Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay (Bùi Văn Chấn)

CÁI NÔI CỦA ĐẠO HỒI: BÁN ĐẢO Ả

RẬP TRONG THẾ KỶ 6 VÀ 7.

Vị giáo chủ sáng lập đạo Hồi là Muhammad, sinh năm 570 tại thành phố Mecca, thủ đô của xứ Saudi Arabia ngày nay. Sau 23 năm viết sách Thánh Kinh Koran và thuyết giảng về đạo Islam, ông qua đời tại thành phố Medina, cách Mecca khoảng 40 miles về phía Bắc, hưởng thọ 62 tuổi.

Cuộc đời của Muhammad đã bắt đầu từ 30 năm cuối thế kỷ 6 và bắt cầu 32 năm sau qua thế kỷ 7. Tất cả những gì ảnh hưởng đến cuộc đời của Muhammad đều in dấu ấn trong thế giới đạo Hồi ngày nay. Vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu bối cảnh lịch sử của xã hội Ả Rập trong cả hai thế kỷ 6 và 7.

Khác với Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái là một tập truyện, Kinh Thánh Koran gần như một cuốn nhật ký. Đọc Kinh Koran, người ta sẽ thấy rất nhiều nét đặc thù của đời sống du mục Ả Rập, các sinh hoạt thương mại của dân Mecca, các phong tục tập quán và tín ngưỡng cổ truyền của người Ả Rập, các cuộc chiến tranh của đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine, đế quốc Hỏa Giáo Ba Tư v.v… Tìm mua: Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay TiKi Lazada Shopee

Tất cả đều được Muhammad phản ảnh trong kinh Koran. Do đó, khi đọc kinh Koran, chúng ta rất dễ dàng kiểm chứng các sự kiện bằng cách đối chiếu với lịch sử. Ngược lại, sự nghiên cứu lịch sử về bối cảnh bán đảo Ả Rập trong thế kỷ 6 và 7 sẽ giúp chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về

Muhammad cũng như về đạo Islam.

1. Về địa dư:

Bán đảo Ả Rập là một hình chữ nhật chiều dài 1200 miles, rộng 900 miles. Diện tích trên một triệu dặm vuông, lớn bằng 1/3 Hoa Kỳ hoặc bằng 8 lần diện tích Việt Nam. Sở dĩ vùng này được gọi là bán đảo vì nó được bao bọc ba phía bởi biển hoặc đại dương: Đông giáp Vịnh Ba Tư, Nam giáp Ấn Độ Dương và phía Tây giáp Hồng Hải (Biển Đỏ). Phía Bắc của bán đảo này là vùng sa mạc hoang vu chạy dài tới biên giới Syria và Palestine. Người ta gọi nó là sa mạc Syro-Arabia vì nó ở giữa hai nước Ả Rập và Syria. Đi băng qua sa mạc này bằng đường bộ là một điều nguy hiểm nếu không dự trữ đủ nước uống. Khách lữ hành phải đi những quãng đường rất xa mới gặp được một ốc đảo (oasis). Các ốc đảo trong sa mạc được tạo thành do những hồ nước ngầm ở dưới mặt đất (underground pools). Khí hậu sa mạc rất khô, thường chỉ có mưa vào mùa xuân. Vùng có mưa nhiều nhất là miền cực nam bán đảo Ả Rập, tức nước Yemen ngày nay.

2. Dân cư:

Bán đảo Ả Rập ngày nay được chia thành nhiều quốc gia: Nước lớn nhất là Saudi Arabia 757 ngàn dặm vuông, 23 triệu dân. Yemen 203 ngàn dặm vuông, 10 triệu dân. Oman 2.5 triệu dân, Cộng Hòa Ả Rập Emirates 2.3 triệu dân và Quatar 1 triệu dân. Đa số dân Ả Rập là con cháu xa xưa của giống người ở Địa Trung Hải và miền núi Alpes ở Âu Châu. Về phương diện chủng tộc, người Ả Rập được xếp vào chủng tộc da trắng (Whites) như người Âu. Hầu hết người Ả Rập thời xưa sinh sống bằng nghề du mục. Do đó, chính họ đã tự đặt tên cho chủng tộc của mình là Arab có nghĩa là du mục (Arab means Nomad).

Người Ả Rập và Do Thái thù ghét nhau là do sự kỳ thị tôn giáo, sự thật Ả Rập và Do Thái đều cùng một chủng tộc. Theo Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái thì sau cơn đại hồng thủy, cả nhân loại chết hết, chỉ còn lại một gia đình của ông Noah sống sót mà thôi. Con trai lớn của ông Noah là Shem trở thành tổ tiên của các giống dân Do Thái và Ả Rập. Do đó, phát sinh danh từ “Semites” để gọi chung Do Thái và Ả Rập. Semites có nghĩa là “con cháu của Shem” (Semites: Descendants of Shem).

Mới đây, một số nhà khoa học về nhân chủng đã làm một cuộc thử nghiệm DNA trên nhiều người Do Thái và nhiều người Ả Rập tại Iraq,

Arabia, Yemen và Syria. Họ công bố kết quả thử nghiệm đã xác nhận người Do Thái và các giống dân Ả Rập đều cùng chung một mẫu DNA, tức cùng chung một nguồn gốc tổ tiên. Chẳng những vậy, họ đều có chung một nguồn gốc văn hóa từ Babylon. Ngôn ngữ cổ của Babylon là Sumerian, ngôn ngữ cổ Do Thái là Hebrew và ngôn ngữ Arabic đều có nhiều nét tương đồng.

Ngôn ngữ của Muhammad và của Kinh Koran là ngôn ngữ Ả Rập (Arabic) hiện là ngôn ngữ chính của 250 triệu người thuộc nhiều quốc gia ở Trung Đông.

3. Chính Trị và Tôn Giáo:

Trong thế kỷ 6 và nửa đầu thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông bị chia thành hai miền đặt dưới sự khống chế của hai đế quốc: Đế quốc Ba Tư làm chủ miền đông gồm có Iran, Iraq, Syria và Arabia. Trong thời gian này, đế quốc Ba Tư chọn Hỏa Giáo (Zoroastrianism) làm quốc giáo và chọn Ctesiphon làm thủ đô. Đế quốc Byzantine làm chủ miền tây gồm có Hy Lạp, Do Thái, Palestine, Ai Cập và vùng Địa Trung Hải. Đế quốc Byzantine chọn Ki Tô Giáo làm quốc giáo và chọn Constantinople (nay là Istambul) làm thủ đô.

Hai đế quốc Ba Tư và Byzantine đánh nhau liên miên từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 7, ròng rã 500 năm. Từ đầu thế kỷ 4, đế quốc Byzantine đổi tên Ki Tô Giáo thành “Công Giáo”, tiếng Hy Lạp Katholikos có nghĩa là tôn giáo hoàn vũ (Universal Religion). Rất nhiều người Ả Rập trong vùng kiểm soát của đế quốc Byzantine theo đạo Công Giáo. Tất cả những người này thuộc quyền cai quản của Giáo Hội Syria (Syriac Church). Đến giữa thế kỷ 6, đế quốc Công Giáo Byzantine chinh phục được vua xứ Abyssinia (tức là Ethiopia ngày nay) theo đạo và cho nhiều đoàn truyền giáo xâm nhập Yemen ở cực nam bán đảo Ả Rập.

Đế quốc Ba Tư thấy rõ âm mưu của Byzantine nên tìm cách nâng đỡ mọi người Do Thái và những người Ả Rập theo đạo Do Thái nắm chính quyền tại bán đảo Ả Rập. Năm 510 (tức 60 năm trước khi Muhammad sinh ra) với sự yểm trợ của đế quốc Ba Tư, một người Ả Rập theo đạo Do Thái là Yusuf Asai đã thống lãnh các bộ lạc Ả Rập và lên ngôi vua cai trị toàn bán đảo Ả Rập.

Đến năm 525, đế quốc Byzantine yểm trợ cho vua Công Giáo xứ Abyssinia đem quân xâm chiếm bán đảo Ả Rập. Vua Yusuf Asai chống cự không nổi phải bỏ chạy, cuối cùng nhà vua nhảy xuống biển tự tử. Từ đó, bán đảo Ả Rập thành thuộc địa của Abyssinia và Ki Tô Giáo thành quốc giáo tại xứ này.

Năm 570, người Ả Rập cầu cứu hoàng đế Ba Tư đem quân đánh đuổi quân Ki Tô Giáo Abyssinia. Đế quốc Ba Tư chiến thắng và biến bán đảo Ả Rập thành một tỉnh của đế quốc. Cũng từ đó, Hỏa Giáo của Ba Tư được truyền bá rộng rãi trong dân chúng Ả Rập.

4. Phong Tục Tập Quán:

Dù sống cuộc đời du mục ở sa mạc hay chuyên nghề thương mại sinh sống tại thành thị, mọi người Ả Rập đều thích tự xưng là “những người con của sa mạc” (sons of desert). Từ nhiều ngàn năm qua cho đến nay, người Ả Rập vẫn luôn luôn gắn bó với những con lạc đà. Chúng là những cỗ xe lý tưởng đưa họ qua sa mạc và đồng thời cũng là nguồn cung cấp sữa và thịt.

Người Ả Rập ít trồng trọt nên họ thường bị thiếu ngũ cốc và bị suy dinh dưỡng. Cuộc sống sa mạc đã tạo ra hoàn cảnh khiến cho các bộ lạc du mục phải luôn luôn gây chiến với nhau để tranh chiếm các giếng nước hiếm hoi hoặc tranh chiếm các thảo nguyên để thả nuôi gia súc. Qua nhiều thế kỷ, cuộc sống du mục đã hình thành nơi các sắc dân Ả Rập những phong tục tập quán đặc biệt: a. Tục trả thù:

Để có thể sống còn trong những điều kiện khắt nghiệt của sa mạc, mọi người Ả Rập phải tụ họp lại thành từng nhóm (groups) gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống. Nhiều nhóm liên kết với nhau thành đoàn (clans) hoặc lớn hơn nữa thành bộ lạc (tribes). Mọi cá nhân đều phải gắn bó với quyền lợi chung của bộ lạc. Người Ả Rập gọi tinh thần gắn bó ấy là “muruwah” bao hàm rất nhiều ý nghĩa: phải can đảm trong chiến đấu, phải kiên nhẫn chịu đựng mọi sự đau khổ khi bộ lạc gặp khó khăn, phải cương quyết bảo vệ mọi kẻ yếu trong bộ lạc và phải quyết tâm trả thù những kẻ đã dám xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của bộ lạc.

Các tù trưởng có trách nhiệm bảo vệ mọi thành viên trong bộ lạc của mình. Nếu không trừng phạt những kẻ đã xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của thành viên trong bộ lạc mình thì tù trưởng đó sẽ không còn được tín nhiệm nữa. Vì tính liên đới trách nhiệm trong bộ lạc nên trong nhiều trường hợp một người trong bộ lạc này bị giết thì một người trong bộ lạc thù địch phải bị giết để đền mạng. Luật sa mạc là nợ máu phải trả bằng máu. Bán đảo Ả Rập là một sân khấu vĩ đại của những chu kỳ bạo động không bao giờ dứt.

Trong những thời kỳ đói kém hay hạn hán, các bộ lạc gặp khó khăn thường chọn một trong những bộ lạc thù địch để tấn công nhằm cướp gia súc, thực phẩm và hàng hóa cần thiết để sống còn. Các đàn ông của bộ lạc địch đều bị giết. Các đàn bà trẻ đẹp bị bắt đưa về làm vợ bé hay đầy tớ. Số còn lại bị đưa đi bán ở chợ nô lệ.

Những người Ả Rập du mục không hề coi những vụ cướp của giết người như vậy là điều tội lỗi. Họ quan niệm đó chỉ là những việc làm tự nhiên để trừng phạt kẻ thù một cách hợp lý mà thôi. b. Tục giết các bé gái sơ sinh (Female Infanticide) Luật sa mạc cũng tàn nhẫn như luật rừng: Chỉ có kẻ mạnh sống sót, mọi kẻ yếu phải bị loại trừ! Việc giết các bé gái sơ sinh là một phương cách điều chỉnh dân số của các bộ lạc du mục. Lý do là một khi bộ lạc có quá nhiều con gái và quá ít con trai thì bộ lạc bị lâm vào tình trạng suy yếu. Chỉ có đàn ông con trai mới có thể đáp ứng nhu cầu sống còn của bộ lạc, đó là nhu cầu chiến đấu và nhu cầu lao động sản xuất.

Phụ nữ bị coi rẻ nên xã hội du mục không dành cho họ một quyền lợi luật định nào (no legal right). Họ bị coi như một thứ tài sản, hay nói đúng hơn là một động sản (movabal property). Những gia đình nào đã sinh một vài đứa con gái rồi thì những bé gái sinh sau thường bị giết chết không thương tiếc. c. Tục cắt da qui đầu và cắt âm vật Theo tương truyền thì Abraham là người đầu tiên tự cắt da qui đầu của mình và cắt da qui đầu các con trai của ông để tỏ lòng tuân phục Thiên Chúa.

Do đó, tục lệ cắt da qui đầu trở thành nghi lễ bắt buộc đối với mọi người theo đạo Do Thái. Tục lệ này thường được gọi là Phép Cắt Bì (Cirumcision).

Trước khi có đạo Hồi, đa số người Ả Rập thường tự xưng là tín đồ đạo Abraham, tức Đạo Do Thái Nguyên Thủy. Họ thường cắt da qui đầu cho các bé trai giống như người Do Thái.

Ngoài ra, người Ả Rập có tục lệ cắt bỏ một phần hoặc tất cả âm vật, còn được gọi là mồng đóc (Clitoris) của các bé gái từ 4 đến 8 tuổi. Đây là một tục lệ chung của người Ả Rập, không phân biệt tôn giáo. Hiện nay, nhiều người Ả Rập ở Ai Cập, Yemen, Sudan theo Ki Tô Giáo vẫn giữ tục lệ này.

Họ tin rằng việc cắt clitoris tuy có gây đau đớn nhưng tránh cho phụ nữ những đòi hỏi sinh lý và giúp họ dễ trở nên thanh sạch cao đẹp hơn. d. Tục chứng minh trinh tiết cô dâu Một tục lệ của người Ả rập gây căng thẳng tinh thần cho các cô gái đến tuổi lấy chồng, đó là tục lệ chứng minh trinh tiết cô dâu (Proof of the bride’s Virginity). Sau đám cưới, mọi người trong gia đình cô dâu và những người khách tham dự tụ họp bên ngoài phòng ngủ cô dâu chú rễ. Sau khi động phòng, chú rễ bước ra khỏi phòng ngủ báo cáo kết quả cho mọi người biết.

Nếu chú rễ tuyên bố cô dâu đã mất trinh trước đám cưới thì đây là một điều nhục nhã cho gia đình nhà gái và cuộc hôn nhân có thể bị hủy bỏ! e. Tục giết gái chửa hoang Các cô gái Ả Rập không chồng mà chửa bị coi là đã phạm trọng tội đối với danh dự của gia đình. Các cô gái này thường bị cha hoặc anh em ruột giết chết để bảo vệ danh dự gia đình. Vì thế, người Ả Rập gọi tục lệ này là “Giết người vì danh dự” (Honor Killing). Các cô gái chửa hoang thường khó có thể thoát chết vì dù có chạy đến cầu cứu các cơ quan luật pháp cũng không được bảo vệ. Các thủ phạm giết người trong trường hợp này được xã hội coi là hành động chính đáng và nếu có bị tù thì cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn có tính cách tượng trưng mà thôi.

Tất cả các tục lệ kể trên hiện vẫn còn tồn tại trong các xứ Ả Rập Hồi Giáo. Tuy nhiên, những tục lệ đó không xuất phát từ đạo Hồi vì trong kinh Koran cũng như những văn bản luật pháp của đạo Hồi đều không có điều khoản nào qui định về các tục lệ đó. Ngày nay, nhiều nước Hồi Giáo đã ban hành các biện pháp hủy bỏ hoặc hạn chế các tục lệ xét ra có hại và lỗi thời.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay PDF của tác giả Bùi Văn Chấn nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 1 (H. P. Blavatsky)
LỜI NÓI ĐẦU CỦA ẤN BẢN LẦN THỨ NHẤT Tác giả - bút giả thì đúng hơn - xin cáo lỗi cùng độc giả vì công tác xuất bản tác phẩm này đã bị trì trệ khá lâu. Đó là vì tác giả bị đau yếu mãi trong khi công tác thật là vĩ đại. Ngay cả hai quyển hiện nay được phát hành cũng chưa hoàn tất được kế hoạch và cũng chưa bàn rốt ráo được các chủ đề liên hệ. Tôi đã soạn ra một số lớn tài liệu bàn về lịch sử của huyền bí học lồng trong cuộc đời của các bậc Cao đồ của giống dân Aryan, và chứng tỏ được huyền bí học đã ảnh hưởng như thế nào đến nếp sinh hoạt hiện hữu và lý tưởng. Nếu các cuốn sách này mà được nồng nhiệt đón tiếp thì chúng tôi sẽ dốc toàn lực ra để tiến hành toàn bộ công tác. Quyển thứ ba đã hoàn toàn sẵn sàng; quyển thứ tư cũng hầu như thế. Xin nói thêm rằng khi lần đầu tiên loan báo việc tiến hành công tác, chúng tôi không thể dự trù như vậy. Theo lời loan báo sơ khởi, chúng tôi dự trù rằng bộ Giáo Lý Bí Nhiệm sẽ là một bản có hiệu đính và bổ sung của bộ Tìm mua: Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 1 TiKi Lazada Shopee Nữ Thần Isis Lộ Diện (Isis Unveiled). Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, chúng tôi thấy ngay rằng cần phải có một phương pháp soạn thảo khác dành cho các chú giải mà chúng tôi có thể thêm vào phần đã được trình bày trong bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện và các tác phẩm khác nói về nội môn bí giáo. Vì thế, tác phẩm này chỉ có tổng cộng chưa đầy hai mươi trang trích ra từ Nữ Thần Isis Lộ Diện. Tác giả thiết tưởng cũng chẳng cần xin quí độc giả và các phê bình gia miễn thứ cho nhiều khuyết điểm về cách hành văn và Anh ngữ có thể có trong tác phẩm này, vì bà là một người ngoại quốc và mới chỉ học Anh ngữ sau này. Bà dùng Anh ngữ vì nó là phương tiện phổ biến nhất để truyền đạt các chân lý mà bà có bổn phận phải trình bày cho đại chúng. Các chân lý này không hề được trình bày như một điều thiên khải (revelation); tác giả cũng chẳng hề tự xem mình là một kẻ tiết lộ kho tàng huyền bí học được công bố lần đầu tiên trong lịch sử. Đó là vì những gì bao hàm trong tác phẩm này đều có rải rác trong hàng ngàn quyển Thánh Kinh của các tôn giáo lớn ở Âu Châu cũng như ở Á Châu, ẩn tàng trong các chữ tượng hình và các biểu tượng, đến nay chúng vẫn chưa được ai ghé mắt tới vì có bức màn che khuất. Nay ta thử ra sức thu thập các giáo điều tối cổ lại khiến cho chúng thành ra một tổng thể hài hòa và mạch lạc. Tác giả chỉ có mỗi một lợi điểm so với bậc tiền bối là không cần phải dựa vào các lý thuyết và các điều suy lý của riêng mình. Đó là vì tác phẩm này chỉ trình bày lại một phần những gì mà chính tác giả đã được các môn sinh cao cấp truyền dạy, chỉ có một vài chi tiết là được bổ sung do công trình học hỏi và quan sát của chính tác giả. Trong vòng vài năm vừa qua, trong khi nỗ lực đào luyện ra một hệ tư tưởng hoàn chỉnh theo một vài sự kiện đã được truyền thụ trước kia, nhiều nhà nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng và môn sinh thần bí học đã đi vào các cuộc suy luận hoang đường; vì thế, chúng tôi cần phải công bố nhiều sự kiện được phát biểu trong tác phẩm này. Cũng chẳng cần giải thích rằng tác phẩm này không phải là toàn bộ Giáo Lý Bí Nhiệm, mà chỉ là một tuyển tập các giáo điều căn bản. Chúng tôi đã đặc biệt quan tâm tới một vài sự kiện mà nhiều tác giả đã chộp lấy để xuyên tạc và làm sai lệch chân lý. Nhưng có lẽ ta nên dứt khoát khẳng định rằng mặc dù còn vụn vặt và bất toàn, các giáo lý chứa đựng trong tác phẩm này không hề riêng thuộc về Ấn Độ giáo, Bái Hỏa giáo, Can Đê giáo, Ai Cập giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo hoặc Thiên Chúa giáo. Giáo Lý Bí Nhiệm là tinh hoa của tất cả các tôn giáo này. Bắt nguồn từ Giáo Lý Bí Nhiệm, đủ thứ hệ thống tôn giáo này đang hội nhập về cái nguồn cội đã phát triển và thể hiện ra mọi giáo điều bí nhiệm. Rất có thể là đa số công chúng sẽ coi tác phẩm này là một chuyện Thần Tiên hoang đường, vì có ai đã nghe nói đến Thiền Định Chân Kinh (Book of Dzyan) bao giờ đâu? Do đó, tác giả xin sẵn sàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì bao hàm trong tác phẩm này; thậm chí, tác giả cũng sẵn sàng đương đầu với việc bị tố cáo là đã chế ra toàn bộ các điều đó. Tác giả thừa biết là nó có nhiều khuyết điểm. Tác giả chỉ xin tuyên bố rằng cho dù nó có vẻ hoang đường đối với nhiều người, lý luận mạch lạc và tính chất “trước sau như một” khiến cho Tân Sáng Thế Ký này ít ra cũng có quyền được xếp ngang hàng với các “giả thuyết” để kiểm chứng mà khoa học hiện đại đang tha hồ chấp nhận. Hơn nữa, thiên hạ phải xét tới nó, không phải vì nó dựa vào bất kỳ thế lực giáo quyền nào, mà chỉ vì nó có gắn bó mật thiết với Thiên Nhiên, đúng theo các định luật đồng nhất và tương tự. Như vậy, mục tiêu của tác phẩm này có thể được xác định như sau: a. Chứng tỏ rằng Thiên Nhiên không phải là một sự tập hợp “ngẫu nhiên của các nguyên tử”. b. Chỉ định cho con người vị trí đúng đắn của y trong hệ thống Vũ Trụ. c. Phục hưng các chân lý cổ sơ vốn là nền tảng của mọi tôn giáo. d. Trong một chừng mực nào đó, bộc lộ nhất nguyên cơ bản vốn là nguồn cội của mọi tôn giáo này. e. Chứng tỏ rằng khoa học văn minh hiện đại chưa bao giờ tiếp cận được khía cạnh Huyền bí của Thiên Nhiên. Chỉ cần điều này được hoàn thành chút ít thôi thì tác giả cũng đủ mãn nguyện rồi. Tác phẩm này được viết ra để phụng sự nhân loại, vì thế, nó phải được nhân loại và hậu thế phán xét. Tác giả không chấp nhận điều kháng cáo tầm thường nào. Bà đã quá quen với sự lăng mạ, bà cứ bị vu khống như cơm bữa và vẫn mỉm cười âm thầm khinh bỉ khi nghe thiên hạ nói xấu mình. LUÂN ĐÔN Tháng 10 - 1888 H.P.BDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "H. P. Blavatsky":Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 1Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 2Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 3Tiếng Nói Vô ThinhChìa Khóa Minh Triết Thiêng LiêngThiên Nhiên Huyền BíBí Quyết Thông Thiên HọcĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giáo Lý Bí Nhiệm - Quyển 1 PDF của tác giả H. P. Blavatsky nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Con Người Là Tiểu Vũ Trụ (Đoàn Xuân Mượu)
Con người là một tiểu vũ trụ với tất cả những phức tạp và độc đáo, kỳ diệu, tuyệt vời và bí ẩn. Chúng ta thường nghe nói con người là một cỗ máy hoàn hảo nhất. Nhưng ít người tưởng tượng ra rằng mỗi người chính là một tiểu vũ trụ cũng giống như đại vũ trụ mà chúng ta quán chiếu, quan sát, cảm nhận, chiêm ngưỡng, nhìn ngắm hàng ngày kia. Ngược lại vũ trụ cũng như con người là đồng cấu, giống nhau về cấu tạo và quy luật vận hành, dù ở dạng hữu hình hay vô hình, năng lượng hoặc thông tin, vật lý hay tâm linh. Con người sinh ra từ vũ trụ, trong môi trường chịu nhiều ảnh hưởng cũa vũ trụ không chỉ ở mặt hữu hình, vật lý, mà còn ở dạng năng lượng, thông tin và nhiều yếu tố khác. Con người sinh thái hay tâm linh là cách nói hiện đại được hiểu trên cái nền tư tưởng con người là tiểu vũ trụ. Con người và vũ trụ có chung nhịp điệu cuộc sống cũng như sinh học, ảnh hưởng qua lại vừa tương sinh vừa tương khác, cùng tương đồng mà ngày nay đã được khoa học chứng minh hạt nhân hợp lý của nó. Con người giống như chiều sâu bản thể của vũ trụ và nhân sinh.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Người Là Tiểu Vũ Trụ PDF của tác giả Đoàn Xuân Mượu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Con Đường Độc Nhất Để Chứng Ngộ Niết Bàn (Pháp Quang)
MỤC LỤC LỜI NGƯỜI DỊCH.. i NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT... i LỜI TỰA... 1 BỐN PHẬN SỰ CẦN PHẢI HOÀN THÀNH.. 1 Tìm mua: Con Đường Độc Nhất Để Chứng Ngộ Niết Bàn TiKi Lazada Shopee THÁNH ĐẾ VỀ KHỔ CẦN PHẢI ĐƯỢC LIỄU TRI.. 2 THÁNH ĐẾ VỀ NGUỒN GỐC CỦA KHỔ CẦN PHẢI ĐƯỢC ĐOẠN TẬN.. 3 THÁNH ĐẾ VỀ KHỔ DIỆT CẦN PHẢI ĐƯỢC CHỨNG NGỘ... 4 THÁNH ĐẾ VỀ CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN KHỔ DIỆT CẦN PHẢI ĐƯỢC TU TẬP... 4 BỐN PHẬN SỰ (QUÁN PHÁP TRONG CÁC PHÁP - BỐN THÁNH ĐẾ).. 5 THIỀN ĐỊNH VÀ THIỀN MINH SÁT CẦN PHẢI ĐƯỢC TU TẬP.. 5 THIỀN ĐỊNH (SAMATHA) - THIỀN MINH SÁT (VIPASSANĀ).. 6 THIỀN ĐỊNH (ĐOẠN TRỪ NĂM TRIỀN CÁI). 6 THIỀN ĐỊNH (ĐOẠN TRỪ THAM ƯU Ở THẾ GIAN)... 7 THIỀN ĐỊNH (QUÁN PHÁP - NĂM TRIỀN CÁI). 8 THIỀN ĐỊNH (QUÁN THÂN).. 8 THIỀN ĐỊNH (MINH SÁT - NỀN TẢNG ĐỊNH BẬC THIỀN).. 8 THIỀN MINH SÁT (THÂN VÀ TÂM).. 9 HAI ĐỀ MỤC THIỀN. 9 MINH SÁT (NĂM UẨN, SỰ TẬP KHỞI / ĐOẠN DIỆT CỦA CHÚNG). 10 CÁC UẨN LÀ NHƯ VẬY.. 11 SỰ SANH & DIỆT CỦA CÁC UẨN LÀ NHƯ VẬY.. 11 THIỀN MINH SÁT (QUÁN PHÁP - NĂM THỦ UẨN).. 13 THIỀN MINH SÁT (BA LOẠI ĐẠT TRI: NĂM UẨN)... 13 THIỀN MINH SÁT (BA LOẠI ĐẠT TRI: SÁU NỘI XỨ / SÁU NGOẠI XỨ)... 14 THIỀN MINH SÁT (QUÁN PHÁP SÁU NỘI XỨ / SÁU NGOẠI XỨ)... 15 THIỀN MINH SÁT (BA LOẠI ĐẠT TRI: BỐN NIỆM XỨ).. 16 THIỀN MINH SÁT (MỘT ĐỐI TƯỢNG TRONG MỘT THỜI ĐIỂM).. 17 MỘT CÁNH CỔNG.. 18 BỐN NIỆM XỨ=NĂM UẨN, … =TẤT CẢ.. 20 NÀY CÁC TỲ KHƯU, ĐÂY LÀ CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT. 21 CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT = MỘT CÁNH CỔNG... 22 CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT (MINH SÁT - QUÁN THÂN).. 22 QUÁN THÂN TRONG THÂN. 23 QUÁN THÂN TRONG THÂN (BÊN TRONG VÀ BÊN NGOÀI).. 24 QUÁN THÂN TRONG THÂN (PHÁP TẬP KHỞI VÀ PHÁP ĐOẠN DIỆT)... 24 QUÁN THÂN TRONG THÂN (NHÂN HIỆN TẠI).. 24 QUÁN THÂN TRONG THÂN (CÁC NHÂN QUÁ KHỨ)... 25 QUÁN THÂN TRONG THÂN (KẾT LUẬN). 26 CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT (MINH SÁT - QUÁN THỌ). 26 KẾT LUẬN. 28 KINH ÐẠI NIỆM XỨ (MỤC HƠI THỞ VÀO & RA)... 29 LỜI GIỚI THIỆU. 29 THIỀN ĐỊNH. 29 THIỀN MINH SÁT.. 30 THIỀN MINH SÁT: BƯỚC ĐẦU.. 30 THIỀN MINH SÁT: BƯỚC HAI... 30 THIỀN MINH SÁT: BƯỚC BA.. 30 THIỀN MINH SÁT: BƯỚC BỐN.. 30 KẾT LUẬN. 30 LỜI GIỚI THIỆU. 31 THIỀN ĐỊNH. 32 TỈNH GIÁC VỊ ẤY THỞ VÀO, TỈNH GIÁC VỊ ẤY THỞ RA. 32 BỐN KHÓ KHĂN ĐIỂN HÌNH.. 32 THỞ VÀO DÀI, THỞ VÀO NGẮN... 33 NGƯỜI THỢ QUAY THIỆN XẢO HAY HỌC TRÒ NGƯỜI THỢ QUAY.. 33 ẤN TƯỚNG (NIMITTA). 33 CÁC LOẠI NIMITTA KHÁC NHAU.. 34 CẢM GIÁC TOÀN THÂN HƠI THỞ... 34 AN TỊNH THÂN HÀNH HƠI THỞ.. 35 SỰ HAY BIẾT BA PHÁP. 36 RƠI VÀO TÂM HỘ KIẾP (HỮU PHẦN) (BHAVAṄGA)... 37 NGŨ CĂN.. 37 NIỆM CĂN. 37 TÍN CĂN VÀ TUỆ CĂN... 38 TẤN CĂN VÀ ĐỊNH CĂN... 38 TÍN DÀNH CHO ĐỊNH, TUỆ DÀNH CHO MINH SÁT. 39 SƠ THIỀN. 39 NĂM PHÁP THUẦN THỤC. 39 NHỊ THIỀN... 40 TAM THIỀN.. 40 TỨ THIỀN. 41 BẬC THIỀN VÀ HƠI THỞ. 41 THÁNH ĐẠO TÁM NGÀNH CỦA THIỀN ĐỊNH... 41 KẾT LUẬN. 42 THIỀN MINH SÁT... 43 BA LOẠI ĐẠT TRI.. 43 THIỀN MINH SÁT: GIAI ĐOẠN ĐẦU... 43 BA THÂN... 43 THIỀN QUÁN SẮC.. 45 THIỀN TỨ ĐẠI TÓM LƯỢC. 45 DÙNG BẬC THIỀN NỀN TẢNG CỦA MINH SÁT. 45 LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÂN BIỆT MƯỜI HAI ĐẶC TÁNH VÀ BỐN ĐẠI CHỦNG.. 45 ĐẤT NƯỚC LỬA GIÓ.. 46 BA ẢO TƯỞNG VỀ KHỐI. 46 LÀM THẾ NÀO ĐỂ THẤY VÀ PHÂN BIỆT CÁC NHÓM SẮC. 46 BẢNG HAI MƯƠI TÁM LOẠI SẮC.. 47 THIỀN TỨ ĐẠI THEO CÁCH CHI TIẾT... 53 HAI MƯƠI PHẦN ĐỊA ĐẠI.. 53 MƯỜI HAI PHẦN THỦY ĐẠI.. 53 BỐN PHẦN HỎA ĐẠI... 53 SÁU PHẦN PHONG ĐẠI.. 54 CHÍN LOẠI NHÓM SẮC DO NGHIỆP SANH... 54 TÁM LOẠI NHÓM SẮC DO TÂM SANH. 55 BỐN LOẠI NHÓM SẮC DO NHIỆT SANH. 56 HAI LOẠI NHÓM SẮC DO DƯỠNG CHẤT SANH... 57 BỐN LOẠI SẮC TƯỚNG.. 57 QUÁN ‘SẮC’. 57 KẾT LUẬN... 58 THIỀN QUÁN DANH.. 59 NĂM MƯƠI HAI TÂM SỞ (CETASIKA):... 59 TÁM MƯƠI CHÍN LOẠI TÂM (CITTA).. 61 PHÂN BIỆT TIẾN TRÌNH TÂM ĐẮC THIỀN. 62 QUÁN NIỆM ‘DANH’. 68 QUÁN ‘DANH - SẮC’. 68 TÓM TẮT VÀ KẾT LUẬN.. 68 THÁNH ĐẠO TÁM NGÀNH CỦA MINH SÁT: GIAI ĐOẠN ĐẦU.. 68 THIỀN MINH SÁT: GIAI ĐOẠN HAI. 69 HAI LOẠI SANH DIỆT... 69 PHÁP DUYÊN KHỞI CHIỀU THUẬN.. 69 PHÁP DUYÊN KHỞI CHIỀU NGHỊCH. 70 PHÂN BIỆT PHÁP DUYÊN KHỞI CHIỀU THUẬN... 70 PHƯƠNG PHÁP THỨ NĂM... 71 TAM LUÂN (BA VÒNG)... 71 LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÂN BIỆT DUYÊN SANH. 72 LÀM THẾ NÀO PHÂN BIỆT DUYÊN DIỆT. 73 LÀM SAO ĐỂ QUÁN SỰ SANH & DIỆT THEO SÁT-NA. 74 THÁNH ĐẠO TÁM NGÀNH CỦA THIỀN MINH SÁT: GIAI ĐOẠN THỨ HAI... 75 THIỀN MINH SÁT: GIAI ĐOẠN BA... 75 MƯỜI BA TRÍ MINH SÁT ĐẦU TIÊN. 75 THIỀN MINH SÁT: GIAI ĐOẠN BỐN... 76 BA TUỆ MINH SÁT CUỐI CÙNG. 76 THÁNH ĐẠO TÁM NGÀNH CỦA THIỀN MINH SÁT.. 77 BA LOẠI THÔNG ĐẠT TRÍ... 77 Chân Thể Tuyệt Đối.. 82 Phân Loại Chân Thể Tuyệt Đối (Paramattha∙Sacca).. 82 Phân Loại Chân Thể Tuyệt Đối (Paramattha∙Sacca) theo Năm Uẩn (Pañca∙Kkhandha). 83 Phân Loại Chân Thể Tuyệt Đối (Paramattha∙Sacca) theo Mười Hai Xứ (Dvādas∙Āyatana). 85 Phân Loại Chân Thể Tuyệt Đối (Paramattha∙Sacca) theo Mười Tám Giới (Aṭṭhārasa Dhātu). 86 Phân Loại Chân Thể Tuyệt Đối (Paramattha∙Sacca) theo Bốn Đế (Catu Sacca). 88 CHÚ GIẢI.. 89Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Đường Độc Nhất Để Chứng Ngộ Niết Bàn PDF của tác giả Pháp Quang nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chuyện H. P. Blavatsky (Thanh Thiên)
Chuyện được soạn theo những tài liệu có được tính đến lúc này (2004) nên sẽ có vài chỗ khác với sách được viết đã lâu, hoặc có chi tiết thêm vào hoặc có khám phá mới: Cách viết tên cũng sẽ có khác đôi chút do có thay đổi về ngữ âm so với cách viết thế kỷ 19 và 20. Nói riêng về quyển Blavatsky and Her Teachers, đây là sách có phần phiên dịch từ Nga, Đức, Pháp và Ý sang Anh văn chính xác nhất, bởi tác giả Fuller thông thạo những ngôn ngữ này, tự tham khảo tài liệu nguyên bản bằng Nga văn, Đức, Ý v.v. nên có thể kiểm chứng lại bản dịch dùng trong những sách viết trước đây về H.P.B. Sách có nhiều nghiên cứu công phu, đính chính một số ghi chép sai lầm của nhiều tác phẩm khác.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chuyện H. P. Blavatsky PDF của tác giả Thanh Thiên nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.