Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cháu ông Rameau - Denis Diderot

Cháu ông Rameau bắt đầu được sáng tác vào khoảng 1761, nhưng mãi đến 1779 mới hoàn thành, là một thể nghiệm táo bạo của Diderot tiếp tục tìm tòi nội dung và hình thức mới của tiểu thuyết. Đó là “kiệt tác duy nhất” theo chữ dùng của Marx (1818-1883), và là “kiệt tác về mặt biện chứng” theo đánh giá của Engels (1820-1895). Cháu ông Rameau là một người có thật, tên là Jean-François Rameau, cháu gọi nhạc sĩ nổi tiếng Jean-Philippe Rameau (1683-1764) là bác ruột. J-F. Rameau kém Diderot vài tuổi. Hắn vốn là một gã đê tiện, sống cuộc đời ăn bám bằng cách nịnh hót hoặc làm trò hề mua vui cho những kẻ có tiền bạc và đến năm 1771 thì chết trong một nhà tế bần dành cho những kẻ vô gia cư. Tiểu thuyết viết theo hình thức đối thoại giữa “Tôi” và “Hắn” trong tiệm giải khát La Régence ở gần Hoàng-Cung, vào một buổi chiều, bên cạnh những người đang chơi cờ. Nếu như đối thoại choán gần hết từ đầu đến cuối trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, chỉ mãi đến khi gần kết thúc mớỉ xuất hiện vai trò của người kể chuyện, thì ở Cháu ông Rameau, người kể chuyện xuất hiện nhiều hơn. Tác phẩm mở đầu bằng lời của người kể chuyện: “Dù đẹp trời hay thời tiết xấu, tôi có thói quen cứ đến năm giờ chiều đi dạo ở Hoàng-Cung. Thiên hạ luôn thấy tôi chỉ ngồi một mình, mơ mộng trên chiếc ghế dài ở Àrgenson[9]. Tôi trò chuyện với bản thân tôi về chính trị, về tình yêu, về thị hiếu và về triết học. Tôi mặc cho đầu óc tôi tha hồ bông lông...” Tiếp đó câu chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” hơn hai chục lần bị ngắt quãng bởỉ lời của người kể chuyện, đó thường là những đoạn ngắn với lối văn tự sự, kể chuyện ở ngôi thứ ba. Khác với mối quan hệ giữa người kể chuyện và “Người trò chuyện thứ nhất” trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, ở tiểu thuyết này, người kể chuyện và “Tôi” có thể xem là đồng nhất. Có nhiều dấu hiệu gắn bó hai nhân vật ấy[10] với chính tác giả, chẳng hạn trong khi trò chuyện, “Hắn” thường xưng hô với “Tôi” là thưa ông triết gia... và nhiều chi tiết khác ám chỉ đến quá khứ nghèo khổ của Diderot. Nhưng dẫu sao, trong khuôn khổ của tiểu thuyết, không thể và không nên quá nhấn mạnh vào sự trùng khớp này. Trong cuộc trò chuyện ở Ý kiến ngược đời về diễn viên, “Người trò chuyện thứ hai” thường nói ngắn, dường như chỉ đóng vai trò đưa đẩy cho “Người trò chuyện thứ nhất” mà thôi. Đến Cháu ông Rameau, lời nói chủ yếu thuộc về “Hắn”. Triết gia chủ yếu là gợi mở để cho “Hắn” nói, hoặc khi thấy những quan niệm của hắn vô liêm sỉ quá, bắt buộc phải nói dài để phản đối. Vì vậy, hầu như từ đầu đến cuối, ta chỉ nghe vang lên tiếng nói của Rameau trình bày với triết gia về cuộc sống đê tiện của hắn, cùng với những ý nghĩ, những quan niệm của hắn về xã hội và thế thái nhân tình. Có tài liệu cho rằng cuộc trò chuyện giữa tác giả và cháu ông Rameau (gọi tắt là Rameau) là có thật, nên có thể đồng nhất “Tôi” với Diderot và “Hắn” với Jean-François. Ý kiến ấy không thỏa đáng. Một tác phẩm viết trong gần hai mươi năm mới xong chắc chắn không phải chỉ là một cuốn kí sự đơn thuần, một tập biên bản ghi lại trung thực sự việc xảy ra. “Hắn” có nhiều khả năng không hoàn toàn là Jean-François, cũng như “Tôi” là triết gia, nhưng không nhất thiết là triết gia Diderot. Tác giả chắc đã nhìn thấy trong số phận Rameau những nét đặc biệt của thời đại ông và từ nguyên mẫu đó xây dựng nên một nhân vật có tính khái quát xã hội. Lại có ý kiến cho rằng anh chàng ăn bám Rameau sống một thời gian quanh quẩn gần Hoàng-Cung, nên Diderot thỉnh thoảng gặp hắn ta, nhưng không hề diễn ra cuộc trò chuyện giữa hai người trong tiệm giải khát La Régence. Đây chỉ là tác phẩm hoàn toàn hư cấu. Đoạn mở đầu tác phẩm đã dẫn ra trên kia đặc biệt có ý nghĩa. Người kể chuyện có thói quen dạo chơi một mình, mơ mộng một mình và trò chuyện cũng với chính bản thân mình chiều chiều ở Hoàng-Cung. Vậy “Tôi” và “Hắn” ở đây cũng chỉ là hiện tượng lưỡng hóa nghệ thuật như biện pháp lưỡng hóa được sử dụng trong Ý kiến ngược đời về diễn viên mà thôi. Thực chất của những “đối thoại” này là “độc thoại”, hay đúng hơn là “độc thoại nội tâm” phơi bày lên trang giấy những suy tư trăn trở miên man của bản thân, mong đi tới chân lí. Jean-Marie Goulemot so sánh chức năng của đối thoại ở đây với phép đỡ đẻ (maieutique), hiểu theo nghĩa phương pháp gợi hỏi của Socrate (470-399 TCN) nhằm hướng dẫn tìm ra chân lí còn đang thai nghén tiềm tàng ngay trong bản thân Diderot. Rameau, nhân vật chính của tiểu thuyết này, có thể nói hoàn toàn có thật mà cũng hoàn toàn hư cấu. Hắn có thể nhận ra chân dung của mình qua những dòng sau đây: “Chẳng có gì khác với hắn hơn là chính bản thân hắn. Đôi khi, hắn gầy gò và xanh xao như một người ốm sức tàn lực kiệt; ta như đếm được qua hai bên má những chiếc răng của hắn. Ta tưởng đâu hắn đã nhiều ngày chẳng ăn uống gì, hoặc là hắn vừa ra khỏi tu viện dòng Trappe. Đến tháng sau hắn lại béo mập và đẫy đà như thể hắn chưa từng rời bàn ăn của một nhà tài chính, hoặc là hắn bị lưu giữ trong một tu viện dòng thánh Bernard. Hôm nay ăn mặc bẩn thỉu, quần áo rách bươm, vá chằng vá đụp, hầu như giày dép chẳng có, hắn cúi gầm mặt xuống mà đi, lén la lén lút, khiến người ta như chỉ muốn gọi hắn để bố thí cho hắn. Hôm sau, đầu tóc chải chuốt, áo quần giày dép tinh tươm, hắn ngẩng cao đầu bước đi, vênh vang, và bạn có lẽ tưởng đâu hắn là một bậc hào hoa phong nhã...” Nhưng Jean-Marie Goulemot cũng hoàn toàn có lí khi nhận định rằng những dòng miêu tả Rameau trên đây, để cho hắn thay đổi dáng vẻ tuỳ ngày, tuỳ mùa... chính lại là một cách phủ nhận hoàn toàn sự có thực của nhân vật này[11]. Rameau là một nhân vật tiểu thuyết. Xét về mặt hình thức, cuộc trò chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” có vẻ giống như bất cứ cuộc trò chuyện nào thuộc loại ấy, nhảy từ vấn đề này sang vấn đề khác, chẳng đi theo một trình tự ấn định trước. J-M. Goulemot lưu ý chi tiết phụ đề của tác phẩm này là “truyện châm biếm” - satire - bắt nguồn từ chữ latin “satura” có nghĩa là món hổ lốn, mớ hổ lốn, tập tạp văn. Nhưng đằng sau cái vẻ ngoài linh tinh, Goethe nhận định “câu chuyện đối thoại này thật ra có mạch lạc tài tình; người nào tưởng rằng cuộc đối thoại ấy rời rạc lỏng lẻo như một cuộc trò chuyện thường thì thật là lầm; nó chỉ giống cuộc trò chuyện thường ở chỗ linh hoạt mà thôi”[12]. Theo Michel Launay, câu chuyện lần lượt xoay quanh bốn chủ điểm. Thoạt tiên là “Nhận xét về con người và tính cách”. Tiếp đến là “Đạo đức”, chứa đựng những suy nghĩ về các khái niệm lương thiện và bất lương, thiện và ác và về việc giáo dục con cái. Thứ ba là “Triết học” với những suy nghĩ về lí lẽ của các hiện tượng, về bản chất của các sự vật. Cuối cùng là “Thị hiếu” bàn luận về mĩ học, về thiên tài, về âm nhạc, về sáng tác văn học[13]. Rameau vốn là người có sức khoẻ, thông minh và chẳng phải không yêu đời, tuy cuộc sống của hắn có nhiều điều bất hạnh. Hắn có những khả năng đặc biệt, rất yêu âm nhạc và rõ ràng có thể trở thành một nhạc sĩ khá. Nhưng Rameau chọn cái nghề dễ dàng nhất, cũng khó khăn nhất vì nó đòi hỏi phải có trí thông minh, phải lanh lẹn tháo vát, đó là nghề ăn bám. Hắn phủ nhận tất cả những cái gì tốt đẹp ở trên đời và chỉ công nhận một nguyên tắc sống là thoả mãn những bản năng đê hèn, tuy hắn biết như thế là bỉ ổi. Rameau là sản phẩm của xã hội phong kiến Pháp đang đi đến chỗ tan rã. Chính xã hội đã phơi bày ra trước mắt hắn cuộc sống mà bao nhiêu kẻ tai to mặt lớn lại là những kẻ không có đạo đức; trong xã hội ấy, “thiên hạ ca ngợi đức hạnh, nhưng thiên hạ ghét nó, nhưng thiên hạ trốn tránh nó, nhưng nó lạnh cóng, mà trong thế gian này lại cần phải có đôi bàn chân ấm nóng”; trong xã hội ấy, chính những kẻ quyền quý đã dạy cho hắn lòng căm ghét những người lương thiện như lập luận của vị thượng thư kia khi chứng minh rằng “đối với nhân dân không có gì ích lợi bằng sự dối trá và không có gì hại bằng sự thật thà”. Trong sự phủ định triệt để của Rameau, tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại chứa đựng không ít sự thật của thời đại, vì thế vẫn toát lên ý nghĩa phê phán tích cực. Rameau không ngần ngại nói toạc ra rằng ở đời “khi người ta đã giàu có thì người ta muốn làm gì mặc lòng, không bao giờ bị nhục nhã cả”, và còn vô liêm sỉ hơn, nhưng chẳng phải là không sâu sắc: hắn tuyên bố con tôi sẽ phải giàu có... “Cháu sẽ có vàng, tôi xin nói với ông như vậy. Nếu cháu có nhiều vàng, thì cháu sẽ chẳng thiếu gì hết, kể cả lòng tôn trọng và sự kính nể của ông”. Tác giả viết: “Rameau là một người đáng ghét không hơn không kém những kẻ khác, chỉ có điều hắn thẳng thắn hơn, nhất quán hơn và đôi khi sâu sắc hơn trong sự hư hỏng của mình”. Rameau không đơn thuần là sản phẩm thụ động của xã hội. Hắn còn vượt lên trên xã hội, quan sát nó bằng con mắt có ý thức và trí thông minh sẵn có. Hắn mò mẫm tìm ra nguyên nhân của những bất công trong xã hội: “Sự sắp đặt quỷ quái gì mà có những kẻ ngốn đầy ứ đủ thứ, trong khi những người khác có cái dạ dày quấy nhiễu như họ, có cái đói tái phát như họ, mà lại chẳng có gì để đút vào miệng”. Hắn hiểu rằng “trong thiên nhiên có các loài vật xâu xé nhau, trong xã hội có các giai cấp xâu xé nhau”. Nhưng Rameau lại rút ra kết luận muốn trở thành “một tên kẻ cướp sung sướng giữa những tên kẻ cướp giàu có”, vì hắn lí luận rằng “người ta phỉ nhổ một kẻ lưu manh tầm thường, nhưng không thể không cảm phục một tên đại gian đại ác”. Rameau chính là hình ảnh lớp người đang vật lộn trong xã hội lúc bấy giờ để tự khẳng định, nhưng cuộc đấu tranh của họ không vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân do đó rơi vào bế tắc. Có ý kiến cho rằng trong cuộc trò chuyện này, Rameau hoàn toàn nắm quyền chủ động. Những lập luận của hắn tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại có sức lôi cuốn ghê gớm ngay cả đối với người đang ngồi trò chuyện với hắn và thỉnh thoảng lên tiếng phản đối. Dường như “Tôi” chỉ phản ứng lấy lệ, chứ trong thâm tâm thầm cảm phục “Hắn”. Có ý kiến lại cho rằng Rameau chỉ có vẻ thắng thế trong phần thứ hai trên bình diện lí thuyết, nhưng sang đến phần sau, triết gia dễ dàng chứng minh cho hắn thấy rằng mọi lí thuyết của hắn chẳng có giá trị gì trong thực tiễn, mà chỉ đưa đến những thất bại và những thái độ mâu thuẫn. Dù sao cũng phải thừa nhận có sự bắt gặp, thông cảm đến một mức độ nào đấy giữa triết gia và Rameau. Điều này cũng dễ hiểu khi ta biết rằng có thể xem “Tôi” và “Hắn” là hai mặt của chính tác giả. Triết gia tự tách một phần của mình ra để trò chuyện. Ông gán cho Rameau những ý nghĩ lời lẽ mà bản thân ông thấy bỉ ổi quá, không thể trực tiếp nói ra. Không có sự đối lập giữa “Tôi” và “Hắn”, giữa tác giả và nhân vật, giữa độc thoại và đối thoại. Đối thoại ở đây trở thành biện pháp để tác giả tự phân đôi và trình bày những mặt mâu thuẫn thống nhất của chính bản thân ông. *** Denis Diderot (1713-1784) là kiến trúc sư của công trình Bách khoa thư (Encyclopédie) đồ sộ, nhà văn có nhiều đóng góp độc đáo, nhà triết học duy vật, sôi nổi “lòng yêu chân lí và chính nghĩa”[1], nhà phê bình nghệ thuật sắc sảo. Ông là “nhà thơ lớn, nhà họa sĩ lớn, nhà điêu khắc lớn, nhà nhạc sĩ lớn... tuy chưa từng bao giờ làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, nặn tượng”[2]. Denis Diderot sinh ở Langres, một thành phố cổ kính miền Đông-Bắc nước Pháp, trong một gia đình thợ thủ công nhiều đời chuyên sản xuất các loại dao. Thuở nhỏ, Diderot học ở quê nhà; năm mười hai tuổi, nhà triết học tương lai chịu lễ cắt tóc chuẩn bị phụng sự tôn giáo. Nhưng ba năm sau, năm 1728, ông quyết định từ giã quê hương lên Paris học tập, bất chấp mọi người can ngăn. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông. Những năm đầu tiên sống ở Paris, nhà văn sẽ có dịp gợi lại sau này qua cuộc đối thoại kì lạ giữa “Tôi” và “Hắn” trong Cháu ông Rameau (Le Neveu de Rameau), một cuộc sống gần như lang thang, bữa đói bữa no, nay đây mai đó. Cảnh túng thiếu sẽ còn đeo đẳng ông cho mãi về già. Nhưng để bù đắp lại, Diderot được hưởng một cuộc sống tinh thần hết sức phong phú. Ông thoả sức tắm mình trong không khí của thời đại; ông mở tâm hồn ra đón những luồng gió mớỉ của bốn phương; ông đọc sách của Voltaire (1694-1778), ông tham dự những buổi tọa đàm ở nhà triết gia D'Holbach (1723-1789); ông kết bạn với F.M. Grimm (1723- 1807) ở Đức vừa sang; ông được Rousseau (1712- 1778) đến thăm ở Vincennes khi bị giam cầm; ông dự đám tang Montesquieu (1689-1755)... Diderot - nhà triết học ra mắt độc giả bằng tác phẩm Những tư tưởng triết học (Les Pensées philosophiques, 1746). Liền năm sau, ông cho in Cuộc dạo chơi của người theo chủ nghĩa hoài nghi. Tác phẩm nổi tiếng Bức thư về những người mù (Lettre sur les Aveugles, 1749) khiến ông bị tống giam ở Vincennes mấy tháng. Năm 1753, ông cho in Về việc giải thích tự nhiên (Sur l’Interprétation de la nature). Đến 1772, hai tác phẩm quan trọng nữa ra đời: Trò chuyện giữa Diderot và D'Alembert và Giấc mơ của D'Alembert (Le Rêve de d'Alembert). Diderot bước vào lĩnh vực văn học gần như đồng thời với triết học, nhưng Diderot - nhà văn được khẳng định sau Diderot - triết gia khá lâu, và những kiệt tác văn học của ông cũng trải qua số phận long đong hơn nhiều. Tiểu thuyết Những đồ trang sức không kín đáo (Les Bijoux indiscrets, viết năm 1745, in năm 1748) chưa bộc lộ tài năng của tác giả. Với các vở kịch Đứa con hoang (Le Fils naturel, 1757) và Người cha trong gia đình (Le Père de famille, 1758), ông thử nghiệm một thể loại mới: kịch “drame” hoặc “hài kịch nghiêm chỉnh”; đáng tiếc ở đây tài nghệ của nhà soạn kịch không tương xứng với ý đồ lớn lao. Năm 1760, ông viết cuốn tiểu thuyết Nữ tu sĩ (La Religieuse) thực sự có giá trị, nhưng mãi đến 1796, sau khi tác giả qua đời mười hai năm, mới được xuất bản. Đó cũng là số phận của kiệt tác Cháu ông Rameau, sáng tác khoảng năm 1761, lưu hành một vài bản ở dạng chép tay trong số bạn bè quen biết. Một bản theo Grimm về Đức, lọt vào tay Goethe (1749-1832), được ông dịch ra tiếng Đức. Mãi đến 1823, Cháu ông Rameau mới được dịch lại từ bản tiếng Đức để xuất bản ở Paris, và tới gần cuối thế kỉ XIX, năm 1891, ngưòỉ ta mới tìm thấy nguyên bản của nó! Tiểu thuyết không kém phần độc đáo Jacques người theo thuyết định mệnh (Jacques le Fataliste), sáng tác năm 1773, cũng phải đợi đến 1796 mới được ra mắt công chúng.   Mời các bạn đón đọc Cháu ông Rameau của tác giả Denis Diderot.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đò Dọc
Chuyện kể, sau chiến tranh với người Pháp, một gia đình có bốn cô con gái chưa chồng lại dắt dìu nhau từ Sài Gòn về Thủ Đức dựng nhà. Khi ấy, nơi này chưa hề có phố xá. Hương vị thành phố thoang thoảng trong thí nhớ các cô gái và ánh đèn từ thị xã Biên Hoà hắt lên. Làm sao “hội nhập” với người dân quê? Có lẽ, Bình Nguyên Lộc tìm cách cắt nghĩa điều đó với bao người. Tuy nhiên, một vấn đề mới lại nảy sinh, thật nan giải: các cô gái xinh đẹp kia đang ở độ tuổi lấy chồng, đợi vài năm nữa sẽ quá thì, còn hiện tại…. thật là phiền toái! Cuối cùng, các cô cũng đã có được tấm chồng xứng đôi vừa lứa, là người thành phố. Nhưng làng quê, với họ, lúc ấy không phải là nơi ao tù nước đọng, quá đỗi xa lạ. Người nhà quê vào thành phố, nhiều người đã viết, ngơ ngác và tội nghiệp lắm! *** Câu chuyện Ðò dọc xoay quanh một gia đình có bốn cô con gái, sống trong buổi giao thời của những năm 1950. Cuộc chiến đang diễn ra ác liệt, gia đình ông giáo Hải với các con gái là Hương, Hồng, Hoa, Quá phải rời khu về sống ở xóm me Tây gần thành Ô Ma - Sài Gòn. Ðến ngày Pháp chính thức rút khỏi Việt Nam, bốn cô con gái đã học được một ít chữ nghĩa thì cả nhà lại chuyển về một xóm quê khô cằn ở miền Ðông Nam bộ. Cuộc sống đơn điệu với "từng ấy gương mặt" có nguy cơ biến các cô tiểu thư xinh đẹp thành các cô gái già héo úa. Mỗi cô có một tâm tình riêng, người cha và người mẹ không dễ thấu hiểu và chia sẻ với họ. Ðò dọc tôn vinh giá trị gia đình như một nền tảng để con người có thể tựa vào trước bao biến thiên của xã hội hậu chiến *** Long về Sài Gòn chỉ ngắm đàn bà là đàn bà. Khi trước chàng ngắm họ để nghiên cứu cho khoa hội họa, ngắm để thỏa mãn sở thích ngắm vẽ đẹp bên nữ giới của một người con trai. Nhưng bây giờ chàng ngắm để so sánh. Có ai biết rằng Long khổ hay không? Chàng vẫn yêu Hồng như trước. Ý nghĩ không cưới Hồng sẽ làm cho chàng đau đớn mênh mông, ý nghĩ ấy vày vò Long mãi không thôi. Cưới Hồng là khỏi ân hận gì cả về vụ đó. Nhưng lại sẽ phải ân hận về vụ khác. Ân hận? Ừ, Long định viết bức thơ nữa, càng ngày càng lạt, càng thưa, rồi trốn luôn. Nhưng trốn người chớ nào có trốn được cái đau của người, nó sẽ đeo đuổi theo chàng, vày vò lương tâm chàng đến bạc đầu. Còn anh chàng Bằng nữa? Ăn làm sao nói làm sao với anh ta đây? Lụi đụi đã đến ngày cưới của Hoa và Quá. Ông bà Nam Thành thương lượng cho hai ngày cưới ấy cách xa nhau có năm hôm thôi. Mọi sắp đặt cho đám cưới trước sẽ dùng được cho đám cưới sau, đỡ tốn kém lại đỡ thì giờ. Long và mẹ đều có tiếp được hồng thiệp. Bức thơ riêng kèm theo đó nói rõ là chàng sẽ ngồi họ ở bàn đờn ông, còn bà Phủ thì được yêu cầu tăng danh dự cho lễ cưới bằng cách ngồi họ bên đàn bà. Hôm về Sài Gòn, họa sĩ cằn nhằn mẹ: - Sao má lên trên ấy mấy lần mà không cho con hay? - Mày hỏi lạ, tao là mẹ của mày mà đi phải xin phép mày nữa sao? - Không phải xin phép. Nhưng việc má đi có dính líu đến việc của con, con cần thảo luận trước với má. - Còn thảo luận, thảo liếc gì nữa, chừng nào con quyết định thì má cậy mai. Nhưng phải giữ liên lạc thân mật luôn từ giờ đến đó. - Rủi con không bao giờ nhất định cả thì có phải là hại hay không? - Hại chỗ nào? - Má lên làm thân, báo người ta hy vọng. Nếu về sau, việc không thành, họ sẽ thất vọng biết bao nhiêu. - Sao lại không thành được? - Được lắm, vì con chưa thích cưới vợ. - Mày nói giỡn sao chớ. Họ hy vọng không phải vì tao làm thân đâu, mà vì mày đã có tơ tình với con của người ta, như mày đã thú nhận. Bây giờ mày lại muốn thối thác thì người ta còn coi mình ra gì nữa. Long đuối lý, nín luôn mãi đến hôm nhận được thiệp mời mới nói với bà phủ: - Má đi, còn con xin kiếu. Con gởi quà cho má trao lại giùm hai cô ấy. Bà Phủ điếng người đi. Thì ra Long nó nói thật. Ngày vui của gia đình người ta, mà nó không buồn dự vào là nó đã quyết tâm không nghĩ đến hôn nhân rồi. Giây lâu bà hỏi con: - Nó có lỗi gì không? - Thưa không? - Nó không vừa mắt con à? Long làm thinh, bà phủ đoán hiểu phần nào, nên nổi tam bành lên: - Mày có phải là con trai mười chín đâu mà đi coi mắt vợ sơ hở được. Mày đã hối thúc tao lên để xem có đồng ý với mày hay không, thế nghĩa là mày đã thích nó rồi, sao lại còn tráo trở gì nữa? Lần thứ nhì Long lại đuối lý. Chàng rầu chín cả ruột gan vì nỗi lòng của chàng, càng bàn cãi, càng xét kỹ, càng rõ rệt ra. Nhưng ích kỷ ngăn cấm chàng chuộc lỗi bằng cách cưới Hồng. Cưới Hồng, chàng sẽ ân hận suốt đời. Vì vậy chàng cố lì làm thinh luôn. Bà phủ thở dài lo mua sắm tặng phẩm lễ vật để đi một mình. Mời các bạn đón đọc Đò Dọc của tác giả Bình Nguyên Lộc.
Cơn Mưa Định Mệnh
Khi con người để cái phần "con" lấn át, không còn màng đến suy nghĩ, đạo đức, thì lúc đó cũng chẳng khác nào "thú vật". Cái kẻ mà có ý nghĩ ngủ với con gái ruột của mình, không phải thú vật thì là gì??? Không, kẻ đó thậm chí còn thua cả thú vật!!! Bà Ưng đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần khi mà ông Ưng lại nổi "thú tính"lên... Bà đứng không nổi quỳ không xong bởi da bị bỏng, căng rát, chỉ cần cử động là toàn thân bà cảm giác như có ngàn mũi kim đâm vào da thịt, đau đớn vô cùng. *** Bà tránh ra! Tránh ra... Nhanh lên.... Tiếng ông Ưng hét lên trong đêm tối. Tôi xin ông đấy, ông có còn tính người nữa không ông Ưng ơi? Bà Ưng đau đớn thể xác, bây giờ lại đau đớn cả tinh thần khi mà ông Ưng bỗng nhiên nổi lên cái tính "thú vật". Gọi là thú vật quả không sai, đời thủa nào bố đẻ đòi ngủ với con gái bao giờ??? Bà đứng không nổi quỳ không xong bởi da bị bỏng, căng rát, chỉ cần cử động là toàn thân bà cảm giác như có ngàn mũi kim đâm vào da thịt, đau đớn vô cùng. Ông Ưng không quan tâm đến sự đau đớn của vợ mình mà hung hăng gạt tay bà ra, trợn mắt giận dữ: Mày có tránh ra không con kia? Tao đang khó chịu đấy nhé, không cút ra tao đạp cho một đạp bây giờ? Từ bao giờ cái loại mày đòi lên tiếng cãi lại lời tao vậy hả?? Bà Ưng nước mắt lưng tròng, mấy ngày nay rồi bà chưa chợp mắt được tí nào cũng là bởi buổi sáng hôm trước bà đi tôi vôi thuê cho người ta. Nhà nghèo, bữa sáng ông Ưng không cho nấu cơm, bà nhịn ăn sáng rồi đi làm, đến nửa buổi, đói quá hoa mắt nên trượt chân ngã xuống hố vôi đang tôi. Phúc lớn mạng lớn là hố vôi đó còn chưa nóng đỉnh điểm, xung quanh có người cùng làm nên kịp thời cứu được bà lên ngay. Nhưng từ gối chân trở xuống bỏng nặng, theo lý thì phải nằm viện để điều trị nhưng ông Ưng không đồng ý. Nói là tốn kém viện phí, mấy đồng lương hưu của ông không đủ để trang trải... Sơ cứu qua loa bà Ưng đòi con gái đưa về nhà... Sống chung với người chồng vũ phu này mấy chục năm trời nên bà hiểu rõ, từ ngày bà bị bỏng, không giúp ông Ưng giải tỏa được cái máu "dê" trong người nên ông ấy mới hằm hè như vậy. Nhưng hỡi ôi, bà tưởng ông chỉ gia trưởng, vũ phu, keo kiệt thôi, nào ngờ ông ấy còn không bằng cả loài cầm thú nữa. Ông Ưng không làm gì được bà Ưng nên lăm le đòi ngủ với cô con gái út mới 15 tuổi là Thúy Hạnh. Bà nói nhẹ không được, nặng không xong, ông ấy nổi cơn thú tính lên lao vào căn buồng rách nát và đòi ngủ với cô con gái. Trong căn buồng tối, Thúy Hạnh nghe thấy tiếng cãi nhau, tiếng đồ đạc đập loảng xoảng nên sợ hãi, cô bé định chạy ra ngoài bênh vực cho mẹ vì mẹ đang bỏng nặng. Nhưng... khi nghe được ông Ưng muốn làm trò đồi bại với mình, Hạnh sợ hãi chốn vào trong góc tường, ngồi thu lu một chỗ, tay cầm cái chổi để phòng thân... Con Hạnh đâu rồi? Con Hạnh đâu? Ông Ưng đi vào trong buồng, tối quá nên ông không nhìn thấy gì, khi nãy còn đang hăng "máu", chưa được giải tỏa nên căng thẳng quá, cãi nhau với bà vợ một trận ông còn thấy khó chịu hơn. Quờ quạng tay trên giường không thấy con gái đâu, ông Ưng điên đú: Cái con đĩ con này nó đi đâu mất rồi? Con cái mất dạy, ba tuổi đầu đã xí xớn đi đêm không về? Cái thứ này không để cho bố mày đ!t thì để làm gì... Cái con mẹ nó chứ? Con mẹ nó đã đeo"" phục vụ được tao thì con đĩ con phải phục vụ bố mày... Mẹ con chúng mày biết chưa... Mẹ cha nhà chúng mày chứ... Ông mày đang nưng"""" kak quá... hừ hừ... Ông Ưng gầm gừ tìm kiếm trong chiếc chăn bông cũ rích, trời rét, chăn gối vứt ngổn ngang trên giường, tìm mãi không thấy con gái đâu ông ta phát điên lên rồi chợt nhớ ra: mình chưa bật đèn sáng lên! Ông Ưng hung hăng bật công tắc đèn lên và rồi ông ấy cười rú lên như một con sói: Hahahaha... Con Hạnh, mày đây rồi! Mày trốn ở đấy làm gì? Đến đây bố bảo. Ông Ưng chìa tay ra phía trước, ở dưới đũng quần, của nợ khốn nạn của ông đang chĩa ra phía trước, hai con mắt ông nhìn rất đáng sợ. Hạnh sợ hãi tới mức tim đập thật nhanh, cả người run rẩy co rúm lại, cô bé hoang mang không biết nên làm gì khi bố đang tiến lại gần. Bờ môi mấp máy không nói thành câu.. Bà Ưng ở ngoài nhà đau khổ gào khóc: Thằng khốn nạn... mày là chó chứ không phải người nữa... Ưng ơi, mày giết tao đi, mày giết tao đi còn hơn chứ mày làm thế này thì trời đất nào tha thứ cho mày được? Nó là con gái mày đấy... thằng khốn nạn kia... Mày thèm thì mày mang tiền đi mà kiếm gái, tại sao mày lại đối xử với con gái tao như vậy... Ưng ơi... Ông Ưng nghe thế thì điên lên, ông giậm chân xuống nền nhà thật mạnh, chỉ tay ra ngoài nhà rồi nói: Con đĩ kia mày im mồm. Con gái mày đã chết đâu mà mày phải khóc? Không im tao ra tao vả cho giờ? Thúy Hạnh mở to mắt, trời mùa đông mà mồ hôi trán vẫn ướt đầm đìa, cô bé còn quá nhỏ để hiểu được những việc sắp tới sẽ kinh khủng như thế nào nếu như người bố- người đàn ông khốn nạn kia tiến đến. Hạnh vẫn cầm cái chổi, hai cánh tay run run... Đến đây bố bảo... đừng sợ, có cái đéo gì mà phải sợ? Rồi thể nào chả phải làm người lớn?? Đến đây... Nhanh lên... Khi ông Ưng đi đến gần Hạnh, ông ta đưa cánh tay lên phía trước định giật cái chổi từ tay HẠNH thì bất ngờ con bé phản đòn. Hạnh vung chổi lên vụt vào tay ông Ưng một cái, bị đánh bất ngờ ông ta rụt tay lại mồm tru tréo lên: Á.... con đĩ con này mày dám đánh bố mày à?? Hả! Hạnh ghê tởm ông ấy đến mức buồn nôn, cô bé chứng kiến hết những nỗi đau mà mẹ phải chịu đựng suốt thời gian qua. Cộng thêm hành động vô liêm sỉ ông ta đang định làm với mình càng làm cho Hạnh thấy hận bố, ghét bố, ghét đến mức muốn ông ấy chết ngay tức khắc. Ông Ưng vung tay tát đốp vào mặt Hạnh, cô bé thấy tai mình ù đi, má đỏ ửng lên, Hạnh nhìn bố bằng ánh mắt căm thù: Ông cút đi... huhu... Nói rồi Hạnh đứng vùng dậy, cô vung chổi liên tiếp đánh trả vào người bố, vừa đánh con bé vừa gào lên: Chết đi! Chết đi! Chết mẹ ông đi.... Ông Ưng không ngờ con gái lại phản ứng như vậy vì ngày thường Hạnh khá hiền và ít nói, nhất thời ngây ra vì hành động của con gái, ông ta không đánh nữa mà lặng thinh suy nghĩ. Phải chi ông đã thức tỉnh rồi? Ông đã biết việc mình làm là trái luân thường đạo lý nên vậy? Nhưng không, không hề có chuyện đó, chỉ là ông ngạc nhiên trước thái độ của Hạnh mà thôi, ông ta định đánh tiếp thì Hạnh nhanh như con sóc vụt cái chổi vào mặt ông ấy thật mạnh rồi chạy ù ra khỏi gian buồng. Hạnh sợ hãi, sợ bố đuổi theo nên cô bé không quay lại nhìn mẹ lấy một cái, cắm đầu cắm cổ chạy trong đêm tối. Bị vụt vào mặt một cái đau điếng người, ông Ưng sa xẩm mặt mày choáng váng ngã phịch xuống đất, hai tay ôm lấy mặt rên rỉ: Cha tiên nhân con đĩ này nó dám đánh ông! Tiên sư chúng mày... con đĩ mẹ lại đẻ ra con đĩ con, ông nuôi chúng mày để chúng mày đối xử với ông thế này đây! Để ông tóm được mày ông giết, con ranh con ạ... á á... đau quá... Ông Ưng ngồi ở dưới nền nhà kêu than, bà Ưng ở bên ngoài thấy mừng thay cho con gái, không biết con bé bỏ chạy đi đâu ngoài trời đêm kia... nhưng thà vậy còn hơn ở nhà để thằng già kia nó giở trò đồi bại. Bà Ưng chắp tay lại khẽ khấn vái mong trời phù hộ cho con gái bà không nghĩ quẩn. Chỉ sợ tâm hồn ngây thơ của nó nghĩ không thông mà làn điều dại dột thì bà không sống nổi nữa. Hạnh ơi, con đừng bỏ mẹ mà đi nhé! Gió bên ngoài trời thổi rất mạnh, lúc đi khỏi nhà Hạnh chạy như bay nên không hề thấy lạnh, thậm chí trong người vừa sợ vừa hận thù nên cô bé quên đi cả cái giá lạnh. Hạnh không biết bản thân mình nên đi đâu, chỉ sợ bố đuổi theo nên cứ cắm đầu chạy. Nếu là bình thường, có lẽ Hạnh không bao giờ có gan đi một mình giữa đêm khuya thế này. Vì cô bé sợ ma, sợ bóng đêm. Nhưng hôm nay, trong lúc chạy được một quãng dài rồi Hạnh mới nhận ra, thì ra bóng tối chẳng có gì đáng sợ cả... Chỉ có lòng dạ con người mới thực sự ghê tởm, Hạnh không ngờ bố mình lại trở nên đê tiện đến như vậy. Ngay từ phút giây nghe thấy bố mình - ông Ưng nói rằng "Mẹ cô không phục vụ được ông ấy chuyện giường chiếu thì Hạnh sẽ phải là người thay thế..." Hạnh đã rất ghét bố, ghê tởm bố và sợ hãi đến mức không muốn nhìn thấy mặt ông ta nữa. Tiếng gió vẫn rít từng cơn, hai má Hạnh lạnh cóng, hai bàn tay nắm tròn thành nắm đấm, Hạnh vẫn cắm đầu cắm cổ chạy. Đến khi mệt quá dừng lại nghỉ chân cô bé mới phát hiện không có ai đuổi theo mình cả, nhìn lên phía trước là một ngôi chùa, nơi đây Hạnh có biết vì thỉnh thoảng dịp lễ đầu năm hoặc có việc gì đó cô bé vẫn theo mẹ lên chùa cầu may. Cây đa trước cổng chùa hứng trận gió đông mạnh nên lá rơi lả tả, cánh cổng chùa đóng im lìm, nhìn qua khe cửa, Hạnh thấy có bóng đèn thắp ở giữa đình để canh kẻ trộm, ngoài ra không thấy bóng dáng một ai. Hạnh không sợ đêm tối nữa, cô bé cũng chẳng sợ ma, chỉ cần nghĩ đến câu chuyện vừa diễn ra khi nãy cũng đủ khiến cô bé rùng mình rồi. Nghỉ ngơi một lát thần trí ổn định Hạnh bắt đầu thấy lạnh, nhiệt độ ban đêm quả nhiên xuống thấp. Hạnh đưa hai bàn tay lên trước mặt, hà hơi mấy cái để kiếm tìm hơi ấm nhưng không ăn thua. Trên người mặc có chiếc áo thu đông bên trong và chiếc áo len bên ngoài, hai manh áo mỏng không đủ để chống chọi với cái khí hậu khắc nghiệt thế này. Cô bé co ro ngồi xuống cạnh cổng chùa, thân hình bé nhỏ lạc lõng giữa đêm tối, thật đáng thương khi có nhà mà lại không dám trở về.... Sáu giờ sáng. Trời mùa đông nên vẫn còn tối, chú tiểu dậy tụng kinh và quét sân chùa, khi mở cánh cổng ra thì chú giật mình chạy biến vào trong nói với sư thầy: Thầy ơi! Thầy ơi! Giọng chú tiểu gấp gáp. Gì mà nghiêm trọng thế? Sư thầy vừa tụng kinh xong đang từ trong đình bước ra, trời rét, thầy mặc chiếc áo khoác rất dài và to, nhìn dáng đi chậm chạp đến sốt ruột. Có người chết ở ngoài cổng thầy ạ! Sao cơ? Sư thầy ngạc nhiên. Con vừa ra mở cổng thấy có một người chết cứng vừa ngã vật xuống đất xong... Mặt chú tiểu cắt không còn giọt máu, sự tình thế nào không ai biết nhưng trời còn tối, hơn nữa rét buốt thế này tự nhiên có người ngã vật xuống đất bất động thì chắc hẳn ai chứng kiến cũng đều sợ hãi như vậy. Đi theo ta! Sư thầy nói xong liền cầm tràng hạt lên trước ngực, vừa đi vừa niệm chú a di đà phật.. Điện sáng được bật lên, đúng là ở giữa cổng có người. Là một cô gái còn rất trẻ. Khoảng lứa tuổi học sinh, thân hình co rúm vì lạnh, môi và mặt tái nhợt, mắt nhắm nghiền nằm co quắp trên nền đất. Sư thầy ngồi xuống đưa tay lên mũi cô bé xem còn thở không, kiểm tra xong thầy nói: Vẫn còn sống! Mau bế con bé vào trong, đốt một chậu than hồng để ở phòng bên trái... khả năng là bị nhiễm lạnh rồi, mặt nóng ran... Chú tiểu hấp tấp đỡ cô bé dậy và bế vào trong nhà, sư thầy chuẩn bị một chậu nước ấm và khăn sạch để lau mặt cho cô. Vào phòng kín có than hồng sưởi ấm, cộng thêm sư thầy lau mặt và chườm khăn ấm nên lát sau cô bé tỉnh dậy. Tuy nhiên, cô không tỉnh táo cho lắm, hai mắt nhìn lên trần nhà như vô hồn, mồm lẩm bẩm giống như mê sảng... Con bé sốt cao lắm, mau lấy thuốc hạ sốt đến đây! Dạ.! Không biết con cái nhà ai đêm đông giá buốt mà không biết đường về nhà là sao? Như này mà không phát hiện sớm là chết đấy.. Sư thầy nghiền nát viên thuốc hạ sốt hòa tan cùng nước và bón cho cô bé từng thìa một. Cơ thể ấm dần lên, thuốc ngấm, chú tiểu nấu một bát cháo loãng và đem lên. Ngủ một giấc đến trưa thì cô tỉnh dậy, đầu óc quay cuồng, nhất thời cô bé ngơ ngác không biết vì sao lại ở đây. Chú tiểu thấy cô tỉnh dậy thì mừng quá, vội chạy đi báo cho sư thầy biết. Con thấy trong người thế nào? Sư thầy nhìn cô bé nói nhẹ nhàng, thoáng nhìn đã thấy có thiện cảm. Thúy Hạnh nhìn thấy vị sư thầy trước mắt lúc này mới nhớ ra chuyện đêm qua ngủ quên trước cổng chùa. Bây giờ nằm ở đây, có lẽ được mọi người đưa vào trong chùa. Hạnh e ngại toan ngồi dậy thì sư thầy vội ngăn lại: Đừng vội... con còn mệt. Cứ nằm nghỉ thêm đi, dậy ngay sẽ chóng mặt đó.. Con cảm ơn thầy! Hạnh nói lí nhí, cô bé thấy đầu mình đau nhức khủng khiếp, cổ họng khô rát khàn cả tiếng, có lẽ cô đã bị nhiễm lạnh bởi cơ thể đã chịu rét cả đêm qua. Nhà con ở đâu? Sư thầy bắt đầu hỏi chuyện, bởi lẽ sư biết được một cô bé bỏ nhà đi đêm không về chắc chắn có nguyên nhân, mà lý do là gì thì người không suy luận ra nổi. Nhìn mặt cô bé cũng sáng sủa, dễ nhìn.. lý nào... Sư thầy trầm ngâm suy nghĩ... Hạnh không nói gì cả, nghe thầy hỏi nhà cô bé òa lên khóc, có phải họ muốn đuổi cô về nhà không nhỉ? Hạnh sợ cái cảnh phải quay về căn nhà đó, nơi đó có một người không bằng cầm thú. Cô không muốn về... Hạnh lắc đầu, cô ấp úng không nói được thành câu, liên tục xua tay... Đừng sợ... đừng sợ... Ta không làm hại con... Bình tĩnh nào, có chuyện gì cứ cứ bình tĩnh rồi hãy nói... Thầy ơi.. con không về nhà đâu, con mà về là ông ấy sẽ hại con đấy... Hạnh khóc tu tu, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng. Sư thầy kiên nhẫn lắng nghe. Ông ấy là ai? Bố con! Bố con... Ông ấy... ông ấy đòi hại con... hu hu... huhu... bố con là người xấu... hu... hu... Hạnh khóc nấc lên, dù chưa biết đầu đuôi thế nào nhưng sư thầy cũng đoán được rằng con bé bị bố bạo hành. Bàn tay người lại lần tràng hạt, mồm niệm chú a di đà phật, thật không ngờ lại có người cha nhẫn tâm đến như thế. Mời các bạn đón đọc Cơn Mưa Định Mệnh của tác giả ThanhThanh.
Dì Ghẻ
Dì ghẻ" là một danh từ cực kì có tính đánh sâu vào mỗi khi nhắc đến. Ai ai cũng sẽ xuất hiện cảm giác chán ghét khi nhắc đến từ này. "Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng". Mọi người ngầm hiểu điều đó, mặc dù không thích nhưng thật sự chẳng mấy ai có thể nói nên lời chê trách. Cái khó, cái khổ của người làm dì ghẻ cũng không phải ai cũng hiểu...  Cuộc sống gia đình của hai đứa trẻ phải ở với mẹ kế sẽ được câu chuyện khắc hoạ lại, đồng thời còn mang đến những trải nghiệm cuộc sống chân thật nhất, những tâm tính, phản ứng, đậm chất tâm lý xã hội, cho nên không tránh khỏi những tình tiết có hơi hướng bạo lực và kích thích. Hi vọng Dì Ghẻ sẽ mang lại cho bạn đọc một cảm nhận chân thực nhất về xã hội. *** Ba ngày hôm sau, Nam lúc này đã tỉnh lại. Ký ức kinh hoàng ngày hôm đó vẫn in sâu vào trong đầu của nó. Lúc mở mắt ra nó đã giật mình hoảng sợ bởi không biết mình đang ở đâu. Khi ấy chú Đại phải lập tức trấn an Nam, đến nay sau mấy ngày Nam phần nào cũng đã ổn định trở lại. Mấy ngày qua nó im lặng không nói gì, cho ăn là ăn, ăn xong lại quay mặt vào tường không muốn nói chuyện với ai cả. Đột nhiên hôm nay nó nhìn chú Đại hỏi một câu khiến chú Đại bất ngờ: - - Bố cháu đâu rồi ạ…? Câu hỏi khiến chú Đại lúng túng, nhưng có vẻ như Nam nó khác với những đứa trẻ khác. Trong khi chú Đại chưa biết trả lời ra sao nó đã nói tiếp: - - Có phải bố cháu chết rồi không..? Một lời nói lạnh lùng phát ra từ miệng một đứa trẻ 16 tuổi với anh mắt nhìn thẳng vào mặt người đối diện khiến chú Đại rùng mình. Chú Đại chỉ biết gật đầu: - - Đúng vậy….Chú...chú...xin…. Nam lặng người một hồi rồi nó ngẩng mặt lên hỏi tiếp, lúc này mắt nó đã rưng rưng nhưng không có giọt lệ nào chảy ra cả: - - Vậy….vậy còn em gái cháu…? Chú Đại nhìn Nam nói: - - Bé Hạnh vẫn an toàn, hiện nó đang ở với cô Thúy, biết cháu sẽ lo cho em nên chú có nhắn cô Thúy chiều nay sẽ đưa Hạnh đến. Còn chuyện bố cháu, thật sự chú xin lỗi….Nhưng cháu đừng lo, chú sẽ thay bố nuôi…. Nam nhìn chú Đại ngắt lời: - - Cháu biết, cháu biết bố cháu vì sao mà chết…..Cháu cũng nhìn thấy bố cháu lúc đó...Chú không có lỗi…. Có vẻ như lúc này đã quá sức chịu đựng đối với một thằng nhóc, hoặc có thể sau khi biết em gái vẫn an toàn thì nó mới được giải tỏa. Chú Đại nhìn nó chảy nước mắt, chú Đại nói: - - Không phải kìm nén nữa, chú hiểu cảm giác của cháu bây giờ như thế nào….Bởi những ngày qua chú cũng thế….Cứ khóc đi, khóc to vào…. Lập tức Nam ngồi trên giường òa khóc, nó khóc nức nở, nó khóc to như chưa bao giờ nó phải chịu một nỗi đau lớn như vậy. Đây là lần thứ hai nó trải qua cảm giác này từ ngày ông ngoại mất. Không, nỗi đau này có gì đó khác hẳn, nỗi đau này còn đau hơn nỗi đau nó mất đi ông ngoại nhiều lần…...Bởi vì nó biết bố nó vì cứu nó mà chết. Chú Đại ôm nó vào lòng rồi cũng ứa nước mắt, chú Đại cố gắng an ủi: - - Không sao, không sao…..Bố cháu nói đây là điều bố cháu có thể làm được duy nhất cho cháu. Bố cháu cảm thấy hạnh phúc khi cháu còn sống….Cháu phải trân trọng điều này. Sau này tất cả sẽ ổn thôi….Còn chú ở đây hai đứa sẽ không phải lo gì cả. Chú sẽ thay bố mẹ chăm sóc cho hai đứa. Nước mắt giàn dụa, nỗi đau mất đi người thân nó thực sự khiến con người ta trở nên yếu đuối. Nhưng khi con người rơi vào hoàn cảnh ấy thì lại càng phải mạnh mẽ. Đầu giờ chiều, Nam đột nhiên thao hết băng trên người ra. Chú Đại thấy thế định ngăn lại thì nó nói: - - Mấy chỗ này có bị sao nữa đâu, chỉ có….. Nhìn xuống ngón tay út nó thoáng buồn, nhưng rối nó nói tiếp: - - Chẳng phái chú bảo lát nữa cô giáo sẽ đưa em cháu vào đây sao...Cháu không thể để nó lo lắng khi nhìn cháu toàn thân băng bó thế này được. Nhìn chú Đại nó hỏi: - - Vậy bà ngoại có biết chuyện của cháu, với bố cháu không ạ..? Chú Đại lắc đầu: - - Không ai biết cả, có chăng chỉ có bác Dung….Nhưng chú cũng nói với bác Dung rồi….Chú sợ bà ngoại sẽ lo lắng, bà vẫn nghĩ hai anh em cháu lên bệnh viện thăm bố. Nam vội đáp: - - Đúng rồi chú đừng nói cho bà cháu biết, bà mà biết là chết đấy. Chú cứ bảo mọi người cháu bị tai nạn là được. Nam khiến chú Đại đi hết từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, một thằng nhóc vừa phải trải qua nhiều chuyện kinh hoàng như thế vậy tại sao nó lại có thể bản lĩnh đến vậy. Dường như nó chỉ biết lo cho người khác, đột nhiên chú Đại lại thấy hình ảnh ông Tuấn ở trong Nam ngay lúc này. Nó giống hệt bố nó, cũng chỉ biết lo lắng cho anh em mà quên đi bản thân mình phải hứng chịu những gì. Chú Đại bỗng mỉm cười: - - Được, vậy coi như đây là bí mật của chú cháu mình. Nam gật đầu đồng ý, chiều hôm ấy cô Thúy dẫn bé Hạnh vào bệnh viện thăm Nam, không chỉ có cô Thúy và Hạnh, cả cô bạn gái thân nhất của Nam là Trang cũng đến. Nam mặt vẫn còn hơi bầm, cơ thể vẫn hơi đau nhưng nó cố tỏ ra bình thường khi bé Hạnh vừa mở cửa phòng ra đã lao vào anh như hai anh em lâu ngày không găp: - - Anh Nam …..anh Nam ơi…...Sao anh không đến đón em…? Cú ôm từ con bé khá mạnh khiến Nam cảm thấy đau nhói nhưng nó cười tươi rồi gõ nhẹ vào đầu em nói: - - Không thấy anh bị ốm đây à…? Đồ ngốc này…. Cô Thúy nhìn chú Đại hỏi: - - Mấy hôm nay Nam không đi học, suýt chút nữa là tôi phải ra nhà thông báo rồi ấy. May cho anh là gọi điện kịp thời…. Chú Đại khẽ cười: - - Cảm ơn cô, tôi không muốn bà ngoại của hai đứa lo lắng….Hiện giờ bà nghĩ cả hai đứa vẫn đang đi với tôi. Làm phiền cô giáo rồi….Cảm ơn cô mấy ngày vừa qua, con bé không làm phiền cô chứ…? Cô Thúy nói: - - Nó dễ thương lắm, lại ngoan nữa….Nhưng hay hỏi anh, tôi cứ phải nịnh là anh Nam đi học thêm sắp về nó mới chịu. Có con bé ở cùng mấy ngày qua tôi lại thấy thoải mái. Mà anh bảo Nam vào viện vì lý do gì vậy..? Chú Đại ấp úng vì không biết nói dối thế nào trước phụ nữ, Nam tinh ý bèn nói: - - Dạ thưa cô, mấy hôm trước em bị tai nạn…..Cô nhìn xem, giờ em bị mất một ngón tay út rồi...Hì hì. Vừa nói Nam vừa giơ tay lên khoe để cứu chú Đại, cô Thúy với Trang tròn mắt ra nhìn. Trang xót xa vội cầm tay Nam hỏi: - - Có đau không..? Mà sao lại mất cả một ngón tay….. Vừa nói cô bé vừa trực khóc, bé Hạnh cũng cầm tay anh nhìn nhìn, nó thổi thổi như cách bà ngoại hay làm mỗi khi nó bị thương ở đâu đó. Nam mỉm cười: - - Giờ hết đau rồi, tai nạn mà…..Cũng may mà có chú Đại đưa đi kịp thời. Tuy còn vài chuyện chưa rõ, còn những nghi ngờ muốn hỏi nhưng cô Thúy thấy hai chú cháu dường như cũng không muốn nói thêm nên cô Thúy chỉ trách: - - Bị như thế này mà vẫn còn cười được thì cô chịu em rồi. Nam nhìn chú Đại nói: - - Cháu có thể ra viện được rồi chú ạ….Ở đây chán lắm, để cháu đưa em về bà ngoại. Chú Đại hơi lưỡng lự, tuy nhiên về cơ bản Nam cũng không bị thương nặng. Hơn nữa cũng đã 4 ngày trôi qua, nếu không đưa hai anh em về bà ngoại sẽ lo lắng. Bằng chứng là ngày hôm qua bác Dung đã gọi điện cho chú Đại hỏi han rồi. Chú Đại cũng muốn nhanh chóng làm đám tang cho ông Tuấn, khi mà mọi chuyện vừa trôi qua còn quá nhiều việc phải lo thì xác ông Tuấn lúc này đang được bảo quản trong kho lạnh của một lưu giữ tử thi. Mấy hôm nay nghe ngóng thông tin thì dường như phía công an cũng chưa hoặc không phát hiện được gì cả. Suy cho cùng tất cả những kẻ có liên quan đều đã chết banh xác sau vụ nổ. Chú Đại cũng cần phải tổ chức tang lễ cho anh của mình. Vậy là chú Đại đồng ý, Nam được xuất viện, hai anh em được chú Đại chở về nhà bà ngoại, trên xe Nam khẽ hỏi: - - Liệu sau này….? Chú Đại đáp: - - Đừng lo, mọi chuyện xong hết rồi…..Cái chính là mọi người sẽ chấp nhận chuyện này thế nào thôi. Nam im lặng. nó nhìn bé Hạnh, con bé vẫn chưa biết rằng bố nó đã chết. Đột nhiên Nam nhớ tới mụ Hường: - - Vậy còn, bà Dì Ghẻ thì sao ạ…? Chú Đại im lặng một lát rồi đáp: - - Bà ấy trốn rồi, sẽ không bao giờ quay lại nữa đâu. Chú Đại và Nam không còn cách nào khác ngoài chuyện nói dối bà ngoại, bà ngoại chỉ biết Nam bị tai nạn nhẹ, nhưng đau xót nhất vẫn là ngón tay út của Nam. Ba ngày tiếp theo chú Đại đến thông báo cho bà ngoại việc ông Tuấn mất, lý do đó là vết thương lần trước tái phát, rách ra không qua khỏi. Bà ngoại nhìn hai đứa cháu buồn bã bởi từ nay thì cả hai đứa đã thật sự trở thành trẻ mồ côi. Đám tang ông Tuấn được tổ chức long trọng, ngày hôm đó tất cả những anh em của ông Tuấn đều mặc đồ đen xếp hàng ngay ngắn để tưởng nhớ người đàn anh đáng kính lần cuối cùng. Nam cả ngày hôm đó không khóc, bởi nó đã khóc quá nhiều trước đó rồi. Từ những bà cô bên đằng nội đến những người bạn của mụ Hường trước đây không có cảm tình với anh em nó đều nói nó là thằng nhóc máu lạnh. Bé Hạnh lại một lần nữa kéo tay anh hỏi: - - Bố đi đâu rồi hả anh..? Nam nắm tay em mỉm cười rồi khẽ đáp: - - Bố hôm nay đi gặp ông ngoại rồi em ạ…. Bé Hạnh hỏi tiếp: - - Vậy bao giờ bố về…? Câu hỏi của Hạnh khiến mắt Nam ướt đẫm, nhưng nó hít một hơi dài thật sâu rồi trả lời em gái: - - Khi nào em lớn bố sẽ về…… Cô Thúy cũng có mặt trong đám tang, nhìn những người đến dự, nhìn anh em xã hội của ông Tuấn đến viếng, nhìn chú Đại, cô chợt nhớ đến cái hôm chú Đại chở Hạnh đến nhà cô gửi, rồi nhớ đến hôm Nam ở trong bệnh viện….Cả vụ nổ gây xôn xao dư luận những ngày qua. Cô Thúy biết mọi chuyện không như lời chú Đại nói….Vẫn như vậy, cuộc sống của chú Đại vẫn là một ẩn số lớn đối với cô giáo. Cũng từ sau hôm đó, chú Đại không liên lạc gì với cô nữa. Ngay lúc này đây tuy đứng cách nhau chỉ tầm vài mét nhưng khoảng cách giữa hai người chưa bao giờ lại xa đến thế. Cái thế giới mà cả hai đang sống dường như khác nhau một cách đối nghịch, sau khi làm lễ thắp nhang cho bố Nam, cô Thúy quay mặt đi ngang qua chú Đại lúc này đang đứng cạnh linh cữu đáp lễ mọi người. Mặt đối mặt nhưng dường như ánh mắt của họ không hề chạm nhau. Có lẽ cả hai đều hiểu: Cuộc sống của người này sẽ tốt hơn khi không có người kia. Sau tất cả mọi chuyện, cái mà hai người giữ lại cho nhau chỉ là hai bức thư không có lời đáp. Mỗi người mang một cung bậc cảm xúc khác nhau, đứng bên này Nam cũng nhận ra điều không bình thường giữa hai người lớn. Nó nói với chú Đại: - - Chú có biết khi cháu kể chú thích cô giáo bố cháu vui thế nào không..? Chú Đại quay sang nhìn Nam rồi gật đầu đáp: - - Thằng quỷ….Sao mày dám kể … Nam hướng mắt nhìn theo cô Thúy, chú Đại khẽ nói: - - Long, đứng đây thay anh...Anh phải đi có chút việc. Anh không để anh Tuấn phải thất vọng được. Long gật đầu, đúng là một tình huống trớ trêu chỉ có thể xảy ra bởi những con người không bình thường. Nhưng đâu có sao, bởi nếu bỏ qua cơ hội thì đó mới là điều đáng tiếc. Mọi người đều nói sai thì sửa nhưng trong cuộc sống có những sai lầm khi bạn nhận ra và muốn sửa sai thì đã không còn cơ hội. Có những thứ thiêng liêng xung quanh mà bạn chưa từng trân trọng để rồi khi mất đi bạn mới khóc thì đã quá muộn, Nước mắt hay lời xin lỗi không thể giúp bạn lấy lại bất cứ một thứ gì cả, nó chỉ khiến bạn cảm thấy đau đớn hơn mà thôi. Thay vì khóc lóc, đau buồn hãy sống làm sao cho bản thân cảm thấy sự tồn tại của mình có ý nghĩa. Vài tháng sau, theo như kế hoạch từ trước, chú Đại xin phép đón bé Hạnh lên Hà Nội để chăm sóc. Chú muốn đón cả ba bà cháu đi nhưng Nam và bà ngoại muốn ở lại để còn hương khói cho ông ngoại. Bản thân Nam cũng bị bà ngoại “ đuổi “ vì lo cho tương lai của cháu nhưng nó nhất quyết không chịu. Nó nói để bé Hạnh ở với chú Đại còn nó sẽ ở đây chăm sóc bà ngoại. Chú Đại dặn nó phải canh chừng cô Thúy giúp chú. Lần này nó không buồn khi phải xa em gái nữa, bởi sau tất cả nó biết chú Đại sẽ chăm sóc bé Hạnh rất tốt. Con bé sẽ được vui vẻ, chỉ một thời gian ngắn mà Nam đã thay đổi rất nhiều, sau đám tang của bố, Nam chững chạc hơn, ra dáng đàn ông mặc dù năm nay nó chỉ bước qua tuổi 17. Một ngày được nghỉ, Nam chở Trang ra thăm mộ của bố. Khi nó đến đã thấy một người đàn ông ăn mặc lôi thôi, đội cái mũ rộng vành đứng trước mộ bố nó, trên tay cầm một bó hoa trắng đặt xuống dưới mộ. Nam tiến lại gần thì lập tức người đó quay lại. Nam lễ phép: - - Cháu chào chú….Chú là bạn của bố cháu phải không ạ…? Người này không trả lời, khẽ lấy tay kéo cái mũ xuống hắn đi qua Nam. Nam có cảm giác dường như đã thấy người này ở đâu rồi, khuôn mặt đen xì, dáng người, dáng đi hình như Nam đã nhìn thấy ở đâu. Nhưng có một điều khiến nãy giờ Nam thấy lạnh cứng người đó là vừa rồi chỉ nhìn qua ánh mắt sắc lẹm, lạnh lùng của người đó Nam thấy như bị áp đảo. Nơi ngón tay út bị cắn bỗng nhiên có cảm giác nhói mặc dù vết thương đã lành từ lâu. Trang thấy bạn đứng yên bèn đi lại lay người hỏi: - - Cậu làm sao đấy..? Người kia là người quen à..? Nam ấp úng: - - Ơ...ơ….không sao….Tớ cũng không rõ, chắc là bạn của bố. Hai bạn trẻ đặt hoa, nhổ cỏ xung quanh mộ. Đứng ở một góc khuất kẻ đội mũ rộng vành kia vẫn đang quan sát hai đứa, hắn sụp hẳn cái mũ xuống rồi quay đi, miệng khẽ nói: - - Đại ca, thằng bé quả thật rất giống anh…...Vậy là em lại phải sống thêm một khoảng thời gian nữa rồi. - ------Kết Thúc------- Cảm ơn các bạn đã theo dõi bộ truyện dài nhất của mình cho tới thời điểm hiện tại. Có thể kết không hay, không được như mong muốn của mọi người nhưng một lần nữa cảm ơn tất cả đã ủng hộ mình cho đến lúc này. Hẹn gặp lại các bạn trong những bộ truyện khác. Thanks All My Friends Mời các bạn đón đọc Dì Ghẻ của tác giả Trường Lê.
T Mất Tích
Không hài lòng với những Chinatown - Phố Tàu và Paris 11 tháng 8,  hai tiểu thuyết nổi bật của văn học Việt Nam năm 2005, chỉ một tháng sau, Thuận trở lại với những thay đổi đáng kể trong giọng văn và đề tài. T mất tích đẩy xa hơn, một bước rất dài, ngưỡng cửa của bất an và hoang vắn của con người hiện đại, trong các xã hội hiện đại. Con  người trong T mất tích không còn mang thân phận của kẻ tha hương bơ vơ trong một bối cảnh xa lạ, mà lâm vào một tình thế khác, không kém phần tuyệt vọng: bị kết án biến mất, nhân vật của Thuận thậm chí không còn chỗ đứng dưới chân, quá khứ nhạt nhoà và tương lai đơn giản là không tồn tại. Với cuốn tiểu thuyết mới, Thuận tiếp tục khẳng định sức viết dồi dào và khả năng chạm đến những ngõ ngách đặc biệt của cuộc sống hiện đại chúng ta. "...T là ai? Chắc hẳn trước hết là cái tôi. Cái tôi sau khi tràn ngập từng trang, trong những đoạn văn dài hàng trang không ngắt dòng ở ba tiểu thuyết trước, đã phải gánh chịu hậu quả của chính sự tràn đầy đó: nó không trụ nổi lại trên trang giấy. Nó phải chấp nhận số phận mờ ảo hiện diện sau những nhân vật khác. T, điều này quan trọng hơn rất nhiều, còn là Thuận, là nhà văn. Nhà văn Thuận đang tiến hành một thao tác, một thao tác quan trọng với một dải văn chương cá nhân...". *** T mất tích của nhà văn Thuận là một trong những tác phẩm đáng chú ý của văn học Việt Nam đương đại. Khi hai từ “mất tích” xuất hiện trong nhan đề một cuốn tiểu thuyết dễ khiến ta nghĩ rằng đó là một cuốn trinh thám. Chẳng hạn, nếu bắt gặp một cuốn tiểu thuyết có tên là Sherlock Holmes mất tích, thì bạn còn mong đợi gì hơn ngoài việc người ta truy tìm vị thám tử lừng danh như thế nào, tại sao anh ấy lại mất tích, và một câu hỏi hết sức kinh điển: thủ phạm là ai? Thế nhưng, không phải bất kỳ sự mất tích nào cũng dẫn đến một câu chuyện trinh thám. Nhà văn đương đại nổi tiếng Nhật Bản Haruki Murakami bắt đầu cuốn Biên niên ký chim vặn dây cót bằng sự mất tích của một con mèo, rồi từ cuộc tìm kiếm mang tính chất trinh thám ban đầu, dần dần đưa người đọc bước vào cuộc phiêu lưu mang tính chất siêu thực trong thế giới tiểu thuyết của mình. Tương tự, Hãy chăm sóc mẹ Shin Kyung-Sook (vừa đoạt giải Man Asian 2011) mở ra với sự mất tích của một người mẹ, nhưng hơn ba trăm trang sách không để trả lời câu hỏi mẹ đang ở đâu, mà thông qua cuộc tìm kiếm và góp nhặt ký ức của những đứa con về mẹ, cho ta biết bà là ai. Tiểu thuyết luôn cần có một ngòi nổ để bắt đầu, và các nhân vật mất tích là một trong những ngòi nổ như vậy. Nhân vật mất tích có thể hoàn toàn mờ nhạt (như con mèo), hoặc không trực tiếp xuất hiện nhưng lại được tô đậm rõ nét thông qua những nhân vật khác (như người mẹ). Cuốn tiểu thuyết đó cũng có thể là trinh thám (Sherlock Holmes mất tích), hoặc siêu thực (Biên niên ký chim vặn dây cót), hoặc không siêu thực mà cũng chẳng trinh thám (Hãy chăm sóc mẹ). Nhưng nếu không có một nhân vật nào đấy tình nguyện mất tích, thì thế giới sẽ vẫn trôi lăn theo cái vòng tuần hoàn của nó, còn người đọc thì chẳng thể có được những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời như trên. Ở đây, T mất tích lại là một nhan đề nửa rõ ràng nửa không rõ ràng. T là ai? T, hiển nhiên không phải là tên của một vị thám tử lừng danh, cũng không phải tên của diễn viên, ca sĩ nổi tiếng nào cả. T có thể là một con mèo, cũng có thể một người mẹ. Nhưng chắc chắn một điều, T chính là viết tắt của Thuận, tên tác giả. Người đọc có quyền đoán định: phải chăng T chính là Thuận? Sự việc chưa rõ ràng trở nên rõ ràng hơn khi đến trang 57 có một đoạn như sau: “Tôi chưa bao giờ đọc đúng tên T. Những cái dấu trong tiếng Việt nghe nói rất rắc rối mà tên của T ghi trong hộ chiếu gốc thì gồm những hai dấu, cái trên cái dưới, lâu ngày tôi đã quên rằng chúng dành cho chữ U hay chữ A hay mỗi chữ một dấu.” Vậy là ngay từ nhan đề, ta đã có thể thấy được sự hài hước vốn là điều quen thuộc trong văn chương của Thuận. Nếu T là Thuận, chị tuyên bố với độc giả ngay từ đầu rằng tôi – tác giả, sẽ hoàn toàn mất tích trong tác phẩm này. Điều đó đồng nghĩa với việc chị đã thẳng thừng bác bỏ luận điểm trên. Tiểu thuyết chẳng cần tới bất cứ cái ngòi nổ quái quỷ nào cả, mà không ai khác, nhà văn chính là nhân vật quan trọng nhất trong việc hình thành một cuốn tiểu thuyết. Trong một tác phẩm, nhà văn có thể hoàn toàn “mất tích” từ đầu đến cuối, thay vào đó sẽ là anh A chị B hay một “tôi” nào đó kể tiếp câu chuyện. Nếu T không là Thuận, chị phủ lên độc giả một bức màn khơi gợi sự tò mò: T, thực ra là ai, và T mất tích có phải là một cuốn tiểu thuyết trinh thám hay không? Ngay từ trang đầu tiên, Thuận đã đặt người đọc vào trong một không gian hết sức trinh thám: đồn cảnh sát. “T mất tích… trong một buổi tối, tôi phải qua hai cuộc thẩm vấn”. “Tôi” không ai khác chính là chồng của T, một phụ nữ Việt Nam lấy chồng và sinh sống tại Pháp. Như vậy, T chỉ là một con người bình thường, bình thường đến độ sẽ chẳng ai biết cô mất tích nếu chồng cô không gọi điện báo cảnh sát. Lý do là vì cô không có gia đình lẫn bạn thân ở Pháp, đám cưới cũng không ai hay biết. Mà thực tế là cũng chẳng có cái đám cưới nào được tổ chức, hai vợ chồng chỉ đơn giản nắm tay nhau đến tòa thị chính ký giấy kết hôn rồi đi ăn nhà hàng. Từ cái không gian trinh thám đó, ta cũng bắt gặp một nhân vật hết sức trinh thám: đại úy Delon. Nhưng đại úy Delon không phải là Sherlock Holmes của tác phẩm, mà nhiệm vụ ấy sẽ được đặt lên vai của “tôi”, nhân vật chính. Trước hết, ta có thể dễ dàng thấy được chồng của cô T vốn có sẵn máu thám tử trong người. Hãy chú ý đến những suy luận hết sức logic của anh ta về từng vấn đề xung quanh, từ sự mất tích của T cho đến việc đại úy Delon tìm cách do thám mình như thế nào. Hai lần điển hình là khi Delon gọi điện đến cơ quan dò hỏi người bạn đồng nghiệp Paul và khi Delon nói chuyện với vợ chồng ông gác cổng nơi “tôi” ở. Cũng dễ hiểu vì khi T mất tích thì chồng cô nhanh chóng trở thành nghi can số một. Thế nên, “tôi” quyết định tự mình đi tìm vợ, thay vì trông chờ vào những nỗ lực không mấy khả quan của cảnh sát Pháp. Cuộc tìm kiếm T mất tích dẫn người đọc đi qua ba cuộc ngoại tình hết sức dữ dội mà thực tế đều bắt nguồn từ những suy luận đầy tính thám tử của “tôi”. Nhân tiện, ngoại tình vốn là một chủ đề ưa thích của Thuận, và sẽ còn bùng nổ hơn ở cuốn tiểu thuyết kế tiếp của chị, Vân Vy. Ở T mất tích, ngoại tình, hay cụ thể hơn là tình dục, trở thành một nỗi ám ảnh thường trực đối với nhân vật chính. Anh có thể dễ dàng nhận ra mối quan hệ mẹ con bất chính của vợ sếp với đứa con nuôi, hoặc chỉ cần quan sát cô y tá cũng đoán được cô ả đã mây mưa với bố mình như thế nào. Giọng văn hóm hỉnh cùng lối viết chắc tay của Thuận khiến cho việc ngoại tình cũng trở nên hết sức thú vị. Nhưng căn nguyên do đâu người chồng lại có những suy nghĩ như vậy, đầu tiên phải nghĩ đến người vợ. T, tuy mất tích nhưng cũng được miêu tả đủ cho người đọc hình dung về một tính cách: “T không lãng mạn”, “tính kín đáo quá mức của T làm tôi ngần ngại”. Một người chồng Pháp lấy phải cô vợ Việt như vậy mà không ly dị không ngoại tình thì quả là có sức chịu đựng, chịu đựng đến mức dửng dưng. Sự dửng dưng của anh chồng Pháp không chỉ giới hạn ở đó. Anh không nhảy vào tám chuyện với đồng nghiệp, anh chẳng buồn quan tâm đến chuyện chia chác tài sản mà bố để lại, và xem chuyện của chị hàng xóm chỉ “như cơm bữa trên một nửa trái đất”. Cuối cùng, sau tất cả những dửng dưng, anh cũng đành buông xuôi trước sự mất tích của người vợ. Sự mất tích của T hóa ra lại là một ẩn dụ, ẩn dụ cho cái sự dửng dưng và buông xuôi của con người. Người chồng Pháp có thể tiếp tục dửng dưng nhưng người vợ Việt thì đã đủ mỏi mệt. Cuộc sống như một vở kịch mà các nhân vật vô cùng lạc lõng giữa sân khấu. “Thử nhìn xung quanh, có ai dám thay đổi điều gì?” T mất tích hóa ra lại là sự dũng cảm, muốn phá vỡ cái dửng dưng đó… T mất tích dẫu có những yếu tố trinh thám rất Trần Dần (Thuận là con dâu Trần Dần, vợ Trần Trọng Vũ) nhưng không phải là sách trinh thám. T mất tích rất gần với Biên niên ký chim vặn dây cót của Murakami, từ giọng văn rất Tây (Thuận đang sinh sống tại Pháp) cho đến nỗi cô đơn của con người hiện đại, cụ thể hơn là xã hội tư bản phương Tây. Nhưng gần không có nghĩa là giống, ta hoàn toàn có quyền tự hào về một tác giả người Việt viết tiểu thuyết chắc tay và đầy bản lĩnh, ngay từ cách đặt nhan đề cho tác phẩm của mình. Còn một điều hài hước nữa, chính người đọc cũng bắt đầu vào một cuộc tìm kiếm. Ban đầu, ta đọc tiểu thuyết để đi tìm lời giải T là ai. Trải qua từng trang sách, ta cứ đoán già đoán non, T là Thuận hay T không phải là Thuận. Cuối cùng, T vẫn còn là một ẩn số. *** Câu chuyện bắt đầu ngay bằng sự vắng mặt của T. Tôi, một người đàn ông Pháp một chiều bỗng không thấy người vợ Việt Nam (T) trở về nhà. Sau khi báo cảnh sát, tìm kiếm ở một người quen biết, và tin rằng vợ mình không về nước, cũng chẳng có người thân nào để đến, ông quyết định: T mất tích. Cuộc sống biến động với sự kiện đó. Đã bao năm, một cuộc sống lặng lẽ trôi đi và họ chưa hề có một lần nào nhìn bản chất thực của nó. Cả hai người đều có rất ít người quen, sống giữa chốn đô thị mà không khác gì nơi hoang đảo. Họ không còn liên lạc nào với cha mẹ, họ hàng. Đều đặn ngày nào cũng như ngày nào, đến nơi làm việc, về nhà vào tối mịt, đón con rồi ăn tối, ngủ trên hai chiếc giường đơn trong phòng ngủ, chung hay riêng tùy lúc. T đi đâu, phải chăng sự ra đi đó là để dứt khỏi cái nhịp điệu buồn tẻ kia. Hay đó là sự lạc lõng của một bản thể, đi vào cõi hư ảo, tìm sự giải thoát cho kiếp sống ngột ngạt? Vào vai một nhân vật đàn ông khá nhuyễn, nhà văn Thuận mang đến T mất tích như một món ăn tinh thần lý thú mà văn đàn Việt Nam bấy nay chưa có. *** T mất tích. Cảnh sát, sau bốn mươi tám tiếng đúng qui định hình sự, đã khẳng định như vậy và tung kế hoạch truy tìm trên phạm vi toàn quốc. Ngay trước đó, trong một buổi tối, tôi phải qua hai cuộc thẩm vấn, cuộc đầu tiên vào sáu giờ là của thanh tra phó đồn cảnh sát địa phương, cuộc thứ hai một tiếng rưỡi sau là của thanh tra trưởng đồn cảnh sát địa phương. Tôi tỏ ra bình tĩnh và kiên nhẫn, các lời khai có lẽ khớp nhau nên sau đó, người ta hứa để cho tôi yên. Thực ra cũng không thể khác được, các câu hỏi của cả hai thanh tra khá đơn giản và tôi đã nói sự thật một cách mạch lạc, họ có vẻ tin lời tôi và chưa một lúc nào tỏ ý muốn vặn vẹo hay đánh bẫy. Nhìn chung, các vị ấy có tác phong nhã nhặn, thậm chí lịch thiệp, bằng chứng đầu tiên là cả hai đều gọi tôi đến vào những giờ ít ảnh hưởng tới công việc của tôi và lần nào cũng tự tay mang cho tôi một tách cà phê nóng kèm đường viên đựng trong một hộp nhỏ, lấy từ góc bếp chỉ dành cho nhân viên trong đồn. Biên bản của các cuộc thẩm vấn ghi theo lời tường trình của tôi, dường như cả dấu phẩy cũng không khác nhau, tôi cảm giác đã học thuộc ngay sau khi ra khỏi đồn cảnh sát, giờ đây vẫn có khả năng nhắc lại không mấy khó khăn: T thường rời công sở  lúc 5h15, đến mẫu giáo đón Hanah con gái của chúng tôi lúc 6h kém 5 vì đúng 6h là trường đóng cửa, nội qui được hiệu trưởng thông báo ngay từ buổi họp phụ huynh đầu tiên. Hôm kia khoảng 7h tối, khi tôi đang còn ở văn phòng thì cảnh sát gọi điện yêu cầu tôi đến gặp gấp, lý do là Hanah không có ai đến đón nên đã bị đưa ra đồn và đang ngồi đợi người thân. Lúc tôi tới nơi, Hanah vừa được một nữ cảnh sát cho ăn tối, tôi trình chứng minh thư và kí vào giấy nhận con, chúng tôi về tới nhà chừng 8h30, cho đến lúc đi ngủ cũng không có một tin tức nào của T. Tôi đã gọi điện báo cho công an, cũng là nơi đã giữ Hanah lúc nãy. Hôm sau, tôi tự đưa Hanah đến mẫu giáo và tới văn phòng muộn mười lăm phút, buổi chiều xin phép nghỉ sớm một tiếng. Ngay trong ngày, tôi tranh thủ gọi điện đến chỗ làm việc của T, thường trực và hai đồng nghiệp cùng phòng đều khẳng định nhìn thấy T ra khỏi cơ quan lúc 5h10 chiều hôm trước. Vợ tôi không có cả gia đình lẫn bạn thân ở Pháp. Người duy nhất mà T đôi khi gặp gỡ là chị Xuân, cùng theo học lớp tiếng Pháp ở một tổ chức Thiên chúa giáo khi cả hai mới đặt chân đến Paris. Trong danh bạ điện thoại Paris, tôi tìm được số của chị Xuân. Chị Xuân đang vội đi làm và trả lời ngắn gọn từ nửa năm nay không nhận được điện thoại của T. Rất ít khả năng là T về Sài Gòn thăm gia đình. Một chuyến đi xa như vậy, dù thế nào đi nữa, cô ấy cũng phải báo cho tôi một câu. Tôi cũng trao đổi với ngân hàng và được biết từ đợt trả tiền nhà lần cuối, tài khoản của chúng tôi không có thất thoát quan trọng, người phụ trách ngân hàng còn nhiệt tình gửi qua fax bản kê những món chi tiêu được trả bằng séc và các Visa ba tuần qua. Sau đó tôi đã kiểm tra cặn kẽ, không thấy có dấu hiệu đặc biệt, nói chung là những khoản nhỏ dưới một trăm euro, chủ yếu là tiền đi chợ và tiêu vặt trong nhà. Mời các bạn đón đọc T Mất Tích của tác giả Thuận.