Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hẹn Hò Theo Kiểu của Em - Linda Howard

Trong mắt cô nàng, anh là một anh chàng sẽ khiến mọi bản năng, mọi hoóc môn trong cơ thể bạn phải bật dậy chú ý và thì thầm vào tai bạn, “Ôi, Chúa tôi, đây rồi, đây chính là người đàn ông đích thực, hãy tóm lấy anh ta và làm việc đó NGAY ĐI!” Còn trong mắt anh, thì cô là một cô nàng tóc vàng hoe tuy nóng bỏng nhưng õng ẹo phù phiếm, luôn làm quá mọi chuyện lên và không bao giờ cho những người xung quanh một giây phút yên bình. Ấy thế mà, sau hai năm “bỏ chạy” khỏi cô nàng theo đúng nghĩa đen, giờ khi gặp lại, anh lại thấy mê đắm cô hơn bao giờ hết. Anh bị cuốn vào giọng nói tiếng cười, vào những hiểm nguy kịch tính trong cuộc sống của cô, vào cả nét “õng ẹo phù phiếm” đáng yêu kia nữa. Và anh đề nghị hẹn hò lại từ đầu. Nhưng, một lần nữa cô nàng lại làm anh phát điên lên khi đưa ra một kiểu hẹn hò của-riêng-cô: Hẹn hò không sex.Là câu chuyện mở đầu bằng một vụ giết người… Tiếp diễn bằng chuyện hẹn hò có một không hai của cô nàng nhân chứng Blair Mallory nóng bỏng và anh chàng Trung úy Wyatt Bloodsworth điển trai mạnh mẽ… Tiểu thuyết tình cảm Hẹn hò theo kiểu của em sẽ đưa bạn vào một thế giới đầy lôi cuốn, kịch tính nhưng cũng không kém phần hài hước, ngọt ngào của tình yêu và đam mê. *** Đa số mọi người không coi công việc của một cổ động viên là nghiêm túc. Giá mà họ biết... Đó là tôi, như tất cả các cô gái Mĩ khác. Nếu bạn nhìn vào các bức ảnh trong những cuốn niên giám trường cấp ba của tôi, bạn sẽ nhìn thấy một cô gái tóc dài vàng hoe, rám nắng với nụ cười ngoác đến tận mang tai, trông rõ toàn bộ hàm răng trắng bóng của cô, nhờ sự giúp đỡ của hàng nghìn đô la cho việc nẹp và tẩy trắng. Là cho hàm răng, không phải cho tóc hay làn da rám nắng. Tôi có sự tự tin không cần cố gắng của một nàng công chúa tuổi teen tầng lớp trên của dân trung lưu; không điều gì tồi tệ có thể đến với tôi. Rốt cuộc, tôi là một cô nàng của Đội cổ vũ cơ mà. Tôi thú nhận điều đó. Thực tế là tôi tự hào vì điều đó. Rất nhiều người nghĩ những cổ động viên vừa không có đầu óc và vừa học đòi, nhưng đó là những người chưa bao giờ làm cổ động viên. Tôi tha thứ cho sự thờ ơ của họ. Cổ vũ là một công việc khó khăn, đòi hỏi cả kỹ năng, sức khoẻ và nguy hiểm nữa. Mọi người thường xuyên bị thương, thậm chí đôi khi còn mất mạng. Và người bị thương thường là con gái: các anh chàng là người tung lên, còn các cô gái là người bị tung lên. Nói theo từ chuyên ngành thì chúng tôi gọi đó là "flyers", nghe thật ngốc nghếch bởi vì dĩ nhiên là chúng tôi không thể bay rồi. Chúng tôi bị tung lên. Những người bị tung là những người sẽ ngã đập đầu và bị gãy cổ. Ừm, tôi chưa bao giờ bị gãy cổ, nhưng tôi đã bị gẫy tay trái, xương cổ và sái đầu gối phải. Tôi không thể đếm được bao nhiêu lần tôi bị bong gân và thâm tím nữa. Nhưng tôi giữ thăng bằng rất tuyệt, tôi có đôi chân khoẻ khoắn và tôi có thể vừa thực hiện backfip, vừa thực hiện split. Thêm vào đó, tôi đã vào đại học bằng học bổng dành cho Đội cổ vũ. Đây là một đất nước rất cool hay là gì nhỉ? Chà, dù sao, tên tôi là Blair Mallory. Vâng, tôi biết: đó là một cái tên ngớ ngẩn. Nó hợp với công việc cổ vũ và mái tóc vàng hoe. Tôi không thể làm gì được; đó là tên cha mẹ đặt cho tôi. Cha tôi tên là Blair nên tôi đoán tôi chỉ vừa đủ mừng vui vì tôi không phải là một Blair con. Tôi không nghĩ tôi là Nữ hoàng của buổi tựu trường nếu như tên tôi có là Blair Henry Mallory con. Tôi đủ hạnh phúc với cái cái tên Blair Elizabeth, xin cám ơn. Ý tôi là, những người làm trong làng giải trí thường đặt cho con họ những cái tên như kiểu Homer, vì Chúa. Khi những đứa trẻ đó trưởng thành và giết chết cha mẹ chúng, tôi nghĩ tất cả những trường hợp này nên được phán quyết là giết người vì lý do chính đáng. Nói đến đây lại gợi đến vụ án mạng mà tôi từng chứng kiến. Thực sự thì không hẳn vậy, nhưng ít nhất nó cũng như một kiểu logic. Mối liên hệ ấy, ý tôi là thế. Và những điều tồi tệ cũng xảy đến với nàng cổ động viên như tất cả công chúa người Mĩ khác. Tôi đã kết hôn, có phải thế không nhỉ? Nó cũng kiểu như một liên kết với án mạng. Tôi cưới Jason Carson ngay khi vừa tốt nghiệp đại học, vì thế trong vòng bốn năm, tên tôi là Blair Carson. Lẽ ra tôi không nên dại dột cưới một người có tên và họ vần điệu với nhau, nhưng có những thứ bạn chỉ học được từ trải nghiệm. Jason có đủ đặc điểm của một chính trị gia: tham gia hội đồng sinh viên, tham gia vận động cho cha mình trong chiến dịch tranh cử nghị sĩ bang, có chú làm thị trưởng, vân vân và vân vân. Jason quá ưa nhìn, anh ta có thể khiến con gái phải nói lắp, theo đúng nghĩa đen đấy. Thật tồi tệ là anh ta biết điều đó. Anh ta có mái tóc dài màu ánh nắng (đấy là diễn tả thi vị của mái tóc vàng hoe), những đặc điểm của một anh chàng đào hoa, mắt xanh thẳm và có hình thể xuất sắc. Hãy nghĩ đến John Kenedy con. Ý tôi là về cơ thể. Vậy nên chúng tôi ở đó, bức ảnh về một cặp đôi tóc vàng, răng trắng. Và cơ thể tôi cũng khá đẹp, nếu nhưng tôi được tự nói về mình.Chúng tôi còn có thể làm gì ngoài việc kết hôn? Bốn năm sau, chúng tôi không còn kết hôn nữa, giải phóng mối quan hệ lẫn nhau. Rốt cuộc, chúng tôi chẳng có gì chung ngoài vẻ bề ngoài và tôi thực sự không nghĩ rằng đó là nền tảng tốt cho một cuộc hôn nhân, bạn thấy sao? Jason muốn có con để chúng tôi trông giống tất cả các cặp đôi Mĩ khác khi anh ta tham gia chiến dịch tranh cử để trở thành nghị sĩ trẻ nhất bang, chuyện này thực sự, nếu bạn muốn biết, làm tôi cực kỳ cáu tiết, bởi vì trước đó anh ta đã từ chối không chịu có con và giờ đây, tất cả sự thay đổi đột nhiên đó phải chăng chỉ để thêm điểm vào cái chiến dịch tranh cử? Tôi nói với anh ta hôn mông tôi đi. Không phải là anh ta chưa từng làm thế trước đó, nhưng ngữ cảnh khác nhau, bạn biết đấy? Tôi bị xem như kẻ cướp trong việc dàn xếp vụ li dị. Có lẽ tôi nên cảm thấy có lỗi; ý tôi là, đó không phải hoàn toàn là chuyện về quyền bình đẳng để làm như thế. Nên đứng lên bằng chính đôi chân mình, tự mình đạt thành tựu, kiểu vậy kia. Và thực tế là tôi tin tất cả những điều đó; chỉ là tôi muốn khiến Jason phải chịu thiệt. Tôi muốn trừng phạt anh ta. Tại sao ư? Bởi vì tôi bắt gặp anh ta hôn em gái út của tôi, Jennifer, vào ngày tết khi những thành viên khác trong gia đình đang ở trong sào huyệt của mình, ngủ thiếp vì mệt sau trò chơi ném bóng gỗ. Khi đó Jenni mới mười bảy tuổi. Cơn giận dữ không làm tôi kém nhanh trí chút nào. Khi tôi thấy họ trong phòng ăn, tôi nhón chân bỏ đi và tìm một trong những cái camera chúng tôi dùng hôm đó để ghi lại sự kiện cho chiến dịch tranh cử của Jason - gia đình, tổ chức ngày lễ, bu quanh bàn đầy ú các loại bánh kẹo làm nghẽn động mạnh, chè chén say sưa và xem bóng đá. Anh ta thích chụp những cảnh cả gia đình tôi tụ tập cùng nhau vì gia đình tôi trông hơn gia đình anh ta rất nhiều. Jason sử dụng bất cứ cái gì có thể để thêm vào chiến dịch của mình. Dù sao tôi đã chộp được bức ảnh rất tuyệt về Jason và Jenni với đèn flash và toàn cảnh nên anh ta biết tôi đã túm được gáy anh ta. Anh ta sẽ làm gì, đuổi theo tôi và túm tôi lại trước mặt cha tôi, vật tôi xuống để cướp lại cái camera ư? Không có chuyện như vậy. Bởi anh ta sẽ phải giải thích và anh ta không thể hi vọng tôi sẽ đứng về phía anh ta trong câu chuyện bịa đặt đó được. Một điều khác nữa là, cha tôi sẽ đá bay anh ta qua ti vi vì dám động vào một sợi tóc của người cùng tên với ông. Tôi đã nói rằng tôi là đứa con gái yêu thích của cha chưa nhỉ? Vì thế tôi đệ đơn li dị và Jason cho tôi tất cả những gì tôi đòi hỏi, chỉ với một điều kiện là tôi phải đưa cho anh ta bức ảnh anh ta và Jenni cùng với phim âm bản của nó. Ờ, chắc rồi, tại sao không nhỉ? Cứ như thể tôi không có nhiều hơn một bản copy ấy. Có lẽ Jason nghĩ tôi quá ngu ngốc để nghĩ đến chuyện làm điều đó. Sẽ không hề có lợi nếu đánh giá thấp mức độ bẩn thỉu mà bạn sẽ chơi. Vì lý do này mà tôi thực sự không nghĩ Jason sẽ trở thành một chính trị gia giỏi. Tôi cũng nói với mẹ là Jenni đã để cho Jason hôn nó. Bạn không nghĩ là tôi sẽ để đứa em gái nhỏ hư thân mất nết đâm lén sau lưng tôi thoát tội phải không? Không phải tôi không yêu thương Jenni, nhưng nó là đứa trẻ của gia đình và nó vẫn nghĩ là nó sẽ có bất cứ thứ gì mà nó muốn. Đôi khi cũng phải cho nó thấy khác như vậy. Tôi cũng nhận thấy rằng tên nó có vần; Jenni Mallory. Thực tế là Jennifer nhưng nó chưa bao giờ được gọi như thế nên không tính. Tôi không biết có chuyện gì với mấy cái tên có vần nữa nhưng chúng thực sự là tin tồi tệ với tôi. Sự khác biệt là, tôi tha thứ cho Jenni bởi vì nó là máu mủ. Còn Jason thì không đời nào tôi tha thứ. Vì thế mẹ đã lo trông chừng Jenni, đứa đã khóc lóc sướt mướt xin lỗi và hứa sẽ làm đứa con gái tốt hoặc ít nhất cũng phải cho thấy sẽ có khẩu vị khá hơn; và em gái giữa của tôi, Siana, đứa đang học trường luật, đã lo thương thuyết với Jason. Cái tên "Siana" được cho là tên trại đi của "Jane", nhưng theo tôi, cái tên đó có nghĩa thực sự là "con cá mập chén người có lúm đồng tiền". Đó là Siana. Với hành động của nữ giới nhà Mallory, vụ li dị tiến hành xong xuôi trong một thời gian kỷ lục mà bố còn chưa biết được chính xác tại sao tất cả chúng tôi lại nổi điên với Jason. Không phải là vì ông quan tâm; mà là nếu chúng tôi nổi điên thì ông cũng nổi điên thay cho chúng tôi. Ông không ngọt ngào sao? Tôi nhận được khá nhiều tiền từ vụ dàn xếp li dị với Jason, cám ơn. Tôi cũng nhận được chiếc Mercedes mui trần màu đỏ (há há, Linda thích xe màu đỏ thì phải), tất nhiên là thế rồi, nhưng tiền là quan trọng nhất bởi vì những gì tôi đã làm được với nó. Tôi mua một nhà thể dục thể thao. Một trung tâm thể dục thẩm mĩ. Cuối cùng thì bạn đồng hành cùng sức khoẻ của bạn cơ mà, và tôi biết tất cả về việc giữ phom người. Siana gợi ý tôi gọi nó là "Blair's Beautiful Butt" nhưng tôi nghĩ nó sẽ hạn chế nhóm khách hàng và có lẽ khiến người ta sẽ bị ấn tượng là tôi đã đi hút mỡ. Mẹ nghĩ ra cái tên "Great Bods" và tất cả chúng tôi đều thích, vì thế nó trở thành cái tên mới của Halloran's Gym trước đây. Tôi ném một đống tiền vào việc tân trang và trang trí lại, nhưng khi tôi hoàn thành, nơi nàyđáng phải hét lên là nơi "cao cấp". Những tấm gương bóng loáng, thiết bị là loại tốt nhất trên thị trường; những phòng tắm, phòng thay đồ, vòi hoa sen được làm lại hoàn toàn; hai phòng sauna và một bể bơi được xây dựng thêm, cùng với một phòng mát xa riêng. Thành viên của Great Bods có thể lựa chọn các lớp yoga, aerobics, Tea Bo hoặc đám đá. Nếu yoga không làm bạn dễ chịu thì bạn có thể làm việc khác bạn thích mà không cần phải rời khỏi toà nhà này. Tôi cũng quả quyết rằng tất cả nhân viên của tôi đều được đào tạo về CPR (Hô hấp nhân tạo - Cấp cứu hồi sức), bởi vì bạn không bao giờ biết được khi nào thì một ông sếp với một-cơ-thể-đã-mất- dáng với hàm lượng cholesterol cao sẽ đâm đầu vào cái máy tập nhằm làm giảm trọng lượng với nỗ lực lấy lại được dáng vóc thời tuổi teen chỉ trong vòng một đêm để có thể gây ấn tượng với cô thư ký mới của mình, và đây là kết quả: đau tim vì quá sức. Bên cạnh đó, nó cũng là thứ khá ấn tượng trên các bài quảng cáo. Tất cả tiền bạc và khóa đào tạo CPR là rất bõ. Trong vòng một tháng mở cửa, Great Bods đã đạt hiệu quả nhanh chóng. Tôi bán thẻ hội viên theo tháng hoặc theo năm - có khoản giảm giá nếu bạn trả tiền cả năm cho khoá học, một chiến lược khôn ngoan vì nó sẽ lôi kéo bạn và rồi sau đó hầu hết mọi người sẽ tận dụng hết các thiết bị vì họ không muốn phí phạm tiền của mình. Những chiếc ô tô trong bãi đỗ giúp nhận biết thành công, và, chà, bạn biết họ nói gì về nhận thức rồi đấy. Dù sao, thành công cũng sản sinh như chuột vậy (thực ra là như thỏ nhưng người Việt mình thì cho rằng chuột mới đẻ lắm ). Tôi rùng mình từ đầu tới tận vớ phủ chân - một trong số những loại không bị coi là lạc hậu, nhưng chúng thực sự chưa phải là thứ khá nhất làm đôi chân bạn trông tuyệt hơn. Giày cao gót mới đứng đầu danh sách này, còn vớ phủ chân là lựa chọn gần thứ hai thôi. Tôi dùng cả hai. Tất nhiên là không phải đồng thời rồi. Pờ liz. Great Bods mở cửa từ sáu giờ sáng đến chín giờ tối, giúp cho tất cả mọi người có thể dễ dàng sắp xếp lịch của mình. Ban đầu, các lớp yoga của tôi vắng teo, chỉ có vài phụ nữ tham gia, vì thế tôi thuê mấy anh chàng trong đội bóng đại học đẹp giai và được ái mộ tham gia vào lớp yoga một tuần. Vô số các chàng học lớp cử tạ và Tae Bo, đàn ông đến tận răng, đổ xô vào làm bất cứ thứ gì mà những anh chàng trẻ trung đẹp giai của tôi làm để giữ phom người chuẩn và phụ nữ thì hối hả tham gia vào cùng lớp với cùng những anh chàng trẻ trung đó. Vừa hết một tuần, lượng thành viên tham gia vào lớp yoga đã tăng lên gấp bốn lần. Đám đàn ông khám phá ra yoga khó nhằn thế nào và lợi ích của nó thế nào nên hầu hết bọn họ đều ở lại - và vì thế nên phụ nữ cũng vậy. Tôi có cần phải nói là tôi đã tham gia vài lớp học tâm lý hồi đại học không nhỉ? Nên đây là tôi, vài năm sau: ba mươi tuổi và sở hữu một công việc kinh doanh thành công khiến tôi luôn bận rộn và cũng mang lại nhiều lợi nhuận rất hấp dẫn. Tôi bán chiếc mui trần màu đỏ và mua một cái màu trắng vì tôi muốn hạ thấp mình đi một chút. Chẳng khôn ngoan chút nào khi một người phụ nữ sống một mình lại thu hút được quá nhiều chú ý. Ngoài ra, tôi cũng muốn một chiếc xe mới. Tôi yêu mùi vị đó. Vâng, tôi biết tôi có thể mua một chiếc Ford hay đại loại thế, nhưng việc tôi lái xe lượn lờ khắp thị trấn trong chiếc mui trần Mercedes mà Jason không thể nào làm vậy vì nó sẽ ảnh hưởng xấu đến hình ảnh tranh cử của anh ta, chẳng khác nào như cái kim đâm vào mông Jason. Anh ta có thể chết vì ghen tị với tôi. Tôi hi vọng thế. Dẫu sao tôi cũng không đỗ chiếc mui trần ở khu vực bãi đỗ xe công cộng phía trước bởi vì tôi không muốn gây bàn tán om xòm về chiếc xe. Tôi có một khu vực đỗ xe riêng dành cho nhân viên phía sau nhà thể dục, với lối vào tiện lợi hơn nhiều; chỗ đỗ xe dành riêng cho tôi, khá lớn để những chiếc xe của người khác không lại gần được, ở ngay phía trước cửa. Là người sở hữu cũng có mặt mạnh của nó. Tuy nhiên, là một người chủ tốt bụng, tôi cũng cho dựng những tấm kim loại lớn che kín phía sau nhà thể dục để chúng tôi có thể đậu xe dưới mái che và được che chắn khi chui ra, chui vào xe. Khi trời mưa, tất cả mọi người đều tán thưởng cái mái che đó. Tôi là chủ nhưng tôi không tin tưởng vào việc hống hách với nhân viên của mình. Ngoại trừ chỗ đỗ xe, tôi không đòi hỏi bất cứ đặc quyền nào cả. Ừm, tôi nghĩ là việc ký vào phiếu trả lương của họ đã là một mối lợi to lớn rồi, và tôi đã quản lý tất cả tiền nong và đưa ra tất cả các quyết định cuối cùng, nhưng tôi cũng trông chừng cho tất cả bọn họ. Chúng tôi có gói bảo hiểm y tế rất tốt, bao gồm cả nha khoa, tôi trả cho họ tiền công hậu hĩnh - cộng với việc họ được thoải mái nhận dạy lớp học riêng của mình vào ngày nghỉ để có thêm thu nhập - và tôi cho họ rất nhiều kỳ nghỉ. Vì lý do này, tôi không phải thay thế nhân viên nhiều lắm. Một số thay đổi không tránh được bởi vì cuộc sống thay đổi và người ta chuyển đi, những thứ kiểu đó, nhưng hiếm khi nhân viên của tôi bỏ việc để làm một công việc khác trong vùng. Giữ chân nhân viên rất tốt cho việc kinh doanh. Khách hàng thích cảm thấy họ quen biết giáo viên và người huấn luyện. Thời gian đóng cửa là chín giờ tối và tôi thường ở lại khoá cửa để nhân viên của tôi có thể về nhà với gia đình hoặc tham gia cuộc sống xã hội hay bất cứ điều gì khác. Đừng cho rằng điều đó nghĩa là tôi không có cuộc sống xã hội. Thực sự là giờ tôi không còn hẹn hò nhiều như ngày vừa mới li dị, nhưng Great Bods chiếm nhiều thời gian của tôi và nó cũng quan trọng với tôi nên tôi chăm lo cho công việc của mình. Tôi có ý tưởng sáng tạo mới cho việc hò hẹn của mình: chúng tôi sẽ đi ăn trưa, điều đó rất tốt nếu như anh chàng đó hoá ra không tuyệt như tôi hi vọng bởi vì "bữa trưa" thì chỉ có hạn. Bạn gặp gỡ, bạn ăn, bạn rời đi. Nhờ vậy mà nếu tôi không khoái buổi hẹn hò đó, tôi sẽ không phải né tránh anh ta hay nghĩ ra lý do xin thứ lỗi không thoả đáng vì không thể mời anh ta vào nhà. Bữa trưa có vai trò rất tốt, sự sáng suốt trong hẹn hò. Nếu tôi thích anh ta thì sẽ có nhiều tuỳ chọn mở ra sau đó, chẳng hạn như một cuộc hẹn hò thực sự sau giờ làm hoặc vào chủ nhật khi Great Bods đóng cửa. Dù sao, vào một đêm - tôi đã nói rằng tôi từng chứng kiến một vụ giết người, phải không nhỉ? - tôi khoá cửa như mọi khi. Muộn một chút vì tôi đang tiếp tục luyện tập các kỹ xảo; bạn không bao giờ biết được khi nào bạn cần thực hiện cú backflip đâu. Tôi luyện tập đến khi mướt mồ hôi, vì thế tôi tắm và gội đầu trước khi vớ lấy đống đồ của mình và tiến về phía cửa cho nhân viên. Tôi tắt đèn rồi mở cửa và bước ra ngoài mái che. Ồ, chờ đã, tôi đi hơi quá rồi. Tôi chưa nói về Nicole. Nicole Goodwin "gọi tôi là Nikki" là cái gai của tôi. Cô ta gia nhập Great Bods khoảng một năm trước và lập tức khiến tôi phát điên mặc dù mất hai tháng tôi mới nhận thấy. Nicole là một trong những người có giọng nói nhẹ như hơi thở khiến ngay cả những người đàn ông mạnh mẽ cũng phải tan chảy. Điều đó khiến tôi muốn kìm hãm cô ta lại. Có cái quái gì trong giọng nói thì thầm bắt chước MariLyn Monroe lại khiến đàn ông thích thế nhỉ? Một số đàn ông, ít ra là vậy. Nicole cũng quét lên mình sự ngọt ngào giả dối khi cô ta nói chuyện nữa; thật lạ là những người quanh cô ta vẫn chưa bị làm sao bị bệnh tiểu đường đấy. Ít ra cô ta cũng không làm cái trò lấy-tay-xoắn-xoắn-tóc. Nhưng đó là bởi vì tôi không làm thế - trừ phi tôi đang trêu chọc ai đó, vậy đấy. Nhìn chung, tôi chuyên nghiệp hơn. Bạn thấy rồi đấy, cô ta là con mèo bắt chước. Và tôi là con mèo mà cô ta bắt chước theo. Đầu tiên là tóc. Tóc tự nhiên của cô ta chỉ hơi vàng thôi nhưng trong vòng hai tuần vào Great Bods, tóc cô ta trở nên vàng óng, uốn thành từng lọn. Giống như của tôi, thực tế là thế. Khi đó tôi không thực sự chú ý bởi vì tóc cô ta không dài như tóc tôi nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, khi tất cả những chi tiết nhỏ bắt đầu đâu vào đấy thì tôi nhận ra rằng tóc cô ta có cùng màu với tôi. Rồi cô ta bắt đầu cột tóc đuôi ngựa để khỏi vướng víu khi cô ta tập luyện. Thử đoán xem ai cũng buộc tóc lên khi cô ấy tập luyện nhỉ? Tôi không trang điểm đậm khi làm việc bởi vì nó phí thời gian: nếu một cô gái nóng bừng mặt đến mức độ nào đó thì lớp trang điểm biết mất. Ngoài ra, da tôi khá đẹp với đôi lông mày và lông mi sậm màu nên tôi không lo lắng về khuôn mặt mộc. Tuy nhiên, tôi thích dùng sữa dưỡng có hạt li ti lấp lánh khiến cho da tôi lung linh huyền ảo. Nicole hỏi tôi dùng loại sữa dưỡng nào và như một kẻ đần độn, tôi nói cho cô ta biết. Ngày hôm sau, da Nicole cũng lung linh như vậy. Bộ đồ tập luyện của cô ta bắt đầu trông giống của tôi: áo nịt và vớ phủ chân khi tôi tập luyện, với quần yoga xắn lên khi tôi đi xem xét tổng quan các hoạt động tập luyện. Nicole bắt đầu mặc áo nịt ngực và vớ phủ chân, nếu không thì cô ta nhún nhảy quanh quẩn trong cái quần yoga. Và ý của tôi là nhún nhảy. Tôi còn không tin là cô ta có áo lót. Thật không may, cô ta là một trong những người phụ nữ nên có mấy thứ đấy. Các thành viên nam của tôi (tôi thích nói thế) dường như thích cách ăn mặc lố lăng này, nhưng tất cả những cái đưa đẩy đó khiến tôi hoa cả mắt, nên nếu tôi phải nói chuyện với cô ta, tôi tập trung vào duy trì việc tiếp xúc bằng ánh mắt. Rồi cô ta có một chiếc mui trần màu trắng. Nó không phải là một chiếc Mercedes, nó là chiếc Mustang nhưng nó vẫn - màu trắng và nó là chiếc mui trần. Còn gì rõ ràng hơn nữa mà cô ta có thể tạo ra đây? Có lẽ tôi nên thấy là mình được tâng bốc, nhưng tôi không thấy vậy. Không có vẻ như Nicole thích tôi và sao chép tôi vì ngưỡng mộ. Tôi nghĩ cô ta ghét tôi. Cô ta luôn tạo vẻ ngọt ngào thái quá khi nói chuyện với tôi, bạn biết không? Kiểu-nói-Nicole "Ồ, chị yêu, đó phải là đôi hoa tai tuyệt nhất đấy!" có nghĩa là "Tôi muốn nhổ nó ra khỏi tai bà và để lại cái tai máu chảy ròng ròng, mụ chó cái ạ." Một trong những thành viên của trung tâm - một phụ nữ, tất nhiên - thậm chí một lần còn nhận xét sau khi nhìn Nicole khệnh khạng bỏ đi, các bộ phận cơ thể nảy tưng tưng, như sau: "Ngời phụ nữ đó sẽ xé toạc cổ họng chị, đổ xăng lên người chị, đốt cháy chị và vứt chị vào máng xối rồi quay lại và nhảy nhót trên đống tro tàn của chị khi lửa tắt." Thấy chưa? Không phải tôi đặt điều đâu nhé. Bởi vì tôi mở cửa tự do, tôi phải cho phép bất cứ ai muốn tham gia được tham gia, nhìn chung thì nó cũng chẳng sao, mặc dù có lẽ tôi nên phân loại những thành viên tóc tai trước, nhưng có một điều khoản mà tất cả những người tham gia phải chấp nhận là nếu có ba thành viên khác phàn nàn về hành vi, cách cư xử trong phòng thay đồ hoặc một số lần vi phạm nào đó trong một năm thì người bị phàn nàn sẽ không được tham gia tiếp khi hết hạn làm hội viên. * Search: Là một người chuyên nghiệp, tôi sẽ chẳng đá đít Nicole đi chỉ bởi vì cô ta làm tôi bực mình chết đi được. Nó làm tôi khó chịu nhưng tôi vẫn kiềm chế vì tôi phải là người chuyên nghiệp. Tuy nhiên, là Nicole, cô ta thường xuyên gây khó chịu, lăng mạ, sỉ nhục, hay nói chung là gây bực mình với tất cả những người phụ nữ cô ta giao thiệp trong ngày. Cô ta bày bừa trong khu vực thay dồ và để cho người khác dọn dẹp. Cô ta cạnh khoé người khác khi người ta không có phom người chuẩn và chiếm dụng máy tập mặc dù quy định là chỉ được dùng tối đa là ba mươi phút cho một lần tập. Đa phần người ta chỉ than phiền bằng cách chê bai, nhưng cũng có một số phụ nữ đến nói với tôi với đôi mắt toé lửa và nhất quyết đòi ghi vào phiếu phàn nàn. Tạ ơn chúa, Jesus. Số lời than phiền được ghi lại trong hồ sơ của Nicole đã hơn con số ba khi thẻ hội viên của cô ta hết hạn và tôi có thể nói với cô ta - một cách dịu dàng, tất nhiên là vậy - rằng cô không được gia hạn thẻ hội viên nữa và cô ta nên thu dọn sạch sẽ tủ đựng đồ của mình. Kết quả là một tiếng kêu thét có thể làm cả con bò ở nước bên cạnh sợ hãi. Cô ta chửi tôi là chó cái, đĩ điếm, con đàn bà dâm đãng và đó mới chỉ là khởi đầu. Tiếng chửi bởi the thé của cô ta mỗi lúc một to hơn, chỉ đủ lôi kéo được sự chú ý của tất cả mọi người ở Great Bods và tôi nghĩ cô ta sẽ đánh tôi mất nếu cô ta không biết rằng tôi sung sức hơn cô ta và chắc chắn sẽ đánh trả cô ta, mạnh hơn. Cô ta gạt phăng mọi thứ trên bàn - hai chậu cây, đơn xin gia nhập, hai cái bút bi - xuống sàn nhà và bắn một phát đạn cuối cùng trước khi đi khỏi, nói rằng sẽ cho luật sư của cô ta liên hệ với tôi. Tốt thôi. Bất cứ điều gì. Tôi sẽ điều luật sư của tôi kiện cô ta một ngày nào đó. Siana còn trẻ nhưng nó có thể gây chết người, và nó không ngại chơi bẩn. Chúng tôi thừa hưởng điều đó từ mẹ. Những người phụ nữ túm tụm xung quanh xem cơn thịnh nộ của Nicole vỗ tay tán thưởng khi cánh cửa đóng lại sau cô ta. Đàn ông thì chỉ đơn thuần tỏ ra ngơ ngác. Tôi vãi đái vì Nicole không dọn dẹp tủ đựng đồ của cô ta nên tôi sẽ phải cho cô ta quay lại một lần nữa để cô ta lấy tất cả những gì thuộc về cô ta. Tôi nghĩ về chuyện hỏi Siana về việc tôi có thể đòi Nicole sắp xếp cuộc hẹn để dọn hết những thứ trong tủ để đồ của cô ta và yêu cầu có một cảnh sát làm nhân chứng cô ta đã thu hết đồ và ngăn chặn một cơn thịnh nộ khác hay không. Thời gian còn lại trong ngày trôi qua trong sự rực rỡ huy hoàng. Tôi đã thoát khỏi Nicole! Tôi thậm chí chả buồn quan tâm đến việc dọn dẹp cái đống bừa bộn cô ta gây ra bởi vì cô ta đã đi rồi, đi rồi, đi rồi. OK. Đó là những gì về Nicole. Để tôi quay lại với cái đêm tôi ở cửa vào phía sau, vân vân và vân vân. Ánh đèn đường ở góc chiếu sáng khu vực đỗ xe nhưng bóng tối vẫn sâu thẳm. Mưa phùn rơi đều đều làm tôi lẩm nhẩm chửi thề bởi vì con đường chết giẫm sẽ làm bẩn xe tôi và màn đêm bao phủ sương mù. Mưa và sương mù chẳng phải là một sự kết hợp hoàn hảo gì. Tạ ơn Chúa, tôi không làm tóc xoăn nên tôi chả phải phiền lòng vì những sợi tóc xoăn tít trong những trường hợp kiểu thế này. Nếu bạn đã từng có cơ hội trở thành nhân chứng cho một sự kiện vô cùng đáng giá, ít ra bạn cũng muốn trông mình ở tình trạng tốt nhất. Tôi khoá cửa và quay ngang trước khi tôi nhận ra chiếc xe ở góc sau của khu đỗ xe. Nó là một chiếc Mustang màu trắng. Nicole đang chờ tôi, chết tiệt thật. Dây thần kinh báo động của tôi rung lên ngay lập tức, báo động làm tôi mệt mỏi - thì trước đó cô ta đã trở nên hung dữ mà - tôi lùi lại dí lưng vào tường để cô ta không thể tóm lấy tôi từ đằng sau. Tôi nhìn theo tất cả các hướng, cho rằng cô ta sẽ tiến đến phía tôi từ trong bóng tối nhưng không có gì xảy ra hết và tôi lại nhìn chiếc Mustang, tự hỏi liệu có phải cô ta đang ngồi trong đó và chờ tôi không. Cô ta sẽ làm gì, bám theo tôi ư? Hay cô gắng đuổi bắt tôi trên đường? Tiến đến ngang xe tôi và bắn tôi vài phát đạn? Đối với cô ta, tôi không thể nói trước điều gì. Mưa và sương mù khiến khó có thể nói được có ai ngồi trong chiếc Mustang không, nhưng rồi tôi nhận thấy có bóng người ở phía bên kia chiếc xe, và tôi nhìn thấy một mái tóc vàng hoe. Tôi thò vào túi lấy chiếc điện thoại và bật lên. Nếu cô ta bước đến phía tôi một bước, tôi sẽ gọi 911. Rồi cái hình dáng phía bên kia chiếc Mustang bắt đầu động đậy và di chuyển, một cái bóng to hơn và tối hơn tách ra khỏi Nicole. Trời đất. Ôi, quỷ thật, cô ta đưa người đến để đánh tôi. Tôi bấm số 9 và số 1 đầu tiên. Một tiếng nổ xé toạc màn đêm làm tôi nhảy dựng lên và ý nghĩ đầu tiên của tôi là sẽ có ánh sáng loé lên gần đó. Nhưng đó không phải là loại loé sáng hay làm rung chuyển mặt đất. Rồi tôi nhận ra âm thanh đó có lẽ là tiếng súng và tôi có thể là mục tiêu, tôi thét lên vì hoảng loạn khi tôi ngã cả bốn vó xuống sau chiếc xe. Thực tế là tôi đang cố hét nhưng tất cả những gì phát ra chỉ như tiếng của Minnie Mouse khiến tôi sẽ phải xấu hổ nếu tôi không phải đang trong trạng thái sợ gần chết. Nicole không nhờ đến cơ bắp; cô ta nhờ một kẻ giết mướn. Tôi làm rơi điện thoại và trong bóng tối, tôi không thể nhìn thấy nó. Chẳng ích gì nếu tôi cố gắng nhìn ngó xung quanh khi tôi thực sự không thể mất thời gian tìm điện thoại. Tôi bắt đầu khua tay trên nền để cố gắng định vị nó. Ôi, cứt thật, sẽ ra sao nếu kẻ giết mướn kia đến đây để xem hắn đã bắn trúng tôi ngay phát đầu tiên chưa? Ý tôi là, tôi đã ngã xuống đất nên nghĩ rằng tôi bị bắn trúng là hoàn toàn có lý. Tôi có nên ép bẹp dí mình xuống và giả vờ chết không nhỉ? Trườn dưới chiếc xe? Cố gắng quay lại toà nhà và khoá cửa lại? Tôi nghe tiếng động cơ khởi động và nhìn lên khi chiếc xe bốn chỗ từ từ đi lên con đường hẹp và khuất khỏi tầm nhìn dọc theo toà nhà. Tôi nghe nó chậm lại và dừng ở chỗ giao với con đường bốn làn, Parker, ở phía trước rồi hoàn toàn hoà dần vào dòng xe cộ. Đó có phải kẻ giết mướn không nhỉ? Nếu có ai đó khác ở khu đỗ xe, chắc hẳn anh ấy hoặc cô ấy đã nghe thấy tiếng súng và không lái xe đi bình thản như thế. Chỉ có kẻ bắn người mới lái xe bình thản như vậy, đúng không? Bất cứ ai khác cũng sẽ chẳng dám đi khỏi đây, như tôi đang liều lĩnh muốn vậy. Chắc là Nicole đã nghĩ ra lý do đáng xấu hổ để thuê tên giết mướn đó; hắn còn chẳng thèm kiểm tra xem chắc chắn tôi đã chết chưa. Nhưng nếu gã giết mướn có bỏ đi chăng nữa thì Nicole đâu? Tôi chờ đợi và nghe ngóng nhưng chẳng có tiếng bước chân hay âm thanh chiếc Mustang khởi động gì cả. Tôi nằm ép bụng xuống và len lén nhìn qua một trong những bánh xe trước của tôi. Chiếc Mustang trắng vẫn đỗ ở bãi đỗ xe nhưng không hề có dấu hiệu gì của Nicole cả. Cũng không có ai đi ngang qua chạy vào kiểm tra tiếng súng hay xem có ai bị thương hay không. Great Bods nằm ở một quận khá tốt với những cửa hiệu nhỏ và nhà hàng gần đó, nhưng không có nhà dân - các cửa hiệu và nhà hàng cung cấp thực phẩm cho hầu hết các công sở quanh đây vì thế tất cả các nhà hàng đều đóng cửa vào sáu giờ, các cửa hiệu cũng không mở cửa sau đó. Nếu có ai đó rời khỏi Great Bods muộn hơn và muốn ăn sandwich thì nơi gần nhất cũng cách khoảng năm toà nhà. Cho đến bây giờ, tôi chưa từng nhận ra khu vực đỗ xe của nhân viên đơn độc thế nào vào giờ đóng cửa. Không ai khác nghe thấy tiếng súng. Chỉ mình tôi. Tôi có hai lựa chọn. Chìa khoá xe tôi ở trong ví. Tôi có hai chùm chìa khoá bởi vì số chìa khoá tôi cần cho nhà thể dục này làm chùm chìa khoá quá cồng kềnh khi tôi đi làm mấy việc lặt vặt hoặc mua sắm. Tôi có thể lấy chìa khoá xe không chậm trễ, mở khoá xe bằng điều khiển từ xa và nhảy vào trước khi Nicole có thể nhìn thấy tôi - trừ vì cô ta đứng ngay ở bên kia xe của tôi. Tôi không biết được cô ta nghĩ gì, nhưng điều gì cũng có thể. Nhưng chiếc xe, đặc biệt là chiếc mui trần, không đủ để giữ khoảng cách với con mèo bắt chước bị thần kinh ấy. Sẽ ra sao nếu cô ta có một khẩu súng? Tấm mui mềm không ngăn được đạn. Lựa chọn khác là moi chùm chìa khoá to của nhà thể dục ra khỏi túi, cảm nhận tìm chiếc chìa khoá cửa, mở khoá rồi chui vào trong. Việc này mất thời gian hơn nhưng tôi sẽ an toàn hơn nhiều đằng sau cánh cửa đã khoá. Ừm, tôi nghĩ tôi còn lựa chọn thứ ba, tôi sẽ tìm kiếm Nicole và cố gắng nhảy bổ vào cô ta, tôi có thể nếu tôi biết chắc chắn cô ta không có súng. Mặc dù vậy, tôi không biết chắc, nên chẳng có cách nào chơi trò anh hùng cả. Tôi có mái tóc vàng hoe nhưng tôi không ngu. Ngoài ra, đánh nhau cũng làm gẫy ít nhất hai cái móng tay của tôi. Nhất định thế. Vì thế tôi khua khoắng túi cho đến khi thấy những chiếc chìa khoá của mình. Chùm chìa khoá có cái gì đó ở giữa giữ mấy cái chìa không bị trượt lung tung để chúng luôn luôn theo đúng thứ tự. Chìa khoá cửa là cái đầu tiên bên trái. Tôi tách nó ra, rồi, ngồi thấp người, bước đi như vịt ngược trở lại cửa. Chuyển động kiểu đó trông thực sự khủng khiếp nhưng đó là cách luyện tập rất tuyệt cho đùi và mông. Không có ai nhảy xổ vào tôi. Không có âm thành nào ngoại trừ âm thanh xe cộ xa xa trên đường Parker, và không hiểu vì sao chuyện này còn đáng sợ hơn cả việc nếu như cô ta gào thét nhảy qua nóc chiếc xe của tôi và lao vào tôi. Không phải là tôi nghĩ Nicole có thể nhảy xa như thế, trừ phi là kỹ năng thể dục của cô ta rất, rất khá, khá hơn cô ta đã thể hiện, và tôi thì biết thừa là không được như thế, cô ta chỉ là mẫu người khoa trương thôi. Cô ta còn chẳng thể thực hiện được một cú split, và nếu cô ta có thử làm một cú backflip thì chắc sức nặng của ngực cô ta sẽ làm cô ta ngã đập mặt. Chúa ơi, tôi ước giá như cô ta thử làm cú backflip một lần. Tay tôi chỉ còn run một chút - ừm, hơn một chút một tẹo thôi - nhưng tôi vẫn có thể mở khoá cửa ngay lần mở đầu tiên. Thực tế là tôi đã bắn qua khe cửa và thực sự, tôi ước giá mà tôi cho mình có thêm một hay hai inch trống nữa vì tôi đã làm tím tay mình khi va vào rầm cửa. Nhưng rồi tôi cũng đã ở bên trong và tôi đóng sầm cửa lại, cài then, rồi lui lại đề phòng cô ta bắn qua cửa. Tôi luôn để hai ngọn đèn công suất thấp sáng vào ban đêm nhưng chúng đều ở phía trước. Công tắc đèn ở hành lang sau ở ngay cạnh cửa, tất nhiên là vậy, và không đời nào tôi đi đến quá gần cửa. Bởi vì tôi không thể nhìn thấy tôi đi đâu nên tôi tiếp tục lần mò dọc theo hành lang - rồi đến phòng nghỉ và cuối cùng đến cánh cửa thứ ba, đó là văn phòng tôi. Tôi cảm thấy như cầu thủ bóng chày chạy về đến đĩa nhà. An toàn! Bây giờ giữa tôi và ả chó cái là những bức tường và cánh cửa đã khoá, tôi đứng dậy và bật đèn trần rồi nhặt điện thoại lên, giận dữ bấm số 911. Nếu cô ta nghĩ rằng tôi không khiến cô ta bị bắt vì điều này, cô ta đã hoàn toàn đánh giá thấp mức độ giận dữ của tôi rồi. ... Mời các bạn đón đọc Hẹn Hò Theo Kiểu của Em của tác giả Linda Howard.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nơi Trái Tim Hội Ngộ - WM. Paul Young
LỜI GIỚI THIỆU Liệu bạn có thể tin được chăng nếu một người quả quyết rằng mình đã sống trọn một kỳ cuối tuần với Chúa, trong một căn chòi? Thậm chí là chính căn chòi định mệnh ấy . Tôi biết Mack đã hơn hai mươi năm, kể từ ngày hai chúng tôi cùng đến phụ một người láng giềng gom cỏ ngoài đồng. Kể từ ấy, anh ta và tôi đã chia ngọt sẻ bùi, nói theo kiểu bọn trẻ ngày nay, đi chơi chung, cùng uống cà phê - hay là uống chai-tea nóng hổi pha với đậu nành. Những cuộc chuyện trò của chúng tôi đầy lý thú, lúc nào cũng rộn tiếng cười và thỉnh thoảng ứa cả nước mắt. Thật tình mà nói, càng lớn chúng tôi lại càng khăng khít. Tên đầy đủ của anh là Mackenzie Allen Phillips dù hầu như ai cũng gọi anh là Allen. Họ nhà anh, tất cả đàn ông con trai đều mang tên giống nhau nhưng thường được gọi theo tên lót, chắc là để tránh cách gọi phô trương kiểu Đệ nhất, Đệ nhị và Đệ tam hay là Cha và Con. Cách này cũng rất hiệu quả để nhận diện những tay tiếp thị từ xa, nhất là những cú phôn đường đột mà cứ ra vẻ thân thiết. Vậy là anh ấy và ông nội, bố, và bây giờ là thằng con trai cả đều mang tên Mackenzie nhưng thường được gọi bằng tên lót. Chỉ có Nan, vợ anh, và mấy người bạn thân gọi anh là Mack. Mack sinh trưởng trong vùng Midwest, một cậu trai con nhà nông trong một gia đình Ái Nhĩ Lan - Hoa Kỳ vốn quen làm lụng và khắt khe. Mặc dù bề ngoài thì mộ đạo, ông bố roi sắt của anh ta, một bậc trưởng lão trong giáo xứ, lại là một kẻ nát rượu, nhất là khi trời không mưa, hoặc mưa sớm quá, hoặc là bất cứ khi nào. Mack chẳng bao giờ nói nhiều về bố, nhưng mỗi khi nhắc đến thì gương mặt anh vô cảm như nước triều đang rút ra khơi, chỉ còn lại ánh mắt u tối và nguội lạnh. Từ những câu chuyện ít ỏi Mack kể lại, tôi biết bố anh không phải là loại nốc rượu rồi vô tư lự ngủ khì mà là một gã bợm nhậu xấu nết đánh chửi vợ con rồi lại xin Chúa xá tội. Biến cố xảy đến khi cậu Mackenzie mười ba tuổi miễn cưỡng bày tỏ tâm tình với một vị trưởng lão trong một dịp khôi phục đức tin cho giới trẻ. Trong một khoảnh khắc, day dứt với cảm giác tội lỗi, Mack đã bật khóc thú nhận rằng nhiều lần cậu đã chẳng làm gì để giúp mẹ khi ông bố say xỉn đánh mẹ đến ngất đi. Điều Mack không ngờ là lời xưng tội ấy thật hiệu nghiệm và đến tai cả bố mình, và khi cậu về đến nhà thì bố đang chờ sẵn ngoài hiên còn mẹ và các em gái thì rõ ràng đã đi vắng. Về sau cậu mới biết rằng mọi người đã đến nhà cô May để bố rảnh tay dạy cho thằng con phản loạn một bài học về sự tôn kính. Gần suốt hai ngày sau đó, bị trói vào cây sồi sau nhà, cậu bị quật bằng thắt lưng xen lẫn trong những câu kinh mỗi khi ông bố tỉnh cơn say và nốc xong ngụm rượu. Hai tuần sau, khi hồi phục và nhúc nhắc đi được, cậu bỏ nhà đi thẳng. Nhưng trước khi đi, cậu cho thuốc độc vào tất cả chai rượu tìm thấy trong nông trại. Rồi cậu ra cạnh nhà ngoài đào lên một chiếc hộp thiếc nhỏ chứa kho tàng nhân gian của cậu: một tấm ảnh gia đình với gương mặt mọi người đang nheo mắt vì ánh nắng mặt trời (bố cậu đứng khuất sang một bên), một tờ chương trình bóng chày giải Luke Easter 1950, một chai nhỏ đựng chút Ma Griffe (thứ nước hoa duy nhất của mẹ cậu), một cuộn chỉ và vài cây kim, một chiếc mô hình máy bay F-86 của Không lực Hoa Kỳ đúc bằng bạc, và toàn bộ tiền dành dụm của cậu - 15.13 đôla. Cậu lẻn vào nhà và luồn một mảnh giấy dưới gối của mẹ trong khi bố cậu đang ngáy sau một trận đánh chén. Giấy chỉ ghi: “Một ngày kia, con hy vọng mẹ có thể tha thứ cho con.” Cậu thề sẽ không bao giờ nhìn lại, và cậu đã không làm thế - chẳng được bao lâu. Mười ba thì còn quá nhỏ để gọi là hoàn toàn trưởng thành, nhưng Mack chẳng có mấy lựa chọn và đã thích nghi một cách thật nhanh chóng. Cậu chẳng nói nhiều về những năm tháng sau đó. Hầu hết quãng thời gian ấy trôi qua ở nước ngoài, cậu đi làm lụng khắp thế giới, gửi tiền về cho ông bà để nhờ chuyển lại cho mẹ cậu. Ở một nước xa xôi, tôi nghĩ thậm chí cậu đã cầm súng trong một cuộc xung đột dữ dội; cậu đã từng căm ghét chiến tranh một cách ghê gớm từ khi tôi biết cậu. Sau mọi chuyện, rốt cục ngoài hai mươi tuổi cậu bước chân vào một trường dòng tại Úc. Học xong thần học và triết học, cậu quay về Hoa Kỳ, làm lành với mẹ và các em gái, rồi chuyển đến Oregon nơi cậu gặp và cưới Nannette A. Samuelson. Trong một thế giới của những người chỉ nói, Mack là một người suy nghĩ và hành động. Anh chàng chẳng nói nhiều trừ phi bạn hỏi thẳng anh, mà hầu hết mọi người đều đã biết là không nên. Khi anh ta mở miệng, bạn sẽ nghĩ anh ta là một loại người trên trời rơi xuống bởi các ý tưởng và trải nghiệm hoàn toàn theo cách khác thường. Vấn đề là, anh thường mang lại cảm giác bất thường trong một thế giới mà hầu hết mọi người chỉ thích nghe những gì họ thường nghe, tức là chẳng có gì đáng bận tâm. Những người quen biết nói chung đều không ghét anh, miễn sao anh giữ các ý tưởng cho riêng mình. Và khi anh nói, không phải là họ không thích anh nữa - mà họ sẽ không cảm thấy thoải mái trong thâm tâm. Mack có lần bảo tôi rằng lúc trẻ anh thường bộc lộ ý nghĩ thoải mái hơn, nhưng anh thú nhận rằng hầu hết các cuộc nói chuyện như thế là một cơ chế sinh tồn để che đậy tổn thương của mình; rốt cục anh thường gieo nỗi đau cho mọi người xung quanh. Anh nói cách của anh thường vạch ra lỗi lầm và làm bẽ mặt người khác trong khi chính mình thì tôn tạo cảm giác giả tạo của uy quyền và ngự trị. Thật không dễ ưa. Khi viết những dòng này, tôi tái hiện một chàng Mack mà tôi biết - thật bình dị, và dĩ nhiên không phải là một người đặc biệt, ngoại trừ đối với những ai thật sự biết anh. Anh sắp bước sang tuổi năm mươi sáu, và anh là một người khá bình thường, hơi nặng cân, hói, thấp và da trắng giống như hầu hết những người đàn ông vùng này. Ắt là bạn sẽ chẳng nhận ra anh trong một đám đông hay cảm thấy khó chịu ngồi bên cạnh trong khi anh chợp mắt trên tàu MAX (tàu điện trung chuyển) trong hành trình mỗi tuần một lần vào thành phố dự cuộc họp về bán hàng. Anh làm việc chủ yếu từ văn phòng nhỏ tại nhà ở Wildcat Road. Anh bán các món đồ kỹ thuật cao và những dụng cụ mà tôi không định tìm hiểu: các thiết bị để làm cho mọi thứ diễn ra nhanh hơn, như thể cuộc sống này chưa đủ nhanh. Bạn không thể nhận ra Mack thông minh như thế nào trừ phi bạn tình cờ nghe lỏm cuộc đối thoại giữa anh với một chuyên gia. Tôi đã từng rơi vào tình huống đó, và chợt như nghe thấy ngôn ngữ không phải là tiếng Anh nữa, rồi tôi thấy mình phải vất vả để nắm bắt các ý niệm tuôn trào như thác. Anh có thể nói chuyện một cách minh triết về hầu hết mọi điều, và cho dù bạn cảm thấy anh có sức thuyết phục mạnh mẽ, anh vẫn có một phong thái dịu dàng để giúp bạn giữ quan điểm của mình. Các chủ đề anh ưa thích đều thuộc về Thiên Chúa và Đấng Tạo hóa và nguồn cội niềm tin của con người. Mắt anh sáng lên, nụ cười bừng nơi khóe môi, trong khoảnh khắc, như một đứa trẻ, nét mệt mỏi tan biến và anh trở nên không còn tuổi tác và vô tư lự. Nhưng trong lúc ấy, Mack không phải quá sùng đạo. Dường như anh có một mối quan hệ yêu/ghét với Tôn giáo, và thậm chí với cả Chúa mà anh hồ nghi rằng đang suy niệm ở nơi xa xôi và cách biệt. Thỉnh thoảng những lời châm chọc đầy mỉa mai lại dè dặt buông ra từ miệng anh như những mũi phi tiêu sắc lẻm tẩm độc dược từ một giếng sâu trong tâm can. Mặc dù cả hai chúng tôi đôi khi xuất hiện vào ngày chủ nhật tại chính ngôi giáo đường phúc âm (mà chúng tôi thích gọi là Hội Ngũ tuần Độc lập thứ 55 của Thánh John Baptist), bạn có thể thấy rằng anh ấy không thật thoải mái nơi đó. Mack đã kết hôn với Nan hơn ba mươi ba năm mà gần trọn thời gian là những năm tháng hạnh phúc. Anh nói người vợ đã cứu chuộc đời mình và đã trả một cái giá đắt để làm việc đó. Vì một lý do nào đó, nằm ngoài sự hiểu biết, giờ đây dường như cô ấy yêu anh hơn bao giờ hết, mặc dù tôi có cảm giác anh đã làm cô ấy tổn thương dữ dội trong những năm tháng đầu. Tôi cho rằng vì hầu hết những tổn thương của chúng ta đến từ các mối quan hệ nên sự hàn gắn cũng xuất phát chính từ đó, và tôi biết rằng sự khoan dung chẳng có nghĩa gì đối với những ai nhìn sự việc qua bề ngoài. Dù gì thì Mack đã có một cuộc hôn nhân xứng đôi. Nan chính là trát vữa để kết dính những viên gạch gia đình. Trong khi Mack vật lộn trong một thế giới đầy màu xám, thế giới của chị chủ yếu là trắng và đen. Chị tư duy theo lẽ thường một cách tự nhiên đến độ chẳng cảm nhận được cái năng khiếu lý tính ấy. Công cuộc chăm lo một gia đình khiến chị từ bỏ giấc mơ trở thành bác sĩ, nhưng trong vai trò y tá, chị tỏ ra vượt trội và được mọi người đánh giá cao trong công việc mà chính chị đã lựa chọn, là chăm sóc các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Trong khi quan hệ của Mack với Thiên Chúa thiên về chiều rộng, quan hệ của Nan lại có chiều sâu. Cặp vợ chồng xứng hợp một cách khác thường này có năm đứa con khôi ngô. Mack ưa nói rằng chúng đều cuỗm lấy nét đẹp từ anh “...vì Nan vẫn còn giữ được nét đẹp riêng cho cô ấy.” Hai trong ba cậu con trai đã ra riêng: Jon, vừa mới cưới, làm mãi vụ cho một công ty địa phương, còn Tyler, mới tốt nghiệp đại học, đang làm việc tại trường để theo đuổi luận án thạc sĩ. Josh và một trong hai đứa con gái, Katherine (Kate), vẫn còn ở nhà và theo học tại đại học cộng đồng địa phương. Rồi đến một đứa con muộn màng, Melissa - hay Missy, như cách chúng tôi thích gọi cô bé. Cô bé... mà thôi, rồi bạn sẽ biết về chúng rõ hơn qua những trang sách này. Những năm vừa qua đã trở nên, tôi nên nói như thế nào nhỉ, hết sức đặc biệt. Mack đã thay đổi; anh ấy giờ đây thậm chí còn khác hơn và đặc biệt hơn trước đây nữa. Suốt bao nhiêu năm tháng, tôi biết anh ấy là một tâm hồn khá dịu dàng và tử tế, nhưng từ lúc nằm bệnh viện cách đây ba năm, anh đã trở nên... thậm chí còn tử tế hơn nữa. Anh đã trở thành một trong những người hiếm hoi thật sự hoàn toàn thoải mái một cách chân tình. Và tôi cảm thấy thoải mái bên cạnh anh ấy, khác với bất cứ ai. Khi chia tay, dường như tôi vừa có được một cuộc nói chuyện tuyệt nhất trong đời, cho dù tôi thường là người nói hầu hết. Và ơn Chúa, Mack không chỉ phóng khoáng mà còn rất sâu sắc. Nhưng cú sốc ấy đã khiến anh phải trả giá đắt. Những ngày này rất khác với khoảng chừng bảy năm trước, khi nỗi đau xâm chiếm đời anh và anh gần như không nói chuyện nữa. Vào khoảng thời gian ấy và trong gần hai năm chúng tôi không qua lại, như thể có một sự thỏa thuận ngấm ngầm nào đó. Tôi chỉ gặp Mack thi thoảng tại hiệu tạp phẩm địa phương hoặc thậm chí còn hiếm hơn nữa tại nhà thờ, và mặc dù thường ôm choàng lấy nhau một cách lịch sự, chúng tôi chẳng nói gì mấy chuyện quan trọng. Thậm chí anh ấy còn khó khăn khi nhìn vào mắt tôi; có lẽ anh ấy không muốn khơi mào một cuộc trò chuyện có thể làm tróc vảy vết thương trong tim mình. Nhưng tất cả mọi chuyện đã thay đổi sau biến cố ác ôn với... Nhưng tôi lại buột miệng rồi, không kiềm chế được. Rồi đến lúc chúng ta sẽ biết chuyện. Tôi chỉ muốn nói mấy năm qua dường như cuộc sống đã trở lại với Mack và cất đi gánh nặng của nỗi đau . Chuyện xảy ra cách đây ba năm đã hoàn toàn thay đổi nhịp điệu cuộc sống của anh và đó là một khúc ca mà tôi muốn tấu lên cho các bạn cùng nghe. Mặc dù giao tiếp ngôn từ khá tốt, Mack lại không thoải mái với kỹ năng viết lách của mình - một việc mà anh biết rằng tôi rất đam mê. Cho nên anh đã đề nghị tôi chắp bút cho câu chuyện này - câu chuyện của anh ấy, “vì bọn trẻ và vì Nan.” Anh muốn câu chuyện giúp anh giải bày với vợ con không chỉ tình thương yêu sâu lắng của mình mà cả những gì đã diễn ra trong thế giới nội tâm của mình. Bạn biết thế giới ấy: nơi chỉ có riêng mình bạn - và có lẽ Chúa nữa, nếu bạn tin có Ngài. Dĩ nhiên, Chúa vẫn có thể hiện diện ở nơi ấy cho dù bạn không tin người. Người là như thế đó. Không phải vô cớ mà người được xưng tụng là Đấng Can thiệp. Những gì các bạn sắp đọc là những gì Mack và tôi đã vất vả hàng tháng trời để viết ra. Có một chút, à... không, có nhiều điều kỳ lạ. Cho dù có những phần thật sự có thật hay không, tôi không phải là người phán xét. Cũng phải nói rằng, mặc dù có những điều không thể chứng minh được một cách khoa học, thì nó vẫn đúng đấy thôi. Thật lòng tôi phải nói rằng khi tham gia vào câu chuyện này, tôi đã bị tác động sâu thẳm bên trong vào những ngóc ngách mà chính tôi chưa bao giờ biết đến sự tồn tại của nó; tôi phải thú thực rằng tôi vô cùng muốn mọi chuyện Mack kể với tôi là sự thật. Hầu hết các ngày tôi ở bên cạnh Mack, nhưng có những ngày - khi thế giới hữu hình của xi măng và máy tính trông như là thế giới thật - thì tôi tách biệt và cảm thấy hồ nghi. Một vài lời cuối: Mack muốn bạn biết rằng nếu bạn tình cờ đọc câu chuyện này và ghét nó thì, anh nói: “Xin lỗi... câu chuyện chủ yếu được viết ra không dành cho bạn.” Mà nghĩ lại, biết đâu đấy. Những gì bạn sắp đọc là ký ức rõ rệt nhất mà Mack có thể nhớ về những gì đã xảy ra. Đây là câu chuyện của anh ấy, không phải của tôi, cho nên những khi xuất hiện, tôi sẽ nhắc đến chính mình bằng ngôi thứ ba - từ góc nhìn của Mack. Ký ức có những lúc là một kẻ đồng hành quỷ quyệt, nhất là với một tai ương, và bất chấp những nỗ lực chung của chúng tôi để đạt được sự chính xác, tôi sẽ không quá ngạc nhiên nếu trong các trang sách có những sự kiện sai sót hoặc ký ức lầm lạc. Đó không phải là sự cố ý. Tôi có thể cam đoan với bạn các cuộc trò chuyện và biến cố được ghi lại trung thực tối đa theo những gì Mack nhớ được, cho nên ta hãy rộng lượng với anh ấy. Rồi bạn sẽ thấy, đó không phải là những điều dễ bộc bạch. Mời các bạn đón đọc Nơi Trái Tim Hội Ngộc của tác giả WM. Paul Young.
Nơi Em Quay Về Có Tôi Đứng Đợi - Ichikawa Takuji
Nơi Em Quay Về Có Tôi Đứng Đợi Cuộc đời vốn là những chuỗi hội ngộ và chia ly. Hội ngộ là để chia ly. Chia ly là để có ngày hội ngộ. Satoshi và Yuko, vốn là hai người bạn đồng môn thời trung học, đang sống trong những ngày vợ chồng son hạnh phúc thì tai họa bất ngờ ập đến: Yuko có thể sẽ ra đi mãi mãi. Đối diện sự thật đau buồn ấy, Satoshi và Yuko đã chăm sóc nhau, trở thành chỗ dựa cho nhau, chia sẻ với nhau từng cơn đau, từng niềm vui nhỏ bé, trân trọng từng giây phút ở bên nhau. Vẫn giọng văn nhẹ nhàng pha chút hài hước, như thể một cậu bé mới lớn đang thủ thỉ kể chuyện, Tchikawa Takuji một lần nữa khắc họa bức tranh tình yêu và chia ly bằng gam mầu sáng trong. Mỗi tác phẩm của ông là một lần thanh lọc tâm hồn người đọc. Chỉ cần có tình yêu thì sự chia ly cũng không còn đáng sợ. *** Sinh năm 1962 tại Tokyo. Sau khi tốt nghiệp khoa kinh tế trường Đại học Dokkyo, Nhật Bản, ông vào làm tại một công ty xuất bản nhưng chỉ được 3 tháng thì xin nghỉ việc và đi du lịch vòng quanh nước Nhật bằng xe máy. Sau đó ông làm tại một văn phòng nhỏ chuyên về thuế suốt 14 năm trước khi nghỉ hẳn để chuyên tâm vào công việc viết lách.   Từ năm 1997, ông bắt đầu giới thiệu những tác phẩm của mình lên mạng internet. Nơi em quay về có tôi đứng đợi là tiểu thuyết đầu tiên của ông bước ra khỏi mạng internet để xuất bản thành sách vào năm 2002. Tác phẩm sau đó cũng được dựng thành phim truyền hình. *** Ký ức ban sơ nhất, chính là màu trắng sáng đẹp đẽ của áo lót nhìn thấy qua lần áo sơ mi của em.   Muốn kể từ lần gặp gỡ đầu tiên, cho dù thế nào, cũng phải bắt đầu từ đây.   Tuổi mười lăm, bóc đi hết thảy vỏ bọc bên ngoài, em đơn giản mà tự nhiên, là một cô bé bẽn lẽn hướng nội.     Sau lễ Khai giảng, các học sinh mới đều tụ tập trong lớp học, để cho tiện, giáo viên sắp xếp chỗ ngồi theo thứ tự phát âm của tên học sinh, không phân biệt nam nữ, sau Igarashi là Inoue, vì vậy lẽ tất nhiên là tôi được xếp ngồi phía sau em, trước mắt chính là tấm lưng mảnh mai của em.   Tôi chẳng rõ vì tiết trời ấm áp hay vì nguyên do gì, lúc đó em không mặc áo khoác hay gi lê, mà chỉ mặc độc một chiếc sơ mi trắng.   Cặp mắt tôi bị hút chặt vào cái cổ nhỏ nhắn của em, những đường cong thanh mảnh trên cơ thể em tựa như một đứa bé vẫn chưa bước vào tuổi dậy thì.   Em mặc một chiếc áo ngực nhỏ che bầu ngực lại, khiến tôi cảm thấy có gì đó không hài hòa.   Ấn tượng của tôi với thứ đó giống kiểu nhỏ một giọt mực đỏ xuống nền toan trắng. (Nhưng trên thực tế, cái tôi nhìn thấy xuyên qua lớp áo sơ mi màu xanh nhạt ấy là màu trắng của chiếc áo ngực.)   Hai đặc điểm trái ngược của em khi mười lăm tuổi ấy khiến tôi bối rối, có lẽ đây chính là cơ duyên đầu tiên khiến hai người đến với nhau.     Về sau, tôi kể chuyện này cho Yuko nghe, em nhìn tôi với nụ cười khó hiểu.   “Thực ra, hồi em mười lăm tuổi, vốn chẳng cần thiết phải mặc áo ngực, nhưng mà, ăn mặc quá khác biệt với những bạn gái khác thì lại ngại, vả lại ở tuổi ấy người ta ai chẳng muốn làm những chuyện vượt quá sức mình chứ.”   Em tiếp lời:   “Có điều, nếu hồi đó anh Inoue nói chuyện này với em, em sẽ cảm thấy nội tâm mình bị người khác nhìn thấu, có khi hôm sau chẳng dám đi học nữa.” ... Mời các bạn đón đọc Nơi Em Quay Về Có Tôi Đứng Đợi của tác giả Ichikawa Takuji.
Những Cô Nàng Gucci - Jasmine Oliver
Năm học đầu tiên của bộ ba xinh đẹp tại trương thời Trang sắp kết thúc. Marina - cô tiểu thư duyên dáng của một gia đình nền nếp đã chọn cho mình ngành thiết kế giày. Sinead - cô con gái của một bà mẹ nổi tiếng trong làng thời trang cũng quyết định theo ngành thiết kế quần áo. Còn Frankie - cô em bốc đồng của bộ ba lại đi theo chuyên ngành nữ trang. Nhưng họ đang phải đối diện với nhiều chuyện phiền phức, áp lực học hành, bố mẹ ngoại tình, bạn trai lừa gạt, người yêu hiểu lầm... Họ chỉ mới 18 tuổi. Họ sẽ phải làm gì để vượt qua những rắc rối "người lớn" ấy? *** Bộ sách ​Câu Chuyện Thời Trang gồm có: Câu Chuyện Thời Trang Tập 1: Những cô nàng Gucci Câu Chuyện Thời Trang Tập 2: Những thiên thần Armani Câu Chuyện Thời Trang Tập 3: Những công chúa Prada *** Mình làm được mà! Marina nhủ thầm. Làm được, làm ngon lành! Đàn ông nuy, báo động! Frankie hít vào thở ra thật sâu. Eo ơi, đàn ông nuy! Nam người mẫu bằng xương bằng thịt bước vào giữa phòng vẽ và cởi áo choàng ra. Có gì ghê gớm đâu? Sinead nghĩ, lấy từ trong hộp ra một mẩu than chì ngắn. Người mẫu gầy nhom ấy ngồi xuống ghế. Da lão màu pho-mát, tóc nâu nhạt tết lại thành những bím dài. “Thể hình của ông Billy đây có độ nét rất cao, cho nên các em hãy tận dụng điều đó,” thầy dạy vẽ khuyên. “Các em đang dùng giấy A1, và tôi muốn các em vẽ kín hết khổ giấy.” Phùù! Frankie thở ra. Trời, cái môn hình họa này cứ như đấm vào mặt người ta ấy. Chẳng lẽ ở đây chỉ có mỗi mình cô là thấy nó gớm sao? Cô liếc sang cô gái ngồi bên trái mình có mái tóc vàng để dài. Marina nuốt nước bọt đánh ực một cái và cố nén cảm giác buồn nôn. Cô cầm mẩu than chì nhỏ lên và vân vê trong những ngón tay búp măng - những móng tay sơn màu đỏ chót tương phản với màu chì đen. Lão người mẫu ưỡn tấm thân ra phía trước. “Ừ, tốt lắm,” thầy Jack Irvine, giáo viên dạy vẽ gật gù khi Sinead dùng cạnh của mẩu than chì để đánh bóng những vùng tối. “Đừng có ngượng,” thầy bảo những sinh viên khác. “Tôi biết đây là lần đầu tiên với hầu hết các em, nhưng các em đâu còn là học sinh phổ thông nữa. Đây là trường Thời trang Trung tâm và các em đã là sinh viên rồi, vì vậy hãy tỏ ra người lớn và tập trung vào kỹ thuật vẽ đi.” Thôi thì đành chịu vậy, Frankie chớp mắt và cố ép mình bắt tay vào vẽ. “Gớm chết đi được!” Marina rên rỉ. Sau thử thách cam go trong phòng hình họa, cô với Frankie và Sinead lủi ngay ra quán cà phê. “Cái lão người mẫu đó nghĩ gì không biết? Lão ta phải sáu mươi là ít!” “Ừ, phải trả cả núi tiền may ra em mới làm việc đó,” Frankie đồng tình. “Ai lại trần như nhộng trước bàn dân thiên hạ chỉ với hai mươi bảng... không đáng để nhục như thế!” “Công việc thôi mà,” Sinead chỉ ra. “Còn hơn là đi sắp hàng lên kệ siêu thị.” “Còn lâu!” Frankie và Marina phản đối. Cá nhân mà nói, các cô thà đi xếp những lon đậu nướng chồng lên nhau còn hơn là đi làm người mẫu nuy . “Với lại, hãy nghe đây các cô gái ngoan hiền! Đám bà mẹ của bọn mình sẽ nghĩ gì?” Marina khuấy tách cà phê đen và nháy mắt với Sinead, trước khi ngó quanh căn phòng. Có hai kẻ “tị nạn” nữa cũng từ lớp hình họa tấp vào đây, cộng với hai anh chàng mà cô mang máng là đã gặp ở đâu đó rồi. Tại Tuần lễ Tân Sinh viên chăng? Hay phục vụ ở quầy bar Sinh viên? Không, Marina chả nhớ là ở đâu. Cô bỏ cuộc và nghía lại diện mạo mình trong tấm gương treo đằng sau quầy. “Hai chị có thấy lão ngủ gật trong khi ngồi làm mẫu không?” Frankie nhe răng cười, giọng nói tưởng như bị nuốt chửng trong tiếng rít rú của chiếc máy pha cà phê. Sinead và Marina cười ồ. “Không, không phải vậy! Ý em là lão đã được trả tiền để khò một giấc ngon lành.” “Thảo nào mà lão cứ cựa quậy mãi,” Marina phàn nàn. “Tao đã phải xóa ngực lão đi để vẽ lại từ đầu.” Cô cười khúc khích. Hai anh chàng bên kia gian phòng nhìn ba cô chằm chằm và thì thầm gì đấy. Frankie ngả người ra sau, hai tay ôm cái bụng phẳng lì của mình, “Giời ạ, cười đến đau cả bụng!” “Chứ hai đứa mày chưa từng thấy đàn ông nuy à?” Sinead làu bàu. “Ờ, tất nhiên!” Marina phát cáu. Frankie im lặng. Sau đó cô đổi đề tài, bảo với Sinead, “Bức vẽ của chị hết ý đấy.” “Này, đừng có nhìn nhé, nhưng bọn mình đã gặp hai thằng cha kia ở đâu rồi ấy nhỉ?” Marina hỏi, thì thào mà cốt để người khác nghe thấy. Sinead và Frankie quay qua, trố mắt nhìn. “ Đã bảo là đừng có nhìn mà!” Marina gắt. Anh chàng mặc jacket da đứng dậy và đi về phía ba cô. Ớ, không phải. Anh ta đang tới quầy để lấy thêm cà phê. Tên kia, trông quyến rũ hơn, đang đọc tạp chí âm nhạc. “Hai tên đó ở ngôi nhà đối diện quảng trường với bọn mình chứ đâu,” Frankie bảo Marina, tỉnh rụi. “Tên mặc jacket hay cưỡi chiếc mô-tô màu bạc. Em thấy hắn đậu xe ngoài cửa hoài.” ... Mời các bạn đón đọc Những Cô Nàng Gucci của tác giả Jasmine Oliver.
Những Thiên Thần Armani - Jasmine Oliver
Năm học đầu tiên của bộ ba xinh đẹp tại trương thời Trang sắp kết thúc. Marina - cô tiểu thư duyên dáng của một gia đình nền nếp đã chọn cho mình ngành thiết kế giày. Sinead - cô con gái của một bà mẹ nổi tiếng trong làng thời trang cũng quyết định theo ngành thiết kế quần áo. Còn Frankie - cô em bốc đồng của bộ ba lại đi theo chuyên ngành nữ trang. Nhưng họ đang phải đối diện với nhiều chuyện phiền phức, áp lực học hành, bố mẹ ngoại tình, bạn trai lừa gạt, người yêu hiểu lầm... Họ chỉ mới 18 tuổi. Họ sẽ phải làm gì để vượt qua những rắc rối "người lớn" ấy? *** Sinead – cô gái có mái tóc vàng cắt ngắn, sở hữu một thân hình tuyệt mỹ và một vẻ đẹp quyến rũ. Marina – cô gái bốc lửa, gọi cảm, được mệnh danh là Marilyn Monroe của trường đại học Thời trang Trung tâm. Frankie – cô gái có cặp chân dài với tư chất của môt người mẫu sáng giá ẩn sau một tính cách trong sáng và nhút nhát. … Cả ba đều là sinh viên năm nhất của trường Thời trang Trung tâm và cùng sống trong một ngôi nhà tại quảng trường Walgrave. Frankie, Marina và Sinead vừa kết thúc học kỳ đầu tiên tại trường đại học Thời trang. Phía trước họ là một mùa Giáng sinh đầy hứa hẹn… *** Bộ sách ​Câu Chuyện Thời Trang gồm có: Câu Chuyện Thời Trang Tập 1: Những cô nàng Gucci Câu Chuyện Thời Trang Tập 2: Những thiên thần Armani Câu Chuyện Thời Trang Tập 3: Những công chúa Prada *** “Frankie McLerran, kính bảo hộ của em đâu?” “Ối!” Frankie giật nảy người và làm rơi một giọt bạc vào cái đĩa thủy tinh đựng mấy hạt đá quý nhỏ li ti. “Phải luôn đeo kính bảo hộ trong xưởng chứ,” cô Claudia Brown quát lên với cái giọng “thượng sĩ” đáng sợ. Frankie vội cạo giọt bạc bị dính vào đĩa rồi bỏ vào cái nồi nấu kim loại nhỏ xíu, đánh lửa, đeo cặp kính vào và lại bắt đầu lần nữa. “Mẫu in hình con báo lỗi thời từ năm ngoái rồi,” thầy Tristian Fox phẩy nhẹ tay khi nói với Marina. “Nghĩ đến mấy đôi xăng-đan quai da đi, hay là kết hợp giữa vải bố với da rắn cũng được. Thử thứ gì đó mạo hiểm đi chứ.” Marina đang nghiên cứu mẫu thiết kế giày của mình - mẫu xăng-đan có in hình con báo với gót giày màu bạc cao cỡ bảy phân và đế khá nhẹ. Đã trở thành nguyên tắc bất di bất dịch, thầy Tristan không bao giờ khen bất kỳ một người nào. “Mẫu in hình con báo lỗi thời từ năm ngoái rồi!” Marina nhại lại bằng giọng the thé sau lưng ông thầy. “Tôi nghe thấy rồi đấy nhé!” thầy Tristan cảnh cáo, chân vẫn bước đi mà không thèm quay đầu lại. “Ối trời!” dù sao thì Marina cũng thừa nhận rằng thầy Tristan luôn biết rõ mình đang nói gì. Xét cho cùng, thầy ấy đang thiết kế cho hãng Charles Jourdan. Thầy ấy là Thầy Giày Nước Anh [1] cơ mà! Marina dẹp mấy cái đế giày in hình con báo của mình đi, và thay vào đó là một ý tưởng mới với da thuộc. Những tên cướp biển! Sinead nghĩ. Đó sẽ là chủ đề của mình ! Không phải những tên cướp biển trong truyện Peter Pan , mà là những tên cướp biển mặc những chiếc sơ mi được may bằng chất vải nhẹ nhất, trong suốt, thắt lưng da rộng bản trễ xuống thật gợi cảm, quần lửng trắng và bốt da nâu vàng. Sơ mi sẽ cột trễ xuống đằng trước để lộ ra thật nhiều da thịt, và có lẽ sẽ bỏ luôn cả quần đi, thay vào đó chỉ là những cặp chân dài rám nắng trong đôi bốt cao đến nửa bắp chân... À, và phải có cả những chiếc mũ ba sừng rộng vành màu trắng nữa chứ. Sinead đang thực hiện mẫu thiết kế mùa hè của mình trong phòng cắt may trên tầng cao nhất, xung quanh là những mớ vải sọc, vải zíc-zắc, hạt cườm, nút áo với huy hiệu. Chẳng có ma nào, chỉ có mỗi một bản nhạc đang phát ra từ cái máy CD cũ mèm, cho tới khi Marina đột ngột nhảy vào thiên đường của cô, “Sinead, ngó ra ngoài cửa sổ đi. Tuyết đang rơi kìa!” “Tuyết đang rơi!” Sinead và Marina vội ào xuống tầng hầm của trường để kéo Frankie ra khỏi xưởng nữ trang. “Chờ đã... đang lúc dầu sôi lửa bỏng thế này... không bỏ dở được đâu!” “Nhưng mà tuyết đang rơi!” Marina cố nài nỉ. “Tuyết hẳn hoi ấy. Bông tuyết to... to thế này này !” Xung quanh, các máy chế tạo nữ trang đang kêu o o , giũa, mài, đập... Frankie gỡ kính bảo hộ ra và nhìn lên, “Cô Claudia đâu rồi?” “Đang nghỉ giải lao. Tụi tao mới thấy cô ấy tới quầy cà phê dành cho giáo viên,” Sinead nói. “Đi nào , Frankie, trước khi tuyết ngừng rơi.” “Này, hai chị có thấy là hai chị đang làm em mất tập trung không hả?” Frankie thở dài bực bội. “Xin lỗi. Nhưng mà bọn tao có thấy tấm bảng đề ‘Thiên tài đang làm việc’ nào đâu,” Marina kéo sợi dây thun trên cái kính bảo hộ của Frankie, rồi buông nó bật trở lại. “Oái!” Frankie kêu lên. “OK, ok, hai người thắng rồi!” “Nhìn kìa,” Sinead ấp hai bàn tay lạnh cóng quanh tách cà phê rót từ cái máy đặt ngay sảnh lớn. Ai nấy bước vào đều được phủ một lớp tuyết trắng, rũ rũ cho bông tuyết rơi khỏi tóc, phủi phủi lớp áo khoác ngoài và giậm giậm chân. “Tuyết kiểu này thì ngoài kia cũng phải dày đến hơn năm phân chứ chẳng chơi.” ... Mời các bạn đón đọc Những Thiên Thần Armani của tác giả Jasmine Oliver.