “Ta hiện hữu - thân xác - trong thế gian.” Kinh nghiệm này có vẻ như xuất hiện theo trình tự trong một chuỗi diễn tiến, nhưng thật ra nó hình thành cùng một lúc - một ý tưởng duy nhất về sự có một thân xác trong thế giới. Liệu có thể có ý thức “Ta hiện hữu” mà không là một người nào đó hay một cái gì đó? H: Tôi luôn luôn là một người với những ký ức và thói quen riêng. Tôi không biết cái “Ta hiện hữu” nào khác. M: Có thể một cái gì đó ngăn che không cho ông biết. Khi người khác biết một cái gì đó mà ông không biết thì ông làm gì? H: Tôi sẽ nhờ họ chỉ dẫn để tìm ra nguồn gốc sự hiểu biết của họ. M: Theo ông - tìm hiểu có phải ông chỉ là thân xác hay ông là một cái gì khác - có quan trọng không? Hoặc, có thể ông không là gì cả? Ông không thấy rằng tất cả mọi vấn đề của ông đều là vấn đề của thân xác hay sao - thực phẩm, quần áo, chỗ ở, gia đình, bằng hữu, tên tuổi, danh vọng, sự an toàn, sự sống còn - tất cả những thứ này sẽ mất đi ý nghĩa ngay khi ông nhận ra rằng ông không phải chỉ là một thân xác. H: Biết được tôi không phải thân xác thì có lợi lạc gì? M: Thậm chí nói rằng ông không phải là thân xác thì cũng không đúng hẳn. Về một phương diện nào đó, ông là tất cả các thân xác, tất cả những trái tim, tất cả tâm và nhiều cái khác nữa. Đi sâu vào ý thức “Ta hiện hữu” ông sẽ tìm ra. Ông phải làm gì để tìm ra một cái gì đó mà ông đã để sai chỗ hay quên đi? Ông để nó trong tâm cho đến khi nào nhớ ra nó. Ý thức hiện hữu, ý thức “Ta hiện hữu” xuất hiện trước tiên. Hãy tự hỏi nó từ đâu đến, hoặc im lặng quan sát nó. Khi tâm an trú trong cái “Ta hiện hữu” bất động, ông nhập vào một trạng thái không thể diễn tả bằng ngôn từ, nhưng có thể chứng nghiệm được. Tất cả những gì ông cần làm là thường xuyên tinh tấn. Xét cho cùng, ý thức “Ta hiện hữu” lúc nào cũng ở với ông, chỉ có điều ông ràng buộc đủ mọi thứ vào nó - thân xác, cảm thọ, ý nghĩ, ý tưởng, sự sở hữu, vân vân. Tất cả những nhận dạng về chính mình như thế đều sai lạc. Chính vì chúng mà ông cho ông là những gì không phải là ông. H: Vậy tôi là cái gì? M: Chỉ cần biết cái mà ông không phải, là đủ. Ông chẳng cần biết ông là cái gì. Vì chừng nào biết có nghĩa là sự mô tả theo những gì đã biết, qua nhận thức hay khái niệm, thì không thể nào có cái gọi là biết chính mình, vì cái mà ông là không thể mô tả được, ngoại trừ sự phủ định hoàn toàn. Ông chỉ có thể nói: “Ta không là cái này, Ta không là cái kia”. Ông không thể nói: “Ta là cái này.” Điều này hoàn toàn vô nghĩa. Những gì ông có thể chỉ ra như “này”, “kia” thì không thể nào là chính ông. Chắc chắn, ông không thể là “một cái gì” khác. Ông là cái không thể nhận thức được, hay tưởng tượng ra được. Nhưng, nếu không có ông thì không thể có nhận thức hay tưởng tượng. Ông quan sát trái tim rung động, tâm trí tư duy, thân xác hành hoạt; ngay chính hành vi nhận thức chứng tỏ rằng ông không phải là những gì được ông nhận thức. Liệu có thể có nhận thức, kinh nghiệm mà không có ông? Một kinh nghiệm thì phải “thuộc về”. Phải có một người nào đó xuất hiện và tuyên bố kinh nghiệm đó là của mình. Nếu không có người kinh nghiệm thì kinh nghiệm không thật. Chính người kinh nghiệm đem lại hiện thực cho kinh nghiệm. Một kinh nghiệm mà ông không thể có được thì có giá trị gì đối với ông? H: Thế không phải ý thức “Ta hiện hữu”, ý thức chính mình là người kinh nghiệm cũng là một kinh nghiệm? M: Hiển nhiên, bất cứ gì được kinh nghiệm đều là một kinh nghiệm, và trong mỗi kinh nghiệm đều có người kinh nghiệm nó xuất hiện. Ký ức tạo ra ảo tưởng về sự liên tục, nhưng trong thực tế mỗi một kinh nghiệm có riêng người kinh nghiệm của nó, và cảm tưởng về sự giống nhau là do yếu tố chung ở tại gốc rễ của tất cả những tương quan giữa người kinh nghiệm và kinh nghiệm. Sự giống nhau và sự liên tục không phải là một. Mỗi bông hoa có mầu sắc riêng của nó, nhưng tất cả mầu sắc đều được tạo ra bởi cùng một ánh sáng; tương tự như thế có vô số người kinh nghiệm xuất hiện trong tánh biết nguyên vẹn và bất khả phân chia; mỗi người kinh nghiệm thì riêng biệt trong ký ức, nhưng lại giống nhau trong tánh thể. Tánh thể này là gốc rễ, là nền tảng, là khả năng phi thời và phi xứ của tất cả kinh nghiệm. H: Làm sao tôi tìm ra tánh thể đó? M: Ông chẳng cần tìm ra nó, vì ông là nó. Nó sẽ tìm ông nếu ông cho nó cơ hội. Hãy quẳng bỏ mọi ràng buộc của ông với những cái hư giả thì cái chơn thật sẽ nhanh chóng và dễ dàng đi vào vị trí của nó. Hãy chấm dứt tưởng tượng chính ông là cái này hay cái kia, hoặc làm cái này hay cái kia, thì sự giác ngộ ra rằng ông là nguồn gốc và là trái tim của tất cả sẽ bừng nở trong ông. Cùng đến với sự giác ngộ là tình yêu vĩ đại, không lựa chọn, không thiên vị, không trói buộc, mà là một sức mạnh biến tất cả mọi thứ thành đáng yêu và dễ yêu.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ta Là Cái Đó PDF của tác giả Nisargadatta Maharaj nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ta Là Cái Đó (Nisargadatta Maharaj)
Contents 1. Ý thức “Ta hiện hữu”. 1 2. Nỗi ám ảnh về thân xác. 3 3. Hiện tại sinh động. 6 4. Thế giới thật ở ngoài tâm.. 9 Tìm mua: Ta Là Cái Đó TiKi Lazada Shopee 5. Cái gì được sinh ra phải chết đi 11 6. Thiền. 13 1. Ý thức “Ta hiện hữu” Hỏi: Theo kinh nghiệm thường ngày, thế giới đột nhiên xuất hiện ngay khi người ta thức dậy. Vậy nó từ đâu đến? Maharaj: Trước khi bất cứ gì có thể xuất hiện thì phải có người để nó xuất hiện đối với người đó. Tất cả mọi xuất hiện và biến mất bao hàm một sự thay đổi đối với một hậu cảnh bất biến. Hỏi: Trước khi thức dậy tôi không có ý thức. Maharaj: Theo nghĩa nào? Đã quên đi, hay chưa từng kinh nghiệm? Thế không phải ông vẫn kinh nghiệm ngay cả khi không có ý thức? Liệu ông có thể tồn tại mà không biết? Có phải một sự ngắt quãng trong ký ức là bằng chứng của sự không tồn tại? Liệu có hợp lý khi ông nói về sự không tồn tại của ông như là một kinh nghiệm thực tế? Thậm chí ông cũng không thể nói rằng tâm ông đã không tồn tại trong khi ngủ. Thế không phải ông tỉnh dậy khi được gọi hay sao? Và ngay khi thức dậy, không phải ý thức “Ta hiện hữu” xuất hiện trước tiên? Một mầm mống nào đó của ý thức chắc chắn phải tồn tại ngay cả trong khi ông ngủ hay bất tỉnh. Khi thức dậy, kinh nghiệm diễn ra: “Ta hiện hữu - thân xác - trong thế gian.” Kinh nghiệm này có vẻ như xuất hiện theo trình tự trong một chuỗi diễn tiến, nhưng thật ra nó hình thành cùng một lúc - một ý tưởng duy nhất về sự có một thân xác trong thế giới. Liệu có thể có ý thức “Ta hiện hữu” mà không là một người nào đó hay một cái gì đó? H: Tôi luôn luôn là một người với những ký ức và thói quen riêng. Tôi không biết cái “Ta hiện hữu” nào khác. M: Có thể một cái gì đó ngăn che không cho ông biết. Khi người khác biết một cái gì đó mà ông không biết thì ông làm gì? H: Tôi sẽ nhờ họ chỉ dẫn để tìm ra nguồn gốc sự hiểu biết của họ. M: Theo ông - tìm hiểu có phải ông chỉ là thân xác hay ông là một cái gì khác - có quan trọng không? Hoặc, có thể ông không là gì cả? Ông không thấy rằng tất cả mọi vấn đề của ông đều là vấn đề của thân xác hay sao - thực phẩm, quần áo, chỗ ở, gia đình, bằng hữu, tên tuổi, danh vọng, sự an toàn, sự sống còn - tất cả những thứ này sẽ mất đi ý nghĩa ngay khi ông nhận ra rằng ông không phải chỉ là một thân xác. H: Biết được tôi không phải thân xác thì có lợi lạc gì? M: Thậm chí nói rằng ông không phải là thân xác thì cũng không đúng hẳn. Về một phương diện nào đó, ông là tất cả các thân xác, tất cả những trái tim, tất cả tâm và nhiều cái khác nữa. Đi sâu vào ý thức “Ta hiện hữu” ông sẽ tìm ra. Ông phải làm gì để tìm ra một cái gì đó mà ông đã để sai chỗ hay quên đi? Ông để nó trong tâm cho đến khi nào nhớ ra nó. Ý thức hiện hữu, ý thức “Ta hiện hữu” xuất hiện trước tiên. Hãy tự hỏi nó từ đâu đến, hoặc im lặng quan sát nó. Khi tâm an trú trong cái “Ta hiện hữu” bất động, ông nhập vào một trạng thái không thể diễn tả bằng ngôn từ, nhưng có thể chứng nghiệm được. Tất cả những gì ông cần làm là thường xuyên tinh tấn. Xét cho cùng, ý thức “Ta hiện hữu” lúc nào cũng ở với ông, chỉ có điều ông ràng buộc đủ mọi thứ vào nó - thân xác, cảm thọ, ý nghĩ, ý tưởng, sự sở hữu, vân vân. Tất cả những nhận dạng về chính mình như thế đều sai lạc. Chính vì chúng mà ông cho ông là những gì không phải là ông. H: Vậy tôi là cái gì? M: Chỉ cần biết cái mà ông không phải, là đủ. Ông chẳng cần biết ông là cái gì. Vì chừng nào biết có nghĩa là sự mô tả theo những gì đã biết, qua nhận thức hay khái niệm, thì không thể nào có cái gọi là biết chính mình, vì cái mà ông là không thể mô tả được, ngoại trừ sự phủ định hoàn toàn. Ông chỉ có thể nói: “Ta không là cái này, Ta không là cái kia”. Ông không thể nói: “Ta là cái này.” Điều này hoàn toàn vô nghĩa. Những gì ông có thể chỉ ra như “này”, “kia” thì không thể nào là chính ông. Chắc chắn, ông không thể là “một cái gì” khác. Ông là cái không thể nhận thức được, hay tưởng tượng ra được. Nhưng, nếu không có ông thì không thể có nhận thức hay tưởng tượng. Ông quan sát trái tim rung động, tâm trí tư duy, thân xác hành hoạt; ngay chính hành vi nhận thức chứng tỏ rằng ông không phải là những gì được ông nhận thức. Liệu có thể có nhận thức, kinh nghiệm mà không có ông? Một kinh nghiệm thì phải “thuộc về”. Phải có một người nào đó xuất hiện và tuyên bố kinh nghiệm đó là của mình. Nếu không có người kinh nghiệm thì kinh nghiệm không thật. Chính người kinh nghiệm đem lại hiện thực cho kinh nghiệm. Một kinh nghiệm mà ông không thể có được thì có giá trị gì đối với ông? H: Thế không phải ý thức “Ta hiện hữu”, ý thức chính mình là người kinh nghiệm cũng là một kinh nghiệm? M: Hiển nhiên, bất cứ gì được kinh nghiệm đều là một kinh nghiệm, và trong mỗi kinh nghiệm đều có người kinh nghiệm nó xuất hiện. Ký ức tạo ra ảo tưởng về sự liên tục, nhưng trong thực tế mỗi một kinh nghiệm có riêng người kinh nghiệm của nó, và cảm tưởng về sự giống nhau là do yếu tố chung ở tại gốc rễ của tất cả những tương quan giữa người kinh nghiệm và kinh nghiệm. Sự giống nhau và sự liên tục không phải là một. Mỗi bông hoa có mầu sắc riêng của nó, nhưng tất cả mầu sắc đều được tạo ra bởi cùng một ánh sáng; tương tự như thế có vô số người kinh nghiệm xuất hiện trong tánh biết nguyên vẹn và bất khả phân chia; mỗi người kinh nghiệm thì riêng biệt trong ký ức, nhưng lại giống nhau trong tánh thể. Tánh thể này là gốc rễ, là nền tảng, là khả năng phi thời và phi xứ của tất cả kinh nghiệm. H: Làm sao tôi tìm ra tánh thể đó? M: Ông chẳng cần tìm ra nó, vì ông là nó. Nó sẽ tìm ông nếu ông cho nó cơ hội. Hãy quẳng bỏ mọi ràng buộc của ông với những cái hư giả thì cái chơn thật sẽ nhanh chóng và dễ dàng đi vào vị trí của nó. Hãy chấm dứt tưởng tượng chính ông là cái này hay cái kia, hoặc làm cái này hay cái kia, thì sự giác ngộ ra rằng ông là nguồn gốc và là trái tim của tất cả sẽ bừng nở trong ông. Cùng đến với sự giác ngộ là tình yêu vĩ đại, không lựa chọn, không thiên vị, không trói buộc, mà là một sức mạnh biến tất cả mọi thứ thành đáng yêu và dễ yêu.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ta Là Cái Đó PDF của tác giả Nisargadatta Maharaj nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.