Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Cướp Cuối Cùng

David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của Kẻ Cướp Cuối Cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. *** “Kẻ cướp cuối cùng” tạo sức hút với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính của Harry Dolan, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Tác giả Harry Dolan sinh trưởng ở Rome, New York trước khi chuyển đến sống tại Ann Arbor, Michigan. Ông đã lấy chính thành phố nơi mình sinh sống làm bối cảnh chủ yếu cho series tác phẩm về nhân vật David Loogan, giúp câu chuyện trong cuốn sách thêm phần chân thực. Hiện hai cuốn sách sách trong series đã được phát hành tại Việt Nam là Vòng xoáy tội ác và mới đây nhất là Kẻ cướp cuối cùng. Cuốn cuối cùng trong series là The Last Dead Girl cũng sẽ sớm ra mắt bạn đọc Việt Nam. Kẻ cướp cuối cùng bắt đầu với việc David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của kẻ cướp cuối cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. Nhưng David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. Kẻ cướp cuối cùng vẫn duy trì được sức hút như ở Vòng xoáy tội ác, với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Nhịp truyện nhanh và các âm mưu được xây dựng chặt chẽ. Câu hỏi quan trọng, và cũng là điểm mấu chốt của cả câu chuyện, là tại sao có kẻ lại muốn giết họ sau từng ấy năm, được giữ kín cho đến nửa sau của cuốn sách. Trong cuốn sách thứ hai, nhân vật David Loogan tiếp tục giữ vai trò một biên tập viên nhiều thuyết âm mưu và một thám tử nghiệp dư liều lĩnh. Giờ đây, đồng hành bên anh còn có nữ cảnh sát Elizabeth Waishkey điềm tĩnh và mạnh mẽ. Truyện dành cho Elizabeth và cô con gái thông minh của mình, Sarah, nhiều cơ hội tỏa sáng. Câu chuyện bắt đầu bằng lời tự thuật của David Loogan, sau đó được chuyển đổi góc nhìn giữa các nhân vật khác nhau, để người đọc có thể hình dung những gì đang xảy ra bên ngoài tầm ảnh hưởng của nhân vật chính. Mặc dù được tiếp xúc với tên sát nhân qua điểm nhìn của hắn ngay từ những chương đầu, độc giả vẫn khó lòng suy ra toàn bộ âm mưu phía sau. Khi một nhà báo láu cá, một thượng nghị sĩ sắp nghỉ hưu, ứng cử viên Thượng nghị sĩ Callie Spencer cùng cha mình, viên cảnh sát bị bắn trong vụ cướp cách đây 17 năm, lần lượt xuất hiện trong cuốn sách, câu chuyện nhanh chóng trở nên phức tạp và khó đoán vô cùng. *** Trong văn phòng của tôi có một chuỗi hạt thủy tinh. Nó được treo trên thanh ngang của chiếc đèn bàn, đung đưa theo từng rung động nhỏ nhất. Những hạt thủy tinh có màu xanh thẳm như nền trời đêm. Khi ánh sáng nhảy múa trên đó, chúng toát lên vẻ dịu dàng, rạng rỡ và đầy sức sống. Tôi sẽ kể cho các bạn xuất xứ của chuỗi hạt này. Elizabeth đã đeo nó khi chúng tôi trao nhau nụ hôn đầu. Chuyện đó xảy ra ngay tại đây, trong văn phòng này vào một đêm đông, sáu tầng nhà bên trên phố Main ở Ann Arbor. Elizabeth là thám tử. Tối hôm đó, cô được triệu tập tới hiện trường một vụ tai nạn xe hơi: Những đống kim loại nát bét, kính vỡ khắp nơi. Ba người chết, trong đó có một trẻ em. Đó là loại tai nạn bạn không bao giờ muốn chứng kiến, còn khi đã thấy rồi, bạn chỉ còn biết hi vọng mình có thể quên được nó. Cô đã nhìn thấy mọi chuyện và sau đấy muốn tránh khỏi đó càng xa càng tốt. Rồi cô đến chỗ tôi. Hôm đó, tôi ở lại làm việc muộn, nghe thấy tiếng cửa mở cùng tiếng chân cô bước qua văn phòng trống không phía ngoài. Và rồi cô đứng đó, trước ngưỡng cửa văn phòng. Elizabeth vốn có vóc người cao, chiếc áo khoác dài chỉ càng khiến cô trông cao hơn. Trên vai áo cô, mấy bông tuyết đang tan. Hai tà áo khoác mở rộng, chiếc áo cánh cô mặc bên trong cũng không cài cúc cổ áo. Ngón tay cô mân mê những hạt thủy tinh màu xanh dương đeo trên cổ. Nhưng toàn thân cô thì vẫn bất động. Tôi biết ngay có điều gì đó không ổn. Mặt cô tái nhợt, mái tóc đen nhánh và óng ả như cánh quạ buông xõa quanh khuôn mặt. Tôi đứng dậy khỏi bàn và bước tới chỗ cô, nhưng sự bất động của cô khiến tôi e ngại không dám đụng tới. Sau cùng, tôi đặt một bàn tay lên vai cô, rồi rút tay lại. Tuyết rơi nhẹ ngoài cửa sổ văn phòng. Chúng tôi đứng bên nhau một lúc lâu, tôi chẳng hỏi cô bất cứ điều gì. Tôi chờ đợi và rồi cô bắt đầu kể. Cô kể lại cho tôi nghe mọi điều, tất cả những gì cô đã chứng kiến. Lời nói tuôn ra như dòng chảy không ngừng. Những ngón tay cô lần trên chuỗi hạt sau mỗi tình tiết kinh hoàng. Kể xong, cô quay mặt đi. Ngượng ngập, gần như lúng túng. Và cũng lúng túng không kém, tôi lùi lại phía sau. Không biết phải làm gì, tôi mời cô một ly từ chai Scotch cất sâu trong ngăn kéo bàn. Nhưng cô không muốn uống. Tôi nhìn cô cởi áo khoác vắt lên lưng ghế, nhìn cô tiến tới gần, mắt cô nhìn thẳng vào mắt tôi. Cô vẫn mở mắt khi hôn tôi, đôi mắt cũng xanh như chuỗi hạt thủy tinh. Nụ hôn đầu thật chậm rãi, vương vấn và khoan thai. Cả hai đều hiểu đó là gì: Một hành động thách thức. Đó là bản tính tự nhiên của con người. Ta đối diện cái chết, thách thức nó, tự chứng tỏ với bản thân là ta vẫn đang sống. Những ý nghĩ đó lướt qua tâm trí tôi, nhưng tôi chẳng có thời gian mà nghiền ngẫm. Nụ hôn thứ hai mãnh liệt và hứng khởi hơn. Tôi cảm thấy tay cô choàng qua vai mình ra sau cổ, cảm thấy những ngón tay cô xoắn lấy tóc tôi. Cô ép sát người vào tôi và chúng tôi ôm chặt lấy nhau. Tôi có thể cảm nhận rõ ràng hơi ấm, sức sống, nghị lực tiềm tàng trong cô. Tôi chỉ muốn chia sẻ kỉ niệm này một cách có chừng mực thôi và giờ tôi cho rằng chúng ta đã đạt tới giới hạn đó rồi. Những gì còn lại là bí mật của riêng hai chúng tôi. Tuy thế, đó chính là xuất xứ chuỗi hạt mà tôi cất trong văn phòng. Elizabeth đã để nó lại vào đêm hôm ấy. Không phải bỗng dưng tôi kể cho các bạn chuyện này đâu. Nó liên quan tới động cơ hành động. Nếu bạn đưa chuỗi hạt này cho một người thợ kim hoàn, hẳn là ông ta sẽ nói rằng nó chẳng có giá trị gì. Chỉ là mấy hạt thủy tinh được xâu lại bằng một sợi dây thôi. Ở một chừng mực nào đó, tôi biết đó là sự thật. Nhưng tôi cũng biết nếu một tên trộm cố đánh cắp nó, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để ngăn hắn lại. Thậm chí, tôi sẽ không ngần ngại giết hắn nếu cần thiết. Câu chuyện tôi kể sau đây không phải là về chuỗi vòng, mà là về động cơ khiến con người giết hại lẫn nhau. Tôi khá rành về chủ đề này, một phần vì tôi là biên tập viên và mọi người gửi truyện giết chóc tới chỗ tôi suốt ngày. Tên tôi là David Loogan. Phần lớn bản thảo gửi tới chỗ tôi đều dở tệ, nhưng một vài trong số đó cũng có chút tiềm năng. Tôi lọc ra những bản thảo khá nhất, chỉnh sửa lại rồi cho xuất bản trên tạp chí truyện trinh thám mang tên Gray Streets. Vậy nên, có lẽ cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi vai trò của tôi trong câu chuyện này cũng bắt đầu từ một tập bản thảo. Sự việc thật ra khá đơn giản. Tôi tìm thấy nó vào một tối thứ Tư khoảng giữa tháng Bảy, trên hành lang phía ngoài văn phòng. Chuyện này chẳng có gì lạ. Các nhà văn trong vùng để lại bản thảo của mình ở đó thường xuyên hơn mọi người vẫn tưởng. Tuy vậy, đây là một bản thảo rất đặc biệt. Nó dài chưa tới mười trang, được bỏ trong một chiếc phong bì trắng trơn, không ghi địa chỉ. Đó là câu chuyện về ba vụ giết người, hai vụ đã xảy ra, một sắp được tiến hành. Và đây chẳng phải chuyện hư cấu. Không có chữ ký hay tên tác giả. Người viết bản thảo này không muốn để lộ danh tính. Hắn ta đã viết nó trên máy tính và đem in ở một hiệu photocopy. Dĩ nhiên, khi đó tôi chẳng thể biết được. Sau này, Elizabeth mới khám phá ra điều đó. Khi đưa tập bản thảo cho cô, tôi có chút hi vọng mong manh rằng nó có thể cung cấp chứng cứ xác thực nào đó. Thời buổi này, phòng giám định có thể làm được những điều kỳ diệu với tóc, sợi vải và ADN. Tôi chắc rằng phải có dấu vân tay trên trang giấy, ngoài vân tay của chính tôi. Nhưng khi cô gửi tập bản thảo tới phòng thí nghiệm, mọi thứ đi vào ngõ cụt. Nó chẳng hé lộ bí mật nào - ai là tác giả tập bản thảo và động cơ của hắn ta là gì? Muốn giải đáp những câu hỏi này, chúng ta phải quay ngược thời gian, tới trước cả cái ngày trung tuần tháng Bảy đó. Chúng ta cũng phải gạt bỏ những quy tắc thông thường, vì câu chuyện này chẳng hề tuân theo chúng. Nó bao hàm những ý nghĩa riêng. Mặc dù đây là câu chuyện của tôi và của cả Elizabeth nữa, thực ra nó không bắt đầu từ chúng tôi. Mọi chuyện khởi đầu ở vùng phía bắc Michigan, tại thành phố Sault Sainte Marie, trong một phòng khách sạn. Chuyện bắt đầu từ một cuốn sổ tay.   Mời các bạn đón đọc Mục Tiêu Cuối Cùng của tác giả Harry Dolan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Băng
“NHÀ BĂNG” , nguyên tác tiếng Anh “The money changers”, người dịch Vũ Đình Phòng, Nhà Xuất bản Hà Nội, xuất bản năm 1996. Nếu anh giàu tức là anh nghèo Bởi anh sẽ giống như con lừa còng lưng Dưới những thỏi vàng đè nặng Anh phải vác tiền bạc của cải Nhưng chỉ trên một quãng đường Rồi cái chết sẽ giải tỏa cho anh khỏi nỗi nhọc nhằn đó. *** Nhiều người vẫn còn giữ lại ấn tượng lo âu, dai dẳng trong hai ngày hôm đó của tháng Mười. Hôm ấy là thứ Ba, Ben Rosselli, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ, đồng thời là cháu nội của cố sáng lập viên nhà băng này đã công bố một tin ghê rợn. Tin này lập tức loan truyền khắp các phòng ban và ra cả bên ngoài. Hôm sau, thứ Tư, người ta phát hiện ra một vụ ăn cắp ngay tại chi nhánh chính của Ngân hàng đóng ngay ở trung tâm thành phố, sự kiện này mở đầu cho một loạt sự kiện nối tiếp nhau như phản ứng dây chuyền, đầy bất ngờ, dẫn đến một thảm họa tài chính, đến một bi kịch con người, đến một cái chết.   Khi Tổng giám đốc Ben Rosselli gọi điện cho một số các quan chức thân cận dưới quyền, chưa ai đoán được ông định nói điều gì. Một số nhận được lời triệu tập trong lúc họ ăn sáng ở nhà, số khác vào lúc họ bước vào phòng giấy. Dĩ nhiên đó là những quan chức cấp cao nhất nhà băng, nhưng Ben Rosselli còn triệu tập cả một số nhân viên kỳ cựu mà ông vẫn thường coi là bạn bè thân thiết. Tất cả đều nhận được câu triệu tập y hệt nhau: "Mời đến hội trường họp lớn trong Tòa nhà cao ốc vào mười một giờ sáng nay."   Đó là tên gọi trụ sở công khai của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Đúng giờ quy định, khoảng hai chục người đã tề tựu trong phòng họp. Trong lúc chờ đợi, họ vẫn đứng bàn tán xôn xao, không ai quả quyết kéo ghế ra ngồi. Đột nhiên một tiếng nói to làm mọi người ngừng trò chuyện:   - Ai cho phép bác làm chuyện này? Các cặp mắt quay cả lại nhìn người vừa nói câu đó: Roscoe Heyward, Phó tổng giám đốc, đặc trách khu vực các tài khoản. Ông ta quát hỏi bác quản lý nhà ăn dành cho các quan chức cao cấp của nhà băng, lúc này đang rót rượu Xeres ra ly. Đây là thứ rượu quý đặc biệt của Tây Ban Nha. Là cấp lãnh đạo cao, Roscoe Heyward nổi tiếng là người nghiệt ngã trong công việc theo đúng các khuôn phép của nhà băng. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Nhà Băng của tác giả Arthur Hailey.
Hồ Sơ Cuối
Bạn đã từng nghe đến một tổ chức tâm linh nhưng do nhà nước quản lý? Đã bao giờ nghe đến những vụ án bí ẩn chưa từng được công khai? Những vụ án đầy ly kỳ, những tên tọi phạm cực kỳ hung tàn và những góc khuất thối nát trong xã hồi sẽ được phơi bày qua cuốn tiểu thuyết này... Hãy thử trải nghiệm nỗi kinh hoàng tột cùng bị chôn giấu... *** 1000 năm trước, cái thời mà nhân giới vẫn còn cuồng tín thần linh, vẫn còn run sợ quỷ thần... Có một vị thần vì đi ngược tôn nghiêm của thiên giới nên bị trục xuất khỏi thiên cung, căm hận trước những gì mình phải trải qua, trước những bất công mình bị đày đọa nên vị thần này đã mở mang một thế giới mới... Thế giới của những á thần bị quên lãng và ruồng bỏ... Thế lực của y càng lớn thì sự hận thù trong y càng lúc càng tăng lên... Quyết tâm phải đánh sập thiên cung để trả thù nỗi nhục bị trục xuất năm xưa nên y đã liên minh với đại quỷ thần vương nước la sát đem quân thảm sát nhân giới làm bàn đạp đánh đế thích thiên... Nhưng cuối cùng chính y lại phản bội vua pandaka của la sát giới vào phút chót để đổi lấy một danh thần... Y chính là asura ( atula vương) Vị thần chiến tranh của thiên giới năm xưa... Bắt đầu kỷ nguyên của một huyền thoại bất diệt.... Các bạn có tin câu chuyện bên trên không?   Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Cuối của tác giả Nguyễn Điệp.
Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele
Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mĩ Latinh, không có bản án của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschiwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những gì còn hơn một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mĩ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Ngòi bút tỉ mỉ của Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. “Một thành công lớn trong việc mô tả một con quỷ lăn lộn trong cái tầm thường xoàng xĩnh sau cái thời là Thiên thần chết ở Auschwitz.”       - Jean-Christophe Buisson *** Trốn chạy có phải là cách để cái ác không phải đền tội. Thế nhưng, trốn chạy cả đời vẫn khó có thể thoát khỏi bán án của lương tâm mình… Cuốn sách kể lại câu chuyện về hành trình bỏ trốn tới Nam Mỹ của Josef Mengele – một bác sĩ thời Đức quốc xã. Bằng ngòi bút sắc bén của một nhà báo kết hợp cùng sự điêu luyện của một nhà văn, Olivier Guez đã lột tả hết sức chân thực cuộc đời của một kẻ trốn chạy cả đời cũng không thoát khỏi bản án của lương tâm mình. Để đến cuối cùng, cuốn tiểu thuyết để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc mãnh liệt hơn bao giờ hết về tội ác của Đức quốc xã cùng những nỗi đau âm ỉ dai dẳng khôn nguôi. Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mỹ Latinh, không phải chịu sự trừng phạt của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những thứ còn hơn cả một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mỹ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Để hoàn thành tác phẩm Cuộc trốn chạy của Josef Mengele, Guez đã phải tìm tài liệu về bác sĩ quốc xã trong suốt ba năm. Trong suốt quá trình thai nghén cho cuốn sách, ông cũng tự mình đi tới Günzburg, Argentina và Brazil (đặc biệt là trang trại Santa Luzia ở ngoại ô Serra Negra), nghiên cứu rất nhiều tư liệu, gián tiếp tiếp cận các cuốn nhật ký của viên bác sĩ bỏ trốn để hiểu rõ cách nhìn thế giới của quốc xã. Về quá trình này, ông từng chia sẻ với tờ Le Monde: “Tôi đã sống cùng ông ta, với cái nhân vật đê tiện, tầm thường tột bực đó. Tôi đã bước lên sàn đấu. Tôi đối diện với ông ta. Sáu tháng đầu tiên, có lúc tôi đã kêu tên ông ta trong đêm.” Với ngòi bút tỉ mỉ của mình, Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. Auschwitz là một trong những trại tập trung do Đức Quốc xã xây dựng ở Ba Lan để hành hạ và sát hại dã man người Do Thái trong Thế chiến 2. Rất ít người Do thái đến các trại tập trung này có cơ hội được trở về *** Olivier Guez là nhà báo, nhà văn người Pháp. Ông lớn lên ở Strasbourg, một thành phố gần Đức. Ngay từ khi còn nhỏ, bà ngoại ông đã cho ông đọc rất nhiều. Sau khi học tại Sciences-Po Strasbourg, London School of Economics và Collège e’Europe de Bruges, ông làm nhà báo tự do cho nhiều tờ báo quốc tế như New York Times, Le Monde, Frankfurter Allgemeine Zeitung, Le Figaro Magazine, L’Express, etc. Ông viết chung tác phẩm đầu tay La Grande Alliance với Frédéric Encel. ***   Lão gia “Hạnh phúc chỉ nằm ở những gì khuấy động, và chỉ có tội ác mới khuấy động được; đức hạnh... không bao giờ có thể dẫn tới hạnh phúc.” SADE Con tàu North King rẽ nước trên dòng sông đầy bùn. Trên boong tàu, hành khách chăm chú ngắm nhìn đường chân trời từ khi bình minh lên, và giờ đây, khi những cây cần cẩu ở công trường đóng tàu và vạch kẻ đỏ của khu nhà kho cảng hiện ra trong màn sương, đám khách người Đức cùng hát một khúc quân hành, người Italia làm dấu thánh giá, còn người Do Thái thì cầu nguyện dù trời đang có mưa bụi, các cặp đôi hôn nhau, con tàu cập bến Buenos Aires sau ba tuần lênh đênh trên biển. Một mình dựa vào thành tàu, Helmut Gregor suy tư. Hắn từng hy vọng rằng một chiếc tàu tuần tra của cảnh sát mật sẽ tới đưa hắn đi và giúp hắn tránh khỏi những phiền nhiễu của hải quan. Khi lên tàu ở Gênes, Gregor đã xin Kurt đặc ân này, hắn tự giới thiệu là một nhà khoa học, một chuyên gia tầm cỡ về di truyền học và đề xuất với Kurt hắn sẽ trả tiền (Gregor có rất nhiều tiền), nhưng kẻ tổ chức vượt biên cười và né tránh: quyền ngoại lệ này chỉ dành cho những nhân vật tai to mặt lớn, những quan chức của chế độ cũ, chứ không mấy khi dành cho một đại úy của SS*. Dù sao thì Kurt cũng sẽ đánh điện tới Buenos Aires, Gregor có thể trông cậy vào ông ta. Kurt đã bỏ túi một số bền, nhưng chiếc tàu tuần tra thì không hề xuất hiện. Gregor phải kiên nhẫn chờ đợi trong sảnh đường rộng mênh mông của hải quan Argentina cùng với những người di cư khác. Hắn giữ chặt hai chiếc va li, một to một nhỏ, và khinh khỉnh nhìn đám dân châu Âu lưu vong đứng quanh đó, những hàng dài người vô danh lịch lãm hay nhếch nhác mà hắn luôn tránh xa trong suốt hành trình. Gregor thà ngắm nhìn đại dương và các vì sao hoặc đọc thơ Đức trong cabin của mình còn hơn; hắn đã nhìn lại bốn năm vừa qua trong đời mình, từ khi hắn chạy khỏi Ba Lan một cách thảm hại vào tháng Một 1945 và trà trộn vào lực lượng Vệ quốc Đức Quốc xã để thoát khỏi nanh vuốt của Hồng quân: hắn bị giam vài tuần trong một trại tù của Mỹ, sau đó được thả vì hắn có giấy tờ giả mang tên Fritz Ullmann, rồi hắn ẩn náu trong một nông trang đầy hoa ở Bavière, cách thành phố Gunzburg quê hương hắn không xa, ở đây hắn làm công việc cắt cỏ cho gia súc và phân loại khoai tây trong ba năm với cái tên Fritz Hollmann, rồi sau đó hắn chạy trốn tới Pâques cách đây hai tháng, vượt qua dãy núi Dolomites bằng đường mòn trong rừng của những kẻ buôn lậu, rồi đến vùng Nam Tyrol ở Italia, ở đây hắn đổi tên thành Helmut Gregor, cuối cùng hắn tới Genova, nơi tên buôn lậu Kurt đã giúp hắn làm các thủ tục với chính quyền Italia và cơ quan nhập cảnh Argentina. Tại hải quan, kẻ đào tẩu xuất trình giấy thông hành của Hội Chữ thập đỏ quốc tế, giấy phép lên bờ và visa nhập cảnh: Helmut Gregor, cao 1,74 mét, mắt nâu xanh lá cây, sinh ngày 6 tháng Tám 1911 tại Termeno, tiếng Đức là Tramin, tỉnh Nam Tyrol, công dân Đức quốc tịch Italia, theo Thiên Chúa giáo, nghề nghiệp kỹ sư cơ khí. Địa chỉ tại Buenos Aires: 2460 phố Arenales, khu phố Florida, nhà của Gerard Malbranc. Nhân viên hải quan kiểm tra hành lý của hắn, quần áo gấp cẩn thận, tấm ảnh chân dung một phụ nữ tóc vàng mảnh dẻ, vài cuốn sách và một số đĩa hát opera, rồi anh ta cau mày khi thấy các món đồ trong chiếc va li nhỏ: ống tiêm hạ bì, vài cuốn sổ ghi chép và bản đồ giải phẫu, các tiêu bản máu, tiêu bản tế bào: không liên quan gì tới một kỹ sư cơ khí. Anh ta bèn gọi nhân viên y tế của cảng tới. Gregor run rẩy. Hắn đã mạo hiểm một cách điên rồ để giữ chiếc va li nhỏ gây liên lụy, kết quả quý giá của biết bao năm trời nghiên cứu, của cả đời hắn, mà hắn đã mang lên tàu khi vội vã rời khỏi nơi làm việc ở Ba Lan. Nếu bị quân Xô viết bắt được khi đang giữ cái va li đó, hắn sẽ bị xử tử ngay lập tức mà chẳng cần xét xử gì. Trên đường trở lại Tây Âu mùa xuân 1945, khi quân đội Đức Quốc xã rút chạy tán loạn, hắn đã gửi va li cho một nữ y tá có lòng trắc ẩn, rồi sau đó tìm lại cô ở Đông Đức, trong vùng Liên Xô kiểm soát, một chuyến đi điên rồ sau khi hắn được thả khỏi trại giam Mỹ và ba tuần đi đường. Sau đó, hắn đưa va li cho Hans Sedlmeier, một người bạn từ thuở nhỏ và là người được cha hắn, một nhà công nghiệp, hết mực tin cậy, Sedlmeier mà hắn thường xuyên gặp gỡ trong khu rừng xung quanh nông trang nơi hắn ẩn náu suốt ba năm. Gregor không thể rời khỏi châu Âu mà không đem theo chiếc va li này: Sedlmeier đã trả lại va li cho hắn trước khi hắn đi Italia cùng với một chiếc phong bì dày đầy tiền mặt, và giờ đây một gã ngớ ngẩn móng tay bẩn thỉu đang bới tung mọi thứ, Gregor thầm nghĩ, còn nhân viên y tế của cảng thì xem xét các tiêu bản và những ghi chép viết bằng kiểu chữ gothic sin sít. Vì không hiểu gì cả, nên nhân viên hải quan hỏi hắn bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Đức, tay kỹ sư cơ khí giải thích với ông ta về thiên hướng trở thành nhà sinh vật nghiệp dư của mình. Hai người đàn ông khinh bỉ nhìn nhau, còn nhân viên y tế đang muốn đi ăn trưa nên ra hiệu cho nhân viên hải quan cho hắn qua. Ngày 22 tháng Sáu 1949 ấy, Helmut Gregor đặt chân tới nơi ẩn náu mới: Argentina. Mời bạn đón đọc Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele của tác giả Olivier Guez & Hoàng Mai Anh (dịch).