Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hà Đồ Và Lạc Thư (Nguyễn Văn Thọ)

Chúng ta tóm tắt Hà Đồ bằng mấy bài thơ sau:

Hiểu Thông chữ Nhất, được Kim Đan.

Nhìn kỹ Hà Đồ tỏ lối đàng.

Vượt tượng, vượt hình tìm diệu quyết,

Băng qua ngoại cảnh, thấy Tiên Ban. Tìm mua: Hà Đồ Và Lạc Thư TiKi Lazada Shopee

Băng qua ngoại cảnh, thấy Tiên Ban,

Vào nơi Chính Vị, vận Trần hoàn,

Đẩu bính, Tuyền Ki hằng với biến,

Biến Hằng trông tỏ nhẽ Tuần hoàn.

Biến Hằng trông tỏ nhẽ Tuần Hoàn,

Âm ngoài bao bọc lấy Dương quang,

Hoà Hợp Âm Dương nơi Thái Cực,

Mới hay trời đất chẳng ly tan. (Phỏng dịch bài thơ vịnh Cổ Hà Đồ trong Phục Mệnh Thiên, tr. 3)

Ba năm một mối mấy ai hay,

Thu gọn 3, 5, đức mới dày.

2, 3 cộng lại thành 5 chẵn,

4, 1 gom vào cũng Ngũ ngay.

Hoà hợp 4 phương đều Ngũ cả,

Tiềm tàng Tâm Điểm sẵn 5 bày.

Ba 5 hợp lại thành Chân Nhất,

Chân Nhất Kim Đơn ấy Thánh Thai. (Phỏng dịch 1 đoạn văn trong Ngộ Chân trực chỉ).

Phanh phui ba lớp Đất, Người, Trời,

Châu ngọc Hoá Công mở thử coi,

Bí quyết Hi Di vùi chính giữa,

Tấc gang mà vẫn biệt tăm hơi,

Biệt tăm tuy thị chẳng xa xôi,

Cố gắng rồi ra sẽ được Trời.

Chớ tưởng Bồng Lai là ảo vọng,

Bồng Lai, Tiên cảnh tại lòng người. (Phỏng dịch bài thơ trong Phục Mệnh Thiên, tr, 4)

Chúng ta có thể tổng luận về Lạc Thư bằng những vần thơ sau:

Hà Đồ rồi đến Lạc Thư,

Vuông tròn vẹn lẽ doanh hư đất trời.

Hà Đồ là đạo của Trời,

Lạc Thư là đạo của người chẳng sai

Một xuôi, một ngược chia hai,

Nhưng mà sinh xuất, phản hồi mhư nhau.

Một tâm biến hoá nhiệm mầu.

Vành ngoài biến ảo, tầng sâu như thường.

Lạc thư mà rõ Trung ương,

Số 5, Thái cực hiển dương khác nào.

Lạc thư hãy xét tiêu hao,

Âm Dương điên đảo thấp cao mấy hồi.

Trước là Kim Hoả đổi ngôi,[3]

Phải rèn, phải luyện, phải tôi mới thành.

Âm Dương bày tám chung quanh,

Dương thời Tứ Chính, Âm đành Tứ Duy.

Âm Dương, chẵn lẻ hai bề,

Dưới trên ngang dọc, đề huề 15,

Bốn phương tám hướng tương dung,

Từng đôi hợp lại, cộng chung đều 10.

Vì đâu thác loạn, rối bời,

Bóng Âm những muốn dập vùi ánh Dương,

Trọc Tinh dở thói ngông cuồng,

Nguyên Thần do đó ra tuồng hư hao.

Sầu bi nổi sóng rạt rào,

Còn chi lễ độ thanh cao ban đầu.

Thức thần tính toán nông sâu,

Nguyên Tình vì vậy ra mầu tổn thương.

Mải mê lạc thú tầm thường,

Mà quên nghĩa cả, buông tuồng nghêng ngang,

Rồi ra Quỉ Phách đa đoan,

Làm cho Nguyên Tính bàng hoàng suy vong.

Gi ận h ờ n n ổi sóng đùng đùng

Còn gì Nhân Đ ạo mà mong xót v ời.

Du H ồ n táp cánh xa chơi,

Làm cho Nguyên Khí hao vơi tán loàn. Mảng vui giữa chốn trần hoàn,

Há c ầ n Tín Nghĩa, há màng Trung Trinh? Vọng tâm, vọng ý đành hanh,

Làm cho tiêu tán Nguyên Tinh m ới là.

Bi ển lòng sóng d ục nh ấp nhô,

Th ần hôn, trí lo ạn, cơ đ ồ còn chi.

Bi ết bao điên đ ảo suy vi,

Ch ẳng qua là đã m ất đi Tính Tr ời,

Đi ểm Trung đã m ất th ời thôi,

Con tim vô ch ủ, đư ờng đ ời lao lung.

Đông tây xuôi ngư ợc lung tung,

Ch ạy theo v ật d ục u ổng công tháng ngày.

Tr ời kia âu cũng thương Ngư ời,

Qui Nguyên bày l ẽ ph ản h ồi Thiên Lương.

S ự đ ời phi ền lo ạn nhi ễu nhương,

Nhưng mà v ẫn có m ối rư ờng ở trong,

Ng ỡ là thác lo ạn r ối tung,

Nào ng ờ tr ật t ự ung dung thư ờng k ề.

Hoàng lương mu ốn t ỉnh gi ấc mê,

Tơ lòng ph ải rõ đoan nghê t ỏ tư ờng,

L ạc thư ph ải th ấu Trung Hoàng,

Ph ải tin, ph ải bi ết Tâm xoang có Tr ời,

Tâm đà có ch ủ th ời thôi,

Muôn đi ều rắc r ối, t ức th ời ph ạt quang.

Xua Âm đã có Ánh Dương,

V ừngDương v ừa hi ện, muôn phương sáng ng ời.

Ngũ Trung Thái C ực hi ện r ồi,

T r ọc Tinh, Quí Thu ỷ t ức th ời tiêu ma.

H ế t bu ồ n Th ần Trí sáng loà,

Nguyên tinh ch ủ ch ốt, đi ều hoà t ừ đây.

Trí tâm ch ẳng b ợn tr ần ai,

Th ức Th ầ n êm ả li ệu bài rút lui.

Ch ẳng còn sinh s ự mua vui,

Uy nghi, l ễ đ ộ tuy ệt v ới phong quang.

Nguyên Th ầ n hi ển l ộ r ỡ ràng,

Thời thôi quỉ phách kiếm đàng ẩn thân,

Còn đâu phẫn nộ, dữ dằn.

Một niềm trọng Nghĩa, mười phân vẹn mười

Nguyên tình thư thái, thảnh thơi,

Du Hồn sực tỉnh biết nơi tìm về,

Hết còn hoan hỉ, đam mê,

Đường nhân, nẻo đức thoả thuê tháng ngày.

Quang huy Nguyên Tính phơi bày,

Mây mờ dục vọng, đó đây tan dần,

Thế là Vọng phản thành chân,

Tín thành hiệp với Thiên Quân chẳng rời.

Thế là Nguyên Khí phục hồi,

Bản lai diện mục sáng ngời như xưa

Mê thời thác loạn lià xa,

Ngộ thời tề chỉnh vào ra cửa Trời.

Trọng Âm đời sẽ pha phôi

Trọng Dương đời sẽ sáng ngời hào quang.

Có tường Nhất Điểm Trung Hoàng

Rồi ra biết nhẽ lai hoàn bản nguyên,

Lạc Thư rất mực thâm uyên,

Chỉ vài con số khải huyền, xiển chân,

Mới hay chí Đạo cũng gần,

Lạc, Hà tạc sẵn trong Tâm mọi người.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Văn Thọ":Tính Mệnh Khuê Chỉ Toàn ThưDịch Kinh Đại Toàn - Tập 1 Yếu ChỉDịch Kinh Đại Toàn - Tập 2 Thượng KinhDịch Kinh Đại Toàn - Tập 3 Hạ KinhHà Đồ Và Lạc ThưLão, Trang Giản LượcĐạo Đức Kinh Lão TửÂm Phù KinhPhật Học Chỉ NamTrung Dung Tân KhảoTìm Hiểu Kinh Hoa NghiêmKhổng Học Tinh HoaHướng Tinh ThầnĐường Vào Triết Học Và Đạo HọcChân Dung Khổng TửThiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất ThểTrời Chẳng Xa NgườiCon Đường Huyền Nhiệm Trung DungCon Đường Qui Nguyên Phản Bản Theo Nho GiáoĐịnh Luật Tiến HoáKhổng Giáo Vô Thần Hay Hữu ThầnKinh Dịch Với Đông YĐức Lão Tử Và Con Đường Huyền Nhiệm Tâm LinhLecomte Du Noüy Và Học Thuyết Viễn ĐíchLễ, Nghĩa, Liêm, SỉNê Hoàn - Nhâm - ĐốcQuan Niệm Tam Tài Với Con NgườiRa Đời, Vào ĐạoSẫm VioletThất Huyền Cầm

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hà Đồ Và Lạc Thư PDF của tác giả Nguyễn Văn Thọ nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Thiền Đốn Ngộ - Thích Thanh Từ
Đốn ngộ không phải là chóng ngộ, nhanh ngộ mà là nhắm vào cái gốc của mọi vấn đề là chỗ khởi sinh các niệm, tức nhân tâm, mà công phu, một lần hết sach vô minh, nên gọi là đốn. Nó đối lập với các pháp thiền tiệm, tức kiểm soát từng niệm một, không cho niềm tà khởi sinh, như ngồi lặt lá. Đốn ngộ không phải là chóng ngộ, nhanh ngộ mà là nhắm vào cái gốc của mọi vấn đề là chỗ khởi sinh các niệm, tức nhân tâm, mà công phu, một lần hết sach vô minh, nên gọi là đốn. Nó đối lập với các pháp thiền tiệm, tức kiểm soát từng niệm một, không cho niềm tà khởi sinh, như ngồi lặt lá.
Thiền sư Khương Tăng Hội - Sơ tổ của Thiền tông Việt Nam và Trung Hoa
Thiền sư Khương Tăng Hội, người đầu tiên mang đạo Phật vào Trung Quốc và Việt Nam!. Đạo Phật truyền vào Việt Nam bằng con đường hàng hải. Đây chính là thể thức giao tiếp, của các nước lân cận thời ấy. Người dân qua lại, giao hảo bằng những đoàn thương thuyền, để trao đổi hàng hóa cần dùng như, tơ lụa, quế, tiêu, các vật dụng hàng ngày. Trên những đoàn thương thuyền ấy, đã mang theo các nhà Sư Ấn Độ, để họ tụng kinh cầu nguyện sự bình an. Đây là quan niệm và cũng là niềm tin tôn giáo, được khẳng định một cách tích cực, trong những sinh hoạt hàng ngày, của dân hàng hải thương nghiệp này. Từ đây, chúng ta hiểu được rằng, đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam, từ thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch. Con đường hoằng pháp của chư Tăng đơn giản, không nhu cầu, phương tiện to tát, mà chỉ được xem như là người thương lái trong đoàn hàng hải, nhưng họ có một niềm tin kiên cố. Chư Tăng có thể tụng kinh, niệm Phật thắp hương, đốt trầm trên những con thuyền đó. Nếp sống tâm linh ấy, đã in sâu vào tâm thức người dân Ấn Độ. Đời sống tâm linh này, đã được sinh hoạt thường nhật, dù nơi quê hương Ấn Độ hay Việt Nam thời bấy giờ. Chính vì sự sinh hoạt tâm linh này, mà người Việt Nam mới biết đến đạo Phật. Ngoài tinh thần văn hóa Phật giáo, người Việt Nam cũng đã học thêm được nhiều điều khác, của nền văn hóa dân gian, cách trồng cấy, lương thực, thảo dược, y học, vân vân, nhờ vậy mà đời sống xã hội, đã có một bước tiến xa hơn. Trong những đoàn người thương lái ấy, có Thân phụ Tổ Sư Khương Tăng Hội, đã đến Giao Chỉ, lưu lại và lập nghiệp nơi đây, có lẽ vì tìm ra vùng đất mới thích hợp, cho nếp sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc, thân sinh Ngài đã lập gia đình với một người phụ nữ Việt. Năm Ngài 10 tuổi, cả hai bậc sinh thành đều khuất núi, kể từ đó Ngài chịu cảnh mồ côi. Mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng hẳn là có túc duyên, nên Ngài quyết chí xuất gia, tu học đạo giác ngộ, mà chính Thân phụ Ngài thuở sinh tiền cũng đã tu tập, trong vai trò người cư sĩ Phật tử. Sự hiện diện của Ngài trong bối cảnh lịch sử thời ấy, đã minh thị một cách hùng hồn rằng. Cây Phật Giáo Việt Nam đã ăn sâu mọc rễ vững chắc, trên mảnh đất Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3, sau Tây Lịch. Qua giá trị lịch sử ấy, đã cho ta cái nhìn tường tận và hiểu biết chính xác, để biết rằng Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam, sớm hơn Phật Giáo có mặt trên đất nước Trung Quốc!. Phật Giáo Việt Nam, tiếp nhận trực tiếp từ Phật giáo Ấn Độ, Ngài Khương Tăng Hội đã đi tu từ năm mười tuổi, và khi trưởng thành, Ngài đã mang tinh thần Thiền học Việt Nam, sang truyền giáo nơi vùng Giang Tả, thời Ngô Tôn Quyền xưng Đế. Ngài mở cuộc Đông Du, vào năm Xích Ô thứ mười, mới đến Kiến Nghiệp. Ngài dừng chân tại đây, lập ngôi nhà tranh trú ngụ, dựng tượng Phật để thờ, và bắt đầu cho công trình hoằng pháp.
DÒNG TÊN SỬ LƯỢC [pdf]
Lịch sử luôn luôn là một bài học sống động và quý giá. Tìm hiểu về Dòng Tên, chúng tôi thấy lịch sử Dòng cũng mang những bài học sống động và quý giá. Chúng tôi đã cố ghi chép lại đây đó một số điều, đôi khi thêm một vài suy nghĩ. Tập này thành hình như một vài góp nhặt chưa hệ thống, chưa hoàn chỉnh và chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Ước mong một bản khác đây đủ hơn và mạch lạc hơn sớm được những nhà chuyên môn cho chào đời, nhờ đó Dòng được nhiều người biết, yêu và theo, để tôn vinh Thiên Chúa hơn. Lịch sử luôn luôn là một bài học sống động và quý giá. Tìm hiểu về Dòng Tên, chúng tôi thấy lịch sử Dòng cũng mang những bài học sống động và quý giá. Chúng tôi đã cố ghi chép lại đây đó một số điều, đôi khi thêm một vài suy nghĩ. Tập này thành hình như một vài góp nhặt chưa hệ thống, chưa hoàn chỉnh và chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Ước mong một bản khác đây đủ hơn và mạch lạc hơn sớm được những nhà chuyên môn cho chào đời, nhờ đó Dòng được nhiều người biết, yêu và theo, để tôn vinh Thiên Chúa hơn.
Những lời dạy từ các Thiền sư Việt Nam xưa [pdf]
Sách này để kính dâng 3 vị Thầy Thích Tịch Chiếu , Thích Thiền Tâm , và Thích Tài Quang; dâng cha mẹ  vô lượng kiếp ; hồi hướng  tới một vị cư  sĩ đang xin Đức Quan Âm  cứu giúp, và vô lượng  chúng sanh . Tịch ChiếuThiền Tâmcha mẹvô lượng kiếphồi hướngvị cưQuan Âmvô lượngchúng sanhNgười biên soạn  mang ơn  chư vị tiền bối  đã dịch cổ văn  sang ngôn ngữ  Việt hiện đại , đặc biệt  mang ơn  các Thiền sư  Thích Thanh Từ, Trí Siêu Lê Mạnh Thát và sử gia Trần Đình Sơn đã in các sách mà tác phẩm  này đã dựa vào  để tham khảo .biên soạnmang ơntiền bốicổ vănngôn ngữhiện đạiđặc biệtmang ơnThiền sưtác phẩmdựa vàotham khảoCư Sĩ  Nguyên GiácCư Sĩ