Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Người Anh

Madeline Hart là ngôi sao đang lên trong đảng cầm quyền ở Đảo quốc Anh: xinh đẹp, thông minh, đã vượt lên tuổi thơ khốn khó để có được chỗ đứng trong xã hội. Tuy nhiên Madeline đang mang một bí mật đen tối: cô là nhân tình của Thủ tướng Jonathan Lancaster. Biết chuyện, những kẻ bắt cóc cô quyết tâm buộc nhà lãnh đạo Anh phải trả giá đắt cho tội lỗi của mình. Lo sợ vụ bê bối sẽ làm tiêu tan sự nghiệp, Lancaster muốn giải quyết vấn đề này một cách âm thầm thay vì giao phó cho cảnh sát. Đúng là một nước bài đầy rủi ro, không chỉ đối với Thủ tướng mà còn cho những ai dấn thân vào nhiệm vụ này. Bảy ngày – Một cô gái – Không có cơ hội thứ hai. Gabriel Allon – sát thủ bậc thầy, nhà phục chế nghệ thuật trứ danh và là điệp viên kỳ cựu của Israel, không còn lạ lẫm gì với các nhiệm vụ hiểm nguy hay rắc rối chính trị – chấp nhận đương đầu với thử thách. Trong từng tiếng tích tắc của đồng hồ, Gabriel không ngừng tìm cách giải cứu Madeline. Nhiệm vụ đã đưa ông đi từ thế giới ngầm tội ác của Marseilles đến vùng thung lũng biệt lập của Provence, đến các hành lang sang trọng nhưng đã lu mờ của chốn quyền lực London – và cuối cùng, là đến nơi tột cùng kinh hoảng – Moscow, thành phố của bạo lực và gián điệp, nơi có cả một danh sách dài những kẻ muốn Gabriel phải chết. *** LÀNG PIANA, ĐẢO CORSE BỌN CHÚNG ĐẾN tìm cô cuối tháng Tám trên đảo Corse*. Thời gian chính xác sẽ không bao giờ xác định: dù đã cố hết sức, bất cứ người bạn nào ở chung nhà với cô cũng chỉ biết là thời điểm nào đó từ lúc mặt trời lặn đến giữa trưa ngày hôm sau. Mặt trời lặn là lúc họ nhìn thấy cô lần cuối, đang phóng nhanh trên chiếc xe máy scooter* màu đỏ ra khỏi lối vào biệt thự, một chiếc váy bằng vải bông mỏng tang phấp phới trên cặp đùi rám nắng. Đến giữa trưa là lúc họ nhận thấy giường cô trống không, chẳng có gì ngoài một cuốn tiểu thuyết bìa giấy rẻ tiền đang đọc dở dang thơm mùi dầu dừa và thoang thoảng mùi rượu rum. Hai mươi bốn giờ nữa trôi qua rồi họ mới quyết định đi gọi hiến binh* Pháp tới. Đã có một mùa hè như thế, và Madeline là một cô nàng như thế. Họ đã tới đảo Corse nửa tháng trước, bốn cô nàng xinh đẹp và hai anh chàng đứng đắn, tất cả đều là công chức mẫn cán của chính phủ Vương quốc Anh, hoặc là đảng viên đảng cầm quyền dạo ấy. Họ có một chiếc xe hơi đơn sơ, một chiếc hatchback hiệu Renault của cơ quan vừa đủ lớn để sắp xếp cho năm người ngồi không được thoải mái, và một chiếc scooter màu đỏ là độc quyền của riêng Madeline mà cô vốn cứ cưỡi nó rồi phóng đi bạt mạng gần như là tự sát. Biệt thự màu đất son của họ tọa lạc ở rìa phía Tây ngôi làng trên một mỏm đá nhìn ra biển cả. Nó ngăn nắp gọn gàng và vững chắc, một kiểu cơ ngơi mà các nhân viên môi giới bất động sản vẫn luôn mô tả là “quyến rũ”. Còn có một hồ bơi và một khu vườn có tường rào đấy những bụi hoa hương thảo và những cây mát tít; và trong hàng giờ đồng hồ đổ bộ lên đảo, họ đắm mình trong một tình trạng bán khỏa thân cháy nắng thật sung sướng, điều mà các du khách Anh luôn khát khao mong mỏi, bất kể chuyến lữ hành đưa họ đến đâu. Mặc dù Madeline trẻ nhất trong nhóm, nhưng lại là người chỉ huy không chính thức của họ, một gánh nặng mà cô chấp nhận chẳng hề phản đối. Chính Madeline đã lo thuê biệt thự, và Madeline đã sắp xếp các bữa ăn trưa kéo dài, các bữa ăn tối muộn màng và chuyến đi một ngày vào nội địa hoang dã của đảo Corse, lúc nào cô cũng dẫn đầu dọc theo con đường đầy bất trắc trên chiếc scooter của cô. Không chỉ một lần cô bực bội vì phải dừng xe tham khảo bản đồ. Kiến thức thuộc hàng bách khoa toàn thư của cô về hòn đảo này trên các phương diện địa lý, lịch sử, văn hóa và ẩm thực được tích lũy trong suốt quá trình nghiên cứu và chuẩn bị kỳ công trong những tuần lễ trước ngày lên đường. Dường như Madeline chẳng hề phó mặc cho may rủi bất cứ việc gì. Nhưng rồi hiếm khi cô làm những việc đã chuẩn bị kỹ. Cô đã đến làm tại trụ sở của đảng tại tòa phức hợp Millbank hai năm trước, sau khi tốt nghiệp Đại học Edinburgh với tấm bằng cử nhân kinh tế và các chính sách xã hội. Mặc dù cô thụ hưởng một nền giáo dục hạng hai - hầu hết đồng nghiệp của cô đều được đào tạo từ các trường công dành cho giới thượng lưu và Oxbridge - cô thăng tiến nhanh chóng qua một loạt chức vụ ở văn phòng trước khi được thăng chức Giám đốc Bộ phận Hỗ trợ cộng đồng. Công việc của cô, như cô thường mô tả, là sục sạo tìm kiếm phiếu bầu trong các tầng lớp người dân Đảo quốc Anh chưa từng làm gì để ủng hộ đảng, cương lĩnh hay các ứng cử viên của đảng. Tất cả đều đồng ý chức vụ đó chẳng qua chỉ là một trạm dừng chân trên hành trình tiến tới những công việc tốt hơn. Tương lai của Madeline thật sáng chói - “rực sáng như mặt trời,” theo lời của Pauline, cô gái từng theo dõi sự thăng tiến của đồng nghiệp trẻ hơn mình với không ít ghen tỵ. Theo lời đồn đại lan truyền, Madeline đã được một nhân vật cao cấp trong đảng bảo bọc che chở. Ai đó thân cận với Thủ tướng. Thậm chí có lẽ chính Thủ tướng. Với ngoại hình ăn ảnh truyền hình, khả năng lập luận sắc bén và tiềm năng vô hạn, Madeline đang được chuẩn bị để ngồi vào một ghế an toàn trong Nghị viện và một bộ của riêng cô. Chỉ là vấn đề thời gian. Hay là người ta đã nói như vậy. Điều càng kỳ quặc hơn nữa là đã hai mươi bảy tuổi mà Madeline Hart, vẫn chưa bị tình cảm lãng mạn ràng buộc. Khi được yêu cầu giải thích về đời sống tình ái khô khan của mình, cô thường tuyên bố vì quá bận rộn nên không thể cặp đôi với đàn ông. Fiona, một người đẹp tóc đen hơi ác mồm ác miệng ở Văn phòng Nội Các, thấy lời giải thích đó thật đáng ngờ. Hơn nữa về điểm này, cô tin rằng Madeline vẫn hay lừa dối - tính hay lừa dối là một trong những tính cách mà Fiona cho là dễ chấp nhận nhất, vì vậy cô mới ưa thích các quan điểm chính trị của đảng. Để chứng minh lập luận của mình, cô thường chỉ ra rằng Madeline, trong khi vẫn nói huyên thuyên về hầu như mọi đề tài có thể nghĩ ra, lại đề phòng thủ thế một cách bất thường khi đề cập tới cuộc sống riêng tư. Đúng thế, Fiona nói, nó sẵn lòng tung ra những chuyện vặt vãnh vô hại thỉnh thoảng xảy ra trong thời thơ ấu không yên lành của mình - ngôi nhà hội đồng*buồn thảm ở Essex, ông bố mà khuôn mặt nó hoàn toàn không thể nào nhớ lại, người anh nghiện rượu cả đời chưa bao giờ làm việc một ngày nào - nhưng mọi chuyện khác nó vẫn giấu kín sau một con hào sâu và những bức tường bằng đá. “Có thể Madeline của chúng ta từng là sát thủ trên tình trường hoặc là gái hạng sang,” Fiona nói, “và bọn mình chả có đứa nào khôn hơn nó.” Nhưng Alison, một nhân viên cấp dưới ở Bộ Nội vụ đã có nhiều đổ vỡ, từng có một lập luận khác. “Con cừu non đáng thương đang yêu,” cô tuyên bố vào một buổi chiều khi ngắm Madeline như một nữ thần hiện lên từ biển cả trong một cái vũng nhỏ xíu bên dưới biệt thự. “Rắc rối là người đàn ông có liên quan không đáp lại ân tình ấy.” “Sao lại không nhỉ?” Fiona hỏi một cách đờ đẫn từ bên dưới cái vành mũ che nắng to tướng. “Có lẽ hắn ở một vị thế không thích hợp.” “Có vợ rồi ư?” “Lẽ đương nhiên là thế.” “Đồ khốn nạn.” “Cô chưa bao giờ sao?” “Từng có quan hệ với đàn ông có vợ ư?” “Phải.” “Chỉ có hai lần thôi. Nhưng tôi đang dự tính làm tiếp tập ba đấy.” “Cô sắp bị hỏa thiêu dưới địa ngục, Fi ạ.” “Tôi thực sự mong như thế đấy.” Chính là lúc đó, vào buổi chiều ngày thứ bảy, và dựa trên chứng cứ mong manh nhất, ba cô gái và hai chàng trai đang lưu trú với Madeline Hart trong biệt thự được thuê ở ven làng Piana đã tự đảm nhiệm việc tìm cho cô ấy một bạn tình. Pauline nói không phải chỉ là bất cứ tình nhân nào. Chàng ta phải phù hợp về tuổi tác, có ngoại hình đẹp và xuất thân thật tốt, tài chính và sức khỏe tâm thần phải ổn định, không có chuyện xấu xa nào phải giấu giếm và không có ả đàn bà nào khác trên giường chàng ta. Fiona vốn giàu kinh nghiệm nhất khi đề cập đến vấn đề của con tim, tuyên bố đấy là một sứ mệnh bất khả. “Hắn không tồn tại,” cô giải thích với nỗi chán chường mệt mỏi của một người đàn bà từng bỏ nhiều thời gian đi tìm tình nhân. “Còn nếu hắn tồn tại thì hoặc là đã có vợ, hoặc quá say mê công việc đến nỗi chả có thời gian trong ngày dành cho Madeline đáng thương.” Mặc cho những nghi ngại của mình, Fiona vẫn cứ đâm đầu vào thách thức, chẳng vì lý do nào khác ngoài việc thêm vào một chút mưu đồ cho kỳ nghỉ hè. May mắn là cô ta không hề thiếu các mục tiêu tiềm tàng, vì dường như một nửa dân số vùng Đông Nam nước Anh đã rời bỏ hòn đảo ẩm thấp của họ để đến với ánh nắng trên đảo Corse. Có một đoàn các nhà tài phiệt ở Khu Trung tâm thành phố London đã thuê một khu vực sang trọng ở đầu phía Bắc của Vịnh Porto. Và một đám họa sĩ đang sống như dân Gypsy trong một thị trấn trên đồi ở Castagniccia. Một đoàn làm phim tiếp tục lưu trú trên bãi biển Campomoro. Và một phái đoàn các chính khách đối lập đang mưu toan trở lại nắm lấy quyền lực trong một biệt thự trên đỉnh các mỏm đá ở thị trấn Bonifacio. Dùng danh nghĩa của Văn phòng Nội Các, Fiona đã nhanh chóng sắp xếp một loạt các cuộc gặp gỡ xã giao ngẫu hứng. Và trong mỗi dịp như thế - dù là một bữa tiệc tối, một cuộc đi bộ đường trường trên vùng rừng núi hoặc một buổi chiều say sưa túy lúy trên bãi biển - cô đều gài bẫy một anh chàng hiện diện đủ tư cách nhất và xếp đặt chàng ta bên cạnh Madeline. Tuy nhiên chả có ai vượt qua nổi cửa ải của cô nàng, ngay cả anh chàng diễn viên trẻ tuổi vừa mới hoàn thành thắng lợi cuộc đua vào vị trí dẫn đầu làng âm nhạc của khu Tây London với những bài hát được ưa thích nhất mùa hè này. “Rõ là cô ấy cho rằng việc này không hay,” Fiona thừa nhận khi họ quay đầu xe trở về biệt thự vào một đêm muộn nọ, với Madeline dẫn đường xuyên qua bóng tối trên chiếc scooter màu đỏ của cô. “Cô đoán xem anh ta là ai?” Alison hỏi. “Chả biết,” Fiona đáp, kéo dài ra với vẻ ghen tỵ. “Nhưng hắn ta chắc hẳn là ai đấy hoàn toàn đặc biệt.” Chính vào thời điểm này, khi chỉ còn khoảng chưa đấy một tuần trước khi họ trở về London như dự định, Madeline bắt đầu dành khá nhiều thời gian cho riêng mình. Mỗi buổi sáng cô ra khỏi biệt thự rất sớm, thường trước khi những người khác thức giấc, và trở về lúc đã xế chiều. Khi được hỏi đã đi những nơi nào, rõ là cô chỉ đáp mập mờ, và vào bữa ăn tối cô thường buồn rầu hay lo lắng. Alison lẽ tự nhiên đã lo sợ điều tệ hại nhất, rằng tình nhân của Madeline, dù là ai cũng vậy thôi, đã gửi tới cô ấy lời nhắn rằng sự quan tâm của cô là điều không cần thiết nữa. Nhưng ngày hôm sau, lúc trở về biệt thự sau một chuyến tham quan mua sắm, Fiona và Pauline vui vẻ tuyên bố rằng Alison đã nhầm. Dường như tình nhân của Madeline đã đến đảo Corse. Và Fiona còn có hình ảnh làm bằng chứng. Chuyện họ trông thấy đã xảy đến lúc hai giờ mười phút trong nhà hàng Les Palmiers, trên Bến cảng Adolphe Landry ở thị trấn Calvi. Madeline ngồi ở một cái bàn kê dọc theo mép bến tàu, đầu hơi quay về phía biển như thể không biết đến người đàn ông ngồi ở ghế đối diện. Cặp kính đen to lớn giấu kín đôi mắt. Một cái mũ rơm rộng vành thắt nơ con bướm màu đen thật khéo phủ bóng mát xuống khuôn mặt hoàn mỹ của cô. Pauline đã cố tiến sát lại gần cái bàn đó, nhưng Fiona cảm thấy có chuyện riêng tư căng thẳng trong khung cảnh ấy nên đã đề nghị một cuộc rút lui vội vã thay vào đó. Cô đã tạm dừng một thời gian vừa đủ để lén chụp thật nhanh tấm ảnh đầu tiên nhằm buộc tội bằng chiếc điện thoại di động của cô. Madeline có vẻ chẳng biết gì về vụ xâm phạm đời tư này, nhưng người đàn ông thì không. Ngay giây phút Fiona bấm nút chụp hình, đầu anh ta quay ngoắt đi, như thể cảnh giác bởi một bản năng động vật nào đó khi hình ảnh của mình bị bắt giữ trong một thiết bị điện tử. Sau khi tạm lánh sang một quán bia ngoài trời gần đó, Fiona và Pauline xem xét kỹ người đàn ông trong ảnh chụp. Mái tóc màu vàng khói, phất phơ trong gió và đầy nam tính. Nó xõa xuống trước trán, chỉnh lại một khuôn mặt góc cạnh bị chi phối bởi một cái miệng nhỏ trông có vẻ khá tàn bạo. Trang phục tựa như người miền biển: quần dài trắng, một cái áo sơ mi bằng vài oxford sọc xanh, một đồng hồ đeo tay to của thợ lặn, một đôi giày vải đế bằng phẳng không để lại dấu vết nào trên boong tàu. Hắn ta là hạng đàn ông kiểu ấy đấy, họ quả quyết. Một người đàn ông không bao giờ để lại dấu vết. Họ đoán hắn là thần dân Vương quốc Anh, mặc dù vẫn có thể là người Đức hay Bắc Âu, hoặc có lẽ như Pauline nghĩ, là hậu duệ của quý tộc Ba Lan. Tiền tài rõ ràng chẳng phải là vấn đề, minh chứng bởi chai rượu champagne đắt tiền đang đọng những giọt sương trong cái xô đá bằng bạc neo chặt vào cạnh bàn. Tài sản do hắn kiếm được chứ chẳng phải nhờ thừa kế, họ quả quyết, và không hoàn toàn trong sạch. Hắn là một con bạc. Có tài khoản ngân hàng ở Thụy Sĩ. Hắn thường du hành đến những nơi nguy hiểm. Chủ yếu là người biết suy xét cẩn trọng. Các công việc của hắn cũng giống như đôi giày vải đi trên tàu bè chẳng để lại một dấu vết nào. Nhưng chính hình ảnh của Madeline khiến họ bận tâm suy nghĩ nhiều nhất. Cô ấy chẳng còn là cô gái họ từng quen biết từ lúc còn ở London, hay thậm chí cô gái hai tuần qua từng ở chung trong một biệt thự. Dường như cô nàng đã xử sự theo một cách hoàn toàn khác hẳn. Một nữ diễn viên trong một cuốn phim khác. Người phụ nữ khác. Giờ đây, Fiona và Pauline đang suy đoán trên điện thoại di động như một cặp nữ sinh trung học, hai người tự viết lời thoại rồi thêm thắt phần xương thịt vào để dựng nên các nhân vật. Trong phiên bản câu chuyện này của họ, vụ việc đã bắt đầu một cách vô tội vạ với cuộc gặp gỡ tình cờ trong một cửa hàng dành riêng cho giới thượng lưu ở Phố New Bond. Cuộc tán tỉnh đã kéo dài, việc đạt mục đích mỹ mãn được hoạch định thật chu đáo. Nhưng đoạn kết của truyện tạm thời họ không nắm bắt được, vì trong đời sống thực nó vẫn chưa được viết ra. Cả hai cô đều đồng ý kết cục sẽ bi thảm. “Đấy là cách những truyện như thế này vẫn luôn kết thúc,” Fiona nói từ kinh nghiệm bản thân. “Con gái gặp con trai. Con gái phải lòng con trai. Con gái bị tổn thương và làm hết sức mình để hủy hoại con trai.” Fiona nhanh tay chụp thêm hai tấm hình của Madeline và tình nhân chiều hôm đó. Một tấm cho thấy họ đang dạo bước dọc theo bến cảng dưới bầu trời rực nắng, những khớp ngón tay len lén chạm vào nhau. Tấm hình thứ nhì chụp cành họ chia tay chẳng có một nụ hôn nào. Người đàn ông sau đó leo xuống một cái xuồng nhỏ hiệu Zodiac và bơi ra bến cảng. Madeline lên chiếc scooter màu đỏ của mình và nổ máy trở về biệt thự. Lúc về tới nơi cô không còn sở hữu cái mũ rộng vành thắt nơ con bướm màu đen thật khéo. Đêm hôm ấy khi điểm lại những sự việc vào buổi chiều của mình, cô chẳng hề đề cập đến một chuyến viếng thăm thị trấn Calvi, hoặc một bữa tiệc trưa với một người đàn ông có vẻ sung túc ở nhà hàng Les Palmiers. Fiona nghĩ đó là một màn trình diễn khá ấn tượng. “Madeline của chúng ta là một đứa nói dối tài giỏi phi thường,” cô nói với Pauline. “Có lẽ tương lai của nó xán lạn như người ta bảo. Ai biết được chứ? Thậm chí một ngày nào đấy nó có thể làm Thủ tướng ấy chứ.” Đêm hôm ấy bốn cô nàng xinh đẹp và hai anh chàng đứng đắn dự định ăn tối ở thị trấn Porto gần đó. Madeline đặt chỗ trước bằng thứ tiếng Pháp của các nữ sinh trung học và thậm chí còn bắt chủ nhà hàng giữ lại bàn tuyệt vời nhất của ông ta, đặt trên sân thượng có thể nhìn thấy toàn cảnh con đường đầy sỏi đá vòng quanh vịnh. Họ cứ tưởng sẽ tới nhà hàng theo như dự định của đoàn, nhưng trước bảy giờ một chút, Madeline lại thông báo sẽ đến thị trấn Calvi để uống rượu với một người bạn cũ từ thành phố Edinburgh tới. “Tôi sẽ gặp các bạn ở nhà hàng,” cô ngoái đầu lại la lớn rồi phóng nhanh ra khỏi lối vào biệt thự. “Trời đất ơi, cố gắng để đến đúng giờ là điều không thể.” Rồi sau đó cô đi mất. Chẳng ai nghĩ là kỳ quái khi cô không thể xuất hiện để dùng bữa đêm hôm đó. Họ cũng chẳng hề hốt hoảng khi thức giấc và thấy giường cô trống không. Đã có một mùa hè như thế, và Madeline là một cô nàng như thế.   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Người Anh của tác giả Daniel Silva & Hoài Ngọc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiếc Âu Vàng - E.T.A. Hoffmann
Chiếc âu vàng là một trong những áng văn xuôi hay nhất của nước Đức trong thế kỷ XIX, tinh hoa của một trí tưởng tượng cực kỳ phong phú và khoáng đạt, đầy sức hấp dẫn bởi sự biến hóa khôn lường giữa cái ảo và cái thực, giữa vô thức và hữu thức, giữa cái nội tại và cái ngoại tại. Hai trăm năm qua, Chiếc âu vàng - món quà tặng của tình yêu luôn được nhìn nhận là tuyệt tác của nhà ảo thuật phương Đông (Nhà văn Pháp H. Balzac ca ngợi Hoffmann là “nhà ảo thuật phương Đông”)... Có người nói, Hoffmann là nhà văn lãng mạn - huyễn tưởng, thậm chí có nhà nghiên cứu coi ông như một bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, và gần đây nhất, trong một công trình giới thiệu Hoffmann với đông đảo bạn đọc Đức qua tủ sách phổ thông Reclam, nhà phê bình K. Nussbaecker còn khẳng định tác phẩm Chiếc âu vàng là một điển hình của chủ nghĩa siêu thực trong văn học. *** Ernst Theodor Amadeus Hoffmann sinh ngày 24.1.1776 tại Königsberg, là nhà văn được giới văn học sử nhất trí tôn vinh là một thiên tài đa dạng trong giai đoạn văn học lãng mạn Đức thế kỷ 19. Ông là luật sư, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà phê bình âm nhạc, giám đốc nhà hát, nhạc trưởng... và nổi bật hơn cả là một cây bút danh tiếng có sức mê hoặc người đọc cùng thời và có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến các trào lưu lãng mạn ở Đức và châu Âu. Với hai cuốn tiểu thuyết Rượu trường sinh của quỷ (Die Elixiere des Teufels, 1816), Quan niệm sống của chú mèo Murr (Lebensansichten des Katers Murr, 1819 - 1821) và hơn 70 truyện vừa và truyện cổ tích văn học (trong đó có những tác phẩm nổi tiếng thế giới như Chiếc âu vàng (Der goldene Topf, 1814), Vua chuột và chàng cắn hồ đào (Nußknacker und Mausekưnig, 1816), Zaches Tí Hon mệnh danh Zinnober (Klein Zaches, genannt Zinnober, 1819), Thống lĩnh Bọ Chét (Meister Floh, 1822), Tiểu thư Scuderi (Das Fräulein von Scudéry, 1819)..., được sáng tác trong vòng 13 năm cuối đời, E.T.A. Hoffmann ngay lúc sinh thời đã là một nhà văn có sách bán chạy nhất nước Đức, là một cây bút luôn được người đọc ở trong và ngoài nước đón đợi, ái mộ và tán thưởng. Các truyện cổ tích văn học của Hoffmann được nhiều nhà phê bình Đức đánh giá là những tác phẩm bậc thầy trong làng văn học lãng mạn và huyễn tưởng mà đỉnh cao, tiêu biểu nhất là câu chuyện tình hấp dẫn và kỳ thú Chiếc âu vàng. Bằng giọng văn bi hài và giầu chất men say của một cây bút thường sáng tác văn chương trong trạng thái ngà ngà, say say, tỉnh tỉnh, E.T.A. Hoffmann đã rất tài tình pha trộn màu sắc và âm thanh của thế giới hiện thực với thế giới huyền ảo, mộng mị và có chút ma quái cuốn hút người đọc vào một câu chuyện tình đầy vẻ huyền bí và biến ảo khôn lường của chàng sinh viên Anselmus với hai người đẹp là Veronika, con gái rượu của viên hiệu phó Paulmann và Serpentina, một con rắn xanh óng ánh vàng và là con gái của hỏa thần Lindhorst - một vị thần vì tình yêu đã phạm tội và bị lưu đầy xuống thế giới trần tục của con người. Chuyện tình của Anselmus là câu chuyện của một tâm hồn nghệ sĩ bị giằng xé, vật vã giữa thế giới vật chất và tinh thần, giữa khát vọng về một cuộc sống cao đẹp hài hòa với thiên nhiên trong trí tưởng tượng bay bổng của thi ca với đời sống thường nhật tẻ nhạt, háo danh, háo lợi và đầy những toan tính thấp hèn. Và cuối cùng, sau biết bao thử thách cam go và đau khổ, sau những cuộc chiến ác liệt giữa ác thần (dưới hình dạng một mụ già bán táo và phù thủy) và hỏa thần (người dẫn lối cho Anselmus đến xứ sở thần tiên trong trí tưởng tượng của thi nhân), chàng sinh viên thông minh nhưng vụng về và lạc lõng trong đời thực đã đến được nơi chàng hằng ước mơ... Trong một lần đề cập đến nguyên tắc sáng tác, Hoffmann đã phát biểu: “Tôi cho rằng, nền tảng của chiếc thang bắc lên trời mà người ta muốn trèo lên, vươn tới những miền cao cả hơn phải bám chắc vào cuộc sống để mỗi người đọc đều muốn trèo lên theo. Và khi con người trèo lên cao, cao hơn, cao hơn nữa và thấy mình đang ở trong một vương quốc kỳ diệu, huyễn tưởng, con người sẽ tin rằng cả vương quốc này cũng vẫn thuộc vào cuộc sống của mình và nó lại là cái phần kỳ diệu, tuyệt vời nhất của cuộc sống”. Hoffmann đã dũng cảm lên tới được nơi chốn huyền diệu nhất của con người và để lại cho văn chương nhân loại nhiều tác phẩm kỳ thú, trong đó, tác phẩm Chiếc âu vàng được chính Hoffmann đánh giá là sáng tác thành công nhất của cả cuộc đời mình. Giới phê bình Đức cũng nhất trí với Hoffmann cách đánh giá như vậy và còn bổ sung thêm: Chiếc âu vàng là một trong những áng văn xuôi hay nhất của nước Đức trong thế kỷ XIX. Đó là tinh hoa của một trí tưởng tượng cực kỳ phong phú và khoáng đạt bay vút lên từ hiện thực cuộc sống và xã hội thời đại ông, là một tác phẩm tài hoa trong nghệ thuật cấu trúc, đầy sức hẫp dẫn bởi sự biến hóa khôn lường giữa cái ảo và cái thực, giữa vô thức và hữu thức, giữa cái nội tại và cái ngoại tại, và cũng rất đặc biệt, bởi nó được sáng tác bằng tâm hồn của một nhạc sĩ kiêm nhạc trưởng dàn nhạc có tên là E.T.A. Hoffmann, một tài năng âm nhạc có nhiều nhạc phẩm đáng kính nể với vô số các bản giao hưởng, nhạc thính phòng và các vở nhạc kịch, trong đó vở ôpera Udine của ông hoàn toàn xứng đáng với thiên tài âm nhạc Mozart mà ông từng tôn thờ. Hơn nữa, Chiếc âu vàng cũng như nhiều tác phẩm văn chương khác còn được sáng tác bằng con mắt tinh tường và sắc sảo của một họa sĩ, một nhà đồ họa và một nhà vẽ tranh biếm họa có biệt tài hài hước và châm biếm có tên là E.T.A. Hoffmann. Vì vậy, văn chương ở đây là sự hội tụ của thơ, của nhạc và của hội họa trong cùng một con người lạ lùng ấy. Hai trăm năm qua, Chiếc âu vàng - món quà tặng của tình yêu - luôn được nhìn nhận là tuyệt tác của nhà ảo thuật phương Đông[1]. E.T.A. Hoffmann đã và vẫn đang là đối tượng nghiên cứu với nhiều mâu thuẫn của giới phê bình văn học, nhất là trong việc xác định vai trò lịch sử và vị trí của ông trong truyền thống văn chương Đức. Có người nói Hoffmann là nhà văn lãng mạn - huyễn tưởng, thậm chí có nhà nghiên cứu coi ông như một bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, và gần đây nhất, trong một công trình giới thiệu Hoffmann với đông đảo bạn đọc Đức qua tủ sách phổ thông Reclam, nhà phê bình K. Nussbaecker còn khẳng định tác phẩm Chiếc âu vàng là một điển hình của chủ nghĩa siêu thực trong văn học. Dù sao, thời gian cũng đã chứng minh một cách đầy thuyết phục nhận định của văn hào Áo Stefan Zweig: Ai đã vượt qua được thử thách một trăm năm, người đó sẽ vượt qua mãi mãi và tồn tại. E.T.A. Hoffmann là một người như thế. Cùng với Goethe, Schiller, Heine, ông thuộc vào số ít những cây đại thụ của thời hoàng kim văn chương Đức mà tác phẩm được tôn vinh là những kiệt tác văn chương thế giới. Ngày 25 tháng 6 năm 1822, E.T.A. Hoffmann đã ra đi vĩnh viễn, ngọn lửa kỳ ảo Hoffmann vụt tắt trong tiếng nhạc chuông thủy tinh du dương và tiếng vọng của màu Xanh huyền bí mà ông đã từng viết cho đời: - Ôi! Màu Xanh, màu Xanh! Màu Xanh mẹ hiền của tôi! - Xin hãy đón tôi vào vòng tay của mẹ!... Hà Nội, ngày 30/11/2011 QUANG CHIẾN Mời các bạn đón đọc Chiếc Âu Vàng của tác giả E.T.A. Hoffmann.
Ảo Hỏa - Hermann Hesse
Ảo hóa, một truyện ngắn chỉ vài mươi trang nhưng nó giúp chúng ta vỡ lẽ triết lý “Tánh Không" của Đạo Phật: “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành thức cũng lại như vậy". Có thế nói, khi đọc đến chứ cuối cùng của tác phẩm này, Ảo hóa đã đem lại cho người đọc sư vỡ òa của trí tuệ, giúp nhìn rõ thưc tánh “không có chỉ bên" của vạn vật, giống như là vừa tung xong bài “Bát nhã Tâm Kinh". *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana. Ravana có một người con trai tên Dasa. Mẹ Dasa chết sớm, vương tử cưới một người vợ khác. Sau khi người đàn bà đẹp và tham vọng này sinh được một con trai, bà đâm ra thù ghét Dasa. Bà muốn cho Nala, con mình kế vị, nên âm mưu chia rẽ cha con Dasa, và chờ cơ hội thanh toán cậu bé. Trong triều, có một người Bà-là-môn, tên Vasudeva, viên quan coi về tế tự, biết được âm mưu của bà. Ông thương tình cậu bé, người mà ông thấy có khuynh hướng sùng tín và đức công bằng giống mẹ. Ông trông chừng cho Dasa khỏi bị hại, và chờ dịp đưa cậu ra khỏi tầm tay mẹ ghẻ. Bấy giờ vua Ravana sở hữu một đàn bò được xem là thiêng liêng. Sữa và bơ của chúng dùng để tế thần. Những đồng cỏ tốt nhất trong xứ dành cho những con bò ấy. Một ngày kia, người chăn bò đem sữa về kinh, báo cáo rằng trong vùng bò đang ăn cỏ, có những dấu hiệu sắp hạn hán. Do đó, đoàn người chăn dẫn bò lên những dãy núi cao, ở đó nước và cỏ luôn luôn sẵn sàng ngay cả vào những thời khô ráo nhất. Người Bà-la-môn đã quen biết người chăn bò này từ lâu, anh ta là một người đáng tin cậy. Ông cho anh ta biết dự định của mình. Hôm sau, khi hoàng tử bé Dasa biến mất, thì chỉ có ông và người chăn ấy biết được lý do bí ẩn của sự mất tích. Người chăn bò đem cậu bé theo lên núi rừng. Họ theo kịp đàn bò di chuyển chậm chạp. Dasa sung sướng được gia nhập đoàn mục tử. Cậu phụ giúp thả bò, vắt sữa, chơi với những con bê, và lang thang khắp những đồng cỏ trên núi, uống sữa tươi ngọt ngào. Những bàn chân trần của cậu lấm đầy phân bò. Cậu thích đời sống mục tử này, dần quen với rừng núi và những cây trái, hoa cỏ của nó. Cậu nhổ những củ sen ngọt trong ao đầm, và vào những ngày lễ hội, cậu đeo một tràng hoa rừng đỏ chói. Cậu trở nên quen thuộc với đường đi lối về của thú rừng. Tập tránh cọp, chơi với những con sóc và nhím. Mùa mưa cậu ở trong căn nhà lá, mà ở đó bọn chăn bò chơi cờ, hát hoặc đan giỏ hay chiếu cói. Dasa không hẳn quên hết đời sống vương giả của mình trước đấy, nhưng chẳng mấy chốc những thứ này đối với cậu dường như một giấc chiêm bao. Một ngày kia, khi đàn bò đi đến một vùng khác, Dasa vào rừng để tìm mật. Từ ngày biết núi rừng, cậu đã bắt đầu thích; nhưng đặc biệt khu rừng này, cậu thấy nó đẹp lạ. Những tia nắng lượn khúc qua những cành lá trông như những con rắn vàng. Những tiếng của rừng, tiếng chim hót, tiếng xào xạc của những ngọn cây, tiếng của những con khỉ quyện vào nhau thành một mạng lưới âm thanh êm dịu trong sáng, giống như ánh sáng giữa những cành cây. Những mùi hương cũng vậy, hoà vào nhau rồi lại phân tán: hương của hoa rừng, của những loại cây, lá, nước, rêu, thú vật, trái cây và của đất, vừa cay nồng vừa dịu ngọt, vừa hoang dã vừa thân thiết, vừa kích thích vừa thoa dịu, vừa buồn vừa vui. Dasa quên mất việc tìm mật. Trong khi lắng nghe tiếng hót của những con chim nhỏ màu sáng như ngọc, cậu chú ý đến một đường mòn giữa những cây phong chót vót, trông như một cụm rừng nhỏ ở trong khu rừng lớn. Đấy là một lối đi rất nhỏ hẹp, cậu im lặng rón rén bước theo dấu đường mòn, và đến một cây bàng có nhiều nhánh lớn. Dưới gốc cây, có một cái chòi nhỏ, một túp lều đan bằng lá dương xỉ. Cạnh túp lều, một người đàn ông đang ngồi bất động, lưng thẳng tuột, hai bàn tay đặt trên đôi chân bắt chéo. Dưới mái tóc bạc trắng và vầng trán rộng, đôi mắt bất động của ông tập trung trên mặt đất. Đôi mắt ấy đang mở, nhưng như nhìn vào bên trong. Dasa nhận ra rằng đấy là một người thánh thiện, một người tu phái Yoga. Trước đấy cậu đã thấy những người như vậy, đó là những người được ân sủng của thần linh, đáng được tôn trọng, cúng dường. Nhưng người cậu đang thấy đây, ngồi trước túp lều được lợp rất đẹp và ở nơi kín đáo này, hoàn toàn bất động như thế, đăm chiêu trong thiền định - người này càng lôi cuốn cậu bé hơn bất cứ người nào cậu đã gặp. Ông ta dường như bay lượn trên mặt đất, trong khi đang ngồi đấy, và dường như cái nhìn xa xăm của ông, thấy và biết mọi chuyện. Một hào quang của sự thánh thiện vây phủ ông, một phép mầu của sự tôn nghiêm lan toả làm cho cậu không dám phá tan bằng một lời chào hay một tiếng kêu. Vẻ uy nghiêm của người ông, ánh sáng nội tâm rạng ngời trên gương mặt ông, mãnh lực tâm linh toát từ nơi ông khiến Dasa có cảm tưởng đây là một con người mà, chỉ cần móng một niệm nghĩ, không cần phải ngước mắt lên, cũng có thể sinh và sát được cái gì ông muốn. Người ẩn sĩ ngồi bất động hơn cả cây cối mà những cành lá còn lay động trong hơi thở của gió. Người này ngồi bất động như một pho tượng đá, và từ khi thấy người ấy, cậu bé cũng đứng bất động, say mê, như bị bùa lực lôi cuốn. Cậu đứng nhìn chòng chọc vào vị thầy. Cậu thấy một đốm sáng mặt trời trên vai ông ta, một đốm sáng trên một bàn tay buông thõng của ông, cậu trông thấy những điểm sáng di động ẩn rồi hiện, nhưng những thứ này không làm vị ấy cử động, cũng như tiếng chim hót và tiếng của những con khỉ từ các khu rừng xung quanh. Một con ong rừng đến đậu trên má ông, đánh hơi làn da ông, bò một đoạn ngắn trên má ông rồi vụt bay đi. Nhà ẩn sĩ vẫn ngồi bất động trước tất cả sự sống động đủ màu sắc của khu rừng. Tất cả cảnh tượng này, những gì mắt có thể thấy, tai có thể nghe, những cái đẹp và xấu, đáng yêu hay kinh khủng, đều không mảy may liên hệ đến con người thánh thiện này. Toàn thể thế giới xung quanh ông đã trở thành bề mặt vô nghĩa lý. Cậu bé mục tử có gốc gác vương giả tưởng chừng như vị ẩn sĩ này đã lặn sâu xuống dưới lớp bề mặt của cuộc đời và đi vào bản thể của mọi sự. Một điều lạ lùng, trong khi đứng đấy, cậu bỗng nhớ lại gốc gác vương giả của mình. ... Mời các bạn đón đọc Ảo Hỏa của tác giả Hermann Hesse.
Ánh Nắng Nhiệm Màu - Chân Phương
Đến đại lộ Cộng Hòa lúc nào cũng không hay, Hiệp theo thói quen cho xe chạy chậm lại. Đây là một trong những con đường còn xứng danh là một đại lộ của Đô thành, có đường rộng cho xe lớn lướt vội vàng, có lối thênh thang cho xe hai bánh chạy ung dung, có lề lót gạch phẳng phiu và nhất là có bóng mát, thật nhiều bóng mát cho người đi bộ. Ở đây, mỗi người cất bước là một vì vương tiến giữa hai hàng cây sừng sững như những tên lính khổng lồ đứng thẳng tắp giương lên thật cao những chiếc lọng thiên nhiên lợp bằng lá cây xanh ngắt. Dù bận đến đâu, Hiệp cũng không nỡ cho xe chạy nhanh trong cái khung cảnh êm đềm ấy. Nó gợi lại trong đầu chàng bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào của thời thơ ấu. Bao nhiêu buổi sáng mát rượi, bao nhiêu buổi chiều dìu dịu, chàng đã được cùng các bạn nô đùa thỏa thích nơi đây trong khi ở đàng kia, không xa, trời nắng như đổ lửa. Hiệp mỉm cười ôn lại những trận đấu sức cùng các bạn ngày nào trong bóng cây râm mát. Bỗng chàng giật mình thấy một toán sáu bẩy cậu học sinh trạc 14, 15 tuổi đang sắp sửa dánh nhau. Đánh nhau thật sự chứ không phải giả ngộ như ngày xưa chàng nô giỡn cùng chúng bạn. Một bên hai cậu, một bên đông gấp đôi, bốn cậu, đã quăng cặp xuống đường, sắp xông vào đấm đá. Hiệp ngừng xe, chưa kịp chạy lại can thiệp đã thấy từ đâu phóng tới một cậu học sinh thứ bẩy cũng trạc tuổi sáu cậu kia. Cậu này giang hai tay tách sáu người ra làm hai toán. - Thôi – cậu ôn tồn nói – cho tôi xin đi, anh em cả mà, đánh nhau chi cho mệt, kỳ lắm! Hiệp ngạc nhiên, bụng bảo dạ tiếng ai nghe quen quen như tiếng thằng Thuận. Vẫn ngồi yên trên xe lúc này đã đậu sát lề, chàng gỡ cặp kính râm ra coi, thấy quả là cháu mình, lại đeo kính lên, lặng yên thử xem nó hòa giải các bạn của nó ra sao. Thuận, một tay cầm cặp, vẫn tươi cười giang rộng hai tay như một đôi cánh xòe ra giữa hai toán đứng ngó nhau gườm gườm. Quay sang bên phải, nó bảo hai cậu vốn là bạn cũ ở gần nhà: - Thiết, Thực, hai bác đang trông ở nhà kìa! Nghỉ hai giờ cuối, sao còn lạng quạng ở đây? Về nhà lẹ đi kẻo hai bác la cho đó! Rồi quay sang bên trái, nó ngạc nhiên nhận được một người quen: - Ủa! Lợi hả? – nó hỏi – Giờ này chưa đi học sao? Hà hà, anh phải mách anh Lộc trị tội cậu này mới được! - Giáo sư bệnh – Lợi vội bào chữa – chúng em cũng được nghỉ hai giờ chót mà. - Ờ, thôi được – Thuận nói – Lợi về đi. Cả ba anh nữa. Học trò với nhau cả mà, ai lại nói chuyện phải trái với nhau bằng đấm đá bao giờ! Thằng Lực, to con và vẻ mặt ba trợn nhất trong đám bạn thằng Lợi, định sừng sộ. Thằng Lợi vội gạt đi, cướp lời: - Vâng, vâng, chúng em về… Dĩ hòa vi quý mà anh! Trong khi hai anh em thằng Thiết dắt nhau đi vô hướng đường Lý Thái Tổ thì Thuận rảo bước đi còn ngoái lại bảo Lợi: - Lợi vô nói với anh Lộc tối nay ghé chơi anh Thuận nghe! - Dạ, anh Thuận nhớ đừng mách anh em đấy nhé. - Ờ! Hiệp mỉm cười, sắp nổ máy cho xe chạy, bỗng ngưng lại lắng tai nghe. - Lợi, thằng nào đó? – Lực hậm hực hỏi bạn – Thằng Thuận nào mà mày có vẻ ngán dữ vậy? - Anh Thuận bạn thân của anh Lộc tao đó. Khỏe lắm mày ơi! Mày đánh không lại đâu! - Nhưng tao không thích nó can cái kiểu đàn anh ấy – Lực vẫn ấm ức nói – Đánh không lại, tao cũng không ngán. Thằng Lợi cười cười: - Biết rồi. tao thấy bộ dạng mày muốn ăn đòn nên phải cướp lời không để cho mày gây sự. Bộ mày chưa nghe tiếng Thuận đầu bò sao? - Chưa, nó ghê gớm như thế nào, nói tao nghe đi. - Oai hùng không thể tả! – Lợi ba hoa kể – Chẳng những một mình thằng Lực chả đi đến đâu, cho luôn cả ba thằng chúng mày xúm vào, ảnh cũng đá bay trong nháy mắt. Đến anh Lộc tao sừng nhất trường, muốn hạ tụi du đãng choai choai xóm Sáu Lèo để cho các em lớp Sáu khỏi phải nạp tiền mãi lộ, còn phải nhờ anh Thuận giúp một tay mới xong. Chúng mày biết không, năm sáu thằng đen chùi chũi và đô thật là đô, có cả dao con chó nữa, thế mà hai anh ấy tay không đánh cho một trận bò lê bò càng, cạch không dám bắt nạt và làm tiền các em nhỏ nữa… Thằng Chi nãy giờ đứng im, lên tiếng hỏi: - Thằng chả cùng học với anh mày ở Chu văn An hả, Lợi? - Đâu có! - Nhưng chắc cũng trên chúng mình vài lớp? – Chi hỏi gặng. ... Mời các bạn đón đọc Ánh Nắng Nhiệm Màu của tác giả Chân Phương.
Xứ Sở Của Những Người Ngáp - Azit Nexin
Aziz Nesin, đọc là Azit Nexin hay Azit Nêxin, (tên khai sinh là Mehmet Nusret; 20 tháng 12 năm 1915 — 6 tháng 7 năm 1995) là một nhà văn châm biếm được ngưỡng mộ ở Thổ Nhĩ Kỳ và là tác giả của hơn 100 cuốn sách. Thường được gọi với cái tên "Aziz Nesin", đây nguyên là tên cha ông, được Nesin sử dụng làm bút danh khi bắt đầu sáng tác. Ông đã sử dụng hơn năm mươi bút danh, như "Vedia Nesin", tên người vợ đầu, cho những bài thơ tình được xuất bản trên tạp chí Yedigün. Tập truyện cười Xứ Sở Của Những Người Ngáp này gồm có: Xứ sở của những người ngáp Quê ta vạn tuế Có nên làm bác sĩ không, con? Không thể thành người Phải ho lao mới được Xót tiền dân Thanh tra sắp đến Cả một ổ Nếu tôi là đàn bà Những điều trớ trêu của kỹ thuật Chuyện vợ chồng Giá không có ruồi! Anh lính Mêmét làng Êmét Lỗi tại anh Chỉ mỗi đồng lương Ông vua và con rệp béo nhất thế giới Chiếc đèn đường và phố chúng tôi Chúng ta cũng bay lên mặt trăng Lũ người chúng ta! Giấc mơ Mỹ Chuyện đó không liên quan đến tôi Nhà hiền triết và hai người bạn Người thay cả dàn nhạc Ngài - Còi Thôi thì ở lại Lên giá đến nơi rồi! Biết ơn vạn bội Chỉ tại trời mưa *** Khi anh bị mất việc, cuộc sống của anh bắt đầu gặp khó khăn. Nhưng giải thích cho những ông bạn ưa tò mò biết nguyên nhân tại sao anh mất việc, mới thật khó khăn hơn nhiều. Không! Lần này nhất định tôi sẽ chẳng hở cho ai biết chuyện gì đã xảy ra với tôi cả. Mọi lần, có chuyện gì không may là tôi cứ hay đi kể lể với những người quen, vì hy vọng biết đâu có thể có người giúp đỡ tôi! Nhưng cũng có khi chỉ vì muốn cho khuây khỏa nỗi buồn. Nhưng khốn nỗi, cứ mỗi lần như thế tôi lại bị họ lục vấn đủ điều, cố tìm cho bằng được nguyên nhân nỗi bất hạnh của tôi, để rồi cuối cùng, chẳng biết thế nào, chính tôi lại bị xem là kẻ có tội trong mọi chuyện không may ấy! - Đấy, - Họ bảo tôi - giá mà anh không làm như thế, như thế, như thế... thì đời nào ông chủ lại đuổi. Mà một khi anh đã cả gan làm những chuyện như vậy, thì lỗi là tại anh rồi còn quái gì! Chính anh có lỗi thôi! Cuối cùng, bao giờ họ cũng kết án tôi như vậy, và vẻ hài lòng hiện rõ ra mặt. Hôm ấy tôi vừa đi ngoài phố vừa miên man suy nghĩ về chuyện làm ăn, thì bất thình lình có người đập mạnh vào vai. Tôi ngoảnh lại hóa ra ông bạn Ôxman Kêman. Anh ta vui vẻ đi bên cạnh tôi. Chợt nhìn thấy bộ mặt buồn rầu thiểu não của tôi anh cụp ngay mắt xuống, thay đổi hẳn vẻ mặt và bảo: - Tôi hiểu!... - Anh ta nói một cách ấp úng. Nghĩa là anh biết chuyện tôi bị đuổi khỏi chỗ làm. Nếu vậy thì không thoát được rồi! Thế nào anh ta lại sắp tra khảo tôi, tìm cách chứng minh cho tôi biết rằng chính tôi là kẻ có lỗi đấy cho mà xem! Cái vẻ mặt buồn rầu giả tạo thật chẳng ăn khớp một tí nào với cái ánh mắt long lanh vui sướng mà anh ta không che giấu nổi. Tôi cố làm ra vẻ không hiểu câu “Tôi hiểu” của anh ta và hỏi: - Anh làm sao thế? Hay có chuyện gì không vui? - Không, tôi chẳng làm sao cả! Nhưng tôi nghe nói là anh lại vừa bị mất việc thì phải. - Anh ta đáp. - Cũng không sao! - Tôi cố làm ra vẻ thản nhiên, vì không muốn tiếp tục cái vấn đề này. - Sao lại không sao? - Anh ta đứng ngay giữa phố, mồm cứ bô bồ kêu “trời ơi”, rồi đề nghị tôi: - Thôi, chúng mình vào tiệm làm một tách cà phê đi, rồi cậu kể cho tôi xem đâu đuôi thế nào nào? - Có gì đâu mà kể! - Tôi đáp. - Sao lại không có gì đâu! Chà, xem cậu bắt đầu giống ai rồi nào? Thôi, ta đi đi! Cậu cứ kể hết cho mình nghe, rồi tự khắc cậu sẽ thấy khuây khỏa ngay thôi mà. - Anh cứ làm như có thể thay đổi được cái gì không bằng. - Cậu làm mình giận đấy... Chả lẽ mình không phải là bạn cậu hay sao? Thế là tôi đành vào quán với anh ta. - Nào bây giờ thì cậu kể cho mình xem có chuyện gì xảy ra đi! - Anh ta nói, khi chúng tôi bắt đầu nhấm nháp ngụm cà phê. - Lão chủ vừa đuổi tôi... - Vì sao? - Thì tôi biết được vì sao! Anh đi mà hỏi lão ấy! - Cậu có hay đi làm muộn không? - Cuộc hỏi cung bắt đầu. - Không, bao giờ tôi cũng đến rất đúng giờ. - Có bao giờ cậu không hoàn thành công việc không? - Không. Ai lại dám cãi lại ông ấy. Sốt ruột, Kêman bắt đầu nhấm nháp móng tay. - Thôi đúng rồi, chắc cậu đòi tăng lương phải không? - Đâu có... - Hay là... cậu có câu nói gì đó về ông ta, chẳng hạn có ý chê trách ông ta...? - Ồ, không đời nào? Tôi bị hỏi vặn một hồi nữa bằng những câu đại loại như thế. - Chà! Chà!... Thế thì vì quái gì cậu bị đuổi được nhỉ? Hay là... có khi nào cậu nhìn ông ta chằm chằm như cậu đang nhìn mình bây giờ không? - Tôi không biết. Nhưng... có thể là có... - Thôi thế thì đích thị rồi! Tớ đã bảo mà! Nhất định là phải có lý do mà lại, chứ không đời nào tự dưng người ta lại đuổi cậu cả! Chính lỗi tại cậu chứ không phải tại ai hết! Cậu cứ nhìn người ta chằm chằm như muốn ăn sống nuốt tươi thế thì ai mà chịu được! Nói thật chứ... Lỗi là tại cậu thôi! Nói xong câu ấy, anh ta thấy trong người nhẹ nhõm hẳn. ... Mời các bạn đón đọc Xứ Sở Của Những Người Ngáp của tác giả Azit Nexin.