Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khuôn Mặt Người Khác

Mặt, xét cho cùng, là vẻ biểu cảm của nó. Mà vẻ biểu cảm, đó là một loại phương trình biểu thị mối quan hệ với những người khác. Đấy là con đường mòn liên kết ta với người. Nếu con đường đó bị vùi lấp thì ngay cả những người gắng tìm cách đi trên con đường đó cũng sẽ đi ngang qua trước nhà ta như đi ngang qua một chốn hoang phế không người. Nếu không kịp thời dọn quang con đường mòn thì cuối cùng người ta sẽ quên rằng đã từng có con đường đó.  Tâm hồn con người được bọc trong một bộ da. Người ta bị mất tay mất chân, bị hỏng mắt là chuyện bình thường. Người bị thương bận tâm đến cái gì nhiều nhất? Không phải là tính mạng, không phải là sự phục hồi các chức năng của cơ thể, không. Điều làm họ băn khoăn trước hết là có giữ được cái hình dạng trước đây hay không. Nếu như trong Người đàn bà trong cồn cát (1962), cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Kobo Abe viết bằng giọng văn xuôi đơn giản; thì Khuôn mặt người khác (1964) giọng văn đã trở nên phức tạp hơn bởi nhiều câu hỏi được đặt ra. Nếu như nhân vật chính của Người đàn bà trong cồn cát chỉ đơn giản là cố gắng để trốn thoát; thì nhân vật chính của Khuôn mặt người khác là cố gắng để tìm thấy chính mình và để đánh mất mình, và cố gắng tìm mọi cách để sống trong một xã hội mà dường như đã từ chối anh ta! Với Khuôn mặt người khác, Kobo Abe đã cố gắng để đối phó với các vấn đề lớn của bản sắc và cá tính trên quy mô quốc gia, bằng cách tập trung vào miêu tả một người đàn ông không tên. Anh là chủ nhiệm một phòng nghiên cứu hóa chất cao phân tử tại một viện khoa học. Trong lúc thí nghiệm đã xảy ra vụ nổ oxy lỏng, khuôn mặt bị biến dạng với những sẹo lồi, rất may là không ảnh hưởng gì đến mắt vì anh đeo kiếng. Bề ngoài, anh cố giữ được vẻ bình thản với khuôn mặt bị hủy hoại, nhưng đó chỉ là sự giả tạo. Trong anh luôn bùng nổ những cơn bão của tâm trạng dằn vặt, suy tư dữ dội, luôn đau khổ và mặc cảm, hoài nghi ở thái độ mọi người đối với bộ mặt kỳ dị của mình. Anh nghi ngờ cả sự gần gũi chăm sóc của người vợ vẫn chung sống cùng anh sau khi anh bị tai nạn. Và, mối quan hệ của anh với người vợ cũng bị biến dạng! Âm thầm và kiên trì bền bỉ, anh đã nghiên cứu chế tạo thành công bộ mặt nạ hoàn toàn giống mặt người, có khả năng biểu cảm linh hoạt như gương mặt thật. Anh giữ bí mật sự việc và nuôi dưỡng ý định dùng bộ mặt nạ thử thách tình yêu của vợ mình. *** Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. Khuôn mặt người khác là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu cho những đặc điểm các tác phẩm của Kōbō Abe. *** Thế là em đã vượt qua được cái mê cung rắc rối mà tìm đến. Tin ở cái kế hoạch mà anh ta gửi cho em, rốt cuộc em đã đến chỗ trú ẩn này. Chân bước rụt rè, em lên cái cầu thang cót két như bàn đạp cỗ đàn ooc-gơ. Căn phòng đây rồi. Nín thở, em gõ cửa, chẳng hiểu sao không có tiếng đáp. Thay cho tiếng đáp, một cô bé nhảy tâng tâng như con meo con chạy tới mở cửa cho em. Em gọi cô bé, toan hỏi xem người ta có nhắn gì cho em không, nhưng cô bé chẳng trả lời gì cả, chỉ mỉm cười và chạy đi. Em cần anh ta, thế là em ngó vào cửa. Nhưng em không thấy anh ta, không thấy một cái gì nhắc nhở đến anh ta, một căn phòng chết, trong đó tinh thần hoang phế đang lượn lờ. Cảnh tượng bức tường mờ đục khiến em giật mình. Em toan đi, tuy cảm thấy mình có lỗi, thì mắt em chợt bắt gặp ba quyển vở nằm trên bàn, bên cạnh là một bức thư. Đến đây em chợt hiểu ra rằng thế là em đã sa vào bẫy. Mặc dù lúc ấy những ý nghĩ hết sức cay đắng giày vò em, nhưng sự cám dỗ không thể nào cưỡng lại được. Hai tay run run, em xé phong bì và bắt đầu đọc thư... Chắc là em tức giận, chắc là em oán trách. Nhưng anh sẽ chịu đựng được cái nhìn của em, cái nhìn đàn hồi như chiếc lò xo kéo căng, và dù thế nào đi nữa anh vẫn cứ muốn em tiếp tục đọc. Anh không có hy vọng gì rằng em sẽ vượt qua được mấy phút đó một cách êm đẹp, và sẽ bước một bước về phía anh. Anh bị anh ta tiêu diệt hay anh ta bị anh tiêu diệt, cách nào chăng nữa thì màn của vở bi kịch những chiếc mặt nạ đã hạ xuống. Anh đã giết anh ta, đồng thời tự nhận mình là kẻ phạm tội và anh muốn thú nhận hết, thú nhận triệt để. Có thể vì em rộng lượng hay ngược lại, anh cũng vẫn cứ muốn em đọc tiếp. Người có quyền xử tử thì có trách nhiệm phải nghe cho hết lời khai của bị cáo. Còn nếu chỉ quay lưng lại với anh, kẻ đang quỳ gối trước em đây, thì liệu em có khỏi bị nghi oan là tòng phạm không? Thôi được, hãy ngồi xuống, cứ coi như em đang ngồi nhà. Nếu không khí trong phòng tù hãm thì mở cửa sổ ra. Ấm chén uống trà, nếu cần em lấy ở bếp. Hễ khi nào em bình tĩnh ngồi xuống thì nơi trú ẩn giấu kín ở cuối mê lộ này sẽ biến thành tòa án. Trong lúc em xem lời khai, để cho phần cuối tấn bi kịch của những chiếc mặt nạ càng có vẻ xác thực hơn, anh sẵn lòng chờ lâu thế nào cũng được, trong lúc chờ đợi, anh vá những chỗ thủng trên tấm màn sân khấu, vả lại, chỉ riêng việc hồi tưởng lại những chuyện đó cũng khiến anh không cảm thấy chán ngán. Vậy thì ta sẽ trở lại sự việc vừa mới xảy ra với anh, ba ngày trước cái thời điểm mà đối với em là “lúc này”: Đêm ấy, gió lẫn với trận mưa dường như có hòa tan mật ong làm cửa sổ rung lên thảm thiết. Suốt ngày anh đổ mồ hôi, thế mà khi mặt trời lặn, anh bỗng muốn sưởi ấm bên ngọn lửa. Các báo viết rằng trời sẽ lạnh trở lại, nhưng ngày đã trở nên dài hơn, chẳng làm sao lẩn tránh được thực tại đó và cứ một cơn mưa tạnh là đã cảm thấy ngay sự hiện diện của mùa hè. Chỉ cần nghĩ đến điều đó là tim anh bắt đầu phập phồng lo lắng. Ở tình trạng hiện nay, anh giống như một vật bằng sáp bất lực trước cái nóng nực. Chỉ cần nghĩ đến mặt trời chói lòa là da anh phồng rộp cả lên. ... Mời các bạn đón đọc Khuôn Mặt Người Khác của tác giả Kobo Abe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cánh Buồm Đỏ Thắm
Tên Ebook: Cánh Buồm Đỏ Thắm Tác Giả: Alexander Grin   Thể Loại: Tiểu Thuyết, Tình Cảm, Văn học phương Tây   Dịch giả: Phạm Ngọc Thạch   Nhà xuất bản NXB Lao Động   Nguồn: vnthuquan   Ebook: www.dtv-ebook.com Ebook Cánh Buồm Đỏ Thắm - Alexander Grin full prc, pdf, epub Giới Thiệu: Cánh Buồm Đỏ Thắm – Câu chuyện tình mãnh liệt truyền cảm hứng vượt thời gian. Một hôm, ông già Ê-giơn đã kể cho cô bé A-xôn câu chuyện về chàng hoàng tử lái con tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón ý trung nhân. A- xôn đã sống qua tuổi thơ với khát vọng chờ mong cánh buồm đỏ thắm. Rồi một ngày, con tàu mang cánh buồm rực rỡ ấy đã ghé vào làng Ca-péc-na để đón A-xôn. Thiên truyện tuyệt vời Cánh buồm đỏ thắm chan hòa ánh sáng mặt trời và thắm đượm tình người được viết cách đây gần một thế kỉ, cho đến nay vẫn đủ sức làm xao xuyến hàng triệu con tim... Cánh buồm đỏ thắm sẽ đưa bạn đọc trở về với thời thơ ấu hoa mộng, với niềm tin yêu ngập tràn và những ước mơ thần tiên thời nhỏ dại. Thuở nhỏ, cậu bé Grey đã lấy sơn mầu xanh để xoá đi những cái đinh trên bức tranh chúa Kito bị hành hình bởi cậu không thể chịu được nỗi đau đớn, dù là nỗi đau của bất kỳ ai. Thuở nhỏ và cả khi lớn lên, cô bé Axôn hầu như đều bị làng chối bỏ. Axôn hàng ngày đi dạo trên bãi biển, chờ đợi cánh buồm đỏ thắm của mình. Cô bé thả xuống nước những con tàu đồ chơi nhỏ bé. Những con tàu nhỏ ấy trôi theo dòng nước và mang theo ước mơ của Axôn. Cô bé tin rằng một ngày kia ước mơ sẽ quay trở lại, trên một con tàu thật sự, một con tàu với cánh buồm đỏ thắm như tình yêu mà chàng hoàng tử sẽ dành cho cô. Hai con người như thế tất nhiên sẽ yêu nhau, sẽ hiểu nhau bởi họ sinh ra trên đời là để hội ngộ bằng cổ tích. Một lời hẹn từ thuở thơ ấu nhưng luôn được khắc ghi trong lòng cả hai. Cánh buồm đỏ thắm không chỉ là trò chơi vô nghĩa của trí tuệ hay là sự sưu tầm thú vị về từ ngữ và hình ảnh, mà đó thực sự là một sắc màu vĩnh cửu của niềm tin yêu. Bởi vì cánh buồm mơ ước ấy không chỉ là dấu hiệu nhận ra nhau của Axôn và Grey. Mầu đỏ như nắng hồng buổi sớm ấy toả ra niềm vui cao quí rộn ràng giúp cho tâm hồn Axôn không bị hoen ố bởi sự hắt hủi, coi khinh ấy; đã kéo Grây ra khỏi nỗi buồn không biết mình phải đi tìm điều gì trong cuộc đời bao la... Thiên truyện Cánh Buồm Đỏ Thắm chan hoà ánh mặt trời và tình người,đã được Alexandre Grin viết vào năm 1920-1921, khi ông vừa thoát khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, đói ăn, thiếu mặc, không nhà, không cửa… Grin đã trở thành người bạn tinh thần của những ai giàu lòng mơ ước, khao khát được sống một cuộc đời đẹp đẽ do chính bàn tay mình xây đắp. Alexandre Grin đã sống một cuộc sống đầy vất vả, gian truân. Ông đã từng phải lang thang kiếm sống khắp nước, từng phải đi lính cho Nga hoàng, phải chịu tù đày. Nhưng mặc cho hoàn cảnh bên ngoài nghiệt ngã, Grin vẫn giữ trọn trong lòng mình niềm tin ở tương lai, khát vọng về một cuộc đời hạnh phúc của con người. *** Tóm tắt Câu chuyện kể về cô bé Axôn sống ở một làng chài nhỏ bé. Axôn là một cô bé có trái tim nhân hậu và giàu mơ ước. Cô bé luôn tin vào một ngày nào đó sẽ có một chàng hoàng tử lái con tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón mình. Một ngày kia, Axôn gặp chàng trai Grey. Grey là một chàng trai tài giỏi và lãng mạn. Anh cũng là một người có trái tim nhân hậu và giàu mơ ước. Axôn và Grey yêu nhau và họ cùng nhau lênh đênh trên biển cả. Họ đã cùng nhau trải qua biết bao thử thách và gian nan, nhưng tình yêu của họ vẫn luôn bền chặt. Cuối cùng, Axôn và Grey đã tìm thấy hạnh phúc bên nhau. Họ đã cùng nhau xây dựng một cuộc sống mới, một cuộc sống mà ở đó, tình yêu và ước mơ luôn được tôn vinh. Review "Cánh buồm đỏ thắm" là một câu chuyện tình yêu lãng mạn và cảm động. Câu chuyện đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới. Câu chuyện mang đến một thông điệp sâu sắc về sức mạnh của tình yêu và ước mơ. Tình yêu có thể vượt qua mọi thử thách và gian nan. Ước mơ có thể biến thành hiện thực nếu chúng ta kiên trì theo đuổi. Câu chuyện cũng là một lời ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Thiên nhiên được miêu tả trong câu chuyện vô cùng tươi đẹp và thơ mộng. Con người trong câu chuyện đều là những người tốt bụng và giàu tình yêu thương. "Cánh buồm đỏ thắm" là một tác phẩm văn học kinh điển, một tác phẩm mà ai cũng nên đọc một lần trong đời. Một số điểm nổi bật trong cuốn sách Câu chuyện tình yêu lãng mạn và cảm động. Thông điệp sâu sắc về sức mạnh của tình yêu và ước mơ. Miêu tả thiên nhiên tươi đẹp và con người tốt bụng. Một số nhận xét về cuốn sách "Cánh buồm đỏ thắm" là một câu chuyện tuyệt vời. Nó đã mang đến cho tôi niềm tin vào tình yêu và ước mơ." - Một độc giả "Câu chuyện rất ý nghĩa. Nó đã dạy tôi rằng chúng ta nên luôn giữ gìn ước mơ và tình yêu trong tim." - Một độc giả khác "Cánh buồm đỏ thắm" là một tác phẩm văn học kinh điển. Nó xứng đáng được đọc và suy ngẫm." - Một nhà phê bình văn học Mời các bạn đón đọc Cánh Buồm Đỏ Thắm của tác giả Alexandre Grin & Phạm Ngọc Thạch (dịch).  
Đời Kỹ Nữ - Hồi Ức của một Geisha - Arthur Golden
Tên Ebook: Hồi Ức Của Một Geisha - Đời Kỹ Nữ (full prc, pdf, epub) Tác giả: Arthur Golden   Thể Loại: 18+, 100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới, Best Seller, Tiểu Thuyết, Văn học phương Tây   Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy    Nhà xuất bản: Nxb văn học   Nhà phát hành: Văn Lang   Nguồn: vnthuquan   Ebook: www.dtv-ebook.com Ebook Đời Kỹ Nữ - Hồi Ức của một Geisha - Arthur Golden full prc, pdf, epub Giới Thiệu: Cuốn sách có tên “Hồi ức của một geisha” hay còn gọi là “Đời kỹ nữ”của tác giả Arthur Golden (NXB Vintage, London, Anh - 1997) đã trở thành hiện tượng toàn cầu. Suốt hai năm liền, Hồi Ức của một Geisha - Đời Kỹ Nữ luôn giữ vị trí “best- seller” với trên 4 triệu bản tại Mỹ và được dịch sang 32 ngôn ngữ. Điều hấp dẫn độc giả chính là thế giới bí ẩn của các geisha Nhật Bản đã được bóc trần qua câu chuyện của một cựu geisha danh tiếng nhất thời kỳ ấy… Năm 2006, độc giả Việt Nam đã biết đến Hồi Ức của một Geisha - Đời Kỹ Nữ do NXB Văn học giới thiệu. Mới đây, một lần nữa, độc giả lại được chứng kiến các nàng geisha bước từ trang sách lên phim với diễn xuất của dàn nữ diễn viên nổi tiếng Trung Quốc: Chương Tử Di, Củng Lợi và Dương Tử Quỳnh. Nếu chưa đọc cuốn tiểu thuyết Hồi Ức của một Geisha - Đời Kỹ Nữ thì bạn nên xem phim, bởi đọc sách bạn sẽ bị ám ảnh bởi nội dung và khi thưởng thức nó dưới góc độ một tác phẩm điện ảnh, ít nhiều bạn sẽ bị chi phối. Geisha không đơn thuần là một gái làng chơi, mà là giải trí được nâng cao thành nghệ thuật. Những kỹ nữ muốn trở thành Geisha phải xác định từ khi còn nhỏ, trải qua một quá trình đào tạo nghiêm ngặt với rất nhiều bộ môn như vũ đạo, đàn hát, kể chuyện, pha trà, giao tiếp, ứng xử. Geisha phải từ bỏ quyền được yêu, quyền được sống một cuộc sống bình thường. Hồi Ức của một Geisha - Đời Kỹ Nữ kể về cô Sayuri Nitta (tên thật Chiyo), một geisha thực thụ. Cô cùng chị gái Satsu bị bán vào các okiya từ khi còn nhỏ. Sau đó ngừời chị trốn thoát còn Chiyo kẹt lại. Thường xuyên bị 1 geisha đàn chị ức híếp, Chiyo vô cùng buồn chán. May mắn được 1 người đàn ông lạ giúp đỡ, cô bé đem lòng yêu ông và quyết trở thành 1 geisha xuất sắc vì ông. Với sự giúp đỡ của Mameha, ước mơ trở thành sự thật; nhưng đúng lúc đó Nhật Bản thua cuộc trong Thế Chiến Hai, loạn lạc xảy ra. Qua những trang sách của Hồi Ức của một Geisha - Đời Kỹ Nữ, độc giả cảm nhận được những cảm xúc tuyệt vời của của một cô bé tội nghiệp sống trong một gia đình quá nghèo, khát khao cháy bỏng một tình thương. Vì thế, những khoảnh khắc đọng lại trong đời của cô là sự rung động đầu tiên trước tấm lòng bao dung của một người đàn ông đã nâng đỡ và chăm sóc cô từ cú vấp ngã đầu tiên. Mời các bạn đón đọc Hồi Ức Của Một Geisha - Đời Kỹ Nữ của tác giả Arthur Golden.  
Rừng Na Uy - Haruki Murakami
Rừng Na Uy là tiểu thuyết của nhà văn Nhật Bản  Haruki Murakami . Với thủ pháp dòng ý thức, cốt truyện diễn tiến trong dòng hồi tưởng của nhân vật chính là chàng sinh viên bình thường Watanabe Tōru. Cậu ta đã trải qua nhiều cuộc tình chớp nhoáng với nhiều cô gái trẻ ưa tự do. Nhưng cậu ta cũng có những mối tình sâu nặng, điển hình là với Naoko, người yêu của người bạn thân nhất của cậu, một cô gái không ổn định về cảm xúc, và với Midori, một cô gái thẳng thắn và hoạt bát. Các nhân vật trong truyện hầu hết là những con người cô đơn móc nối với nhau. Có những nhân vật đã phải tìm đến cái chết để giải thoát khỏi nỗi đau đớn ấy. Câu chuyện xảy ra với bối cảnh là nước Nhật những năm 1960, khi mà thanh niên Nhật Bản, như thanh niên nhiều nước khác đương thời, đấu tranh chống lại những định kiến tồn tại trong xã hội. Murakami miêu tả những sinh viên cải cách này như những tên đạo đức giả và thiếu sự kiên định. Tác phẩm này đã đưa Murakami lên thành một trong những nhà văn hàng đầu của Nhật Bản. Tên nguyên gốc của tác phẩm, Noruwei no mori, là cách dịch tiêu chuẩn trong tiếng Nhật cho tựa bài hát "Norwegian Wood" được John Lennon viết khi còn trong nhóm The Beatles (và cũng thường được nhắc đến trong cốt truyện). Rừng Na Uy được dịch sang tiếng Việt và xuất bản lần đầu tiên vào năm 1997 do Kiều Liên và Hải Thanh thực hiện, Bùi Phụng hiệu đính. Năm 2006 bản dịch mới của Trịnh Lữ được xuất bản. Cả hai bản dịch đều được dịch từ tiếng Anh. Xuất bản lần đầu ở Nhật Bản năm 1987, Truyện Tiểu Thuyết Rừng Na Uy thực sự là một hiện tượng kỳ lạ với 4 triệu bản sách được bán ra, và theo thống kê hiện tại, cứ 7 người Nhật thì có 1 người đã đọc Rừng Na Uy. Tại Trung Quốc, Rừng Na Uy đã trở thành một hiện tượng văn hoá với hơn 1 triệu bản sách được tiêu thụ và được đánh giá là 1 trong 10 cuốn sách có ảnh hưởng lớn nhất ở đại lục trong thế kỷ 20. Theo tờ Publisher Weekly, “đã hai mươi năm nay, Rừng Na Uy luôn nằm trong danh sách 10 tiểu thuyết được giới trẻ Nhật Bản và Hàn Quốc tìm đọc nhiều nhất”. - Publisher Weekly Nắm bắt sự đam mê và gấp gấp của ái tình tuổi trẻ... Lặng lẽ lôi cuốn người đọc và cuối cùng lay động tam can. - Time Literary Supplement ....... Về tác giả: Nhà văn Haruki Murakami Haruki Murakami, nhà văn Nhật Bản lừng danh, là tác giả nhiều tiểu thuyết thuộc hàng bán chạy nhất thế giới đồng thời nhận được sự đánh giá cao của giới phê bình nghiêm túc, “hàn lâm”. Nhiều tác phẩm của ông đã dịch ra tiếng Việt và được người đọc Việt Nam ưa thích, như: - Rừng Na Uy, - 1Q84 -  Biên niên ký Chim vặn dây cót, - Phía Nam biên giới phía Tây mặt trời, - Kafka bên bờ biển, - Người tình Sputnik, - Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, - Cuộc săn cừu hoang, - Nhảy nhảy nhảy… Mời các bạn đón đọc Rừng Na Uy của tác giả  Haruki Murakami .  
Tiếng Chim Hót Trong Bụi Mận Gai - Colleen McCullough
Tiếng Chim Hót Trong Bụi Mận Gai có thể được xem là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nữ văn sĩ người Úc Colleen McCullough, được xuất bản năm 1977. Tiếng Chim Hót Trong Bụi Mận Gai ngay khi vừa xuất bản đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được xếp ngang hàng với tác phẩm văn học kinh điển "Cuốn Theo Chiều Gió". Nhưng ít ai biết được rằng, thời điểm tác phẩm ra đời, viết văn chỉ là nghề tay trái của Colleen McCollough, nhân viên y tế là nghề chính của bà. Colleen McCullough không phải là nhà văn chuyên nghiệp, trước đó hầu như không ai biết tiếng. Khi cuốn tiểu thuyết "Tiếng Chim Hót Trong Bụi Mận Gai" đem lại vinh quang cho tác giả thì Colleen McCullough chỉ là một nhân viên y tế bình thường. Bà sinh ở bang New South Wales (Australia) trong gia đình một công nhân xây dựng. Thuở nhỏ, Colleen mơ ước trở thành bác sĩ nhưng không có điều kiện để theo học trường đại học y. Bà đã thử làm một số nghề như thư viện, làm báo, công tác thư viện, dạy dỗ để tìm kiếm cơ hội trở lại nghề y. Năm 1974, bà viết tiểu thuyết đầu tay nhưng không có tiếng tăm. "Tiếng Chim Hót Trong Bụi Mận Gai" được thai nghén trong ngót 4 năm, rồi đầu mùa hè năm 1975, bà bắt tay vào viết một mạch trong 10 tháng. Suốt thời gian ấy, bầ vẫn túi bụi công việc ở bệnh viện, chỉ viết tác phẩm vào ban đêm và ngày chủ nhật. Vui sướng vì thành công nhưng Colleen không thích nổi danh mà chỉ muốn tìm một nơi yên tĩnh để tập trung sáng tác. Hòn đảo Norfork (Australia) với bờ biển hoang dại, tĩnh mịch và cảnh vật thiên nhiên đẹp tuyệt vời đã cuốn hút bà. Chính tại nơi này, bà đã gặp được Ric - người đã gắn bó suốt đời cùng bà. Colleen McCullough Ngoài sáng tác, sưu tầm tác phẩm điêu khắc, pha lê, đồ dùng làm bếp và giày là niềm yêu thích của bà. Hiện tại, nhà của Colleen có tới hơn 500 đôi giày Italia! Không chỉ nổi nhờ "Tiếng chim hót trong bụi mận gai", các tác phẩm "Người đến từ thành Rome", "Cuộc chạy trốn của Morgan" của bà cũng rất gần gũi với công chúng yêu sách. Trân trọng giới thiệu đến các bạn cuốn sách này để bổ sung cho kho tàng truyện của mình. Mời các bạn đón đọc Tiếng Chim Hót Trong Bụi Mận Gai của tác giả Colleen McCullough.