Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lều Chõng - Ngô Tất Tố

Lều chõng là một tiểu thuyết phóng sự của nhà văn Ngô Tất Tố, ra mắt độc giả lần đầu ngày 10 tháng 3 năm 1939 tại Hà Nội. Lều chõng đề cập việc ngày xưa, khi đi thi, thí sinh lại phải mang theo lều, chõng, thức ăn, lặn lội xa xôi lên kinh thành. Thầy khoá Đoàn Vân Hạc đỗ Giải nguyên sau kì thi trước đáng lẽ được làm Giải nguyên nhưng vì trẻ tuổi nên phải đợi khoa sau. Vân Hạc đỗ Hội nguyên nhưng vì phạm húy trong kì thi Đình nên bị giam hai ngày và bị truất khoa cử. Tác giả Ngô Tất Tố viết truyện này để nói lên những oái ăm của các kỳ thi này và nêu lên sự sụp đổ tinh thần của những nho sĩ suốt đời lấy khoa cử làm con đường tiến thân nhưng lại bị hoàn toàn thất vọng. Lều chõng được đăng trên báo Thời Vụ năm 1939 và được in sách vào năm 1941. Từ gần một trăm năm nay, “ Khoa cử Hán học” với “ Lều chõng” đã vắng bóng trên đất nước ta.   Là nhân chứng và cũng là nạn nhân của trận cuồng phong “ giáo dục hán học sụp đổ”, Ngô Tất Tố có “đủ tư cách, đủ thẩm quyền” mà ít ai sánh kịp, để thỏa sức viết về học hành, thi cử, về giới nhà Nho của thời xưa. Lều chõng đã tái hiện một cách sinh động, sắc nét, giúp các thế hệ hậu sinh lội ngược dòng thời gian để khám phá về   Lều chõng - không gian có ý nghĩa đặc biệt, không chỉ liên quan chuyện văn chương, chữ nghĩa mà còn gắn bó mật thiết đến vận mệnh đại sự của quốc gia, đến sự tồn vong, hưng thịnh của đất nước. Thành công đặc sắc của Lều Chõng là nói lên “ bi kịch” của giới nhà Nho - lớp trí thức thời xưa.  Vô cũng ngám ngấm với kiếp sống đam mê nuôi ảo tưởng khát khao “ cuộc đời vàng son” khi thành đạt, suốt đời lăn lộn, lao đao tìm đường tiến thân bằng “ khoa cử”, sau khi vỡ mộng, “ kẽ sĩ” đã thức tỉnh, rũ bỏ tâm lý “đam mê hoài vọng về khoa cử” để trở về với đời thường. *** Gần nửa tháng rồi, trong làng Văn khoa, lúc nào cũng náo nức, rộn rịp như sắp kéo hội. Đình trung điếm sở cũng như quán nước hàng quà chỉ làm chỗ hội họp của các ông già, bà già và những cây gậy trúc mũi sắt, những gói trầu cau lớn bằng cái đấu. Chuyện mới, chuyện cũ luôn luôn theo những bãi cốt trầu, những làn khói thuốc đồng thời tuôn ra và nổ như bỏng rang. Ông này nhắc làng mình thật được hướng đình. Ông kia đoán họ Trần kết ngôi mộ tổ. Bà này bảo cụ đồ phúc đức hiền hậu,chịu khó lễ các đền chùa. Bà kia khen cô nghè tốt nết đủ điều, biết phân biệt kẻ trên người dưới. Cái hoa gạo nở đầu tháng giêng đã được tán là điềm tốt. Con khanh khách kêu trên các đình giữa ngày khai hạ, cũng được tôn là tin mừng. Câu chuyện tuy duy nhất chỉ quanh quẩn có thế, nhưng sự nô nức đã bắt người ta cứ phải chiếu đi chiếu lại bàn tán hết ngày ấy sang ngày khác, đầu làng cuối làng, thường có những tiếng cười nói rầm rầm. Hôm nay lại càng tấp nập hơn nữa.... Tử lúc trời mới sáng rõ, một hồi mõ đã tiệp tiếng vang của ba hồi trống cái khua động góc trời trên đình. Với chiếc dải lưng lụa đỏ bỏ múi sang cạnh sườn, lý trưởng không khác phó lý, trương tuần, tung tăng vác tay thước chạy nhào từ đình đến điếm. Giữa một hồi tí u của những tiếng hiệu ốc đi đôi với dịp hiệu sừng, người ở các xóm kéo ra tíu tít. Chỗ này vài chục đàn ông đi với mai, thuổng, xẻng, cuốc gậy nạng và câu liêm; chỗ kia mươi người đàn bà và những quang, thúng, sảo, sọt lủng lẳng dưới đầu đòn gánh. Một toán lại một toán. Một lũ lại một lũ. Ống quần xắn trên đầu gối, gấu váy kéo lên đến nửa bụng chân, các toán, các lũ lần lượt tiến vào sân đình. Một bầu ồn ào chiếm cả khu đinh và điếm. Mặt trời từ trên ngọn tre xuyên sang mái đình tưng bừng đón tiếng chào của đàn chim sẻ. Ánh sáng lóng lánh chiếu trên núm quả dành của đôi đồng trụ cửa đình. Cái ồn ào mỗi lúc một lớn. Chĩnh nước chè khô đã bị mấy chục bát đàn vục cạn. Hai thùng cau khô để đó dần dần biến thành đống bã trầu tàn. Hết thảy các toán, các lũ nhất tề đứng dậy. Như một đạo quân ra trận, mấy trăm con người rầm rập kéo ra đầu làng và vui vẻ tiến thẳng đến đoạn đường cùng tận địa giới. Theo mệnh lệnh của ông lý, ông phó, ông trương, dân phu bát đầu sang sửa từ đầu địa phận trở về. Các bầu tát nước đều được bồi đắp phẳng phiu. Những đám cỏ gấu ven đường đều bị giẫy sạch và hắt xuống ruộng. Người tá cắt hết những cây vẩy ốc bám vào ven thành. Người ta giật hết những cái ánh tre khum khum rủ trên đường cái. Người ta quét hết những đông cặn rác kinh niên bừa bãi khắp các đầu ngõ ven đường. Hương lý vẫn thúc giục vội vã. Tù và vẫn rúc từng hồi dài từ xóm này đến xóm kia. Trời dần dần nóng thêm. Mấy trăm bộ mặt đỏ như đồng tụ mồ hôi đổ ra bóng nhoáng. Nhưng cái oi bức của tiết đầu hạ vẫn không ngăn nổi sự nô nức của đám người làm việc hết lòng. Gần đến nửa buổi, bao nhiêu khúc đường khấp khểnh, gồ ghề đều trở nên những dải đất óng mượt như tấm lụa mới. Những tiếng cười nói vui như ngày tết, lại đưa các toán, các lũ dân phu lần lượt trở về sân đình. Một tuần trầu nước vừa tàn, lý trưởng đứng trên thềm đình dõng dạc nói xuống: - Trưa lắm rồi! Xin « chạ" đi rửa chân tay và cất đồ đạc. Rồi "chạ" đến luôn nhà quan tân khoa để còn làm rạp, kê phản, sắp sửa đũa bát mâm nồi, kẻo nữa không kịp? Một buổi ồn ào dồn dập trong đám đông, đàn ông, đàn bà, lẻ tẻ ai về nhà nấy. Trương tuần cắt lũ tuần phu canh cổng làng. Lý trưởng, phó lý và tất cả những hạng đàn anh lật đật kéo vào nhà ông nghè mới. Ở đây, từ đầu cổng cho đến xó bếp toàn lả những vẻ vui mừng. Các ông, bà, cô, cậu trong quan họ đầ họp tấp nập. Trên chiếc ghế ngựa quang dầu kê ở gian giữa, cố ông bắt chân chữ "ngũ", ngồi bằng điệu bộ rất đắc ý. Phía dãy phản ở gian bên cạnh, ông trưởng họ Trần thong thả đưa chiếc quạt thước phẩy mấy chòm râu trắng xóa, bàn định các việc sẽ đến trong ngày mai. Ngoài sân, cố bà cũng như cô nghè, tất tả chạy ngược chạy xuôi, vừa sắp sửa các thứ đồ dùng, vừa cắt đặt việc này việc khác. Sau mấy cái vái cung kính dâng khắp các cố ông, cố bà và các vị già lão, lý trưởng, phó lý và bọn trùm trưởng ghé ngồi vào hàng ghế cuối cùng. Dân làng kéo đến môi lúc mỗi đông. Từ nhà dưới đến nhà trên, kẻ đứng, người ngồi, lố nhố như một khu chợ. Theo lởi cắt cử của các vị tôn trưởng, những người "làm giúp" tới tấp đi tìm công việc. Mượn mâm, mượn nồi, mượn bát đĩa và gánh nước đô đầy các chum, các vại, đó là phận sự của đàn bà. Còn phe đàn ông thì chia ra thành hai ban: một ban chôn tre, dựng rạp, kê phản, kê ghế, sắp đặt các đồ bài trí, một ban nữa vào chuồng bắt lợn, làm gấp mấy chục mâm dấm ghém để kịp làng xóm họ mạc ăn tạm bữa trưa. Công việc bắt đầu túi bụi. Tiếng người hò thét, tiếng mâm bát đụng nhau, hòa với tiếng lợn kêu ì éc ngoài vườn làm thành cái vọng ầm ầm của một đình đám to lớn. Hơi lửa trong bếp hợp với hơi người các nơi càng tăng thêm sức nóng của trời hè. Đúng trưa, cỗ bàn làm xong, hai tòa rạp lớn cũng vừa lợp kín. Những chiếc chiếu hoa dài thườn thượt như lá cót đại lần lượt phủ kín các dãy giường phản từ trong nhà ra ngoài sân. Hàng mấy chục mâm rau nộm thịt mỡ chất đầy trong những bát đàn, đĩa đàn, la liệt đặt khắp các nhà các rạp. - Xin mời bà con hãy đi xơi cơm kẻo đói. Các việc để đó ăn xong rồi ta hay làm. Lời nói chia ông trưởng họ Trần không kém tiếng hò của ông đại tướng đứng đầu ba quân, nó có sức mạnh khiên cho mọi người răm rắp đứng dậy. Đàn ông với đàn ông, đàn bà với đàn bà, bốn một, tám hai làng xóm, họ mạc tự ý rủ nhau, tiện chiếu nào ngồi vào chiếu ấy. Mâm này gọi rượu, mâm kia gọi cơm, rồi mấy mâm khác vâm véo giục lấy nước canh nước mắm. Lối đi chật hẹp trong mấy gian rạp thành chỗ chen nhau của người ra vào. Giống như lớp tằm ăn rỗi, một loạt năm sáu chục mâm nhất tề nhấc chén cất đũa. Mặt trời chênh chếch chiếu vào đầu rạp, các mâm chỉ còn bát không, đĩa không. Bằng một giọng nói chững chạc, ông trường họ Trần tỏ ra người rất thạo việc: - Xin mời bà con ăn trầu, uống nước, rồi thì ai vào việc ấy đi cho. Xem chừng công việc hãy còn nhiều lắm. Ta phải làm gấp mới được! Bao nhiêu mâm cỗ ăn tàn lần lượt bị đưa xuống khu sân bếp, để nhường các chiếu trong rạp cho những đìa trầu cau khô và những đoàn ấm tay đựng nước chè xanh. Tiệc trầu nước không đầy một khắc. Mọi người ồ ạt đứng lên. ... Mời các bạn đón đọc Lều Chõng của tác giả Ngô Tất Tố.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kết Thúc Vòng Thiêng - Rostislav Kinjalov
Cho đến ngày nay nền văn minh Olmec cổ ít được người biết đến, nhất là ở Việt Nam. Trong cuốn tiểu thuyết lịch sử “Kết thúc vòng thiêng” giáo sư dân tộc học người Nga R. Kinjalov đã vẽ lại bức tranh cổ xưa sinh động của người Olmec huyền bí, một dân tộc da đỏ đã sống ở Mexico cách đây hơn 3.200 năm. Dựa vào những chứng cứ lịch sử-khảo cổ, Kinjalov giới thiệu với chúng ta cuộc sống của một dân tộc vào loại cổ xưa nhất của hành tinh. Trong cuốn sách này bạn đọc sẽ thấy được sinh hoạt của người Olmec cổ: điều kiện thiên nhiên, tổ chức xã hội, tình yêu, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, quyền lực và tham vọng của những người cầm quyền. Sức mạnh của thiên nhiên huyền bí luôn làm người Olmec kinh sợ, họ thờ đủ các thần: thần Độc cước – vị thần của bão tố; Thần Tâm đất – chủ nhân khủng khiếp của Âm phủ, động đất và núi lửa; Thần Cóc Vĩ đại – Đức Mẹ của các vị thần; Thần Mặt trời; Thần Nước; Thần Ngô trẻ – người cung cấp lương thực cho dân tộc Olmec v.v… Cũng như nhiều dân tộc da đỏ khác ở châu Mỹ, dân tộc Olmec dùng người sống để tế thần, một phong tục dã man mà chúng ta ngày nay không thể tưởng tượng nổi. Trong cuốn tiểu thuyết “Kết thúc vòng thiêng” chúng ta thấy hệ thống xã hội của người Olmec cổ phân cấp khá chặt chẽ với những đẳng cấp rõ ràng. Bên cạnh hệ thống chính quyền (Vua, các quan lại…) còn có hệ thống tín ngưỡng (các thầy Tư tế) giữ vị trí hết sức quan trọng trong cuộc sống của dân tộc. Theo quan niệm của người Olmec cổ, thế giới tồn tại theo chu kỳ 104 năm, gọi là vòng thiêng. Hết 104 năm các vị thần sẽ phán quyết hủy diệt hay kéo dài sự tồn tại của thế giới, và bắt đầu một vòng thiêng mới. Đồng thời tác giả cũng đưa bạn đọc vào cuộc hải hành hư cấu của một vị quan Ai Cập cổ đến vùng đất đỏ xa xôi bên kia đại dương để so sánh sự phát triển không đồng đều giữa các nền văn minh lúc bấy giờ, trong khi Ai Cập đang ở thời kỳ đồ đồng và đã chuyển sang thời kỳ đồ sắt thì dân tộc Olmec ở Mexico đang ở thời kỳ đồ đá. Với những chứng cứ khoa học xác thực, từ đầu đến cuối cuốn tiểu thuyết, tác giả dẫn bạn đọc đi hết cuộc phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác, để dần dần giải mã những bí ẩn của dân tộc Olmec cổ huyền bí. Nhà Xuất bản Trẻ hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc cuốn tiểu thuyết đầu tiên nói về dân tộc Olmec ở đất nước Mexico xinh đẹp, để các bạn có điều kiện tìm hiểu thêm về một nền văn minh cổ xưa. *** Sao-Lorenso. Mexico. Tình yêu không có tuổi, không ranh giới và bất tử! • D. Golsuorsi. “Mùa hè cuối cùng của Forsait.” Nhiều năm trôi qua từ khi vòng thiêng mới bắt đầu. Trong làng Tahcum-Tracang không ai dám gọi đến tên của người phụ nữ quái gở này, bà ta đi hết nhà này qua nhà khác tìm kiếm thứ gì đó không rõ. Người ta gọi bà là lão bà, còn những kẻ bất kính trong đám thanh niên cũng chỉ dám thì thầm “bà điên”. Dân làng cho rằng bà bị thần ác ám và họ sợ hãi một cách sùng tín khi bà xuất hiện, họ mời bà ngồi cạnh bếp lò, mời ăn, uống. Đôi khi bà nhận thức ăn, đôi khi không nhận và bà chỉ gạt những cánh tay nhiệt tình ra. Bà rất ít nói, không để ý đến ai, không nhìn thẳng vào mặt người đối thoại mà nhìn vào khoảng không, lời của bà thường đứt đoạn và khó hiểu. Bà lão mất trí vì đau khổ và thời gian, đó là bà Tiang thuộc tộc họ Socan. Bà không có nhà, không có người thân. Các con của ông chú do bà chăm sóc đã đi theo tiên tổ từ lâu, con của họ cũng đã mất. Cháu của họ thì xem bà như người xa lạ. Thực ra chúng không hiểu bà lão này là họ hàng thế nào với chúng. Đám con cháu của Tug-Anseng và Nam-Suc, vô số con trai và con gái của Cangah, không biết tên thật và số phận của bà. Mỗi tháng một lần bà lão bị nỗi lo xâm chiếm. Bà như thoát khỏi cơn mê, động tác trở nên rõ hơn và mạnh hơn, đôi mắt mờ đục rực sáng. Bà ra khỏi làng, và theo đường vòng để không gặp ai trên đường, đi đến hẻm núi mọc đầy cây non ăn sâu vào khu đồi của thành phố, nơi ngày xưa người ta đã thực hiện những nghi lễ của vòng thiêng và chôn chiếc đầu đá của Shang. Khối đá khổng lồ quá lớn nên không thể chôn kỹ, chiếc hố quá cạn và lớp đất lấp trên bức tượng không đủ dày nên nước mưa từ sườn đồi dần dần cuốn trôi lớp đất đắp, để lộ ra khuôn mặt của bức tượng với đôi mắt bất động nhìn lên bầu trời. Tiang cẩn thận dọn sạch cành khô, lá cây và dây leo tươi phủ trên khuôn mặt thân yêu và ngồi xuống cạnh đó. Trong những ngày này bà trò chuyện hàng giờ với bức tượng y như với người sống. “Hôm nay em ăn ngon lắm Shang à, – bà nói, – một cô gái mời em bánh ngô…, cô gái này giống em khi còn trẻ…, chàng nhớ không, chàng khen bánh ngô của em lắm mà, lúc đó chàng đã cười như bây giờ vậy… Xem này, đây là mảnh vỏ từ thân cây mà chúng ta đã ngồi lúc đó… Em giữ nó mãi mãi, em nhớ hết…, chúng ta yêu nhau biết chừng nào! Chỉ tiếc rằng chúng ta không có con; vì nếu có nó, anh đã có thể hãnh diện vì con trai của mình, em xin thề đó! Tất cả cũng chỉ vì lão Anaib-Ungir đáng nguyền rủa. Nhưng lão đã bị kiến ăn từ lâu rồi, ngay cả đống xương dơ bẩn của lão cũng đã mục trong rừng. Chỉ còn em ngồi đây tâm sự cùng anh, mặt trời vẫn chiếu sáng chúng ta…, chàng vẫn còn yêu em như ngày xưa chứ?”. Và cũng trong một buổi gặp như thế, trái tim chung thủy, cháy bỏng yêu thương của Tiang đã ngừng đập – để mãi mãi hòa nhịp cùng tượng đá ngàn năm. • Leningrad – Gumolosar, 1974 – 1977 Mời các bạn đón đọc Kết Thúc Vòng Thiêng của tác giả Rostislav Kinjalov.
Đường Chân Trời Đã Mất - James Hilton
Một câu chuyện đọc xong người đọc phải phân vân suy nghĩ. Một câu chuyện về một chiếc máy bay di tản bị cướp đi đưa bốn người về một tu viện Lama ở vùng núi cao Tây Tạng. Hay đúng hơn câu chuyện về một con người Conway, ba mươi tư tuổi, công tác tại lãnh sự quán Anh ở Baskul (Ấn Độ), một người có sức hấp dẫn kỳ lạ. Ai đã gặp anh một lần cũng phải nhớ mãi. Anh có một thời sinh viên sôi động, đại diện thể thao của Trường Đại học Oxford, đã giành hầu hết các giải của Nhà trường, khiến một giáo sư giàu tình cảm đã tặng anh danh hiệu Vinh quang: Conway Vinh quang. Cuộc chiến tranh 1914-1918 đã chen ngang vào cuộc đời anh. Cũng như hàng triệu người khác, anh bị nó lôi cuốn vào cuộc bắn giết, sợ hãi, điên dại phóng đãng... Anh ra khỏi cuộc chiến tranh không thương tật, nhưng thực tế thương tật ở bên trong. Sau chiến tranh anh trở về giảng dạy ở Trường Đại học Oxford hai năm, rồi đi làm công tác ở Bộ Ngoại giao vì anh biết nhiều ngôn ngữ Đông Phương. Anh là một con người thấy việc cần làm thì đem hết sức mình ra làm, chứ không vì cái tiếng anh hùng. Một con người không chuộng hình thức, người ta thường nghĩ anh biếng nhác, thực ra chỉ vì anh không muốn ganh đua, không muốn xô đẩy người khác để mình tiến lên. Do vậy, trên đường đời không bao giờ anh được món bở mà thường chỉ bị đẩy đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh. Tuy nhiên, anh vẫn không thấy buồn, trái lại còn có phần vui vì như vậy đã tránh được cuộc sống đầy cạnh tranh, chen lấn của xã hội đương thời. Chính với tâm trạng trên, khi bị bắt cóc đưa lên một tu viện Lama xây dựng ở lưng chừng trời, bên mép một dãy núi hoang vu ở Tây Tạng, anh đã gặp Lama tu viện trưởng và đã bị ông thuyết phục đến mức muốn ở lại đây để làm tu sĩ. Và chỉ ít lâu sau anh được tu viện trưởng trước khi chết đã cho anh kế vị. Nhưng vì bổn phận đối với Mallinson, viên phó lãnh sự cùng đi, một thanh niên có gia đình thân thuộc, có người yêu ở London, nên anh này nhất thiết đòi về. Và có lẽ còn vì Lo-Tsen, một nữ tu sĩ đã nhiều tuổi lắm rồi, song trông cô vẫn còn trẻ, coi như mới chỉ mười bảy, mười tám tuổi, như lúc cô mới đến tu viện Lama. Conway đã yêu cô, một tình yêu không đòi hỏi được đáp lại, yêu cái thanh tú mảnh mai, và anh không ngờ Mallinson đã thuyết phục được Lo-Tsen thu xếp cùng trở về. Hai người cần có Conway là người có thể giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn đầy rẫy trên đường. Vì bổn phận và vì yêu hai người, nên anh đã nhận lời đưa họ trở về… Conway không hề kể lại cho bạn bè nghe về câu chuyện trở về này, nên chỉ biết do ngẫu nhiên mà một người bạn anh đã gặp được anh đang nằm tại một bệnh viện của Hội truyền giáo ở Trùng Khánh: Lúc này anh đã mất hết trí nhớ. Bạn anh đã ở lại chăm sóc cho anh hồi phục được trí nhớ rồi đưa anh về London. Nhưng giữa đường, anh đã lẩn đi, dường như để tìm đường trở lại tu viện Lama, khiến bạn anh đã mất bao công sức đi hàng ngàn dặm đường, đi khắp nơi để tìm anh. Liệu anh có tìm được đường trở về tu viện Shangri-La ở Tây Tạng không? Đó là điều khó hiểu. ***  James Hilton là một tiểu thuyết gia người Anh đã viết một số tiểu thuyết bán chạy nhất, bao gồm Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), Random Harvest (1941). Trong tác phẩm Lost Horizon, ông hư cấu ra Shangri-La. Sinh ra tại Leigh, James Hilton là con trai của John Hilton, hiệu trưởng của Trường Chapel End ở Walthamstow. Ông được đào tạo tại Leys School, Cambridge. Hilton đã viết hai cuốn sách nổi tiếng nhất của mình, Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), trong khi sống trong một ngôi nhà liền kề khá bình thường trên Oak Hill Gardens, Woodford Green. Ngôi nhà nay vẫn còn, với một tấm bảng màu xanh đánh dấu cư trú của Hilton. Ông đã kết hôn hai lần, lần đầu tiên đến Alice Brown và sau đó đến Galina Kopineck. Cả hai cuộc hôn nhân đã kết thúc bằng ly hôn. Ông qua đời tại Long Beach, California do ung thư gan. Tác phẩm: Catherine Herself, 1920 Storm Passage, 1922 The Passionate Year, 1924 Dawn Of Reckoning (Rage In Heaven), 1925 Meadows Of The Moon, 1926 Terry, 1927 The Silver Flame (Three Loves Had Margaret), 1928 Murder at School (U.S. title: Was It Murder?), xuất bản với bút danh Glen Trevor, 1931 And Now Goodbye, 1931 Contango (Ill Wind), 1932 Knight Without Armour (Without Armor), 1933 Lost Horizon, 1933 Goodbye, Mr. Chips, 1934 We Are Not Alone, 1937 To You, Mr Chips, 1938 Random Harvest, 1941 The Story Of Dr. Wassell, 1944 So Well Remembered, 1945 Nothing So Strange, 1947 Twilight Of The Wise, 1949 Morning Journey, 1951 Time And Time Again, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Chân Trời Đã Mất của tác giả James Hilton.
451 Độ F - Ray Bradbury
451 độ F xứng đáng được xem là một kiệt tác kinh điển có thể thay đổi cuộc đời bất kỳ ai đọc nó. Tác giả Ray Bradbury là một trong những nhà văn lừng danh nhất của thế kỷ XX, tiểu thuyết 451 độ F ban đầu có tên là Lính phóng hỏa (The Fireman), dị bản đầu tiên có nhõn 25 nghìn chữ, được đăng trên tạp chí Galaxy Science Fiction. Hơn ba năm sau, qua một trận ốm nặng, nhà văn Ray Bradbury mới bổ sung thêm rất nhiều cho lần xuất bản sau đó. Ray Bradbury kể rằng đã dành toàn bộ hơi sức mình và “từ một vài động cơ ẩn mật nào đó bên  trong” để tạo dựng nên 451 độ F, một câu chuyện giả tưởng phong phú đến bất ngờ bởi tính dự báo về một xã hội hiện đại đầy những lo âu và bất ổn trong tương lai. Khắc họa xã hội giả tưởng thông qua anh chàng Montag “với cái mũ sắt tượng trưng mang số 451 trên cái đầu phớt lạnh và đôi mắt bừng lửa màu cam”, thế giới tiểu thuyết 451 độ F hiện lên đầy quái dị quanh việc “đốt là một cái thú”, nung cháy bầu trời buổi tối thành màu đỏ - vàng - đen, thiêu cháy làm cho rụi hẳn những mảnh vụn và tàn dư than củi của lịch sử. Ở xã hội mà lính cứu hỏa lại chính là “người châm mồi cho đám cháy” đó, nơi mà truyền hình phù phiếm thống trị, tri thức nông cạn, giải trí “ăn liền” được tung hê, nơi mà “không có sách thì thế giới vẫn ngon lành”, 451 độ F đã rung lên một hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp văn hóa trong một xã hội mà ý tưởng sáng tạo bị ruồng bỏ đến thản nhiên và tội nghiệp. Gấp gáp và sống động, nhà văn Ray Bradbury dường như muốn tất cả độc giả cùng tham gia và rơi vào “độ nóng” của từng mạch truyện. Nơi mà con người chìm mê trong công nghệ, những tình cảm thân thuộc bị xói mòn, nơi mà người ta kết nối với nhau qua sóng chứ không phải là từ những tín hiệu của những cái ôm.  Sự xuất hiện những con “chó máy” vô cảm trong tiểu thuyết khá thú vị, nó làm đúng chức năng, tự nhắm mồi, tự về nhà, tự tắt, “nó chỉ là cáp đồng, pin và điện” khiến không ít người phải giật mình vì tiện ích của đời sống hiện đại. Gấp lại 451 độ F, hẳn không ít người vẫn tủm tỉm đến bóng dáng cô nàng Clarisse “nhỏ nhắn và trắng như sữa”, đi lích rích trong đêm khuya, thích ngửi mùi và nhìn ngắm các thứ, đôi khi cô gái ấy đi suốt đêm, “cứ đi hoài và ngắm mặt trời mọc”.  Thời niên thiếu của mỗi người, chẳng đã từng đôi bận điên rồ đến ngọt ngào như thế hay sao. 451 độ F sắc nhọn, tinh tế, thực tiễn và ấm áp đến những dòng chữ cuối cùng là vậy. Được Ray Bradbury viết vào năm 1963, 451 độ F qua hơn 60 năm vẫn làm chao đảo những độc giả khó tính, trước một “kiệt tác tiên tri”, đáng báo động với chính thế giới của chúng ta. *** Ray Bradbury Douglas là một nhà văn chuyên về sáng tác các tác phẩm kinh dị, khoa học viễn tưởng, và bí ẩn người Mỹ. Nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết Fahrenheit 451 (1953) và tập hợp những câu chuyện khoa học viễn tưởng như The Martian Chronicles (1950) và The Illustrated Man (1951), Ray Bradbury là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ 20 và 21 của nước Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim và chương trình truyền hình. Bradbury sinh ngày 22 tháng 8 năm 1920 ở Waukegan, Illinois, cha mẹ là Esther (Moberg) Bradbury, một người Mỹ gốc Thụy Điển, và Leonard Spaulding Bradbury,[8] một người sửa chữa và bảo dưỡng đường dây điện và điện thoại. Bradbury có quan hệ với học giả Shakespeare Mỹ Douglas Spaulding. Ông cũng là hậu duệ của Mary Bradbury, người đã bị xử tại các cuộc xét xử phù thủy Salem năm 1692. Bà đã kết hôn với Captain Thomas Bradbury của Salisbury, Massachusetts. Thời niên thiếu, Ray đi cùng cha đến Los Angeles trong thời kỳ suy thoái. Thời điểm này, cuốn tiểu thuyết giả tưởng của Edgar Rice Burroughs "Tarzan" đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cậu. Cậu đã đi lang thang khắp Hollywood, bám theo những người nổi tiếng để xin chữ ký. Ray không đi học đại học, ông dành thời gian ở các thư viện để tự học và bắt đầu viết cho các tạp chí. Năm 1950, Bradbury cho ra mắt cuốn sách đầu tiên The Martian Chronicles là câu chuyện giả tưởng về những Earthlings chạy trốn khỏi một hành tinh đang xung đột với cư dân trên Sao Hỏa. Ray sáng tác ra những tác phẩm nổi tiếng khác như Dandelion Wine, I Sing the Body Electric và From the Dust Returned. Bradbury được ghi nhận sáng tác 27 quyển tiểu thuyết và hơn 600 câu chuyện ngắn. Các tác phẩm của ông đã bán hơn 8 triệu bản trên toàn cầu và chuyển thể sang hơn 36 ngôn ngữ. Ông bị đột quỵ vào năm 1999 và phải ngồi xe lăn suốt quãng đời còn lại. Bradbury qua đời tại Los Angeles, California ở tuổi 91 sau một thời gian bệnh tật kéo dài.[20][21] Ông có bốn người con. Vợ của ông đã qua đời vào năm 2003.   Mời các bạn đón đọc 451 Độ F của tác giả Ray Bradbury.
Vĩnh Biệt Mùa Hè - Nguyễn Đông Thức
Bộ tứ 4H (Hân, Hằng, Hoa, Hạ) của lớp 12A đã “làm mưa làm gió” không chỉ trên thị trường sách mà cả trong điện ảnh và âm nhạc trên dưới 20 năm. Ca khúc Vĩnh biệt mùa hè của nhạc sĩ Thanh Tùng viết năm 1992 một thời là ca khúc phổ biến của giới học sinh, sinh viên, nhất là các bạn năm cuối cấp với những ca từ thiết tha đầy nỗi nhớ: “Mùa hè bâng quơ, Bâng quơ nỗi nhớ, Những chiếc lá non vươn trên cành cây khô… Mùa hè đi qua rồi, Tình yêu cũng qua rồi…” Không chỉ có vậy, tác phẩm đã được hãng phim Giải phóng dựng thành phim nhựa năm 1992 và sau đó đạo diễn Bùi Thạc Chuyên chuyển thể thành phim truyền hình dài 4 tập 12A và 4H. Câu chuyện về 4 cô học trò Hằng, Hân, Hoa và Hạ. Hằng xuất thân là con nhà giàu, xinh đẹp, thông minh, học giỏi. Cứ ngỡ rằng cuộc sống sẽ trải thảm dưới chân cô. Thế nhưng việc người mẹ bỏ nhà đi theo tiếng gọi của tình yêu đã đẩy Hằng vào nỗi cô đơn đến tột độ. Và cô ngã vào vòng tay của thầy Minh – một người đàn ông đầy thủ đoạn. Để rồi khi cha cô đối mặt với vòng tù tội do có liên quan đến vụ án tiêu cực thì Hằng nhận ra mình chẳng còn gì: không mẹ, không cha, và người tình cũng cao chạy xa bay. Và nếu cô không may mắn gặp được Đoàn Hùng – người thanh niên xung phong năm xưa thì chưa biết cô sẽ trôi về đâu. Hạ là con gái của gia đình có cha mẹ làm bác sĩ. Cô học trò giỏi văn, bí thư chi đoàn lớp có một mối tình đẹp đẽ và thơ mộng với Long – con trai một sĩ quan chế độ cũ. Vì sự không “môn đăng hộ đối” này mà mẹ Hạ đã quyết liệt ngăn cản. Mọi thứ trong Hạ dường như vụn vỡ khi cô phát hiện ra thủ đoạn mẹ mình đã dùng để chia rẽ hai người. Hân giàu tình cảm, Hoa hồn nhiên. Chính vì vậy mà có lẽ cuộc đời đã dành cho hai cô gái này những ưu ái hơn. Hân tiếp tục học vào đại học, còn Hoa được mẹ giao lại cho gian hàng ở ngoài chợ. Bên cạnh 4 cô gái là Thiện chính trực, dũng cảm bảo vệ lẽ phải, Long giàu nghị lực. Đối lập là Ngôn – một học sinh cá biệt, du côn và kết thúc đời học sinh của mình bằng những nằm tù dài đăng đẳng. Và thầy Minh – một kẻ thủ đoạn. Câu chuyện dẫn dắt người đọc đi qua năm tháng học trò, có những giây phút hồn nhiên đùa nghịch, và cũng có những nỗi buồn đau của đời thường. Và kết thúc với chút buồn man mác. “Hân bước vào sân trường. Khoảng sân giờ đây bỗng rộng mênh mông, trống vắng đến lạnh lùng, đầy những lá rụng và hoa tàn.Mùa hè đang đi qua. Cái mùa hè cuối cùng của đời học sinh trong một năm học đầy biến động….Lần đầu tiên trong cuộc đời, Hân bắt đầu ý thức được sự tạm bợ và phù du của kiếp người. Cô cảm thấy buồn man mác. Tại sao người lớn cứ sống như vậy, khác hẳn những điều mà người trẻ được dạy dỗ, để cuối cùng không còn ai biết tin vào ai nữa. Mùa hè đã vĩnh viễn đi qua” *** Nhà văn Nguyễn Đông Thức sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính đã xuất bản Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986) Mưa khuya (truyện ngắn, 1987) Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987) Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988) Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988) Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989) Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... Vĩnh biệt mùa Hè Vĩnh biệt facebook ...   Giải thưởng Giải A cuộc thi sáng tác do thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh với tác phẩm Một bông hồng cho cô bộ đội. Giải nhì cuộc thi sáng tác do thành đoàn Hồ Chí Minh cho tác phẩm Truyện rất khó viết. Giải ba cuộc thi sáng tác do Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh cho tác phẩm Mưa khuya. Giải nhì cuộc thi sáng tác do báo Sài Gòn giải phóng cho tác phẩm Hạnh phúc. Mời các bạn đón đọc Vĩnh Biệt Mùa Hè của tác giả Nguyễn Đông Thức.