Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Chết Thứ Năm

Hai nữ sinh trung học liên tiếp mất tích. Xác của Ella Reynolds được phát hiện bên dưới mặt nước đóng băng ở công viên Jackson, còn xác của Lili Davies được tìm thấy trong phòng tranh nơi cô bé làm thêm sau mỗi buổi học. Không lâu sau đó, đến lượt hai người cha của các cô bị giết hại. Cảnh sát gần như không thể tìm ra điểm chung nào giữa các nạn nhân Trong khi các thanh tra của Sở cảnh sát Chicago chạy đua với thời gian để đưa tên sát nhân “mới nổi” ra ánh sáng thì Thanh tra Sam Porter bí mật tiếp tục săn lùng 4MK. Với hành trang là cuốn nhật ký của Anson Bishop và một bức ảnh nhòe mờ, Porter chạy đôn chạy đáo khắp các đường phố của New Orleans và tình cờ bước vào một thế giới còn tối tăm hơn những gì anh có thể tưởng tượng, nơi anh nhanh chóng nhận ra rằng thứ duy nhất đáng sợ hơn tâm trí của một kẻ giết người hàng loạt là tâm trí của người mẹ đã sinh ra hắn. Bộ sách 4MK Thriller gồm có: 4MK Cái Chết Thứ Năm Đứa Trẻ Thứ Sáu *** J.D. Barker là một tác giả người Mỹ nổi tiếng quốc tế về phim kinh dị hồi hộp, thường kết hợp các yếu tố kinh dị, tội phạm, bí ẩn, khoa học viễn tưởng và siêu nhiên. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, Forsaken, là người vào chung kết cho Giải thưởng Bram Stoker năm 2014. *** Porter Ngày 1 • 8:23 tối Bóng tối. Bóng tối dày đặc cuộn xoáy quanh anh, hút cạn ánh sáng, chẳng để lại gì ngoài khoảng không tối đen như mực. Một màn sương đang bủa vây tâm trí anh, những từ ngữ loay hoay tìm cách gắn kết với nhau, cố sao cho được một câu rành mạch, cố tìm cho ra ý nghĩa nào đó, nhưng đến lúc tưởng như đã ở rất gần thì chúng lại bị nuốt chửng và tan biến, thay vào đó là dự cảm chẳng lành cứ lớn dần, một cảm giác thật nặng nề - thân xác anh chìm dần vào vùng nước âm u sâu thẳm từ lâu đã rơi vào quên lãng. Anh ngửi thấy mùi ẩm thấp. Nấm mốc. Ướt át. Sam Porter những muốn mở mắt ra. Phải mở cho bằng được. Nhưng đôi mắt chẳng chịu tuân theo ý muốn của anh, chúng cứ thế nhắm chặt lại. Đầu anh vừa đau vừa nhức. Cơn đau dậy lên từng hồi phía sau tai bên phải và ở cả thái dương. “Cố gắng đừng cử động, Sam. Tôi không muốn anh cảm thấy buồn nôn.” Giọng nói cất lên loáng thoáng, xa xăm, quen thuộc. Porter đang nằm duỗi dài. Mười đầu ngón tay đặt trên tấm thép lạnh ngắt. Giờ anh nhớ ra mũi tiêm ấy rồi. Cây kim cắm vào dưới gáy, cú đâm diễn ra chóng vánh, dung dịch lạnh lẽo tràn vào bên dưới da, ngấm vào cơ bắp, sau đó… Porter cố mở mắt, song hai mí nặng trĩu nhất quyết kháng cự. Khô khốc, cay xè. Anh muốn dụi mắt, nhưng bàn tay phải vừa đưa lên đã ngay lập tức bị kéo về khi sợi xích ở cổ tay anh căng ra. Hơi thở nghẹn lại trong anh, anh gắng gượng ngồi dậy, đầu óc quay cuồng khi máu huyết từ trên dồn xuống. Suýt nữa anh lại nằm vật ra. “Ái chà, từ từ nào, Sam. Giờ anh đã tỉnh, etorphine* sẽ hết tác dụng nhanh thôi. Chịu khó chờ một lát đi.” Đèn bật lên, một chiếc đèn halogen sáng rực chiếu thẳng vào mặt anh. Porter nheo mắt nhưng quyết không quay đi, anh nhìn chằm chằm vào gã đàn ông đứng cạnh chiếc đèn, dáng người lờ mờ khuất trong bóng tối. “Bishop?” Porter gần như không nhận ra giọng mình nữa, nghe khàn đặc. “Khỏe không, Sam?” Cái bóng tiến sang phải một bước, lật úp cái xô đựng sơn rỗng có dung tích mười tám lít rồi ngồi lên đó. “Đừng chiếu cái đèn chết tiệt ấy vào mắt tao.” Porter kéo giật sợi xích ở cổ tay, đầu còn lại của chiếc còng va leng keng vào một đường ống dày, loại ống dẫn nước hoặc cũng có thể là dẫn ga. “Cái mẹ gì thế này?” Anson Bishop với tay đẩy cho chiếc đèn hơi chếch sang trái. Nó là loại đèn chiếu sáng trong các cửa hàng, được đặt trên một kiểu chân đế nào đó. Ánh sáng rọi lên bức tường gạch không nung, trong góc đằng xa có đặt cái máy nước nóng, phía bên kia là máy giặt và máy sấy cũ. “Đỡ hơn rồi chứ?” Porter giật sợi xích lần nữa. Bishop ném cho anh nụ cười nửa miệng và nhún vai. Lần cuối cùng Porter nhìn thấy hắn, hắn để tóc húi cua màu nâu sẫm. Mái tóc ấy nay đã dài ra, nhạt đi, bù xù. Mặt hắn lún phún lớp râu ba, bốn ngày chưa cạo. Bộ trang phục công sở theo phong cách đời thường đã không còn, thay vào đó là chiếc quần jeans và áo nỉ có mũ màu xám đậm. “Độ này coi bộ xuống mã nhỉ.” Porter nói. “Thời buổi khó khăn mà.” Nhưng hắn không thể thay đổi được cặp mắt, cũng như vẻ lạnh lùng ẩn chứa trong đó. Cặp mắt ấy muôn đời chẳng đổi khác. Bishop rút từ trong túi quần sau ra một cái thìa nhỏ, loại thìa ăn hoa quả có răng cưa, hắn lơ đãng xoay nó giữa những ngón tay, mép răng cưa sáng lên dưới ánh đèn. Porter ngó lơ cái thìa. Thay vào đó, anh liếc xuống, gõ ngón trỏ lên tấm kim loại mà anh đang nằm lên. “Cái băng ca này cũng cùng một kiểu với cái mày dùng để xích Emory vào phải không?” “Gần như thế.” “Không kiếm nổi cái giường gấp nào sao?” “Giường gấp hay hỏng lắm.” Một vũng màu đỏ sậm đọng lại bên dưới băng ca, vết nhơ tối thẫm trên mặt sàn bê tông nhếch nhác, bẩn thỉu. Nhưng Porter không hỏi han gì về nó. Sờ vào mặt dưới tấm kim loại rồi thu tay về, anh thấy ngón tay mình dinh dính. Điều này anh cũng chẳng thắc mắc. Bức tường bên trái anh có vài cái kệ, trên đó chất đầy dụng cụ quét sơn: thùng, chổi sơn, bạt phủ. Trần nhà phía trên đầu được ghép từ những tấm ván gỗ cỡ 2x6*, mỗi tấm cách nhau chừng bốn mươi centimet. Mạch điện để trần, ống nước và ống thông gió lấp đầy khoảng trống giữa các tấm ván. “Chỗ này là tầng hầm của một nhà dân. Ngôi nhà không lớn. Nhưng cũng cũ rồi. Đường ống trên đầu mày được bọc bằng a-mi-ăng, vì thế tao khuyên mày chớ có dại mà dây vào nó. Tao đoán nơi này bị bỏ hoang, vì cái đèn của mày đang phải dùng cáp nối dài, sợi cáp chạy lên tầng trên và cắm vào… gì nhỉ, một loại ắc quy nào đó chăng? Máy phát điện thì không phải rồi. Sẽ nghe thấy tiếng ngay. Mày không thèm dùng mấy ổ cắm trên tường, chứng tỏ nhà này đã bị cắt điện. Đã thế còn lạnh như nhà xác. Tao nhìn thấy được cả hơi tao thở ra, vậy nghĩa là hệ thống sưởi không hoạt động. Điều đó càng cho thấy đây là nhà hoang. Chẳng ai dám mạo hiểm ở trong căn nhà có đường ống bị đóng băng bao giờ.” Bishop tỏ vẻ hài lòng khi nghe điều này, một nụ cười thấp thoáng trên môi hắn. Porter tiếp tục nói. “Nhà này bề ngang tương đối hẹp. Vì thế đây hẳn là kiểu nhà thông cửa*. Mày chắc sẽ không chọn một khu dân cư sang chảnh nào đó có Starbucks, Internet, nơi người dân thường báo cảnh sát khi phát hiện đối tượng có tiền án tiền sự, bởi vậy tao đoán nhiều khả năng mày sẽ bám trụ ở khu Tây. Có thể là một con phố như phố Wood chẳng hạn. Ở đó nhiều nhà không người ở lắm.” Porter luồn bàn tay không bị còng vào trong chiếc áo khoác dày để tìm súng, nhưng chỉ thấy cái bao rỗng. Điện thoại di động của anh cũng mất rồi. “Đúng là cảnh sát có khác.” Phố Wood nằm cách căn hộ của anh ở Wabash những mười lăm phút lái xe nếu đường thông hè thoáng, Porter bị tiêm thuốc khi anh chỉ còn cách căn hộ chừng một khu nhà. Dĩ nhiên những điều này hoàn toàn chỉ là suy đoán, nhưng anh muốn gợi chuyện để Bishop nói tiếp. Càng mải ba hoa thì hắn càng ít nghĩ tới cái thìa kia. Cơn đau nhức nhối ở đầu giờ đã dồn cả vào phía sau mắt phải của Porter. “Anh không định thuyết phục tôi ra đầu thú sao? Rằng anh có thể giúp tôi thoát án tử nếu tôi ngoan ngoãn hợp tác ấy mà?” “Không có đâu.” Lần này Bishop mỉm cười thật. “Ê, có thứ này, anh muốn xem không?” Porter định bảo không, nhưng anh biết có nói gì đi nữa cũng vô ích. Tên này đã sắp sẵn trong đầu một kế hoạch, một âm mưu nào đó rồi. Chẳng kẻ nào dám liều lĩnh bắt cóc một thanh tra của Sở Cảnh sát Chicago ngay giữa phố nếu như không có mục đích rõ ràng. Anh cảm nhận được chùm chìa khóa đang nằm trong túi bên phải. Bishop đã chừa lại nó khi lấy súng và điện thoại của anh. Trong đó có chìa khóa mở còng, phần lớn còng tay đều dùng chung một chìa để mở. Hồi mới vào nghề, anh được biết lý do là vì người còng tay đối tượng và người mở còng cho chúng sau đó gần như chắc chắn không phải là một. Đối tượng bị bắt có thể sẽ qua tay vài người trong quá trình làm thủ tục nhập khám. Bởi vậy, các sĩ quan được dạy phải tịch thu chìa khóa tìm thấy khi khám người đối tượng, tất cả các chìa. Tên tội phạm sành sỏi nào cũng đem theo chìa khóa mở còng để dễ bề tẩu thoát trong trường hợp có gã cảnh sát gà mờ quên kiểm tra. Porter sẽ phải xoay xở để lấy được chùm chìa khóa ra khỏi túi bên phải, rồi bằng cách nào đó chuyển nó sang tay trái, mở còng và hạ gục Bishop trước khi hắn kịp băng qua khoảng cách một mét rưỡi giữa hai người. Tên này xem chừng không có vũ khí gì ngoài cái thìa. “Mắt nhìn thẳng phía trước, Sam.” Bishop nói. Porter lại hướng ánh mắt về phía hắn. Bishop đứng dậy, đi về phía cái bàn nhỏ cạnh máy giặt ở bên kia tầng hầm. Sau đó hắn trở lại chỗ cũ, đem theo một chiếc hộp gỗ trên nắp có đặt khẩu Glock của Porter. Hắn bỏ khẩu súng xuống sàn cạnh chỗ ngồi, dùng ngón cái gạt chốt cài của chiếc hộp và mở nắp ra. Sáu nhãn cầu ngước lên nhìn Porter từ bên trong chiếc hộp lót nhung đỏ. Những nạn nhân trước đây của Bishop. Porter liếc xuống khẩu súng. “Mắt nhìn thẳng phía trước.” Bishop nhắc lại kèm theo tiếng cười khẽ. Có điều gì đó không ổn rồi. Bishop xưa nay luôn tuân theo một khuôn mẫu cố định. Hắn xẻo tai nạn nhân trước, sau đó móc mắt, rồi cắt lưỡi, đặt vào một chiếc hộp màu trắng thắt dây màu đen và gửi đến cho gia đình mỗi nạn nhân kèm theo một tấm thiệp. Luôn là như vậy. Hắn không bao giờ thay đổi quy trình. Hắn không giữ lại chiến lợi phẩm. Hắn tin rằng mình đang bắt gia đình này phải trả giá cho tội ác nào đó mà họ gây ra. Một kiểu thay trời hành đạo quái đản. Hắn không giữ lại những cặp mắt. Không bao giờ hắn giữ… “Bắt đầu vào việc thôi.” Bishop vuốt tay lên nắp hộp, một cử chỉ đầy âu yếm, rồi đặt nó xuống sàn cạnh khẩu súng và giơ cái thìa ra trước ánh sáng. Porter lăn người xuống khỏi băng ca rồi kêu lên đau đớn khi đầu còng bằng kim loại cứa vào cổ tay anh, cái ống đã níu chiếc còng lại. Cố gắng quên đi cơn đau, anh lóng ngóng thò tay trái vào túi bên phải để lấy chìa khóa, đồng thời đạp băng ca về phía Bishop. Ngón tay Porter sượt qua chùm chìa khóa khi Bishop né được cái băng ca và tung cú đá vào ống quyển bên trái của anh. Chân anh khuỵu xuống, anh ngã nhào ra sàn, cái còng ở cổ tay phải mắc vào đường ống và giật mạnh đến nỗi trật cả khớp vai. Chưa kịp phản ứng gì thì anh chợt thấy đau nhói khi một mũi tiêm nữa đâm vào da thịt, lần này là bắp đùi. Anh cố cúi nhìn nhưng Bishop đã nắm lấy tóc anh, giật ngửa đầu anh ra sau. Ý thức bắt đầu rời bỏ anh. Porter cố cưỡng lại, cố phản kháng bằng tất cả sức lực trong anh. Anh cầm cự đủ lâu để trông thấy cái thìa đang từ từ đưa lại gần mắt trái của mình, đủ lâu để cảm nhận mép răng cưa cứa vào sụn mi nằm dưới nhãn cầu khi Bishop dùng sức chọc cái thìa vào hốc mắt anh, đủ lâu để… “Cô nàng nóng bỏng chứ?” Porter giật nảy người trên ghế, nhưng dây an toàn đã níu anh lại. Anh hít một hơi dài, hết nhìn trái rồi lại nhìn phải, ánh mắt anh dùng lại ở Nash đang ngồi trên ghế lái. “Hả? Ai cơ?” Nash cười giễu. “Em gái trong mơ của anh chứ ai. Thấy anh rên rỉ mà.” Sáu nhãn cầu. Tuy vẫn còn ngơ ngác nhưng Porter cũng đã nhận ra mình đang ngồi ở ghế phụ trên chiếc Chevy của Nash, dòng xe Nova đời 1972 cũ mà Nash tậu cách đây hai tháng, khi chiếc Ford Fiesta con cưng đột ngột khục khặc rồi chết ngóm trên đường 290 lúc ba giờ sáng, khiến anh buộc phải gọi về trụ sở xin một xe đến đón vì không liên lạc được với Porter. Porter đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Kính xe bị phủ một lớp mỏng bụi đường và băng. “Đây là đâu?” “Chúng ta đang trên đường Hayes, phía trước là công viên.” Nash đáp và bật xi nhan. “Có lẽ anh nên đứng ngoài vụ này thì hơn.” Porter lắc đầu. “Tôi vẫn ổn.” Nash ngoặt xe sang trái, rẽ vào Công viên Jackson và đi theo con đường chính dẫn tới cổng vào mới được ủi sạch tuyết, ánh đèn chớp xanh đỏ lấp loáng hắt lên những rặng cây tăm tối xung quanh họ. “Từ đó đến nay đã bốn tháng rồi, Sam à. Nếu anh vẫn gặp vấn đề về giấc ngủ thì nên nói chuyện với ai đó. Không nhất thiết phải là tôi hay Clair, mà… người nào cũng được.” “Tôi vẫn ổn.” Porter nhắc lại. Họ đi qua một sân bóng chày nằm ở bên phải, cái sân bị lãng quên suốt mùa đông, rồi chiếc xe tiếp tục dấn sâu vào trong rừng cây khẳng khiu, trụi lá. Phía trước có thêm ánh đèn - nửa tá ô tô, mà cũng có thể nhiều hơn. Bốn xe cảnh sát tuần tra, một xe cứu thương, một xe van cứu hỏa. Những chiếc đèn pha công suất lớn sắp thành hàng ven đầm nước, máy sưởi chạy bằng khí propane đặt rải rác quanh khu vực được quây lại bằng dải băng cách ly màu vàng. Nash dừng lại phía sau chiếc xe van, gạt cần số về chế độ đỗ rồi tắt máy. Cái xe khục khặc hai lần, nghe như sắp sửa phát ra một tiếng nổ ngược kinh hoàng, sau đó mới chịu im hẳn. Porter nhận thấy vài sĩ quan nhìn chằm chằm về phía họ khi họ xuống xe và bước ra ngoài giữa trời đông buốt giá. “Chúng ta có thể đi bằng xe của tôi cũng được mà.” Porter nói với Nash, gót giày anh đạp trên lớp tuyết mới tinh phát ra tiếng lạo xạo. Porter sở hữu một chiếc Dodge Charger đời 2011. Phần lớn đồng nghiệp ở Sở vẫn hay gọi đùa cái ô tô của Porter là “con xế khủng hoảng tuổi trung niên”. Cái xe ấy đã thay thế cho chiếc Toyota Camry cách đây hai năm, khi Porter đón sinh nhật lần thứ năm mươi. Heather, người vợ quá cố của anh, đã mua cái xe thể thao này để làm quà tặng bất ngờ cho anh, sau khi chiếc Toyota bị kẻ xấu phá hoại rồi vứt bỏ tại một trong những khu vực “không mấy thiện cảm với cảnh sát” ở vùng phía nam của thành phố. Chính Porter cũng thừa nhận rằng khi ngồi sau tay lái, anh cảm thấy như trẻ ra mấy tuổi, nhưng chủ yếu là cái xe luôn khiến anh mỉm cười. Heather đã giấu chìa khóa xe vào trong chiếc bánh gatô sinh nhật rồi đem nướng lên, làm anh suýt mẻ răng khi cắn phải. Cô bịt mắt anh lại, dẫn anh xuống cầu thang và bước ra ngoài cổng, sau đó hát bài Happy Birthday cho anh nghe bằng giọng hát khó có cơ hội được góp mặt trong chương trình American Idol. Porter luôn nghĩ đến cô mỗi khi ngồi vào trong xe, nhưng giờ đây, dường như những điều gợi cho anh nhớ về cô cứ ngày càng ít đi, khuôn mặt cô mỗi lúc một mờ nhạt trong tâm trí anh. “Cái ô tô ấy chính là một phần của vấn đề đấy. Chúng ta lúc nào cũng đi bằng xe của anh, để cho em Connie kia bị xếp xó đến hoen gỉ trên lối đi nhà tôi. Nếu lái em ấy, tôi sẽ nhớ ra rằng tôi muốn cải tạo lại em ấy. Mà khi đã nhớ ra, biết đâu tôi sẽ chịu lết xuống gara và bắt tay vào thực hiện.” “Connie á?” “Ô tô cũng phải có tên chứ.” “Phải cái gì mà phải. Ai lại đi đặt tên cho ô tô bao giờ, mà anh đâu có biết cách cải tạo em… nó… sao cũng được. Có mà lúc anh lôi cái xe cũ rích ấy về nhà, lần đầu tiên cầm lấy cờ lê, anh đã hiểu ra còn lâu anh mới cải tạo xong nó chỉ trong vòng bốn mươi ba phút giống như mấy gã trong Overhaulin’*.” Porter nói. “Chương trình đó đúng là nhảm nhí. Lẽ ra phải nói thật quá trình sửa chữa kéo dài bao lâu chứ.” “Như thế vẫn còn tốt chán. Ít nhất anh cũng không đâm nghiện kênh HGTV* và tưởng mình có thể tranh thủ những lúc rảnh rỗi để cải tạo nhà cửa rồi rao bán.” “Cái đó thì đúng. Nhưng họ sửa lại mấy căn nhà chỉ trong vòng có hai mươi hai phút mà lãi thu về còn khủng hơn.” Nash đáp. “Nếu sửa được một, hai căn, tôi có thể thuê người độ lại xe. Ê, Clair kìa…” Họ chui qua dải băng cách ly màu vàng, tiến lại gần đầm nước. Clair đang đứng cạnh một cái máy sưởi, di động áp vào tai. Nhìn thấy họ, cô lấy tay bịt loa thoại, hất hàm về phía bờ đầm và bảo “Bọn tôi nghĩ đó là Ella Reynolds,” rồi lại tiếp tục nói chuyện điện thoại. Tim Porter chùng xuống. Ella Reynolds là cô bé mười lăm tuổi mất tích ở gần khu vực Quảng trường Logan sau khi tan học cách đây ba tuần. Lần cuối cùng có người trông thấy Ella là lúc cô xuống xe buýt của trường, cách nhà khoảng hai khu. Bố mẹ cô lập tức gọi cảnh sát, thông báo khẩn cấp tìm trẻ em mất tích được đưa ra chỉ một giờ sau khi cô biến mất. Nhưng nỗ lực đó không mang lại kết quả gì. Cảnh sát chẳng nhận được tin báo nào có giá trị. Nash tiến lại gần mép nước, Porter theo sau. Cái đầm đã đóng băng. Bốn cọc tiêu hình nón màu cam được đặt trên mặt băng ở xa bờ, quây lại bằng dải băng vàng, tạo thành một hình chữ nhật. Tuyết ở đó đã được quét sạch. Porter rón rén bước lên băng, dỏng tai nghe ngóng xem có tiếng “rắc” cảnh báo nào vang lên dưới chân không. Dù cho có bao nhiêu dấu giày để lại trên mặt đầm đóng băng đi nữa, anh lúc nào cũng run khi thêm vào đó dấu giày của mình. Khi Porter tiến đến gần, cô bé dần dần hiện ra trong tầm mắt. Lớp băng trong vắt như pha lê. Cô ngước lên nhìn bằng ánh mắt vô hồn từ bên dưới băng. Da cô trắng bệch trông thật ghê rợn, hơn nữa còn ánh lên sắc xanh, chỉ trừ vùng da quanh mắt. Hai quầng mắt cô tím bầm lại. Môi cô hé mở như có điều muốn nói, những điều vĩnh viễn không được thốt ra. Porter quỳ xuống để có thể quan sát kĩ hơn. Cô bé mặc áo khoác đỏ, quần jeans đen, đội mũ len trắng và đeo găng tay cùng bộ, đi đôi giày màu hồng có vẻ giống kiểu giày tennis. Hai tay buông thõng, chân hơi cong lại, mất hút dưới vùng nước tối đen. Thường thì xác ngâm dưới nước sẽ trương lên, nhưng ở nhiệt độ này, cái lạnh lại giúp bảo quản thi thể. Porter thà phải nhìn xác trương còn hơn. Khi người chết ít nhiều mất đi diện mạo của con người, anh thấy dễ tiếp nhận những gì mình đang chứng kiến hơn, ít bị cảm xúc chi phối hơn. Cô bé này trông chỉ như đứa trẻ con, tuyệt vọng, đơn độc, say ngủ bên dưới tấm chăn bằng băng. Nash đứng phía sau anh, đưa mắt quan sát rừng cây bên kia đầm. “Nơi này từng là địa điểm tổ chức Hội chợ Quốc tế vào năm 1893. Ngày trước còn có khu vườn kiểu Nhật ở đằng xa, chỗ cây cối um tùm ấy. Bố tôi từng dẫn tôi tới đây chơi khi tôi còn nhỏ. Ông bảo hồi Thế chiến thứ hai, ở đây bung bét lắm. Tôi nhớ có đọc được ở đâu đó rằng người ta đã huy động vốn để cải tạo khu này vào mùa xuân. Thấy đám cây bị đánh dấu kia không? Chúng sắp bị chặt đấy.” Porter nhìn theo ánh mắt người cộng sự. Cái đầm được chia thành hai mé đông và tây, bao quanh một đảo nhỏ. Nhiều cây trên đảo Cây được thắt những dải ruy băng màu hồng quanh thân. Có vài chiếc ghế nằm rải rác bên kia bờ, bị phủ một lớp tuyết trắng mỏng. “Theo anh, cái đầm này đóng băng từ bao giờ?” Nash ngẫm nghĩ giây lát. “Chắc là cuối tháng Mười hai, đầu tháng Một. Sao anh lại hỏi thế?” “Nếu đây đúng là Ella Reynolds, vậy làm thế nào cô bé nằm dưới băng được? Cô bé mới mất tích ba tuần trước. Lúc đó băng đã rắn chắc lắm rồi.” Nash mở bức ảnh chụp gần đây của Ella Reynolds lưu trong điện thoại và cho Porter xem. “Trông giống đấy, nhưng cũng có thể chỉ là trùng hợp, có thể một cô bé nào đó rơi xuống đầm khi băng vẫn còn mềm chẳng hạn.” “Nhưng cô bé kia giống y hệt người trong ảnh.” Clair bước tới bên cạnh họ. Cô hà hơi vào tay và xoa xoa. “Tôi vừa nói chuyện với Sophie Rodriguez ở Ban Tìm kiếm Trẻ em Mất tích. Tôi chụp ảnh gửi cho cô ấy và cô ấy khẳng định người này là Ella Reynolds, nhưng quần áo thì không khớp. Cô ấy nói lúc mất tích, Ella mặc áo khoác màu đen. Ba nhân chứng cũng xác thực khi ở trên xe buýt cô bé mặc áo đen chứ không phải áo đỏ. Cô ấy đã gọi điện cho mẹ của Ella và bà ấy nói con gái mình không có áo khoác đỏ, mũ len và găng tay len trắng nào cả.” “Vậy thì hoặc đây là một người hoàn toàn khác, hoặc có kẻ đã thay đồ cho Ella.” Porter nói. “Chỗ này cách địa điểm cô bé mất tích những hai mươi lăm kilômét.” Clair cắn môi dưới. “Bên pháp y sẽ phải xác định danh tính của cô bé.” “Ai tìm thấy cô bé vậy?” Clair chỉ về phía chiếc xe tuần tra đỗ ở đằng xa, ngoài khu vực cách ly. “Một cậu bé và ông bố. Cậu nhóc mới mười hai tuổi.” Cô xem lướt phần ghi chú trong điện thoại. “Scott Watts. Cậu ta tới cùng với bố để xem cái đầm đã đông cứng đủ để học trượt băng chưa. Tên ông bố là Brian. Ông ta nói cậu con trai gạt đi lớp tuyết và trông thấy một phần cánh tay cô bé. Ông ta bảo con tránh ra và tự mình phủi sạch tuyết đủ để xác thực đúng là người thật, sau đó gọi 911. Chuyện xảy ra khoảng một giờ trước. Cuộc điện thoại gọi đến lúc bảy giờ hai mươi chín phút. Tôi đã bảo họ ngồi chờ trong xe tuần tra, phòng khi anh có điều muốn hỏi họ.” Porter dùng móng tay trỏ cạo lên băng, rồi nhìn quanh bờ đầm. Hai sĩ quan khám nghiệm hiện trường đứng dạt về bên trái, nhìn ba người bọn họ bằng ánh mắt cảnh giác. “Ai trong số hai người đã dọn chỗ này?” Porter hỏi. Sĩ quan trẻ hơn, một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi có mái tóc vàng cắt ngắn, đeo kính và quàng khăn màu hồng, giơ tay lên. “Là tôi ạ, thưa Thanh tra.” Cộng sự của cô rục rịch chân. Anh ta có vẻ lớn hơn cô khoảng năm tuổi. “Tôi là người giám sát. Sao thế?” “Nash, đưa tôi thứ kia được không?” Anh chỉ vào cây cọ có lông dài màu trắng đặt trên một trong mấy bộ dụng cụ của Đội Khám nghiệm. Porter ra hiệu cho hai sĩ quan lại gần. “Đừng sợ, tôi không mấy khi cắn đâu.” Hồi tháng Mười một vừa rồi, Porter quay lại làm việc sớm dù còn đang trong đợt nghỉ phép bắt buộc do cấp trên áp xuống sau khi vợ anh bị giết trong một vụ cướp xảy ra tại một cửa hàng tiện ích gần đó. Anh muốn tiếp tục đi làm, chủ yếu là vì công việc giúp anh phân tâm, tạm quên đi chuyện xảy ra. Những ngày đầu tiên sau khi vợ mất, khi anh tự giam mình trong căn hộ, là quãng thời gian tồi tệ nhất. Nhìn đâu cũng thấy những thứ gợi nhớ về cô. Khuôn mặt cô nhìn anh từ những bức ảnh bày ở hầu khắp các dãy kệ. Mùi hương của cô vẫn phảng phất đâu đây, nguyên tuần đầu tiên anh không sao chợp mắt được nếu không đặt vài bộ đồ của cô trên giường. Ngồi trong căn hộ, anh chỉ nghĩ đến một điều duy nhất, đó là anh sẽ làm gì với kẻ đã giết cô, những ý nghĩ anh không muốn lưu giữ trong đầu. Cuối cùng, tên sát nhân Bốn Con Khỉ - tức 4MK - đã kéo anh ra khỏi nhà. Cũng chính 4MK là kẻ đã bắt hung thủ giết vợ anh phải đền mạng. 4MK là lý do khiến những người như hai sĩ quan này cư xử kỳ quặc khi có mặt anh. Không hẳn là họ sợ, đúng hơn là họ kiêng dè. Anh là tay cớm đã để cho 4MK thâm nhập vào cuộc điều tra của cảnh sát dưới danh nghĩa sĩ quan khám nghiệm hiện trường. Anh là tay cớm bị 4MK đâm trong chính ngôi nhà của mình. Anh là tay cớm đã bắt được tên sát nhân hàng loạt ấy rồi lại để hắn trốn mất. Bốn tháng sau, người ta vẫn còn nói về vụ đó, chẳng qua không nói với anh thôi. Hai sĩ quan tiến lại gần. Người phụ nữ ngồi xổm xuống cạnh anh. Porter dùng cọ quét đi chỗ tuyết ở sát bờ và cả ngoài rìa khu vực họ đã làm sạch trước đó. Sau khi mở rộng vòng tròn thêm sáu mươi centimet, anh đặt cọ xuống rồi xoa tay lên mặt băng, bắt đầu từ tâm vòng tròn và chầm chậm tiến dần ra ngoài. Khi chỉ còn cách đống tuyết khoảng mười centimet thì anh dừng lại. “Chỗ này. Cô sờ thử xem.” Sĩ quan trẻ tuổi tháo găng và dè dặt làm theo anh, đầu ngón tay cô lướt trên mặt băng. Cô dừng lại cách lòng bàn tay Porter khoảng gần ba centimet. “Có cảm thấy không?” Cô gật đầu. “Có chỗ hơi võng xuống. Ít thôi, nhưng chắc chắn là có.” “Cô lần theo đi. Đánh dấu lại bằng cái này.” Anh đưa cho cô chiếc bút dạ. Một phút sau, cô đã vẽ xong một hình vuông lớn ngay ngắn phía trên cái xác và hai hình vuông nhỏ hơn ở hai bên, mỗi hình có cạnh khoảng mười centimet. “Vậy là đã có câu trả lời.” Porter nói. Nash nhíu mày. “Thế này nghĩa là sao?” Porter đứng dậy, đỡ người phụ nữ lên cùng. “Cô tên gì?” “Sĩ quan khám nghiệm hiện trường Lindsy Rolfes, thưa Thanh tra.” “Sĩ quan Rolfes, cô có thể giải thích ý nghĩa của hình vẽ này không?” Cô ngẫm nghĩ giây lát, nhìn từ Porter sang mặt băng, rồi lại nhìn anh. Cuối cùng, cô đã hiểu. “Cái đầm này bị đóng băng, nhưng có người đã cắt băng ra, có thể là bằng cưa máy không dây, sau đó thả cô bé xuống nước. Nếu cô bé sảy chân ngã thì chỗ băng vỡ sẽ nham nhở chứ không vuông vắn thế kia. Nhưng có điểm bất hợp lý…” “Điểm gì?” Cô nhíu mày, thò tay vào hộp dụng cụ và lấy ra cái máy khoan không dây, lắp mũi khoan có đường kính hai mươi lăm milimet rồi khoan hai lỗ, một lỗ ở ngoài phạm vi mấy hình vẽ, một lỗ gần với thi thể. Cô dùng thước đo khoảng cách từ mặt băng tới mặt nước ở cả hai lỗ. “Sao lại thế nhỉ, cô bé nằm bên dưới ranh giới đóng băng.” “Tôi chẳng hiểu gì cả.” Clair nói. “Hắn đã đổ nước vào.” Porter nói. Rolfes gật đầu. “Đúng vậy, nhưng tại sao? Hắn có thể khoét một cái hố, đẩy cô bé xuống bên dưới lớp băng sẵn có, rồi để cho cái hố tự đông lại được mà. Như thế sẽ nhanh chóng và dễ dàng hơn nhiều chứ. Cô bé có thể biến mất, thậm chí là vĩnh viễn.” Clair thở dài. “Làm ơn giải thích cho những người không được học qua lớp Hố Băng sơ cấp như tụi tôi được không?” Porter ra hiệu về phía cái thước, Rolfes đưa nó cho anh. “Băng ở đây dày ít nhất mười centimet. Mọi người có thể thấy mực nước đo được ở chỗ này.” Anh chỉ vào dấu vết trên cái thước. “Nếu khoét một hình vuông trên băng rồi nhấc ra, ta sẽ được một thành băng dày mười centimet tính từ mặt băng tới mặt nước. Giả sử ta thả xác cô bé vào đó, cô bé chìm xuống, sau đó ta muốn xóa cái hố này đi. Chỉ có một cách. Đó là đợi cho tới khi mặt nước phía trên cái xác đóng băng, chí ít là một lớp mỏng, sau đó đổ nước vào hố cho bằng với mặt băng xung quanh.” “Ít nhất phải hai giờ sau nước mới bắt đầu đóng băng.” Rolfes nói. “Cũng có thể nhanh hơn một chút, căn cứ vào nhiệt độ ngoài trời mấy ngày gần đây.” Porter gật gù. “Hắn tiếp tục đổ nước vào cho tới khi lượng nước mới ngang bằng với lớp băng xung quanh. Hung thủ là kẻ rất kiên nhẫn. Việc này cực kỳ mất thời gian.” Anh quay sang viên sĩ quan giám sát. “Chúng ta sẽ cần đến chỗ băng này. Thu thập tất cả những gì có ở phía trên cô bé cộng thêm ít nhất vài centimet xung quanh hình vuông. Rất có thể có dấu vết nào đó rơi vào nước trong lúc đóng băng. Hung thủ quanh quẩn ở đây rất lâu.” Viên sĩ quan có vẻ như muốn cãi lời, sau đó lại miễn cưỡng gật đầu. Anh ta biết Porter nói đúng. Ánh mắt Porter lại hướng về phía đám cây cối um tùm ở đằng xa. “Có điều, tôi không hiểu tại sao kẻ làm việc này lại không vứt cô bé ở kia. Đem cái xác tới nơi quang đãng này, hì hục cắt băng, lấp đầy nước, chờ cho đóng băng… như vậy quá mạo hiểm. Hung thủ có thể đem cô bé qua cầu rồi bỏ lại ở bất cứ chỗ nào bên đó, sẽ chẳng ai phát hiện ra cho tới tận mùa xuân, khi công nhân bắt đầu thi công. Vậy mà hắn lại dành hàng giờ để dàn dựng hiện trường gần khu vực có nhiều người qua lại. Chấp nhận nguy cơ bị bắt quả tang. Để làm gì? Để tạo cảm giác cô bé đã nằm đây lâu hơn nhiều so với thực tế ư? Hắn chắc chắn phải biết cảnh sát thế nào cũng đoán ra chứ.” “Xác chết thường không nổi lên mặt nước.” Nash nói. “Ít nhất là trong vài ngày đầu. Nhìn cô bé xem. Được bảo quản hoàn hảo. Tôi vẫn chưa hiểu sao cô bé lại nổi lên thế kia.” Porter di ngón tay theo cạnh của hình vuông lớn rồi dừng lại ở một trong hai hình vuông nhỏ kế bên. Áp mặt lại gần lớp băng, anh nhìn nghiêng từ bên cạnh và quan sát thi thể. “Quỷ tha ma bắt.” “Gì thế?” Rolfes rướn người tới. Porter rà bàn tay lên mặt băng trên vai cô bé. Khi tìm thấy thứ cần tìm, anh đặt tay Rolfes lên đó. Cô nhìn anh, mắt cô dần mở lớn trong lúc ngón tay hơi bấm xuống băng. Cô sờ vào vị trí tương ứng ở phía đối diện. “Hắn giữ cho cô bé khỏi chìm bằng cách dùng một vật bắc ngang qua cái hố này, có thể là tấm ván cỡ 2x4, căn cứ vào những dấu vết để lại. Sau đó, hắn quàng một sợi dây hoặc sợi thừng qua vai cô bé, rồi buộc vào tấm ván trong lúc chờ cho chỗ nước mới đóng băng. Xong xuôi, hắn cắt dây đi. Mọi người vẫn có thể sờ thấy hai đầu dây trong lớp băng ở chỗ này. Đoạn dây còn lại đủ để giữ cho cô bé nổi lên gần mặt nước. Mọi người sẽ thấy một sợi thừng mảnh nếu lựa đúng vị trí nhìn xuống lớp băng theo một góc nghiêng.” “Hắn muốn cô bé được tìm thấy ư?” Clair hỏi. “Hắn muốn để lại dấu ấn sâu đậm trong trường hợp cô bé được tìm thấy.” Porter nói. “Hắn hao tâm tổn trí dàn dựng sao cho nhìn bề ngoài tưởng như cô bé chết cóng dưới đầm từ nhiều tháng trước, dù thực tế cô bé mới ở đây cùng lắm là vài ngày, có thể ít hơn. Ta cần phải tìm hiểu lý do.” “Tên này đang giỡn mặt chúng ta.” Rolfes nói. “Hắn sắp đặt hiện trường để truyền tải câu chuyện nào đó.” Bản năng tự bảo vệ và nỗi sợ là hai trong số những bản năng mạnh mẽ nhất của con người. Porter không rõ liệu mình có muốn gặp một kẻ vô cảm với cả hai điều đó hay không. “Vớt cô bé lên đi.” Cuối cùng, anh nói. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Thứ Năm của tác giả J. D. Barker & Matryoshka (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bầu Trời Sụp Đổ - Sidney Sheldon
Audiobook Bầu Trời Sụp Đổ   Winthrop là một gia đình quý tộc Mỹ, và trung tâm của nó là Gary Winthrop đầy hấp dẫn, lôi cuốn. Khi người đàn ông này đang trên đà để trở thành ngôi sao mới sáng nhất của Thượng nghị viện, thì bị giết trong ngôi nhà của mình - sự kiện mới nhất trong một loạt các vụ việc đã giết hại năm thành viên của gia đình chỉ trong vòng một năm. Một trong những người cuối cùng nhìn thấy Gary Winthrop còn sống là Dana Evans. Cô đã điều tra vụ này như những thảm kịch ngẫu nhiên, và nhận ra rằng cuộc điều tra này sẽ dẫn dắt cô qua nhiều châu lục, những nơi mà cô và cậu con trai bé bỏng của mình sẽ sống trong những mối nguy hiểm nghiêm trọng, để rồi cuối cùng nó dẫn cô đến một sự thật làm sửng sốt cả thế giới. *** "Nắm lấy cái thìa... một bát đầy hơi nước quyến rũ, sex và bốc hơi nghi ngút." - People "Một chuyến hành trình gấp gáp và bí ẩn... Sidney Sheldon là người biết cách chuyển tải sự kỳ bí... cùng lối kể chuyển đầy hồi hộp... và những tình tiết của ông được gắn kết, biến động và gây ngạc nhiên." - New York Post *** Sidney Sheldon là một tiểu thuyết gia người Mỹ, đoạt giải của Viện Hàn Lâm nghệ thuật Mỹ, ông còn là một kịch tác gia và một người viết kịch bản phim và chương trình truyền hình chuyên nghiệp. Sheldon sinh tại Chicago, Illinois, với tên khai sinh là Sidney Schechtel, có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Các bộ tiểu thuyết của Sidney Sheldon: The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi (Tên khác: Người Đàn Bà Quỷ Quyệt) If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Kí ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) *** Nàng sải những bước dài vội vã trên đại lộ Pennsylvania cách Nhà Trắng một khu phố, run rẩy trong cơn gió lạnh lẽo của tháng mười hai, tai ù đặc vì tiếng oanh tạc và sau đó là tiếng các máy bay ném bom vần vũ trên đầu, sẵn sàng trút hết mớ hàng hoá của tử thần xuống mặt đất. Nàng đứng lại, toàn thân cứng đờ, chìm sâu vào màn sương đỏ rực của sự kinh hoàng. Bỗng nhiên nàng thấy mình trở lại Sarajevo, và nàng nghe thấy tiếng bom rơi rít lên đến chói tai. Nàng nhắm nghiền mắt lại nhưng hành động đó không thể xua đi hình ảnh về những gì đang diễn ra quanh nàng. Bầu trời sáng rực lên, tiếng pháo, tiếng động cơ máy bay ì ầm, tiếng đạn súng cối và nhiều loại súng khác - tất cả họ lẫn vào nhau tạo thành một thứ âm thanh quái dị làm cho tai nàng điếc đặc. Gần đó, những toà cao ốc bị hất tung lên thành những đám bụi mù với xi măng, gạch đá và cát. Đám đông hoảng loạn chạy tứ tán về mọi hướng, cố trốn tránh cái chết. Từ xa, rất xa, một giọng đàn ông vang lên: - Cô không sao chứ? Một cách thận trọng, nàng từ từ mở mắt ra. Nàng đã lại đứng trên đại lộ Pennsylvania, trong ánh nắng mùa đông ảm đạm, lắng nghe tiếng máy bay phản lực và tiếng chuông báo động đang nhỏ dần đi trong trí nhớ của mình. - Thưa cô… cô không sao chứ? Nàng cố ép mình trở về với thực tại: - Không, tôi… tôi không sao, cám ơn ông. Anh ta ngó sững nàng. - Khoan đã? Cô là Dana Evans. Tôi là một fan 1 lớn của cô đây. Đêm nào tôi cũng xem cô trên WTN, và tôi còn xem đầy đủ các tin tức của cô từ Nam Tư nữa cơ. - Giọng anh ta tràn đầy sự ngưỡng mộ. - Việc đó với cô thật hấp dẫn, theo dõi cuộc chiến ấy, phải không? - Vâng. - Cổ họng Dana Evans khô khốc. Hấp dẫn khi thấy người ta nổ tung thành từng mảnh, xác các em bé bị tung lên trời, những mẩu thịt người trôi vật vờ trong dòng sông đỏ lòm. Đột nhiên nàng thấy đau bụng. - Xin lỗi! - Nàng quay ngoắt lại và bỏ đi thật nhanh. Daná Evans mới từ Nam Tư về được ba tháng. Những gì trong ký ức nàng hầu như còn nguyên vẹn. Có cái gì đó không thật khi được bước đi thong dong trên đường phố, dưới ánh sáng ban ngày mà không một chút phập phồng lo sợ, thoải mái nghe chim hót, nghe mọi người xung quanh cười nói. Ở Sarajevo không hể có tiếng cười, chỉ có tiếng bom đạn đì đùng và tiếng khóc than thảm thiết mà thôi. John Donne nói đúng, Dana nghĩ. Không ai là một hòn đảo cả. Chuyện xảy ra cho một người, cũng là chuyện xảy ra cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đều được tạo ra từ đất sét và phép màu của Thượng Đế. Chúng ta chia sẻ cùng một khoảnh khắc của thời gian. Cánh tay kia của tạo hoá bắt đầu lạnh lùng quét qua một phút tiếp theo. Ở Santiago, một bé gái mười tuổi đang bị bố đẻ cưỡng hiếp. Ở New York, một đôi tình nhân đang hôn nhau dưới ánh nến lung linh… Ở Flanders, một cô gái mười bảy tuổi đang sinh hạ một em bé… Ở Chicago, một người lính cứu hoả đang liều mạng cứu một con mèo khỏi toà nhà đang cháy… Ở Sao Paolo, hàng trăm cổ động viên đang giày xéo nhau đến chết khi hàng rào bị đổ trong một trận bóng đá. Ở Pisa, một bà mẹ bật khóc vì hạnh phúc khi chứng kiến đứa con mình chập chững bước những bước đầu tiên trong đời… Và còn biết bao chuyện khác diễn ra trong vũ trụ trong vòng sáu mươi giây, Dana nghĩ thầm. Thời gian cứ tiếp tục trôi cho đến khi nó ngùng lại và đưa tất cả chúng ta cùng sang một cõi vĩnh hằng huyền bí nào đó. Dana Evans hai mươi bảy tuổi, vẻ ưa nhìn, thân hình mảnh dẻ, mái tóc đen xoã ngang vai, có cặp mắt xám thông minh, khuôn mặt hình quả tim và nụ cười ấm áp. Con một đại tá quân đội, Dana lớn lên như một đứa bé lang thang, theo bố đi từ căn cứ này sang căn cứ khác và cuộc sống này đã cho nàng nếm đủ mọi mùi vị của những cuộc phiêu lưu. Nàng vừa yếu ớt lại vừa can đảm và chính nét tương phản này đã mang lại cho nàng sức hấp dẫn mạnh mẽ. Trong suốt một năm Dana làm phóng viên mặt trận tại Nam Tư, khán giả khắp thế giới đã bị hấp dẫn bởi một người phụ nữ trẻ, đẹp, tận tuỵ tường thuật lại tình hình nóng hổi nhất ngay giữa lòng cuộc chiến, mạo hiểm cả tính mạng mình để đánh đổi lấy những tin tức mới nhất về những sự kiện đầy chết chóc đang diễn ra xung quanh. Và bây giờ, dù đi đến bất kỳ nơi nào nàng cũng dễ dàng bị mọi người nhận ra. Dana Evans thậm chí còn phát xấu hổ vì sự nổi tiếng của mình. Bước nhanh trên đại lộ Pennsylvania, rảo bước qua Nhà Trắng, Dana nhìn đồng hồ và nghĩ thầm, mình lại đến muộn mất thôi. Tập đoàn viễn thông Washington Tribune chiếm hết toàn bộ khu nhà lớn của đường NW số 6 với 4 toà nhà riêng biệt: ban quản trị, xưởng in ấn báo chí, bộ phận văn phòng, và khu truyền thông tổng hợp. Các studio của WTN toạ lạc trên tầng sáu của toà nhà thứ tư. Không khí làm việc ở đây lúc nào cũng căng như dây đàn với những nhân viên luôn dán mắt vào máy tính. Chính tại đây Dana đã gặp Jeff Connors. Anh từng là một ngôi sao bóng chày cho đến khi bị thương ở cánh tay do gặp tai nạn khi đang trượt tuyết, còn bây giờ Jeff là phóng viên thể thao cho WTN và thêm cả việc trình bày báo cho Nghiệp đoàn cung cấp báo chí Washington. Anh ngoài ba mươi tuổi, gầy, rắn rỏi, vẻ ngoài trẻ trung và dễ dãi, hấp dẫn mọi người bằng phong thái ung dung, điềm đạm. Jeff và Dana yêu nhau và họ đã bắt đầu tính đến chuyện hôn nhân. Ba tháng sau ngày Dana trở về từ Sarajevo, ở Washington không có sự kiện gì nổi bật. Leslie Stewart, bà chủ cũ của Tập đoàn viễn thông Washington Tribune đã bán tống bán tháo nó đi rồi biến mất, và chủ mới giờ đây là Elliot Cromwell, một ông trùm truyền thông quốc tế. Cuộc họp vào buổi sáng với Matt Baker và Elliot Cromwell có vẻ như đã bắt đầu. Khi Dana đến nơi, Abbe Lasmann, cô thư ký tóc đỏ quyến rũ của Matt bước ra chào nàng. - Mọi người đang đợi cô, - Abbe nói. - Cám ơn, Abbe. - Dana bước vào phòng họp. - Matt… Elliot… - Cô đến trễ, - Matt Baker càu nhàu. Đây là một người đàn ông lùn tè, tóc xám, vừa bước qua tuổi năm mươi, bộ dạng cộc cằn nóng nảy nhưng bù lại có đầu óc năng động và vô cùng sáng suốt. Bộ đồ vest của Matt trông nhàu nhĩ như thể ông ta đã mặc nó đi ngủ, và Dana ngờ rằng đó hoàn toàn là chuyện có thật. Ông ta điều hành WTN, bộ phận truyền hình của Diễn đàn doanh nghiệp Washington. Elliot Cromwell đã ngoài sáu mươi, vẻ thân thiện cởi mở với nụ cười thường trực trên môi. Đó là tỷ phú, và có đến hàng tá các bài khác nhau miêu tả việc ông ta đã có được số tài sản khổng lồ đó như thế nào. Trong lĩnh vực kinh doanh truyền thông, nơi mà mục đích chính là truyền bá thông tin, Elliot Cromwell vẫn là một con người bí ẩn. Ông ta nhìn Dana và nói: - Matt bảo rằng chúng ta đang giã cho các đối thủ nhừ tử. Hiệu suất làm việc của chúng ta vẫn tiếp tục tăng cao. - Tôi rất vui khi biết tin này, Elliot. - Dana, tối nào tôi cũng xem nhiều bản tin khác nhau, nhưng của cô bao giờ cũng có sự khác biệt lớn so với những cái kia. Tôi không biết rõ tại sao, nhưng tôi thích điều này. Dana có thể cho Elliot Cromwell biết nguyên nhân. Những bản tin kia chỉ đơn giản là - thông báo tin tức cho hàng triệu khán thính giả. Còn Dana thì quyết định biến nó thành một cái gì đấy riêng tư hơn. Trong tâm trí nàng, đêm nay, nàng sẽ nói với một quả phụ cô đơn, đêm mai, với một người bệnh nằm bất lực trên giường, đêm mốt, với một người bán hàng đang sống cách xa gia đình. Bản tin của nàng bao giờ cũng toát lên giọng điệu thân tình và ngầm chia sẻ, vì vậy người ta yêu thích chúng và hưởng ứng chúng một cách nhiệt tình. - Tôi biết đêm nay cô sẽ phỏng vấn một vị khách đặc biệt thú vị, - Matt Baker nói. Dana gật đầu. - Là Gary Winthrop. Gary Winthrop là vị hoàng tử quyến rũ đối với toàn thể Mỹ quốc, thành viên của một trong những dòng họ xuất sắc nhất đất nước. Anh ta còn trẻ, đẹp trai và hết sức lôi cuốn. - Winthrop không thích công khai về đời tư, - Cromwell lên tiếng. - Làm sao mà cô lại thuyết phục được anh ta? - Chúng tôi có cùng một sở thích, - Dana trả lời. Cromwellcau mày. - Thật không? - Thật. - Dana mỉm cười. - Tôi thích xem tranh của Monets và Van Goghs, còn anh ta thì thích mua chúng. Thành thật mà nói, trước đây tôi đã phỏng vấn anh ta, và từ đó chúng tôi trở nên thân thiết. Chúng ta sẽ cho phát cuốn băng có những tin tức mới về anh ta, rồi sau đó là cuộc phỏng vấn của tôi. - Tuyệt vời, - Cromwell cười rạng rỡ. Họ dành một tiếng đồng hồ tiếp theo để bàn bạc về chương trình mới của đài, có tên là Đường dây tội ác.Mục đích của chương trình này là sửa chữa sự bất công đã phán xét và nhắc lại những vụ án nổi tiếng đã được khám phá. - Hiện nay đang có rất nhiều chương trình thực tế trên đài, - Matt cảnh cáo, - vì thế chúng ta phải tỏ ra nổi trội hơn họ. Tôi muốn ta hãy bắt đầu bằng một sự tình cờ. Có thể chuyện này sẽ thu hút được sự chú ý của khán giả và… Hệ thống liên lạc nội bộ reo lên. Matt Baker nhấn một nút. - Tôi đã bảo cô rồi, không nhận một cú điện thoại nào cơ mà. Sao lại… Giọng của Abbe vang lên. - Tôi xin lỗi. Đây là của cô Evans. Trường học của Kemal gọi tới. Có vẻ khẩn cấp lắm. Matt Baker nhìn Dana. - Đường dây số một. Dana nhấc ống nghe, tim đập mạnh. - Alô… Kemal không sao chứ ạ?. - Nàng nghe một lát. - Tôi hiểu… tôi hiểu… Vâng, tôi sẽ đến ngay. - Nàng dập máy. - Chuyện gì vậy? - Matt hỏi. Dana trả lời. - Họ muốn tôi đến đón Kemal về. Elliot Cromwell cau mày. - Đứa bé mà cô mang từ Sarajevo về à? - Vâng. - Cả một câu chuyện dài đây. - Vâng. - Dana miễn cưỡng trả lời. - Có phải cô tìm nó, còn sống, trong một khu đất hoang. - Đúng vậy, - Dana trả lời. - Nó có bệnh tật gì hay sao? - Không. - Dana trả lời một cách cứng nhắc, vẻ như không muốn nói về những ngày tháng đó. - Kemal bị mất một cánh tay. Do bom gây ra. - Và… Cô nhận nó làm con nuôi?! - Không hẳn là vậy, Elliot. Tôi chỉ sắp sửa làm thế thôi. Còn bây giờ, tôi là người bảo trợ của nó. - Được, vậy cô cứ đi đi. Chúng ta sẽ bàn bạc về Đường dây tội ác sau. Khi Dana đến trường trung học Theodore Roosevelt, nàng đi ngay vào văn phòng gặp trợ lý hiệu trưởng, Vera Kostoff, ngoài năm mươi, tóc xám, điệu bộ hấp tấp, vẻ mặt lo lắng đang ngồi phía sau bàn làm việc. Đối diện với bà ta là Kemal. Trông nó có vẻ nhỏ hơn tuổi mười hai của mình, gầy gò và xanh xao, mớ tóc vàng bù xù và cái eằm bướng bỉnh. Nơi cánh tay phải là một ống tay áo trống khống. Thân hình mỏng mảnh của nó dường như đã bị căn phòng làm cho bé lại. Lúc Dana bước vào, không khí trong phòng đang rất nặng nề. - Chào bà Kostoff, - Dana nhẹ nhàng lên tiếng. - Kemal. Kemal nhìn chằm chằm vào đôi giày của nó. - Tôi được biết có chuyện gì đó đã xảy ra. - Dana tiếp tục. - Vâng, chính xác là như thế, cô Evans. - Bà ta trao cho nàng một mảnh giấy. Dana nhìn nó, bối rối. Trên đó viết: Vodja, Pizda, zbosti, fukati, nezakonski otrok, umreti, tepec. Nàng ngước lên. - Tôi… tôi không hiểu. Đây là tiếng Serbi, phải không? Bà Kostoff sin sít trả lời: - Vâng, đúng thế. Thật không may cho Kemal là tôi cũng là người Serbi. Đó là những từ mà em đã nói trong trường. - Mặt bà ta đỏ bừng. - Ngay cả cánh lái xe tải người Serbi cũng không nói thế, cô Evans, và tôi không thể tưởng tượng những lời lẽ như vậy lại được thốt ra từ mồm của đứa trẻ này. Kemal gọi tôi là một pizda. Dana nhắc lại: - Một pi… - Tôi hiểu rằng Kemal còn xa lạ với đất nước chúng ta, và tôi cũng đã rất chiếu cố đến điều này, nhưng… biểu hiện của nó thật đáng bị khiển trách. Nó thường xuyên tham gia các vụ đánh lộn và khi tôi trách phạt nó, vào sáng nay, nó đã… lăng mạ tôi. Như thế là quá lắm rồi. Dana khéo léo đáp. - Tôi chắc rằng bà hiểu hoàn cảnh khó khăn của nó, bà Kostoff, và… - Tôi đã nói rồi, tôi luôn chiếu cố, nhưng hình như nó đang định thử thách sự nhẫn nại của tôi. - Tôi hiểu. - Dana nhìn sang Kemal. Nó vẫn nhìn xuống đất, mặt mũi sưng sỉa. - Tôi hy vọng đây sẽ là vụ rắc rối cuối cùng, - bà Kostoff nói. - Tôi cũng vậy. - Dana đứng lên. - Đây là bảng thành tích học tập của Kemal. - Bà Kostoff mở ngăn kéo, lấy một tờ giấy ra và đưa cho Dana. - Cám ơn. - Dana nói. Trên đường về nhà, Kemal hoàn toàn yên lặng. - Cô phải làm gì với cháu bây giờ? - Dana hỏi, - Tại sao cháu cứ thích đánh nhau, và tại sao cháu lại nói những từ như thế chứ? - Cháu không biết là bà ta nói được tiếng Serbi. Khi cả hai về đến căn hộ của Dana, nàng nói: - Cô phải trở về phòng thu, Kemal. Cháu ở nhà một mình, được chứ? - Word. Lần đầu tiên Kemal nói thế với nàng, Dana tưởng rằng nó không hiểu ý mình, nhưng nàng nhanh chóng nhận ra đây là một kiểu tiếng lóng của bọn trẻ. Word có nghĩa là "vâng, phải" dùng để chỉ người thuộc giới tính kia… Dana lôi bảng kết quả học tập mà bà Kostoff đưa ra xem. Môi nàng mín lại, Lịch sử: D, Tiếng Anh: D. Khoa học tự nhiên: D. Khoa học xã hội: F. Toán: A. Nhìn bảng kết quả, Dana nghĩ, ồ, Chúa ơi, Cô phải làm gì với cháu bây giờ? - Chúng ta sẽ bàn chuyện này vào lúc khác, - nàng nói - Cô trễ giờ rồi. Đối với Dana, Kemal vẫn luôn là một điều bí ẩn. Khi ở bên nàng, nó cư xử rất có lễ phép, còn tỏ ra dễ thương, chu đáo và quan tâm. Vào các ngày cuối tuần, Dana và Jeff đưa nó đi chơi khắp Washington. Họ đến Vườn thú quốc gia, nơi có vô vàn các loại thú hoang quý hiếm, say sưa quan sát những con gấu trúc khổng lồ độc đáo. Họ tham quan Viện bảo tàng không gian và vũ trụ quốc gia, và Kemal được trông thấy chiếc máy bay đầu tiên của anh em Wright đung đưa trên trần nhà, rồi họ đi qua khu Skylab để sờ vào những hòn đá mang từ mặt trăng về. Họ đến trung tâm Kennedy và sân khấu Arena. Hai người giới thiệu với Kemal món pizza ở quán Tom Tom, món tacos ở quán Mextec, món gà rán phương Nam ở Georgetowns. Kemal yêu quý quá từng giây phút vui vẻ đó. Nó thật sự hạnh phúc khi có Dana và Jeff ở bên. Nhưng… mỗi khi Dana phải đi làm, Kemal trở thành một người khác hẳn. Nó tỏ ra chống đối và thù địch với tất cả. Dana cũng không tiện giao nó cho những người đến giúp việc, và những người đến trông đã kể những câu chuyện ghê gớm về những buổi tối ở cùng Kemal. Jeff và Dana đã cố giải thích khuyên bảo nó, nhưng vô hiệu. Có lẽ nó cần một sự trợ giúp đặc biệt, Dana nghĩ. Nàng không biết gì về những nỗi sợ hãi kinh khủng luôn bám riết lấy Kemal. Bản tin tối của WTN đã bắt đầu. Richard Melton, đồng sự bảnh bao của Dana và Jeff Connors ngồi phía sau nàng. Dana Evans đang nói: "… theo các tin tức quốc tế, Anh và Pháp vẫn đang gặp nhiều khó khăn với căn bệnh bò điên… đây là những thông tin của René Linaud từ Reims". Trong phòng điều khiển, đạo diễn Anastasia Mann ra lệnh: - Chuyển cảnh. Trên màn hình giờ là cảnh nông thôn nước Pháp. Cửa phòng thu bật mở và một nhóm người bước vào. Mọi người ngước nhìn lên. Tom Hawkins, một đạo diễn trẻ nhiều tham vọng của mục tin tức buổi chiều lên tiếng: - Dana, cô quen Gary Winthrop à? - Dĩ nhiên. Ở ngoài, Gary Winthrop còn đẹp trai hơn trong ảnh nhiều. Anh ta trạc tuổi bốn mươi, cặp mắt xanh sáng, nụ cười ấm áp và có sức quyến rũ kỳ lạ. - Chúng ta lại gặp nhau, Dana. Cám ơn vì đã mời tôi. - Hoan nghênh sự có mặt của anh. Dana nhìn quanh. Nửa tá thư ký bỗng nhiên tìm được lý do đột xuất để có mặt trong phòng thu. Gary Winthrop hẳn là đã quen với cảnh này rồi. Dana nghĩ, chợt cảm thấy vui vui. - Vài phút nữa là đến phần của anh rồi. Tại sao không ngồi xuống đây, cạnh tôi nhỉ? Đây là Richard Melton. Hai người đàn ông bắt tay nhau. - Anh biết Jeff Connors rồi, phải không? - Dĩ nhiên. - Rồi Gary đùa luôn. - Anh nên ra ngoài làm việc đi, Jeff, đừng có ngồi tào lao mãi. - Vâng, tôi cũng đang định làm như vậy đấy. Cảnh quay về nước Pháp đã kết thúc và tiếp theo là chương trình quảng cáo. Gary Winthrop lặng lẽ ngồi xem cho đến hết. Từ phòng điều khiển, Anastasia Mann nói: - Chuẩn bị, chúng ta sẽ phát cuốn băng. - Bà ta lặng lẽ đếm ngược bằng các ngón tay của mình. - Ba… hai… một… Trên màn hình giờ đây là quang cảnh bên ngoài của Bảo tàng Nghệ thuật Georgetown. Một phóng viên đang cầm chắc lấy chiếc microphone, bất chấp cơn gió lạnh buốt. "Chúng tôi đang đứng trước bảo tàng nghệ thuật Georgetown, nơi ông Gary Winthrop đang tổ chức trao một món quà trị giá năm mươi triệu đôla cho viện bảo tàng. Nào, chúng ta hãy cùng vào trong". Bây giờ là cảnh nội thất tráng lệ của viện bảo tàng. Vô số quan chức, nhân viên cấp cao và phóng viên đang vây chặt lấy Gary Winthrop. Ông giám đốc bảo tàng, Morgan Ormond trao cho anh ta một tấm bằng lớn. - Ông Winthrop, thay mặt cho viện bảo tàng, cho hàng triệu khách tham quan đến đây, và cho ban quản trị viện, chúng tôi xin chân thành cám ơn sự đóng góp vô cùng to lớn này của ông. Đèn flash thi nhau loé sáng. Gary Winthrop trả lời: - Tôi hy vọng việc này sẽ giúp các hoạ sĩ trẻ nước Mỹ có cơ hội tốt hơn để không chỉ thể hiện bản thân mà còn giới thiệu được tài năng của họ ra toàn thế giới. Tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Phóng viên trong cuốn băng nói: - Đây là Bill Toland, tại bảo tàng Nghệ thuật Georgetown. Trở về phòng thu chứ, Dana? Đèn đỏ của camera bật sáng. - Cảm ơn Bill. Chúng ta thật may mắn vì đã mời được ông Gary Winthrop đến đây cùng nói chuyện về món quà tuyệt vời của ông. Máy quay lia một cú rộng và hình Gary Winthrop ngồi trong phòng thu đã xuất hiện trên màn hình. Dana lên tiếng: - Món tiền năm mươi triệu đôla này, ông Winthrop, sẽ được dùng để mua tranh cho viện bảo tàng chứ? - Không. Đây là một sự bảo trợ mới dành cho những hoạ sĩ trẻ người Mỹ, những người không thể, hay nói một cách khác là không có cơ hội được thể hiện những gì mà họ có. Một phần của số tiền sẽ được dùng để hỗ trợ những em học sinh có năng khiếu ở các thành phố thuộc bang. Có rất nhiều em nhỏ lớn lên mà không có chút kiến thức nào về nền nghệ thuật của nước mình. Chúng có thể biết đến trường phái ấn tượng Pháp, nhưng tôi muốn chúng nhận thức rõ hơn về những di sản của chính chúng, với những hoạ sĩ Mỹ như Sargent, Homer và Remington. Nói tóm lại, số tiền này dùng để cổ động các hoạ sĩ trẻ phát huy hết tài năng của họ cũng như dành cho tất cả những bạn trẻ nào có hứng thú với nghệ thuật. - Có tin đồn rằng ông đang dự tính chạy đua vào Nghị viện, ông Winthrop. Đây có phải là sự thật không? - Dana hỏi. Gary Winthrop mỉm cười: - Tôi đang nắn gân mọi người đấy. - Thật là thú vị. Theo kết quả bỏ phiếu thử mà chúng tôi đã xem qua, thì ông đang dẫn đầu. Gary Winthrop gật đầu. - Gia đình tôi đã có một bảng thành tích dài về việc phục vụ chính phủ rồi. Nếu như tôi có được chút hữu dụng nào với đất nước thì, tôi xin làm bất cứ việc gì mà Chính phủ yêu cầu. - Xin cảm ơn sự có mặt của ông, ông Winthrop. - Cảm ơn. Gary Winthrop chào tạm biệt và rời phòng thu trong lúc phát quảng cáo. Jeff Connors, ngồi cạnh Dana nói: - Chúng ta cần nhiều người như anh ta ở trong Quốc hội hơn! - Chúa ơi. - Chúng ta có thể nhân bản anh ta. À mà… Kemal sao rồi? Dana nhăn mặt. - Jeff… làm ơn đừng bỏ cả Kemal và nhân bản vào cùng một rọ. Em không chịu nổi đâu. - Vẫn còn bị ảnh hưởng bởi chuyện sáng nay à? - Ừ, nhưng chỉ hôm nay thôi. Ngày mai sẽ… Anastasia Mann nói: - Trở lại nào. Ba… hai… một… Đèn đỏ bật sáng. Dana nhìn về phía ống kính. "Sau đây là phát thanh viên Jeff Connors với phần tin thể thao". Jeff nhìn vào ống kính và bắt đầu nói: "Hôm nay, trận bóng rổ giữa hai đội…" Vào lúc hai giờ sáng, trong căn nhà của Gary Winthrop ở khu tây bắc Washington, hai người đàn ông đang gỡ những bức tranh trên tường phòng khách xuống. Một người đeo mặt nạ, Lone Ranger, còn người kia là đại uý Midnite. Họ làm với vẻ ung dung hết mức, lôi từng tờ tranh khỏi khung kính và nhét vào chiếc bao bố to sụ. Lone Ranger nói: - Mấy giờ thì xe tuần mới quay lại? Đại uý Midnite trả lời: - Bốn giờ. - Họ thật tốt bụng khi hẹn đầy đủ giờ giấc với chúng ta, nhỉ? Đại uý Midnite nhấc một bức tranh trên tường và đập nó xuống nền nhà lát gỗ sồi, gây ra một tiếng động lớn. Hai người dừng lại một lát và nghe ngóng. Yên lặng. Lone Ranger nói: - Lại lần nữa. Đập mạnh vào. Đại uý Midnite lấy một bức tranh khác và ném mạnh xuống sàn. - Nào, xem chuyện gì xảy ra nhé. Trên giường ngủ ở tầng trên, Gary Winthrop bị tiếng ồn làm thức giấc. Anh ta ngồi hẳn lên. Mình đã nghe thấy tiếng động, hay chỉ là mơ thấy nó? Anh ta lắng nghe một hồi lâu. Vẫn yên lặng. Không chắc lắm, anh ta đứng dậy, bước ra hành lang và bật đèn. Hành lang vẫn tối om. - Này. Có ai ở dưới đó không? - Không có tiếng trả lời. Đi xuống lầu, anh ta bước dọc theo hành lang cho đến cửa phòng khách. Anh ta dừng lại và ngó sững hai người đàn ông đeo mặt nạ với vẻ hoài nghi. - Các anh làm cái quái gì ở đây thế này? Lone Ranger quay sang anh ta và nói: - Chào Gary. - Xin lỗi vì đã đánh thức ông dậy. Hãy đi ngủ tiếp đi. Không một tiếng động, khẩu Beretta xuất hiện trên tay hắn. Hắn đẩy cò hai lần và một màu đỏ lòm bắn tung toé ra từ ngực Gary. Lone Ranger và đại uý Midnite nhìn cái xác của Gary Winthrop đổ ập xuống nền nhà. Hài lòng, chúng quay lưng và tiếp tục hoàn thành nốt việc lấy đi các bức tranh. ... Mời các bạn đón đọc Bầu Trời Sụp Đổ của tác giả Sidney Sheldon.
Người Đàn Bà Đáng Sợ - Erle Stanley Gardner
Anh chàng thanh niên Ted Balfour trong “Người đàn bà đáng sợ” là con người hiền lành lương thiện, chỉ vì một vài sơ sót mà bị bọn xấu vu oan, bôi nhọ. Bọn xấu còn dựng lên hiện trường giả để đánh lạc hướng nhân viên điều tra, khiến cho vụ án trở nên rắc rối đến nổi các vị ở tòa án cũng bị nhầm lẫn. Nhờ sự trợ giúp đắc lực của thám tử Paul Drake và cô thư ký trung thành, tận tụy là Della Street, cùng với sự nhạy bén của một đầu óc thông minh, luôn tha thiết với công lý tưởng chừng như bế tắc, vị luật sư tài ba rất đáng yêu của chúng ta đã khám phá ra sự thật. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) 17. Bí Ẩn Vụ Song Sinh [Perry Mason #62 - The Case of the Duplicate Daughter] (1960) *** Della Street, cô thư ký riêng của Luật sư Perry Mason, nhấc máy điện thoại lên và hỏi: - A lô! Một giọng trẻ trung và ngân vang của phụ nữ ở đầu dây hỏi lại: - Ông Mason sẽ đòi bao nhiêu tiền thù lao cho một ngày làm việc ở Tòa án? Câu trả lời của Della Street lập tức trở nên thận trọng: - Điều đó còn tùy thuộc vào đây là loại việc gì, việc ông ấy phải làm là việc gì... - Ông ta chỉ việc nghe chứ không làm việc gì khác. - Bà muốn nói rằng ông ấy không phải tham gia vào việc tranh cãi chăng? - Không. Chỉ đơn giản là nghe người ta nói những gì và từ đấy rút ra những kết luận của mình. - Bà là ai? Tôi muốn bà cho biết tên. - Bà cần một cái tên để ghi vào sổ chăng? - Đúng như vậy. - Nếu thế thì ghi là Cash (thanh toán ngay, bằng tiền mặt). - Sao ạ? - Cash! - Tôi nghĩ tốt hơn là bà nên nói chuyện với ông Mason, - Della Street nói. - Tôi sắp xếp cho bà một cuộc hẹn nhé. - Chúng ta không có thời gian để hẹn. Công việc mà tôi quan tâm sẽ diễn ra vào lúc 10 giờ, ngay sáng hôm nay. - Xin bà chờ một lát, bà đừng bỏ máy nhé. Perry Mason đang đọc báo, ngẩng đầu lên khi người thư ký bước vào phòng. - Ông chủ, - cô nói với ông, - ông phải tự giải quyết việc này ạ. Một người phụ nữ, đoán theo giọng nói thì còn trẻ, muốn là ông nên có mặt ở Tòa án, nơi sẽ diễn ra một việc gì đó vào sáng nay. Cô ta đang đợi ông ở đầu dây. - Tên cô ấy là gì? - Cô ấy nói với tôi là Cash. Mason mỉm cười và nhấc máy nói lên, trong lúc ấy thì Della Street đi nối dây vào máy. - Vâng, - ông nói. - Perry Mason đang ở máy đây. - Sáng nay vào lúc 10 giờ, tại phòng số 23, sẽ xét xử Balfour theo truy tố của phòng Chưởng lý, - một giọng nói thận trọng trả lời. - Tôi muốn biết là tôi sẽ phải trả bao nhiêu để ông đi dự phiên tòa ấy và rút ra những kết luận của mình. - Tên cô là gì? - Như đã nói với thư ký của ông, ông chỉ cần ghi là Cash vào sổ là đủ. - Bây giờ là 9 giờ 25 phút. - Mason xem chiếc đồng hồ quả quít. - Tôi có hai cuộc hẹn vào buổi sáng và một vào buổi trưa. Tôi chỉ có thể bỏ chúng khi phải làm một công việc rất quan trọng. - Đây là một công việc như thế. - Nếu vậy thì tôi sẽ bỏ những cuộc hẹn đó. Khoản thù lao... - Sẽ là bao nhiêu? - 500 đôla. - Mason đáp lại khá khô khan. - Ối! Tôi... Tôi... thất vọng. Tôi không có ý... Thôi, tôi rất buồn, nhưng mà chúng ta không nói tới chuyện ấy nữa! Cảm động vì sự hốt hoảng trong giọng nói của người đang đối thoại với mình, Mason hỏi lại: - Cô không nghĩ là số tiền phải nhiều đến như vậy chứ gì? - Vâng... vâng... Tôi chỉ có tiền lương và... - Cô hiểu cho, tôi có nhiều khoản phải chi tiêu trong một ngày. Cô làm nghề gì? - Tôi là thư ký. - Và đơn giản là cô muốn đến để nghe xem người ta nói gì về vụ này? - Vâng... Nhưng tôi không đủ tiền... Tôi không... - Cô muốn rằng cô phải trả bao nhiêu? - 100 đôla. Tôi cũng có thể trả tới 150... - Tại sao cô lại muốn tôi đến dự phiên tòa đó? Vụ ấy có liên quan đến cô chăng? - Không trực tiếp. Không... - Cô có xe hơi riêng không? - Không ạ. - Có tiền gởi ngân hàng chứ? - Thưa có! - Bao nhiêu? - Khoản trên 600 đôla. - Thôi được! Cô đã thành công trong việc khêu gợi óc tò mò của tôi đấy. Nếu cô trả tôi 100 đôla, tôi sẽ thực hiện điều cô yêu cầu. - Ồ! Ông Mason... Ôi, rất cảm ơn ông! Tôi xin cử một người tùy phái đến gặp ông ngay... Ông hiểu cho, rất không nên để ông biết tôi là ai... Tôi không thể giải thích được, nhưng người ta sẽ mang tiền đến cho ông ngay tức khắc. Và tôi yêu cầu ông đừng nói với ai là có người nhờ ông trong vụ này. Tôi rất muốn là ông tới đấy như một người đi nghe tòa xử, rằng ông không ngồi cùng chỗ với các luật sư khác. - Nhưng nếu tôi không tìm được chỗ ngồi? - Tôi đã nghĩ đến điều ấy. Khi tới nơi, ông nhìn về phía bên trái, ông sẽ thấy một phụ nữ tóc đỏ hoe, khoảng 40 tuổi, ngồi ở hàng ghế thứ tư tính từ cuối phòng trở lên. Bên cạnh người ấy là một phụ nữ trẻ hơn, tóc nâu sẫm, đã đặt hai chiếc áo măng tô trên ghế phía tay trái của mình. Ông chỉ cần đi đến chỗ ấy, cô ta sẽ nhấc áo nhường ghế cho ông. Chúng ta mong rằng sẽ không ai nhận ra ông... Ông đừng mang theo cặp da. Một tiếng cạch báo cho người luật sư biết rằng đường dây đã bị cắt, và ông quay lại người thư ký của mình. - Della, khi người tùy phái mang 100 đôla của người đàn bà đó tới, cô làm giấy biên nhận và bảo anh ta đưa lại cho người đã giao việc cho mình. Tôi đi dự phiên tòa ấy đây. ... Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Đáng Sợ của tác giả Erle Stanley Gardner.
Mối Thù Thiên Thu - Jack London
Mối thù thiên thu là một phần thuộc tập 10 truyện trinh thám nổi tiếng Thám Tử Conan của Jack London. Liệu diễn biến tiếp theo của câu chuyện sẽ xảy ra nư thế nào!? *** Jack London sinh ngày 12-1-1876 tại San Francisco, tiểu bang California, với tên khai sinh đầy đủ là John Griffith Chaney trong một khu nghèo khổ của thành phố - "bên kia đường ray" như sau này ông viết. Những thanh ray của tuyến tàu điện chính ngăn San Francisco ra làm 2 nửa: phía bắc là khu của những người giàu; còn phía nam đường ray - người nghèo, thất nghiệp và ăn mày chen chúc. Jack London đã được sinh ra tại chính khu này và lại là đứa con ngoài giá thú. Ông không bao giờ biết được cha mình là ai, chỉ nghe nói lại đó là một nhà chiêm tinh với những thủ thuật đáng ngờ, một kẻ luôn trốn tránh trách nhiệm làm cha. Tuổi thơ của Jack ngập trong đói nghèo và sự khốn cùng. Trong một cuốn tiểu sử tự thuật ông viết sau này, ông thú nhận năm lên 7 tuổi, lần đầu tiên ông phải đi ăn cắp - do cái đói thúc bách - một mẩu sandwich của một cô bé. Mãi tới năm 9 tuổi Jack mới có chiếc áo sơ mi đầu tiên. Tuy là một chiếc áo cũ nhàu nát, nhưng "Tôi phấn khởi biết dường nào. Nhiều ngày liền tôi không cởi áo ra để cho mọi người biết mình cũng có sơ mi mặc như ai", như Jack đã viết như thế. Tác giả của "33 đầu sách cùng rất nhiều truyện ngắn và mẩu tin trên báo" được coi là một trong những nhà văn hiện thực Mỹ hàng đầu. Nét nổi bật trong những cuốn sách của ông là vốn sống thực tế với những bi kịch của cuộc đời. Cho đến nay, Jack London vẫn là một trong những tác giả được bạn đọc khắp thế giới ưa thích nhất. Cách đây một thế kỷ. Vào tháng 11-1916, khi tin ông từ trần được loan báo khắp thế giới, rất nhiều độc giả không muốn tin vào sự thật phũ phàng đó. Họ thêm vào một trong những huyền thoại nữa về nhà văn vĩ đại: Jack London không tự vẫn, mà ông lẩn khuất ở một nơi nào đó… *** Xe lướt tuyết rền rĩ những âm điệu như than vãn hoà với tiếng rèn rẹt của dây cương và tiếng leng reng của những quả chuông buộc nơi cổ những con chó đầu đàn; nhưng người và vật đều mệt mỏi nên chẳng buồn cất tiếng. Con đường mòn nằm lấp dưới lớp tuyết dày đặc mới rơi xuống. Họ đã vượt một khoảng đường xa, và những bàn trượt nặng trĩu dưới những tảng thịt nai rừng nặng như đá, bám rít lấy mặt tuyết chưa kết đông và chậm lại một cách bướng bỉnh hầu như có người xúi giục vậy. Màn đêm xuống dần, nhưng đêm hôm đó họ không có ý định cắm trại. Tuyết lả tả rơi trong bầu trời êm ả, không thành băng tuyết mà thành những mảnh pha lê li ti đủ hình thể xinh đẹp. Trời thực ấm áp - chỉ ngót 10 độ[1] dưới không độ - và mọi người cảm thấy thoải mái. Meyers và Bettles đã lật hai cánh mũi che tai lên, và Malemute Kid* lại còn tháo cả bao tay ra. Đàn chó đã mệt mỏi từ lúc xế trưa, nhưng lúc này chúng lại tỏ ra hăng hái như vừa được tiếp một nguồn sinh lực mới. Trong đám những con chó khôn, có một vẻ bồn chồn – chúng hung hăng nhưng bị dây kéo cản lại, chúng hỉnh mũi đánh hơi và dỏng tai lên nghe ngóng. Chúng bực tức với những con có vẻ thờ ơ, thúc dục những con này bằng cách táp nhẹ vào mông chúng. Những con bị trách móc như vậy cũng dúm lại và hùa vào làm cho vẻ hung hăng lan rộng thêm. Sau cùng con đầu đàn của chiếc xe dẫn lộ rít lên một tiếng mãn nguyện, rạp mình sát xuống tuyết rồi lao tới phía trước. Những con khác cũng rít lên như vậy. Các đoàn sau đi túm tụm lại, dây kéo siết lại gần nhau; những chiếc xe lướt trên tuyết băng tới trước, và mọi người nắm chặt lấy cây cột, nhấc chân bước mạnh mẽ càng lúc càng mau để khỏi bị xe lướt tuyết cán lên. Dường như họ vừa trút được hết sự mỏi mệt lúc ban ngày, và họ lên tiếng hò khuyến khích đàn chó. Chúng đáp lại bằng những tiếng sủa ăng ẳng vui vẻ. Họ đang tiến với một sức phi mau như gió qua bóng tối đang xuống dần. Mọi người lần lượt kêu mấy tiếng “Quẹo! Quẹo!” trong khi chiếc xe lướt tuyết bất chợt rời bỏ đường chính, họ điều khiển những xe lướt tuyết đó như đoàn thuyền lướt trong gió. Sau đó là cuộc chạy nước rút một trăm thước tới cái cửa sổ che bằng tấm da bên trong có ánh sáng le lói như báo cho mọi người biết đó là cái chòi có người ở, có lò lửa kiểu Yukon đang cháy rực, và những ấm trà đang bốc hơi nghi ngút. Người và vật đã đổ xô tới chiếc chòi đó. Chừng sáu chục con sủa vang như khiêu khích, và có những con vật lông xù to lớn xông lại phía những con chó kéo chiếc xe đi đầu. Cánh cửa mở bật ra, một người mặc áo màu đỏ tía thuộc Cảnh Sát miền Tây Bắc bước một cách khó khăn giữa những con vật hung hăng, lông chúng che phủ tới đầu gối người đó; ông dàn hoà chúng một cách bình tĩnh và vô từ bằng cái cán roi. Sau đó mọi người bắt tay chào hỏi, và Malemute Kid được người lạ bắt tay mời vào căn lều của chính mình. Stanley Prince, lẽ ra phải ra đón anh, và có nhiệm vụ trông chừng cái lò và trà nóng, lại đang bận rộn khách khứa. Họ chừng hơn chục người, thật là một nhóm người hỗn tạp phụng sự Hoàng gia Anh để thi hành luật pháp hoặc phân phát thư tín. Họ thuộc nhiều nhân chủng khác nhau, nhưng cuộc đời thường nhật đã tạo họ thành một hạng người đặc biệt - một loại người dong dỏng và gân guốc, có bắp thịt cứng rắn vì phải đi lại đường rừng, khuôn mặt xạm nắng và tâm hồn thanh thản, cặp mắt sáng luôn luôn nhìn thẳng và thành thực. Họ đánh xe do chó của Hoàng gia kéo, gieo sợ hãi vào lòng những kẻ bất lương, họ ăn những thực phẩm thanh đạm của chính phủ ban cho và lấy thế làm sung sướng. Họ đã từng trải đời, tạo được nhiều thành tích, và sống những giờ phút nên thơ mà họ không ngờ. Họ sống rất thân mật và hồn nhiên. Hai người trong bọn nằm dài trên giường của Malemute Kid, miệng hát những bài ca mà tổ tiên người Pháp của họ đã hát khi mới đặt chân tới mảnh đất miền Tây Bắc và sống chung với người Da Đỏ ở đó. Giường của Bettles cũng bị chiếm; ba hay bốn “khách du hành” lực lưỡng vừa cựa quậy ngón chân của họ trong đống chăn mền vừa nghe chuyện một người đã từng phụng sự trong lữ đoàn hải thuyền cùng với Wolseley khi ông này chiến đấu mở đường đi tới Khartoum. Và khi anh này mệt rồi, một chàng “chăn bò” thuật lại về những triều đình cùng những ông hoàng bà chúa mà anh ta đã thấy hồi Buffalo Bill đi lưu diễn tại các kinh đô bên Âu Châu. Trong một góc phòng có hai chàng lai, cựu đồng ngũ trong một cuộc bại trận, ngồi sửa lại dây cương và đàm luận về hồi mà miền Tây Bắc đang chìm trong khói lửa của cuộc nổi loạn và Louis Riel làm chúa tể. Những lời giễu cợt và trò nghịch tinh thô lỗ ồn ào như vỡ chợ, và những cuộc mạo hiểm gian truân trên những nẻo đường và khúc sông được kể lại như chuyện tầm thường, nhưng sở dĩ nó được nhắc lại là vì nó có đượm vẻ khôi hài hoặc ngộ nghĩnh. Prince say sưa theo dõi chuyện của những vị anh hùng không tên tuổi này, những người đã chứng kiến lịch sử diễn biến, đã coi những chuyến vĩ đại, những chuyện hào hùng là chuyện tầm thường hoặc tình cờ trong cuộc sống thường nhật mà thôi. Chàng đem thuốc lá quý ra cho mọi người chuyền tay quấn hút một cách lãng phí; rồi trí nhớ dường như được mài dũa lại, mọi người đua nhau thuật lại những chuyện phiêu lưu kỳ thú cho anh nghe. Khi buổi chuyện trò tàn và những kẻ du hành kia nhồi thuốc lá vào ống điếu cuối cùng rồi trải ra những cái túi ngủ bằng da thú được cuộn chặt, Prince quay lại bạn để hỏi thêm tin tức. Malemute Kid, đang bắt đầu cởi giầy, cất tiếng trả lời: “Anh biết chàng chăn bò là ai rồi, và chắc anh cũng đoán được một cách dễ dàng là người nằm cùng giường với hắn có máu Anh Cát Lợi. Còn những người kia đều là dòng dõi của những tay lục lâm, lai với không biết bao nhiêu dòng máu khác. Hai người đang ở ngoài cửa đi vào thì lai máu Eskimo. Anh chàng có cái khăn quàng bằng len đan – hãy để ý cặp lông mày và cằm hắn - một người Tô Cách Lan đã từng khóc trong chiếc lều ám khói của người mẹ Da Đỏ của hắn. Và thằng đẹp trai đang đặt cái áo khoác xuống để gối đầu là một thằng lai Pháp – anh đã nghe hắn nói chuyện đó; hắn không ưa hai thằng Da Đỏ vào sau hắn. Anh hiểu không, khi bọn “lai” nổi loạn dưới sự chỉ huy của Riel thì bọn “thuần tuý”, (không lai) lại cứ phớt tỉnh, và từ ngày đó tới giờ họ vẫn không ưa gì nhau mấy”. ... Mời các bạn đón đọc Mối Thù Thiên Thu của tác giả Jack London.
Mạng Sống Mong Manh - Tess Gerritsen
Tess Gerritsen (12/7/1953): là một bác sĩ điều trị và một tác giả nổi tiếng thế giới.    Tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của bà về sự trì hoãn trong y học đã dành được rất nhiều lời khen ngợi. Harvest là cuốn sách bán chạy nhất theo tờ Thời báo New York.    Bà cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy khác như The Mephisto Club, Vanish, Body Double, The Sinner, The Apprentice, The Surgeon, Life Support, Bloodstream và Gravity.    Tess Gerritsen sống tại Maine cùng chồng và hai con trai. Có thể ghé thăm website của bà tại địa chỉ: www.tessgerritsen.com *** Dao mổ là một vật đẹp. Bác sĩ Stanley Mackie trước giờ chưa nhận ra được điều đó, nhưng lúc ông đứng cúi đầu, bên dưới những ngọn đèn phòng mổ, ông chợt tự hỏi bằng cách nào ánh phản chiếu từ lưỡi dao giống như ánh sáng do những viên kim cương phát ra. Đó là một tác phẩm nghệ thuật, cái vật hình trăng lưỡi liềm sắc như dao cạo bằng thép không gỉ ấy. Thực vậy, nó đẹp đến nỗi ông chỉ hơi dám nhấc nó lên vì sợ, bằng cách nào đó, sẽ làm cho vật có đầy ma lực lôi cuốn ấy bị mờ xỉn đi. Trên bề mặt nó, những màu sắc cầu vồng, các thành phần tinh khiết tạo thành do sự khúc xạ ánh sáng. - Bác sĩ Mackie? Có chuyện gì sai không? Ông ta nhìn lên và thấy cô y tá, đang rửa tay, cau mày nhìn ông, phía trên chiếc khẩu trang phẫu thuật. Trước giờ ông chưa từng thấy hai mắt cô ấy xanh như thế. Hình như ông đang nhìn thấy, thực sự nhìn thấy quá nhiều việc lần đầu tiên. Màu kem nước da cô y tá. Sợi gân máu chạy dọc theo thái dương. Nốt ruồi ngay phía trên chân mày cô. Hay nó có phải là một nốt ruồi không? Ông nhìn chăm chú. Nó đang cử động, bò như một con sâu về phía cuối mắt cô… - Stan? – Bác sĩ Rudman, chuyên viên gây mê, đang gọi ông, giọng ông ta cắt ngang sự suy nghĩ điên khùng của bác sĩ Mackie. – Anh có ổn không? Mackie lắc đầu. Con côn trùng biến mất. Nó lại trở thành một chiếc nốt ruồi, một đốm nhỏ sắc tố đen trên làn da nhợt nhạt của cô y tá. Ông thở thật sâu vào và nhặt con dao mổ trên khay dụng cụ lên. Ông nhìn xuống người đàn bà nằm dài phía dưới. Chùm ánh sáng phía trên đầu đã được chiếu tập trung xuống vùng bụng dưới của bà ta. Những tấm đắp xanh phẫu thuật, được xếp vào vị trí, làm thành một vùng da trần hình chữ nhật. Đó là một chiếc bụng thon nhỏ dễ thương, có vết sạm nắng do chiếc quần tắm bikini để lại, nối liền hai bờ mông lại – một hình ảnh đáng ngạc nhiên ở giữa mùa bão tuyết này, với những hình ảnh nhợt nhạt mùa đông. Thật xấu hổ cho ông phải dùng dao cắt vào chỗ đó. Một vết sẹo do thủ thuật cắt bỏ ruột thừa để lại, chắc chắn sẽ làm hỏng bất cứ làn da rám nắng nào của vùng biển Caribe. Ông đặt mũi dao lên làn da, tập trung mũi cắt của ông vào điểm McBurney, giữa rốn và chỗ xương hông nhô ra. Vị trí gần đúng của ruột thừa. Với con dao mổ đang ở trong tư thế sẵn sàng để cắt, ông đột nhiên dừng lại. Hai bàn tay ông run lên. Ông không hiểu được điều đó. Việc ấy trước giờ chưa hề xảy ra. Stanley Mackie thường có hai bàn tay vững chắc như đá. Bây giờ ông cần phải nỗ lực thật nhiều để giữ chặt cán dao. Ông nuốt nước bọt và nhấc lưỡi dao lên khỏi làn da. Dễ mà. Hãy thở thật sâu vào vài lần. Việc này sẽ qua thôi. - Stan? Mackie nhìn lên và thấy Bác sĩ Rudman đang cau mày. Cả hai cô y tá cũng thế. Mackie có thể đọc được câu hỏi trong ánh mắt họ, như câu hỏi người ta đã thì thầm về ông mấy tuần nay. Liệu Bác sĩ Mackie già có còn đủ khả năng không? Ở vào cái tuổi bảy mươi tư, ông ta có còn được phép hành nghề bác sĩ phẫu thuật không? Ông không để ý đến cái nhìn của họ. Ông đã tự bảo vệ mình trước Ủy ban Bảo đảm Chất lượng, đã giải thích, trước sự hài lòng của họ, trường hợp cái chết của bệnh nhân vừa rồi của ông. Phẫu thuật, nói cho cùng, không phải là một việc làm không có rủi ro. Khi máu chảy ra quá nhiều trong bụng, rất dễ nhầm lẫn vùng đã được đánh dấu, để cắt một nhát cắt sai lầm. Ủy ban, với sự sáng suốt của họ, đã miễn trách nhiệm cho ông. Tuy vậy, sự nghi ngờ bắt đầu lan truyền trong đầu các nhân viên bệnh viện. Ông có thể nhìn thấy điều đó qua thái độ của các nhân viên y tá, qua sự cau mày của bác sĩ Rudman. Tất cả mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía ông. Đột nhiên, ông cũng cảm nhận được những ánh mắt khác, chúng đang nhìn chằm chằm vào ông, cả tá con mắt lơ lửng trong không khí, chúng thảy đều đang nhìn ông chằm chằm. Ông chớp mắt, và cái nhìn ghê rợn ấy biến mất. Mắt kính tôi, ông nghĩ, tôi sẽ đi kiểm tra mắt kính lại. Một giọt mồ hôi chảy dài trên má ông. Ông nắm chặt cán dao mổ lại. Đây không phải chỉ là việc mổ ruột thừa đơn giản, công việc mà một bác sĩ nội trú cấp thấp có thể thực hiện được. Chắc chắn ông sẽ làm được việc ấy, ngay cả với đôi bàn tay đang run rẩy. Ông tập trung nhìn vào vùng bụng của bệnh nhân, trên chiếc bụng với một vùng da sạm nắng. Jennifer Halsey, ba mươi sáu tuổi. Một du khách ở ngoài tiểu bang, sáng nay bà đã thức giấc trong quán trọ lữ hành Boston, thấy đau ở góc bụng dưới phía bên tay phải. Cơn đau càng lúc càng trở nên tệ hại, bà đã lái xe đi qua vùng bão tuyết tối tăm để đến phòng cấp cứu bệnh viện Wicklin, và đã được chuyển đến cho bác sĩ trực giải phẫu ngày hôm ấy: Mackie. Bà ta không hề biết gì đến những lời đồn đại về năng lực của ông, không biết gì về những lời nói dối và thì thầm đang từ từ phá hủy năng lực chuyên môn của ông. Bà ta chỉ là một phụ nữ đau đớn đang rất mong khối ruột thừa bị viêm của mình được cắt bỏ đi. Ông ấn lưỡi dao vào làn da của Jennifer. Hai bàn tay ông đã hết run. Ông có thể mổ được. Ông cắt một đường thật ngọt. Cô y tá phụ trách việc lau chùi, lấy bông thấm máu chảy ra, đưa cho ông cái kẹp cầm máu. Ông cắt xuống sâu hơn, qua lớp mỡ vàng dưới da, thỉnh thoảng nghỉ để đốt bỏ một vùng bị chảy máu quá nhiều. Không có vấn đề. Mọi việc rồi sẽ tốt đẹp. Ông vào sâu hơn, để cắt bỏ khúc ruột thừa, và sau đó kéo nó ra. Rồi ông có thể về nhà nghỉ trưa. Có thể nghỉ ngơi một chút là những gì ông cần để cho đầu óc sáng suốt trở lại. Ông rạch dao qua màng bụng, vào vùng bên trong bụng. - Kẹp vào! – Ông nói. Cô y tá phụ tá đưa tay cầm cái banh miệng vết mổ bằng thép không gỉ và nhẹ nhàng kéo vết mổ ra. Mackie đi sâu vào trong vết cắt và cảm thấy được ruột, ấm và trơn, bò ngoằn ngoèo quanh bàn tay đeo găng của ông. Cảm giác thật là kỳ lạ, đặt tay vào bên trong cơ thể ấm nóng của một con người. Nó giống như được quay trở lại vào bên trong dạ con. Ông vạch trần khúc ruột thừa ra. Một cái liếc mắt vào lớp mô sưng đỏ cho biết ông đã chẩn đoán bệnh chính xác; cái khúc ruột thừa phải được đem ra ngoài. Ông với tay lấy con dao mổ. Chỉ lúc ông tập trung nhìn lại lần nữa vào cái vết cắt ông vừa thực hiện là có một cái gì đó không chính xác. Có quá nhiều khúc ruột trong vùng bụng, gấp hai lần số chúng cần phải có. Quá nhiều hơn số bà bệnh nhân cần có. Không thể như thế được. Ông kéo mạnh một cuộn ruột nhỏ, cảm thấy nó bị tuột đi, ấm và trơn trượt, qua cặp tay đeo găng của ông. Dùng con dao mổ, ông cắt bỏ cuộn ruột dư thừa ấy đi và đặt cái vòng ướt sũng ấy lên khay. Đấy, ông nghĩ. Như thế sẽ gọn hơn. Cô y tá phụ tá nhìn ông chằm chằm, hai mắt cô ta trợn to lên trên chiếc khẩu trang phẫu thuật. - Bác sĩ đang làm gì thế? – Cô ta la lên. - Quá nhiều ruột. – Ông ta bình thản đáp. – Không thể như thế được. – Ông lại đặt tay vào bên trong bụng và nắm thêm một cuộn ruột nữa. Không cần phải có quá nhiều đoạn ruột dư thừa như thế. Nó chỉ che khuất tầm nhìn của ông ta. - Bác sĩ Mackie, không! Ông ta cắt bỏ. Máu nóng phun ra có vòi từ cái cuộn ruột xấu xa đó. Cô y tá nắm lấy bàn tay đeo găng của ông lại. Ông hất tay cô ra, giận điên lên vì một y tá xoàng dám ngăn hành động của ông lại. - Tìm cho tôi một nhân viên y tá phụ tá khác. – Ông ta ra lệnh. – Tôi cần cái ống hút máu. Phải dọn sạch lớp máu này đi. - Dừng tay ông ta lại! Giúp tôi dừng tay ông ta lại. Dùng tay còn lại, Mackie với tay lấy cái ống hút máu và nhấn đầu nó vào trong vùng bụng. Máu chảy ùng ục trong cái ống và đổ vào bên trong thùng chứa. Một bàn tay khác nắm áo choàng và lôi ông ta ra khỏi bàn mổ. Đó là bác sĩ Rudman. Mackie cố vùng vẫy để thoát ra, nhưng Rudman không thể để cho ông ta đi. - Đặt con dao mổ xuống, Stan. - Bà ta cần phải được dọn sạch. Có quá nhiều ruột trong ấy. - Đặt dao xuống! Vùng vẫy để thoát ra, Mackie lách người để đối diện với Rudman. Ông ta đã quên là ông vẫn còn nắm trong tay con dao mổ. Con dao rạch ngang qua cổ người đàn ông kia. Rudman hét lên và đưa tay lên bịt lấy cổ họng lại. Mackie lùi ra sau và nhìn chằm chằm vào máu đang ứa ra giữa những ngón tay của Rudman. - Đó không phải là lỗi của tôi. – Ông ta nói. – Đó không phải là lỗi của tôi! Một cô y tá la lên vào máy nội đàm: - Cho bảo vệ đến ngay! Ông ta đang nổi điên lên trong này! Chúng tôi cần bảo vệ CHUYÊN NGHIỆP! Mackie trượt chân trên vũng máu lầy lội ngã ra sau. Máu của Rudman? Máu của Jennifer Halsey? Máu chảy thành vũng. Ông quay lại và chạy ra khỏi phòng. Họ đang đuổi theo ông. Tại sao không có gì có vẻ quen thuộc cả? Rồi, thẳng ở phía trước, ông nhìn thấy khung cửa sổ; và phía sau nó, tuyết đang rơi xoáy tròn. Tuyết. Cái dải buộc trắng lạnh ấy sẽ lọc ông sạch lại, sẽ tẩy sạch những vết máu trên bàn tay ông. Phía sau ông, tiếng bước chân chạy rầm rập đến gần. Ai đó la lên: - Đứng lại! Mackie chạy tiếp vài ba bước và nhảy qua khung cửa sổ. Kính vỡ toang ra thành vô số hạt giống như kim cương. Và gió lạnh thổi ngang qua người ông và mọi thứ đều trở nên trắng xóa, một màu trắng pha lê. Và ông ngã xuống. Mời các bạn đón đọc Mạng Sống Mong Manh của tác giả Tess Gerritsen.