Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

CÂY CỎ VIỆT NAM (3 TẬP) - PHẠM HOÀNG HỘ

Cây cỏ Việt Nam là một công trình khoa học mang tầm cỡ quốc gia và mang chứa nhiều tâm huyết của giáo sư Ts. Phạm Hoàng Hộ.

Cây cỏ Việt Nam là một công trình khoa học mang tầm cỡ quốc gia và mang chứa nhiều tâm huyết của giáo sư Ts. Phạm Hoàng Hộ.

Thời kỳ đất nước còn chia cắt, giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã từng nổi tiếng với công trình biên khảo lấy tên là Cây Cỏ Miền Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, giáo sư Phạm Hoàng Hộ vẫn miệt mài làm việc trong những điều kiện khó khăn hạn chế. Ông đã bổ sung vào quyển Cây Cỏ Miền Nam một bộ phận thảo mộc quan trọng ở địa bàn các tỉnh phía Bắc. Với phần bổ sung này, tập sách Cây Cỏ Miền Nam được giáo sư Phạm Hoàng Hộ đổi tên thành Cây Cỏ Việt Nam.

Thời kỳ đất nước còn chia cắt, giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã từng nổi tiếng với công trình biên khảo lấy tên là Cây Cỏ Miền Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, giáo sư Phạm Hoàng Hộ vẫn miệt mài làm việc trong những điều kiện khó khăn hạn chế. Ông đã bổ sung vào quyển Cây Cỏ Miền Nam một bộ phận thảo mộc quan trọng ở địa bàn các tỉnh phía Bắc. Với phần bổ sung này, tập sách Cây Cỏ Miền Nam được giáo sư Phạm Hoàng Hộ đổi tên thành Cây Cỏ Việt Nam.

Theo giáo sư Ts. Phạm Hoàng Hộ, Việt Nam là đất nước, có một thực vật chúng phong phú hàng đầu thế giới với khoảng 12.000 loài khác nhau. Trong tập sách này chúng ta có thể tìm thấy hàng ngàn giống loài tiêu biểu nhất. Mỗi giống loại được trình bày theo những tiêu chí khoa học với độ chính xác cao. Cũng theo những tiêu chí đó, giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã có một cách trình bày văn bản hơi khác thường. Ông đặc biệt chú ý đến những từ kép và viết chúng thành một từ dính liền ví dụ: hiểnhoa, bàotử, thứdiệp, bàotửnang… 

Theo giáo sư Ts. Phạm Hoàng Hộ, Việt Nam là đất nước, có một thực vật chúng phong phú hàng đầu thế giới với khoảng 12.000 loài khác nhau. Trong tập sách này chúng ta có thể tìm thấy hàng ngàn giống loài tiêu biểu nhất. Mỗi giống loại được trình bày theo những tiêu chí khoa học với độ chính xác cao. Cũng theo những tiêu chí đó, giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã có một cách trình bày văn bản hơi khác thường. Ông đặc biệt chú ý đến những từ kép và viết chúng thành một từ dính liền ví dụ: hiểnhoa, bàotử, thứdiệp, bàotửnang… 

Cũng có những từ được ông thêm vào những dấu gạch nối. Ví dụ: giả-baomô, gân-phụ, hoa-cánh-rời… Những cách viết đó, tuy không phổ biến nhưng chắc chắn không phải là không có ý nghĩa trong những văn bản khoa học.

Cũng có những từ được ông thêm vào những dấu gạch nối. Ví dụ: giả-baomô, gân-phụ, hoa-cánh-rời… Những cách viết đó, tuy không phổ biến nhưng chắc chắn không phải là không có ý nghĩa trong những văn bản khoa học.

Nên biết hiện nay trên thế giới chưa dễ đã có mấy quốc gia – kể cả những quốc gia có nền khoa học tiên tiến – có được một công trình sưu tầm biên khảo hoàn chỉnh về thảm thực vật trên đất nước mình. Để có được một công trình khoa học như Cây Cỏ Việt Nam, không biết phải tốn bao nhiêu chất xám, thời gian và tiền bạc? Điều may mắn là giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã âm thầm dành hầu hết cuộc đời mình để đầu tư cho công trình này.

Nên biết hiện nay trên thế giới chưa dễ đã có mấy quốc gia – kể cả những quốc gia có nền khoa học tiên tiến – có được một công trình sưu tầm biên khảo hoàn chỉnh về thảm thực vật trên đất nước mình. Để có được một công trình khoa học như Cây Cỏ Việt Nam, không biết phải tốn bao nhiêu chất xám, thời gian và tiền bạc? Điều may mắn là giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã âm thầm dành hầu hết cuộc đời mình để đầu tư cho công trình này.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Y Án Châm Cứu Thực Nghiệm
Đề tựa quyền Y-ÁN-CHÂM-CỨU THỰC NGHIỆM này, tôi xin dịch bài nói về KHOA CHÂM-CỨU Ở ÂU-CHÂU (L'ACUPONCTURE EN EUROPE) của Ông SOULIÉ DE MORANT trong quyển PRECIS DE LA VRAIT ACUPONCTURE CHINOISE sau đây đề cống hiến cùng độc giả. Đề tựa quyền Y-ÁN-CHÂM-CỨU THỰC NGHIỆM này, tôi xin dịch bài nói về KHOA CHÂM-CỨU Ở ÂU-CHÂU (L'ACUPONCTURE EN EUROPE) của Ông SOULIÉ DE MORANT trong quyển PRECIS DE LA VRAIT ACUPONCTURE CHINOISE sau đây đề cống hiến cùng độc giả. Đề tựa quyền Y-ÁN-CHÂM-CỨU THỰC NGHIỆM này, tôi xin dịch bài nói về KHOA CHÂM-CỨU Ở ÂU-CHÂU (L'ACUPONCTURE EN EUROPE) của Ông SOULIÉ DE MORANT trong quyển PRECIS DE LA VRAIT ACUPONCTURE CHINOISE sau đây đề cống hiến cùng độc giả. Trước khi xuất bản cuốn sách đầy đủ và vị-đại về Khoa Châm-cứu căn cứ vào tài liệu phiên dịch của TRUNG HOA và các chứng nghiệm đề đáp ứng lời yêu cầu của một số Y-sỉ, tôi quyết định trình bày nơi đây điềm chính của phương pháp trị liệu một vài căn bịnh mà ÂU-CHÂU tỏ ra bất lực một phần nào. Hơn nữa với quyền sách nhỏ này, công chúng có thề phân biệt trong số Y-sĩ thực hành khoa Châm-Cứu ai đã học hỏi từ nguồn gốc, ai chi vì sự bành trưởng mạnh mẽ của khoa Châm Cứu mà cho rằng hành nghề này không cần học hỏi, lại tin vào sự cảm nghỉ thật thà dốt nát của thân chủ và uy lực của quảng cáo. Từ năm ngor, sau khi học hỏi ở Trung-Hoa cách đây 6 năm, lăn đầu tiên tôi đem vào nước Pháp phương pháp trị-liệu bằng Kim thuật và Ngại cứu mà ở Âu-Châu, Mỹ-Châu từ trước hãy còn bị quan niệm mơ hò, nay đã có thể thực nghiệm, các cuộc thí nghiệm ngày gia tăng, kết quả đã được công nhận, do đó không thể không biết đến khoa Châm cứu. Phải công nhận rằng nếu lúc sơ khởi Bắc-sĩ Paul. Ferreyrolles không áp dụng những điều tôi đã học tập ở Trung Hoa thì ở Âu-Châu đến nay cũng vẫn còn không biết tới Khoa này, Tôi là lãnh sự, Văn-học giả, Hoà-ngữ học gia, đã trở thành một Đông Y-si chi vì khi thâu thập được kết quả trong môn học này, tôi không hề suy nghỉ gì hơn là cần phải học hỏi cho được 1 thuật rất kỳ điệu đối với tôi; và vì thế khi trở về Pháp tôi đem ra phổ biến khi gặp sự nghi kỵ. Trước khi xuất bản cuốn sách đầy đủ và vị-đại về Khoa Châm-cứu căn cứ vào tài liệu phiên dịch của TRUNG HOA và các chứng nghiệm đề đáp ứng lời yêu cầu của một số Y-sỉ, tôi quyết định trình bày nơi đây điềm chính của phương pháp trị liệu một vài căn bịnh mà ÂU-CHÂU tỏ ra bất lực một phần nào.Hơn nữa với quyền sách nhỏ này, công chúng có thề phân biệt trong số Y-sĩ thực hành khoa Châm-Cứu ai đã học hỏi từ nguồn gốc, ai chi vì sự bành trưởng mạnh mẽ của khoa Châm Cứu mà cho rằng hành nghề này không cần học hỏi, lại tin vào sự cảm nghỉ thật thà dốt nát của thân chủ và uy lực của quảng cáo.Từ năm ngor, sau khi học hỏi ở Trung-Hoa cách đây 6 năm, lăn đầu tiên tôi đem vào nước Pháp phương pháp trị-liệu bằng Kim thuật và Ngại cứu mà ở Âu-Châu, Mỹ-Châu từ trước hãy còn bị quan niệm mơ hò, nay đã có thể thực nghiệm, các cuộc thí nghiệm ngày gia tăng, kết quả đã được công nhận, do đó không thể không biết đến khoa Châm cứu.Phải công nhận rằng nếu lúc sơ khởi Bắc-sĩ Paul. Ferreyrolles không áp dụng những điều tôi đã học tập ở Trung Hoa thì ở Âu-Châu đến nay cũng vẫn còn không biết tới Khoa này,Tôi là lãnh sự, Văn-học giả, Hoà-ngữ học gia, đã trở thành một Đông Y-si chi vì khi thâu thập được kết quả trong môn học này, tôi không hề suy nghỉ gì hơn là cần phải học hỏi cho được 1 thuật rất kỳ điệu đối với tôi; và vì thế khi trở về Pháp tôi đem ra phổ biến khi gặp sự nghi kỵ.
Vệ sinh yếu quyết - Hải Thượng Lãn Ông
Tiểu dẫnĐể cho nam nữ trẻ gia đều hayTấc lòng tâm niệm bấy nayMong đời hết bệnh kéo dài ngày xuânDưỡng sinh theo phép Chân nhânSách trên đã chép nguyên văn mấy bàiĐể tuỳ hoàn cảnh tuỳ thờiTuỳ nghi lĩnh hội những lời tinh baQuyển này đúc lại thành caMấy lời thiết yếu để ta ghi lòngBao gồm phương pháp dự phòngCổ kim dung hợp quán thông dung hoà Phòng dịchLiền sau nạn đói can quaThường có dịch lớn phát ra kéo dàiCho rằng dịch lệ thiên thờiThực ra uế tạp do nguời gây nênDưới đất xác chết lưu niênNắng mưa chưng nấu bốc lên hại ngườiTrẻ già cảm nhiệm động thờiBiết phòng, biết tránh nhiều người cũng quaHễ khi ôn dịch phát raDự phòng uống Tỏi, bạc hà, lá thôngNữ thanh, bục dục nên dùngLại hun Bồ kết, đàn hương trong nhàCó dịch thì chớ lân laCần nên nút mũi khi ra ngoài đườngDùng bông bọc tỏi, hùng hoàngKhi thăm người bệnh lại càng không quênChuyền trò đối diện chớ nênVề nhà tẩy uế mới yên trong lòngTrong nhà người bệnh ở cùngChớ nên chung chạ đồ dùng phòng lâyNhất là lao trái truyền thi
Kỹ thuật trồng cây thuốc
Hôm nay không chỉ các nước nông nghiệp chậm phát triển và cả các nước công nghiệp tiên tiến đều sử dụng song song hai nguồn thuốc từ dược thảo được ưa dùng. Các thuốc chế từ dược liệu (cây thuốc) có danh sách phong phú trong danh mục cây thuốc của tất cả các nước trên thế giới. Chúng chiếm 30% tổng giá trị thuốc trên thị trường thế giới.Trên thực tế các cây thuốc trồng trọt hoặc hoang dại do thu hái quá mức bị cạn dần cho nên không thể thỏa mãn được các nhu cầu. Một số loài rất cần sử dụng nhưng trong nước lại không có. Cho nên việc trồng cây thuốc rất cần thiết. Ngoài ra cần phải nghiên cứu những cây không có để di thực chứng. Thực tế cho thấy việc trồng trọt đem lại nhiều lợi ích, đặc biệt đối với nước ta, một nước còn nghèo và điều kiện tự nhiên rất thích hợp cho các cây thuốc phát triển.Cuốn "Kỹ thuật trồng cây thuốc", trình bày lợi ích của việc trồng cây này, đặc tính của một số cây nhằm giúp người lao động hiểu rõ thêm tác dụng của việc làm này, nhằm bảo vệ sức khỏe người cho gia đình và tăng thêm thu nhập.Các tác giả
Gia Đạo Truyền Thông Bảo
Pho sách này đã xuất bản in lần thứ nhất năm 1936, đã bán hết ngay, nay theo ý muốn của nhiều độc giả hỏi mua, nên đã soạn lại những bài đã dùng kiến hiệu mục kích trong pho sách ấy. Lại góp thêm được nhiều bài mới của các vị Linh Mục và nhiều Danh Y đã kinh nghiệm dùng có kết quả mỹ mãn, thì cũng được soạn kỹ càng và xếp đặt có thứ tự để tiện dùng, nay đem tái bản hiến chư quý vị. Pho sách này đã xuất bản in lần thứ nhất năm 1936, đã bán hết ngay, nay theo ý muốn của nhiều độc giả hỏi mua, nên đã soạn lại những bài đã dùng kiến hiệu mục kích trong pho sách ấy. Lại góp thêm được nhiều bài mới của các vị Linh Mục và nhiều Danh Y đã kinh nghiệm dùng có kết quả mỹ mãn, thì cũng được soạn kỹ càng và xếp đặt có thứ tự để tiện dùng, nay đem tái bản hiến chư quý vị. Pho sách này đã xuất bản in lần thứ nhất năm 1936, đã bán hết ngay, nay theo ý muốn của nhiều độc giả hỏi mua, nên đã soạn lại những bài đã dùng kiến hiệu mục kích trong pho sách ấy.Lại góp thêm được nhiều bài mới của các vị Linh Mục và nhiều Danh Y đã kinh nghiệm dùng có kết quả mỹ mãn, thì cũng được soạn kỹ càng và xếp đặt có thứ tự để tiện dùng, nay đem tái bản hiến chư quý vị. Pho sách này có giá trị đặc biệt : 1) Là vì có đủ mọi môn nội ngoại khoa, mọi bệnh loài người và lục súc, nhất là mục bệnh Phụ-nữ, và mục chữa bệnh Tiểu-nhi, có cả hình vẽ, xem hổ-khẩu và quan hình sát sắc. 2) Sách này có giá trị, vì có đủ nhiều bài thuốc viên, thuốc chén, thuốc nam, thuốc mường và chữa mẹo đỡ tổn tiền. 3) Sách này có giá trị, vì có nhiều bài chữa mọi thứ bệnh, tùy tính hàn, nhiệt và tùy vận khí từng năm, bài này không thích hợp năm này, thì đã có bài khác ; bài này khó tìm vị, thì đã sẵn bài dễ tìm vị, để mà lựa chọn, tiện bề tra cứu. Pho sách này có giá trị đặc biệt :1) Là vì có đủ mọi môn nội ngoại khoa, mọi bệnh loài người và lục súc, nhất là mục bệnh Phụ-nữ, và mục chữa bệnh Tiểu-nhi, có cả hình vẽ, xem hổ-khẩu và quan hình sát sắc.2) Sách này có giá trị, vì có đủ nhiều bài thuốc viên, thuốc chén, thuốc nam, thuốc mường và chữa mẹo đỡ tổn tiền.3) Sách này có giá trị, vì có nhiều bài chữa mọi thứ bệnh, tùy tính hàn, nhiệt và tùy vận khí từng năm, bài này không thích hợp năm này, thì đã có bài khác ; bài này khó tìm vị, thì đã sẵn bài dễ tìm vị, để mà lựa chọn, tiện bề tra cứu.4) Sách này có giá trị vì cuối sách có Vân Niên Cố Hàn so sánh năm Dương Lịch với năm Can Chi (Âm Lịch) biết để dễ gia giảm vị thuốc tùy năm, thì thuốc mới hiệu nghiệm. Lại có bản đồ nhị thập tứ tiết, 24 phần năm, phân ra tứ thì bát tiết, nghề làm thuốc cần biết. Lại có bản đồ chỉ những ngày con nước, biết để làm ăn. Lại có bản đồ chỉ những ngày giông tố, biết để tránh nạn. 5) Sách có giá trị vì có diễn giải phân minh 309 vị thuốc Nam, tính dược cần dùng trong pho sách này và các sách thuốc khác, xếp thứ tự theo vần A. B. C. 4) Sách này có giá trị vì cuối sách có Vân Niên Cố Hàn so sánh năm Dương Lịch với năm Can Chi (Âm Lịch) biết để dễ gia giảm vị thuốc tùy năm, thì thuốc mới hiệu nghiệm. Lại có bản đồ nhị thập tứ tiết, 24 phần năm, phân ra tứ thì bát tiết, nghề làm thuốc cần biết. Lại có bản đồ chỉ những ngày con nước, biết để làm ăn. Lại có bản đồ chỉ những ngày giông tố, biết để tránh nạn. 5) Sách có giá trị vì có diễn giải phân minh 309 vị thuốc Nam, tính dược cần dùng trong pho sách này và các sách thuốc khác, xếp thứ tự theo vần A. B. C. 4) Sách này có giá trị vì cuối sách có Vân Niên Cố Hàn so sánh năm Dương Lịch với năm Can Chi (Âm Lịch) biết để dễ gia giảm vị thuốc tùy năm, thì thuốc mới hiệu nghiệm.Lại có bản đồ nhị thập tứ tiết, 24 phần năm, phân ra tứ thì bát tiết, nghề làm thuốc cần biết.Lại có bản đồ chỉ những ngày con nước, biết để làm ăn.Lại có bản đồ chỉ những ngày giông tố, biết để tránh nạn.5) Sách có giá trị vì có diễn giải phân minh 309 vị thuốc Nam, tính dược cần dùng trong pho sách này và các sách thuốc khác, xếp thứ tự theo vần A. B. C.Thật đã giầy công phu sưu tầm, nên ngày nay, mới có quyển sách thuốc quý báu này. 6) Sách thuốc này có giá trị, vì có nhiều Linh Mục các nơi và nhiều Danh Y đã góp sức kinh nghiệm giúp bài đã dùng công hiệu vào sách này, như Linh Mục Đặng-chính-Tế, Linh Mục Nguyễn-thúy-Hiến, cha Ngôn, cha Tịnh, cha Bích và cha Q. cha P. cha B. và các Danh Y như ông Trương-đắc-Bằng, ông Nguyễn-đức-Văn, ông Trương-đình-Hựu, ông Nguyễn-văn-Biện, ông Nguyễn-chí-Đạo, ông Nguyễn-văn-Ký, ông Giáo thụ Ích, ông Nguyễn-mạnh-Bổng, ông Đặng-văn-Thước và nhiều Danh Y khác. Thật đã giầy công phu sưu tầm, nên ngày nay, mới có quyển sách thuốc quý báu này. 6) Sách thuốc này có giá trị, vì có nhiều Linh Mục các nơi và nhiều Danh Y đã góp sức kinh nghiệm giúp bài đã dùng công hiệu vào sách này, như Linh Mục Đặng-chính-Tế, Linh Mục Nguyễn-thúy-Hiến, cha Ngôn, cha Tịnh, cha Bích và cha Q. cha P. cha B. và các Danh Y như ông Trương-đắc-Bằng, ông Nguyễn-đức-Văn, ông Trương-đình-Hựu, ông Nguyễn-văn-Biện, ông Nguyễn-chí-Đạo, ông Nguyễn-văn-Ký, ông Giáo thụ Ích, ông Nguyễn-mạnh-Bổng, ông Đặng-văn-Thước và nhiều Danh Y khác. Thật đã giầy công phu sưu tầm, nên ngày nay, mới có quyển sách thuốc quý báu này.6) Sách thuốc này có giá trị, vì có nhiều Linh Mục các nơi và nhiều Danh Y đã góp sức kinh nghiệm giúp bài đã dùng công hiệu vào sách này, như Linh Mục Đặng-chính-Tế, Linh Mục Nguyễn-thúy-Hiến, cha Ngôn, cha Tịnh, cha Bích và cha Q. cha P. cha B. và các Danh Y như ông Trương-đắc-Bằng, ông Nguyễn-đức-Văn, ông Trương-đình-Hựu, ông Nguyễn-văn-Biện, ông Nguyễn-chí-Đạo, ông Nguyễn-văn-Ký, ông Giáo thụ Ích, ông Nguyễn-mạnh-Bổng, ông Đặng-văn-Thước và nhiều Danh Y khác.