Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Âm Phù Kinh - Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

Tựa

Âm Phù Kinh là một quyển sách rất nhỏ của Đạo Lão, tương truyền là do Hoàng Đế (2697-2597) viết. Nhưng có nhiều học giả không công nhận như vậy. Trình Chính Thúc (Trình Di, Trình Y Xuyên, 1033-1107) cho rằng sách này được viết vào thời Ân (1766-1154) hay thời Chu (1122-255). Chu Hi (Chu Nguyên Hối, 1130-1200) cho rằng Lý Thuyên, một đạo sĩ đời vua Đường Huyền Tông (713-755) đã ngụy tạo ra. Chu Hi soạn Âm Phù khảo dị. Thiệu Khang Tiết (1011-1077) cho rằng Âm Phù Kinh được viết ra vào đời Chiến Quốc. Đạo tạng có bộ Âm Phù Kinh tập chú do 7 người chú: Y Doãn, Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Trương Lương, Lý Thuyên. Trương Quả Lão (một vị trong Bát Tiên đời Đường) cũng có viết Âm Phù Kinh và có dẫn Y Doãn, Thái Công, Chư Cát Lượng, Lý Thuyên. Lại có bản do 11 người chú: Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc, Trương Lương, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong, Lý Thuyên, Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Dương Thịnh. - Thạch Đại Dương Nhân Sơn, một người rất giỏi về Đạo Phật, chú Âm Phù theo Phật. - Lý Gia Du giỏi Dịch giảng Âm Phù theo Dịch. - Đơn Chân Nhân, Khấu Trương, Trương Quả Lão, Lý Thuyên là các Đạo Gia nên bình Âm Phù theo Lão. Trịnh Tiều Nghệ Văn cho biết trước sau có 38 bộ Âm Phù Kinh biên soạn thành 51 quyển. Như vậy mỗi người chú Âm Phù một cách. Binh gia giải theo Binh Gia, Đạo Gia giải theo Đạo Gia, Phật Gia giải theo Phật Gia. Nhưng Âm Phù Kinh vẫn là Âm Phù Kinh. (Xem Vô Tích Hoàng Nguyên Bính tiên thích, Âm Phù Kinh Chân Thuyên, Tựa) Tại sao một quyển sách chỉ vẻn vẹn có ba bốn trăm chữ mà được nhiều học giả mê thích như vậy? Thưa vì nó đưa ra một học thuyết quá hay: Đó là hãy bắt trước Trời mà hành sự thì muôn việc đều hay. (Quan Thiên chi Đạo, chấp Thiên chi hành tận hĩ. 觀 天 之 道 執 天 之 行. 盡 矣.) Trung Hoa Đạo giáo Đại Từ Điển viết: «Thánh Nhân quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, chưởng ốc Thiên Nhân ám hợp chi cơ, xử hành vi hợp hồ Thiên Đạo, bất vi tự nhiên, tắc trị quốc dưỡng sinh các đắc kỳ nghi...» «Thánh nhân xem Trời, bắt chước Trời hành sự, nếu việc Trời việc người ăn khớp với nhau, làm gì cũng hợp đạo Trời, không làm gì sai trái với tự nhiên, thì trị nước hay tu thân đều tốt đẹp.» (Hoàng Đế Âm Phù Kinh, tr. 332, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, Hồ Hoài Sâm.) Xưa nay chỉ có ăn ở theo đúng cơ Trời, thời Trời, là hay, là tốt mà ít ai nhận thấy. Chúng ta thấy ngày có mặt trời, đêm có mặt trăng. Mà mặt trời thời hằng cửu, bất biến, mặt trăng thì tròn khuyết biến thiên. Mặt trời là Thái Cực, mặt trăng là Âm Dương. Trăng có tròn có khuyết, con người có khi tốt có khi xấu, nhưng lúc chung cuộc phải tiến tới viên mãn như trăng ngày rằm, như mặt trời chính Ngọ. Chu kỳ mặt trăng gồm đủ 64 quẻ Dịch mà chúng ta không thấy. Mỗi chớp mắt, mở mắt của chúng ta, mỗi một ngày một đêm, mỗi một tháng, mỗi một năm cũng gồm đủ 64 quẻ Dịch. Như vậy rõ ràng là Trời muốn chúng ta sống theo đúng tự nhiên, thì mọi sự sẽ chu toàn. Ngay quẻ Kiền đã dạy chúng ta phải bắt chước Trời mà hành sự. Đại Tượng quẻ Kiền viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức 天 行 健. 君 子 以 自 強 不 息: Trời cao mạnh mẽ xoay vần, Nên người quân tử quyết tâm tự cường. (Không hề ngưng nghỉ triển dương) Câu thứ 4 của Âm Phù Kinh cũng hết sức hay: Thiên Tính Nhân Dã, Nhân Tâm cơ dã. Lập Thiên chi Đạo dĩ định nhân dã. (天 性 人 也, 人 心 機 也. 立 天 之 道 以 定 人 也.) Thiên Tính là người. Nhân Tâm là máy. Lập ra Đạo Trời để xác định (xem) con người (tiến bộ đến đâu.) Đọc Âm Phù Kinh, tôi mới thấy rõ, Con người chính là Trời (Thiên Tính Nhân dã), còn Con người chỉ là Cái máy. Lập ra đạo Trời, cho thấy đâu là Đạo Người rốt ráo. Đạo Con Người thật ra là đạo tự nhiên bất biến. Con người sinh ra không phải là để khổ đau, mà chính là để luôn luôn sung sướng. Con người sinh ra cốt là để nhìn thấy trong mình, ngoài mình, đâu đâu cũng là Chân Thiện Mỹ. Con người hiện chưa được vậy, là vì quá ích kỷ và con u mê dốt nát mà thôi. Gần cuối sách, Âm Phù Kinh lại dạy bài học thứ ba: Thị cố quân tử tri tự nhiên chi Đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi. (是 故 君 知 自 然 之 道 不 可 違, 因 而 制 之.) Cho nên người quân tử không thể đi sai Đạo tự nhiên. Chỉ có thể nhân đó biến chế mà thôi. Xưa nay, người ta thường chống đối với tự nhiên, thích chinh phục thiên nhiên. (Going against Nature, conquering Nature). Nhưng cũng có người cho rằng cần phải tìm hiểu Tự Nhiên, Hiểu Tự Nhiên là Cứu Rỗi mình (Knowledge of Nature, as a way of Salvation), và chủ trương Theo Thiên Nhiên (Following the way of Nature). Cũng có người chủ trương theo tự nhiên là chết, đi ngược tự nhiên mới được trường sinh. (Thuận tắc tử, nghịch tắc Tiên). Biến chế Tự Nhiên Âu Châu dịch là Manipulation of Nature. (Xem Science and Civilisation in China, Vol. V, Joseph Needham, Index, nơi chữ Nature, tr. 541) Tôi tuyệt đối chủ trương ta không thể sống ngược với Thiên Nhiên được, nhưng phải nương theo Thiên Nhiên mà sống. Nếu dạy người đi ngược chiều hướng này là làm hại người mà thôi. Cho nên tôi hoàn toàn chấp nhận lời trên của Âm Phù Kinh. Câu Thuận vi Phàm, Nghịch vi Tiên trong các sách luyện đơn là cốt dạy con người đi sâu vào phía Tâm Linh, chứ đừng để Tâm Thần phát tán ra ngoại cảnh, nhất là khi về già. Nghịch đây không phải là đi ngược Thiên Nhiên. * Chiều đi từ quẻ Phục cho tới quẻ Kiền thường được gọi là Chiều Nghịch. Chiều đi từ quẻ Cấu cho tới quẻ Khôn là chiều Thuận. Thuận là Thuận của phàm nhân; Nghịch là Thuận của Thánh Tiên. Âm Phù Kinh chủ trương: Bắt chước Trời mà hành sự, theo đúng cơ trời mà biến hóa, như vậy để cầu trường sinh. hay làm cho nước giàu dân mạnh, hay làm cho binh cường tướng mạnh để chiến thắng, tất cả đều là một nguyên tắc. (Quan Thiên chi đạo, chấp cơ đạt biến, dĩ cầu trường sinh, phú quốc an dân, cường binh chiến thắng.) (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh là: «Thánh Nhân Thể Thiên dụng Đạo chi cơ.» (Âm Phù Kinh là sách Thánh Nhân thay Trời dạy huyền cơ Đạo Lý.) Thánh Nhân dụng tâm hết sức thâm trầm, thấy được Thiên Tính Bản Nhiên của mình, rồi theo đúng cơ vi, sống hợp nhất với lẽ Tự Nhiên. Nhìn vào lòng mình, theo đúng cơ vi Trời Đất, hiểu thế là hiểu rõ Âm Phù Kinh. «Thánh Nhân dụng tâm Thâm vi, tắc năng chiếu kiến tự nhiên chi tính; chấp cơ biến thông tắc năng khế hợp tự nhiên chi Lý. Chiếu chi dĩ tâm, khế chi dĩ cơ, nhi âm phù chi nghĩa tận hĩ.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Thần Trời Đất với Thần trong ta là Một, nên khi hoạt động thời in như thần, khi tĩnh lặng thì có đủ Thần trong mình, mình và Thái Không là Một, mình với vạn hữu là bạn, Thể Tính của mình và Thể Tính của trời đất không có gì khác biệt, thế gọi là Đắc Đạo. «Thiên Địa chi thần dữ Ngô chi thần đồng vu nhất thể, cố động dữ Thần khế, tĩnh dữ Thần cụ, dữ Thái Không vi nhân, dữ tạo vật giả vi hữu, Thể Tính vô thù, thị vị Đắc Đạo.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh dạy ta lẽ Thiên Đạo và Nhân Tâm ám hợp với nhau, và muốn ta sống đúng theo Trời. «Thiên Đạo Nhân Tâm ám hợp chi lý, dục nhân năng thuận Thiên nhi động.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 333) Âm Phù Kinh xưa nay chỉ có hơn 300 chữ hay hơn 400 chữ. (SĐD, tr.333) Cộng thêm học thuyết Lão là Thanh Tĩnh tự nhiên, thanh tâm quả dục, pha phách thêm Dịch Truyện là thành Thuyết Thiên Đạo, Nhân sự Khế Hợp. (SĐD, tr.333) Âm Phù Kinh cho rằng Thiên Đạo và Nhân Đạo khế hợp với nhau. Và giải Âm là Âm, Phù là Phù Hợp. (SĐD, tr. 333) Âm Phù Kinh đề cao thuyết của Nho Gia là Tồn Thiên Lý, khử Nhân Dục, Tu Tâm, Thành Tính. (SĐD, tr. 334) «Vạn vật hữu hình viết Âm, Vạn Vật giai hữu Tính Mệnh viết Phù, vạn vật giai hữu Tự Nhiên chi Đạo viết Kinh.» Lại nói: «Âm Phù nhị tự, Thân Tâm dã, Tính Tình dã, Thủy Hoả dã, Thần Khí dã, Diên Hống dã, Long Hổ dã, động tĩnh dã, nãi tu đơn chi căn bản, dưỡng đạo chi uyên nguyên.» (SĐD, tr. 334) Tôi dịch Âm Phù Kinh vì thấy một quyển sách nhỏ bé như vậy mà sao lại có nhiều danh nhân bình giải như thế.

Tôi thấy những người như Lý Thuyên đời vua Đường Huyền Tông, ưa thích Đạo từ nhỏ, mới đầu Ông có được quyển Hoàng Đế Âm Phù Kinh, Ông đọc cả ngàn lần mà vẫn không hiểu được thâm ý. Theo truyền thuyết thì Ông đã tới Ly Sơn và đã được một bà cụ dạy cho huyền nghĩa Âm Phù, Ông mới hiểu ý nghĩa Âm Phù. Sau đó Ông viết: Hoàng Đế Âm Phù Kinh Sớ, 3 quyển, Thái Bạch Âm Kinh, 10 quyển, Ly Sơn Lão Mẫu truyền Âm Phù huyền nghĩa, 1 quyển. Ông làm quan giữ chức Giang Lăng Tiết Độ Sứ phó Ngự Sử Trung Thừa. Ông là người có mưu lược, sau đó vào danh sơn qui ẩn, phục khí, tịch cốc, thanh tâm tu đạo, không rõ chết ra sao. Ông còn viết thêm ít sách khác. (Xem Du Tấn, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 97) 

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

DIỄN CẦM TAM THẾ DIỄN NGHĨA - DƯƠNG CÔNG HẦU (KHƯƠNG ĐỨC)
Tử vi - Tướng số là một môn khoa học phương đông, hoàn toàn không phải là bói toán vì được xây dựng trên học thuyết và kiến thức sách vở, tử vi cho biết vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, Can Chi… Diễn cầm tam thế diễn nghĩa có thể coi là bộ sách Tử vi - Tướng số đỉnh cao, nguyên bản là chữ hán, được lưu truyền trong Trung nguyên từ nhiều thế kỷ trước và được các thầy tướng số, tướng pháp và người dân Trung Quốc cho là một cuốn “kỳ thư” “Dị bảo” đoán mệnh về quá khứ, hiện tại, tương lai, có thể dùng làm tài liệu phán đoán, suy luận, giải thích cho tất cả những vấn đề nghi hoặc, cũng như giải đáp các hành động ảnh hưởng đến hiện tại. Tử vi - Tướng số là một môn khoa học phương đông, hoàn toàn không phải là bói toán vì được xây dựng trên học thuyết và kiến thức sách vở, tử vi cho biết vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, Can Chi…có thể coi là bộ sách Tử vi - Tướng số đỉnh cao, nguyên bản là chữ hán, được lưu truyền trong Trung nguyên từ nhiều thế kỷ trước và được các thầy tướng số, tướng pháp và người dân Trung Quốc cho là một cuốn “kỳ thư” “Dị bảo” đoán mệnh về quá khứ, hiện tại, tương lai, có thể dùng làm tài liệu phán đoán, suy luận, giải thích cho tất cả những vấn đề nghi hoặc, cũng như giải đáp các hành động ảnh hưởng đến hiện tại. Bộ sách Diễn cầm tam thế diễn nghĩa có thể coi như là một cẩm nang trọn đời để xem, suy ngẫm hạn chế được những vận hạn của đời người, bộ sách có thể xem số mạng mỗi tuổi và đoán rõ vận thời mỗi năm, mỗi tháng, kiết hung mỗi ngày. Theo ngày, giờ sinh của trẻ con mà đoán được vận mệnh tốt - xấu, sang – hèn, khỏe mạnh hay chết yểu; xem sung khắc vợ - chồng, con cái với cha mẹ; xem bàn tay tháp nhi long để biết được thời gian cha mẹ mất vào giờ hung hay cát. Bộ sách Diễn cầm tam thế diễn nghĩa được tác giả Dương Công Hầu dịch từ bộ sách của Trung Quốc sau 7 năm nghiền ngẫm và trải nghiệm thực tế, kết hợp với thuyết ngũ hành âm dương, dung hợp với những tinh túy, cốt yếu trong các tác phẩm của mình như: Lục Nhâm khóa, Ngũ hành tướng thư, Viên Thiên Cương xưng cốt và ông đã ghi chép thành bộ sách  Diễn cầm tam thế.   Bộ sách Diễn cầm tam thế diễn nghĩa được ra mắt độc giả lần đầu tiên vào năm 1952 do nhà xuất bản Đuốc Sáng xuất bản. Trong bộ sách một phần tác giả sử dụng nhiều từ Hán - Nôm cổ, một phần do lỗi biên tập nên có nhiều từ ngữ không chuẩn, khó hiểu.  có thể coi như là một cẩm nang trọn đời để xem, suy ngẫm hạn chế được những vận hạn của đời người, bộ sách có thể xem số mạng mỗi tuổi và đoán rõ vận thời mỗi năm, mỗi tháng, kiết hung mỗi ngày. Theo ngày, giờ sinh của trẻ con mà đoán được vận mệnh tốt - xấu, sang – hèn, khỏe mạnh hay chết yểu; xem sung khắc vợ - chồng, con cái với cha mẹ; xem bàn tay tháp nhi long để biết được thời gian cha mẹ mất vào giờ hung hay cát. được tác giả Dương Công Hầu dịch từ bộ sách của Trung Quốc sau 7 năm nghiền ngẫm và trải nghiệm thực tế, kết hợp với thuyết ngũ hành âm dương, dung hợp với những tinh túy, cốt yếu trong các tác phẩm của mình như: Lục Nhâm khóa, Ngũ hành tướng thư, Viên Thiên Cương xưng cốt và ông đã ghi chép thành bộ sách . được ra mắt độc giả lần đầu tiên vào năm 1952 do nhà xuất bản Đuốc Sáng xuất bản. Trong bộ sách một phần tác giả sử dụng nhiều từ Hán - Nôm cổ, một phần do lỗi biên tập nên có nhiều từ ngữ không chuẩn, khó hiểu.
CÁC BIỂU TƯỢNG CỦA NỘI GIỚI - HAY CÁCH ĐỌC TRIẾT HỌC VỀ KINH DỊCH
Toàn bộ các chương của tiểu luận này bình giải, hoặc gần hoặc xa, một phần của cuốn Điển thư; chương đầu là sự giới thiệu chung về kết cấu của cuốn sách và cách thức vận hành của nó bắt nguồn từ các đoạn trích từ Hệ từ (Grand Connentaire) hay “Những hình thức phụ trợ - so sánh với Philastre - §1132s), đồng thời cũng là các diễn giải đầu tiên về tính tổng thể của công trình mà nó là một bộ phận của cái tổng thể đó; bốn chương tiếp theo, khi phân tích các trường hợp của các biểu tượng đặc trưng cũng như khi chuyển hoá nó, đều được đặt trong quan hệ với văn bản của các quẻ kép khác nhau được chỉ ra trong tiêu đề; ba chương cuối, kết cục, trở lại phần đầu của Hệ từ nhằm đưa ra cách đọc có tiếp liền theo một số đoạn trích: các đoạn này sẽ tạo ra chuỗi các suy tư được mở ra về tương lai và về cái nội tại. Toàn bộ các chương của tiểu luận này bình giải, hoặc gần hoặc xa, một phần của cuốn Điển thư; chương đầu là sự giới thiệu chung về kết cấu của cuốn sách và cách thức vận hành của nó bắt nguồn từ các đoạn trích từ Hệ từ (Grand Connentaire) hay “Những hình thức phụ trợ - so sánh với Philastre - §1132s), đồng thời cũng là các diễn giải đầu tiên về tính tổng thể của công trình mà nó là một bộ phận của cái tổng thể đó; bốn chương tiếp theo, khi phân tích các trường hợp của các biểu tượng đặc trưng cũng như khi chuyển hoá nó, đều được đặt trong quan hệ với văn bản của các quẻ kép khác nhau được chỉ ra trong tiêu đề; ba chương cuối, kết cục, trở lại phần đầu của Hệ từ nhằm đưa ra cách đọc có tiếp liền theo một số đoạn trích: các đoạn này sẽ tạo ra chuỗi các suy tư được mở ra về tương lai và về cái nội tại. Sự phối thuộc này trong tương quan với các văn bản điển quy không tránh khỏi việc dẫn tới những đối chiếu. Sự phối thuộc này trong tương quan với các văn bản điển quy không tránh khỏi việc dẫn tới những đối chiếu.
TÁM CHỮ HÀ-LẠC & QUỸ ĐẠO ĐỜI NGƯỜI! - XUÂN CANG
Cuốn sách “ Tám chữ hà lạc và quỹ đạo đời người ” là một trong các phương pháp Dự đoán học có nguồn gốc từ Trung Hoa có một khả năng kỳ diệu, vạch ra và dự báo những bước đường đời của một con người và chỉ dẫn cho con người những cách xử thế tối ưu để thành đạt, hoặc ít ra biết chủ động trước những bước gian truân, những hiểm hoạ không tránh được trên một quỹ đạo đời người. Cuốn sách “Tám chữ hà lạc và quỹ đạo đời người” là một trong các phương pháp Dự đoán học có nguồn gốc từ Trung Hoa có một khả năng kỳ diệu, vạch ra và dự báo những bước đường đời của một con người và chỉ dẫn cho con người những cách xử thế tối ưu để thành đạt, hoặc ít ra biết chủ động trước những bước gian truân, những hiểm hoạ không tránh được trên một quỹ đạo đời người. Tám chữ Hà Lạc là một thuật toán mà đề toán ra chỉ gồm có tám chữ thuộc Can Chi của một con người cụ thể. Thuật toán này dựa trên cơ sở những mã số Hà Lạc và 64 quẻ Kinh Dịch. Số Hà Lạc là hai hệ thống số học phản ánh những Quy luật của Trời và Đất giao hội với Quy luật sự sống Con Người. Hệ thống số Hà, còn gọi Hà Đồ do được sắp xếp thành biểu đồ và các ký hiệu biểu diễn, tương truyền là của Vua Phục Hy (4477 – 4363 trước CN) phát minh trong khi nghiên cứu trên sông Hoàng Hà. Với thuật toán này chúng ta sẽ có lời giải cho toàn bộ quỹ đạo cuộc đời của một người, từng chặng đường đời, cho tới năm, tháng, ngày, giờ.
CHỮ BÁT TRONG KINH DỊCH - BÁT TRẠCH CHÁNH TÔNG
Nói về địa lý, phần đông ai có học chữ Nho và có đọc Kinh Dịch thì mới hiểu Bát Trạch là quý báu vì sách Bát Trạch là rút một phần trong muôn phần của bộ Kinh Dịch mà làm ra. Dịch có nghĩa là thay đổi biến chuyển theo hai thể Âm và Dương (tối và sáng), do đó mà truy nguyên sự biến hoá vô cùng của vũ trụ gồm cả muôn sự vật trong đời. Nói về địa lý, phần đông ai có học chữ Nho và có đọc Kinh Dịch thì mới hiểu Bát Trạch là quý báu vì sách Bát Trạch là rút một phần trong muôn phần của bộ Kinh Dịch mà làm ra.Dịch có nghĩa là thay đổi biến chuyển theo hai thể Âm và Dương (tối và sáng), do đó mà truy nguyên sự biến hoá vô cùng của vũ trụ gồm cả muôn sự vật trong đời. Bổn sách này, tác giả lựa sẵn tuổi, tuổi nào hạp về phương hướng nào để cất nhà, theo số của Hà Đồ và Lạc Thơ trong Kinh Dịch. Nhà làm sách Bát Trạch quán thông thiên văn, rành Địa lý, am hiểu vụ trụ biến hoá, phải hiểu cả Âm Dương thuộc Ngũ Hành sanh và khắc mới làm ra được. Có lắm người biết chữ Nho và cũng có sách Bát Trạch nhưng không ai chỉ dẫn thì cũng không làm sao mà phân tách tuổi nào biết cung nào tốt hay xấu. Cuốn sách này nhằm giúp quý vị nào có cần đến cũng khỏi thắc mắc khi muốn gây dựng một ngôi nhà đúng Phương hướng theo địa lý. Cuốn sách được sắp đặt rành rẽ từ tuổi Giáp Tý cho đến Quý Hợi là 60 tuổi mà trong sách gọi là Lục Giáp. "Khắp nơi chúng ta lúc nào cũng bị nhuần thấm trong luồng tạm gọi là Vũ trụ tuyển kết hợp bằng hàng triệu vi phân tử khác nhau xuyên qua ta hằng ngày, trong suốt đời chúng ta".  (Trích trong bài tựa của Maurice de Boglie - Quyển "Les Rayons Cosmique" tác giả Le Prince Ringnet, chương 7). "Chúng ta nên khám phá ra những sự huyền vi của tạo vật có ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta thì chúng ta rất thích chí, chẳng khác nào vị thuyền trưởng khi ra biển mà trong tay đã có sẵn chiếc Địa bàn"  (Viên Tài Hà Tấn Phát)Bổn sách này, tác giả lựa sẵn tuổi, tuổi nào hạp về phương hướng nào để cất nhà, theo số của Hà Đồ và Lạc Thơ trong Kinh Dịch.Nhà làm sách Bát Trạch quán thông thiên văn, rành Địa lý, am hiểu vụ trụ biến hoá, phải hiểu cả Âm Dương thuộc Ngũ Hành sanh và khắc mới làm ra được.Có lắm người biết chữ Nho và cũng có sách Bát Trạch nhưng không ai chỉ dẫn thì cũng không làm sao mà phân tách tuổi nào biết cung nào tốt hay xấu. Cuốn sách này nhằm giúp quý vị nào có cần đến cũng khỏi thắc mắc khi muốn gây dựng một ngôi nhà đúng Phương hướng theo địa lý. Cuốn sách được sắp đặt rành rẽ từ tuổi Giáp Tý cho đến Quý Hợi là 60 tuổi mà trong sách gọi là Lục Giáp."Khắp nơi chúng ta lúc nào cũng bị nhuần thấm trong luồng tạm gọi là Vũ trụ tuyển kết hợp bằng hàng triệu vi phân tử khác nhau xuyên qua ta hằng ngày, trong suốt đời chúng ta". "Chúng ta nên khám phá ra những sự huyền vi của tạo vật có ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta thì chúng ta rất thích chí, chẳng khác nào vị thuyền trưởng khi ra biển mà trong tay đã có sẵn chiếc Địa bàn"