Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đó Đây

Lãng Tử Hồi Đầu   Trúc Chi, tác giả "đó đây" (tùy bút, nhà xuất bản Văn Học, Hoa Kỳ, 1999), tên thật là Tôn Thất Kỳ. Sinh năm 1934. Học ở Huế và Đà Lạt. Vào ngành thông tin báo chí từ năm 1960. Biên tập viên ban Việt ngữ đài BBC. Tiếp tục làm cho đài này sau khi rời Luân Đôn vào năm 1967. Làm cho thông tấn xã Reuters, tại Singapore. Cho tới năm 1975, thông tín viên cho Reuters tại Việt Nam và một số các quốc gia Đông Nam Á.  Người viết giới thiệu dài dòng về tiểu sử của ông, là vì một câu hỏi mà bất cứ ai đã từng làm quen với những tuỳ bút của Trúc Chi, đều phải tự hỏi: cả cuộc đời trẻ trung của ông, là liên quan tới báo chí, với lối viết tin "ngắn gọn, trình bầy sự kiện...", tại sao về già, ông chọn lối viết gần như trái ngược hẳn với "thói quen" của ông? Tại sao lối viết "cà kê, dê ngỗng" đó? Liệu nó có thực "cà kê, dê ngỗng"â không? Liệu có thể sử dụng một lối văn khác, để viết về những chuyện "đó đây" đó?  Sau đây là một số đề nghị, nhằm lý giải câu hỏi nêu trên.  "Không ai bắt mình viết cả, nhưng mà tôi lại phải ngồi vào bàn..." (Một Nét Thu). Và ông giải thích cái lý do phải ngồi vào bàn: Tự nhiên mà không để ý đến ngày tháng, không nhìn tờ lịch, tôi đã biết thu đã lẩn quẩn đâu đây rồi.  W. Faulkner cho rằng, con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết. Nhưng ở một chỗ khác, ông thêm vô: con người là tổng số những kinh nghiệm về khổ đau.  Thành thử cái lý do ngồi vào bàn của tác giả, có cả hai.  Chao ôi binh lửa ôi binh lửa/Ai giẹp giùm ta trận giặc này... Còn lòng tôi, nghĩ đến thân nhân, bạn bè quê hương xứ sở, lúc này là cả một trận phong ba... (Cành Phượng Tím).  Ai giẹp giùm ta? Trận giặc nào?  George Steiner, qua một cuộc phỏng vấn, được hỏi, ông còn mê viết tiểu thuyết hay không, đã trả lời: Tôi cứ loay hoay với một đề tài nó làm tôi đứt ruột đứt gan. Tôi cứ bắt đầu hoài một câu chuyện nho nhỏ như vầy: Chúng ta đang ở tại một hòn đảo xứ Hy Lạp, thời kỳ mấy ông tướng đang làm mưa làm gió, hay ở Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc Nam Mỹ... Bất cứ nơi nào trên trái đất, nhưng phải là một nhà nước cảnh sát. Một người đàn ông trở về nhà với vợ, với con, và... đúng vào lúc họ ngồi vào bàn ăn, hoặc đi vô giường ngủ, là bà vợ "ngửi" ra cái mùi hôi hám đồ tể ở nơi anh chồng (anh ta đã tra tấn người suốt buổi). Anh chồng chưa hề nói với vợ, nhiệm vụ của anh ở trong ngành, vậy mà bà vợ biết.  Đề tài này, theo Steiner, cội nguồn của nó, là từ Lysistrata, của Aristophanes, về những người vợ không chịu ngủ với chồng, chỉ khi nào anh ngưng chém giết, thì mới cho anh "động phòng"! Ở đây, với Steiner, còn là vấn đề: một căn bịnh khủng khiếp đã tác động vào chính cái hành vi ân ái, sau cùng những người vợ bắt đầu "làm thịt" mấy ông chồng...  (Đề tài này, như tôi biết, được Phạm Thị Hoài sử dụng ngược lại, trong một dụ ngôn, viết về những chàng trai tơ trước khi ra chiến trường, được hưởng mùi đời lần đầu tiên, và có thể là lần cuối cùng. Và họ cứ thế lao vào cái chết. Liệu có một trùng hợp thú vị ở đây, theo đó, Phạm Thị Hoài đã được gợi hứng từ Lysistrata?)  Vẫn Steiner, đã chỉ ra sự khác biệt của văn chương Tây Phương, giữa hai Cuộc Chiến Lớn. Cuộc chiến 1914-1918 đưa tới những tác phẩm cổ điển như "Thôi Đừng Diễn Hành" (No More Parades), của Ford Madox Ford, "Lửa" (Feu), của Barbusse, "Phòng Lớn" (Enormous Room) của Cummings, "Giã Từ Vũ Khí" (Farewell to Arms) của Hemingway, âm hưởng chiến trường và thái độ của người dân ở chương cuối của Proust. Những tác phẩm lớn về thảm họa thứ nhì là phóng sự và chứng nhân tức thời: "Bay Đêm" (Vol de Nuit) của Saint-Exupéry, "Hiroshima" của Hersey, "Nhật Ký" của Anne Frank, "Ghi Chú từ Ghetto Warsaw" của Emmanuel Ringleblum. Không một nhà thơ, không một tiểu thuyết gia nào, cho tới nay, có thể đem đến cho thực tại trại tập trung, sự sáng suốt nghiêm ngặt, làm chủ kinh nghiệm, như là chúng ta nhận thấy ở trong nghiên cứu xã hội "Trái Tim Biết" (The Informed Heart), của Bruno Bettelheim. Giả tưởng ngậm câm trước tính lớn lao của sự kiện; trước uy quyền lồng lộng như thế, chỉ có phóng sự không hoa hòe hoa sói mới có thể làm bật ra được.  Đọc Trúc Chi, tuy ông nói chuyện cà kê dê ngỗng, nhưng lúc nào tôi cũng ngửi thấy cái mùi toát ra từ những bản tin ngắn gọn ngày nào, ngày nào...  Cũng có thể giải thích, Trúc Chi rất mê Nguyễn Tuân của tuỳ bút. Và khi ông viết, ông đã viết lại những trang sách của Nguyễn Tuân, nhưng với một sự khác biệt. Trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân, chỉ có Nguyễn Tuân. Ông bầy biện người này, cảnh nọ, thì cũng liên quan đến Nguyễn Tuân. Những Cô Tơ, Con Vượn Gầy, Bá Nhỡ... đều mang hơi hám Nguyễn Tuân. Với Trúc Chi, những nhân vật của ông là do cơ may, ông gặp được, khi làm nghề phóng viên đi đây, đi đó. Ý nghĩa của tập tùy bút, là tính không gian đó đây, và những sự kiện, và những nhân vật của nó. Không có họ, không có "đó đây". Sự khác biệt thật là lớn lao. Độc giả đọc bất cứ trang sách nào của "đó đây", cũng có thể làm quen với một nhân vật, hoặc dễ thương, hoặc ngậm ngùi, hoặc có thể đáng giận nhưng không đáng ghét... Tôi đã có lần viết về nhân vật Hương Cơ, và tiếng đàn "thuyền mấy lá, đông tây lặng ngắt" của người đẹp. Nhưng Hương Cơ không được may mắn như nàng kỹ nữ bến Tầm Dương: không phải thuyền mấy lá lặng ngắt vì tiếng đàn, mà là: tiếng đàn lặng ngắt, trước tính dã man của sự kiện, của biến cố Mậu Thân. Của cuộc nồi da nấu thịt. Bạn đọc khó có thể quên được một nhân vật như vậy. Làm sao có thể quên chi tiết về một trận pháo kích: "Hôm trước, khi đến xem vụ pháo kích trường tiểu học Cai Lậy tôi thấy anh không lăng xăng quan sát, hỏi tin tức như thường lệ mà lại đứng thừ người nhìn tử thi mấy đứa trẻ tội nghiệp có vẻ như ... đang cầu nguyện".  Phải nói là nhiều nhân vật như vậy. Nhiều chi tiết như vậy. Độc giả đã làm quen với một chị Hoài của Nguyễn Tuân, làm sao không muốn làm quen thêm một chị Đàn. Đứa bạn trai của đứa em, khi rời "thiên đường tuổi thơ ở Đà Lạt", lớn lên lăn lộn với đời, có thói quen nhắc ly rượu lên uống là phải để đúng vào cái dấu trôn để lại, nhờ vậy mà không thể nào quên hai từ "tĩnh lự", bữa ăn khoai lang nghẹn thở, thói dễ ghét của người chồng chị Đàn (cái tật duy nhất của anh mà tôi biết là anh cứ đứng chỉ nước cho cả hai bên mỗi khi xem Đạt và tôi đánh cờ tướng. Dễ ghét lạ.) Ba từ "dễ ghét lạ", như để giải thích những câu sau đó (Chưa kịp cám ơn, chị đã cốc nhẹ vào đầu tôi), hay là đoạn cuối: "... Cái người chỉ những điều sơ đẳng về phép tĩnh lự cho chị Đàn, là bồ cũ của chị... Toa kể chuyện đời một người nhiều tình cảm như chị Đàn mà lại không nhắc nhở chi đến tình yêu là vụng lắm. Dù là tình học trò vớ vẩn...".  Tôi nghĩ, phần lớn những nhân vật ở trong "đó đây", đều là tri âm của tác giả. Trong đời sống, ông đã từng gặp họ, rồi không thể quên được họ. Nào là người sĩ quan tên Duy, câu chửi đổng (Đ.M. tin tức nào mà chờ mấy thằng báo chí đi trễ), cử chỉ (nhét quyển sách chưởng vào túi), bữa cá nướng hết xẩy, tí nhạc sống, nữ ca sĩ tài tử tên Huyền, và buổi hát "trùng phùng": "Bây giờ là đỡ rồi, hồi trước cứ hát xong bài Buồn Tàn Thu là chỉ khóc ròng... Không biết thiếu tá có để ý không, chứ hồi nãy đến cái chỗ "nhưng năm tháng qua dần mùa thu chết bao lần" chỉ còn rơm rớm nước mắt đó. Em sợ chỉ khóc lớn thì hư cả buổi tối hôm nay. May quá!". Nào là cái ông bạn tên Pháp (Nguyễn Nhược Pháp), và câu trả lời (Cũng chỗ quen biết cũ), trong lần tác giả ghé thăm Hà Nội...  Vả chăng, tuỳ bút, ở thời đại Nguyễn Tuân, vẫn nằm trong dạng "tĩnh" của nó, chưa thực sự va chạm với đời sống, và đời sống cũng chưa "ròm rỏ" nhiều đến nó. Tôi muốn nói, xã hội thuộc địa hồi còn thực dân Pháp, trước năm 1945, và những nhân vật "nhà văn, nhà báo" như Nguyễn chẳng hạn; họ không thể tưởng tượng ra một nơi chốn mơ tưởng nào khác, bên ngoài những cuốn sách: nhà hát ả đào, cuộc bù khú với bạn bè kế bên một ngọn đèn. Nhân vật, ngôn ngữ, thể loại (tùy bút), đều cảm thấy thật "an toàn", trong môi trường khép kín như vậy.  Phải tới sau Cuộc Chiến Lớn, và cùng với nó là những điều "không thể nói được", mọi vấn đề của ngôn ngữ, thể loại văn học mới cảm thấy mất đi sự an toàn "đời đời" của chúng. Ngày nay, thật khó mà gọi, một thể loại viết như ở trong "đó đây", là "tùy bút", với tất cả những quan niệm cũ kỹ về nó, từ thời Nguyễn Tuân. Tôi nghĩ, nên gọi chúng là "tiểu luận" (essay).  Sẽ có người bực mình. Tiểu luận, là phải có "vấn đề", (viết về cái gì, mở đề ra sao, thân đề thế nào, kết luận có không....). Cái kiểu viết đầu cua tai nheo, "viễn mơ", hoặc nhắc tới hết ông này bà nọ, hoặc khi người đời đang bận rộn với những vấn đề nóng bỏng, nào con bọ, nào tận thế... vậy mà nhân vật xưng tôi lại đâm ngang một câu, rằng làm sao có một chút khói cho một buổi chiều đẹp như thế này, ở nơi quê người!  Trong bài viết Mở Đầu cho tập "Những bài tiểu luận hay nhất ở Mỹ trong năm 1998", Robert Atwan kể lại thời gian ông dạy đại học, và để ý sinh viên nào cũng thuộc nằm lòng, cách viết một bài essay, mà họ gọi là theme (nghị luận, chủ đề). Một Nghị Luận Hoàn Hảo (Perfect Theme), là như thế này: một đoạn mở đầu, có một câu thuộc loại "Đức Khổng Tử nói", một thứ định nghĩa, definition, (someone named Webster). Sau đó là thân bài, mở rộng câu phán, tư tưởng chính (the main idea). Rồi tới kết luận (tóm lại đoạn thân bài), và nó thường bắt đầu như vầy: Như vậy, chúng ta thấy rằng...  Kinh nghiệm trên, tôi đã từng trải qua, khi đi học, dốt tiếng Tây, học thuộc lòng mấy câu, khi làm bài Nghị luận đạo đức (Dissertation morale). Theo Atwan, những sinh viên của ông không hề để ý đến chuyện, viết là một hành động khám phá, một cơ hội để nói về một điều mà trước đây chưa từng có ai nói. Ông trích dẫn Robert Frost; nhà thơ Mỹ này cho rằng, với rất nhiều người, suy nghĩ có nghĩa là bỏ phiếu, đi bầu. Tại sao lại lao tâm khổ trí với ba chuyện viết lách về một vấn đề, trong khi chỉ cần, một cuộc thăm dò dư luận (opinion poll)?  Theo Atwan, một essay hay đưa tới một kết luận "chẳng kết luận gì hết" (a "conclusion in which nothing is concluded"). Cứ lửng lơ con cá vàng. Muốn hiểu sao thì hiểu. (Tôi nhớ có lần, khi còn đi học, cả đám bạn bè xúm quanh nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, truy ông tới cùng về một câu thơ trong bài Phục Sinh: Buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường. Sao là tại sao, hay sao là những ngôi sao, hay sao là làm sao... Thi sĩ cười: muốn hiểu sao thì hiểu!)  Với "đó đây", bạn chỉ cần chú tâm một chút, là nhận ra sợi dây dẫn nằm bên dưới những câu chuyện tưởng như tào lao, đầu ngô mình sở đó. Sợi dây dẫn, là mượn thuật ngữ phê bình Tây Phương (fil conducteur). Mấy nhà phê bình ở trong nước thường gọi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, ngụ ý cần phải có đảng tính, có "máu" ở trong đó. Đông Phương ta gọi là: rắn nằm trong cỏ. Cỏ ở đây, có thể là ba cái mớ bòng bong mà người ta gọi là cuộc nồi da nấu thịt, vẫn còn dây dưa tới bây giờ. Rắn là chuyện đó đây, giữa một số người có mắc míu tới nó. Hoặc rắn, chính là kỹ thuật viết của Trúc Chi.  Liệu có một cách viết khác, cho "đó đây"? Vẫn Steiner, sau khi chỉ ra sự khác biệt về thể loại văn chương giữa hai cuộc chiến lớn, ông cho rằng: "có vẻ như chúng ta đang ở trong giao thời, nếu nói về tài liệu mang chất thơ (poetic documentation), một thời mà những kỹ thuật và những qui ước của tiểu thuyết được sử dụng để bầy ra chất liệu mang tính tâm lý, xã hội và khoa học. Thể loại phóng sự và cách trình bầy sự kiện như hiện nay, là kế thừa những tự do của tiểu thuyết." Nguyễn Tuân, trong suốt cuộc chiến, khi để cho tùy bút đụng đầu với thực tế, nó đã mất đi sức tưởng tượng (của tác giả: một người mê đọc sách, thèm giang hồ...) , sự an toàn (của tầng lớp nhà báo, trung lưu, sống bên trong sự bảo hộ của nhà nước Đại Pháp...) và cuối cùng trở thành (thể loại) ký. Ký, theo tôi, là một tiền-tùy bút. Khi nhà văn xuất hiện, nó biến thành tuỳ bút, giả tưởng, hoặc gì gì đó. Tôi tin rằng, những chi tiết ở trong "đó đây", chắc chắn đã được tác giả lưu giữ trong những cuốn "sổ nhật trình" từ những ngày nào, ngày nào; bây giờ được tác giả đem ra, tẩm vào chúng cái con người tình cảm, tế nhị, hóm hỉnh, và cũng thật lãng đãng là chính mình...  Lãng Tử Hồi Đầu, là "biệt hiệu" của nhân vật xưng tôi, khi trở về Việt Nam, và được cô em gái (quê hương?) ban tặng. Nó gợi nhớ Sự Trở Về của Đứa Con Hoang Đàng, trong Kinh Thánh. Và nó cũng liên can tới "lịch sử" Việt Nam. Huy Cận, với Lửa Thiêng (1943), đã nói lên cú hồi đầu "đầu tiên":  Hồn lưu lạc không hề thờ một chúa  Yêu một người, ta dâng cả tình thương.  Trong khi đó Vũ Hoàng Chương, đã không chấp nhận "yêu một người":  Biển vô tận sá gì phương hướng nữa  Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh.  Phương hướng, ý nghĩa về một lịch sử tuyến tính, hướng tới một ngày mai ca hát...: không có ta!  [Như người viết được biết, thời kỳ 1946, một số thi sĩ như Vũ Hoàng Chương, Vũ Hoàng Định (?) - em Vũ Hoàng Chương - Đinh Hùng, Trần Dần, đã thành lập một nhóm thơ tượng trưng, ra số báo đầu tiên tháng 11/1946, có tên là "Địa Ngục". Tháng Chạp 1946: toàn quốc kháng chiến. Trần Dần, thi sĩ (chủ trương thơ tự do), họa sĩ (lập thể), ở lại, và dính vào vụ Nhân Văn. Tinh thần của nhóm theo Vũ Hoàng Chương vào Nam. Nhóm Sáng Tạo, một phần thoát thai từ Miền Bắc, là theo nghĩa này. Thanh Tâm Tuyền rất "nể" Vũ Hoàng Chương, nhất là chi tiết thú vị: về già ông còn làm một tập thơ (hay một bài thơ?) lấy tên là Ngồi Quán].  Từ "Lãng Tử" còn gợi nhớ từ "Lãng Nhân" (Phùng Tất Đắc rất "tâm đắc" từ này). Lãng Nhân, là từ "Ronin", dùng để chỉ một võ sĩ Nhật Bản, đã mất chúa, trở thành "lính đánh thuê" (mercenaire, hit man). Nó còn là tên một chiêu thức võ công của Kim Dung. (Nếu gọi cách viết của ông là Lăng Ba Vi Bộ, như vậy ông thuộc môn phái Kim Dung!) Lãng Tử Hồi Đầu còn làm chúng ta liên tưởng đến mấy câu hát ru con, của một bà vợ trong tùy bút Nguyễn Tuân, nhân ngày trùng phùng với ông chồng chỉ mong "khi chết đi, người đời sẽ thuộc da mình, để làm một chiếc vali" (Paul Morand):  Ba năm lưu lạc giang hồ  Một ngày gây dựng cơ đồ, vẫn nên.  Chúng ta cũng có thể giải thích trường hợp "đó đây", qua tác phẩm "Trái Tim Biết" (The Informed Heart), đã nói ở trên. Khi làm phóng viên, Trúc Chi đã nhận được những thông tin (information). Do cũng được quen biết tác giả, ông có lần tâm sự, ông có cái may là lâu lâu được nhẩy ra khỏi lò lửa, để suy nghĩ về nó. Những thời gian quí báu này, mở ra một trái tim biết; "đó đây", là một essay, về cuộc chiến, là như vậy: Qua cái mớ bòng bong "cà kê dê ngỗng" đó, có đủ sự thực, để cứu vớt một kẻ dạn dầy. (1)  Với riêng tôi, với "đó đây", là một anh chàng lãng tử phóng viên, hồi đầu với tuỳ bút. Với văn chương.  Xin chúc mừng!  Nguyễn Quốc Trụ  Chú thích: Mô phỏng Conrad, trong "Trái Tim của Bóng Đen" (Heart of Darkness): "There was surface-truth enough in these things to save a wiser man." Một người đàn ông khôn ngoan hơn (a wiser man), là từ dòng chót "Bài thơ của Người Thủy Thủ Già", của Coleridge: A sadder and wiser man He rose the morrow morn. [Theo ghi chú của Catherine Pappo-Musard, khi dịch Trái Tim của Bóng Đen qua tiếng Pháp.] (Một người đàn ông buồn hơn, dạn dầy hơn, Buổi mai thức giấc).   NQT *** Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần Làm thân con nhện mấy lần vương tơ. Ca dao Lời vào tập Trong văn chương Việt Nam hiện đại, số người viết tùy bút thành công không được bao nhiêu! Nói tới thể loại này, người ta nghĩ ngay đến Nguyễn Tuân. Ông là một bậc thầy trong loại tùy bút. Sau Nguyễn Tuân, những người viết tùy bút, không nhiều thì ít, đều chịu ảnh hưởng của ông. Ngoài Bắc, có lẽ “chủ nghĩa cá nhân” bị lên án dữ dội nên không thấy có người nào đi theo Nguyễn Tuân. Trong Nam, viết tùy bút giỏi có Võ Phiến và Mai Thảo. Ở hải ngoại, suốt một phần tư thế kỷ, chỉ có hai người viết tùy bút thành công, là Nguyễn Bá Trạc với Ngọn Cỏ Bồng, và Trúc Chi với cuốn sách này. Vì sao ít người viết tùy bút như thế? Câu trả lời khá đơn giản: Viết tùy bút khó! Viết truyện ngắn hay truyện dài, tác giả mặc sức “giả dạng vô danh” núp đằng sau các nhân vật để nói cho đã miệng, mà khỏi phải chịu trách nhiệm gì hết. Nhân vật nói được những lời vàng ngọc: tác giả nhận ngay mình mới là người thực sự nghĩ ra những lời cao siêu ấy. Ngược lại, nhân vật lỡ phun những lời ngu xuẩn ngược ngạo, người viết đổ hết mọi trách nhiệm cho hư cấu. Những người viết kịch cũng có lợi-thế như người viết truyện. Anh ta đóng vai người đạo diễn núp đằng sau cánh gà, nhắc nhở, quan sát diễn tiến của vở kịch. Cùng một câu thoại, diễn viên này diễn tả xuất sắc hơn diễn viên kia, thế là người viết kịch có vô số những câu “tại vì…” để biện hộ cho cái bất tài của mình. Có những thể loại văn chương gần gũi với tùy bút ở chỗ tận dụng chủ quan của người viết, như thế “ký”, và “hồi ký”. Trong hai thể loại này, người viết phải bắt buộc xưng “tôi” và chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì mình viết ra. Nguyên tắc đạo đức căn bản của “ký” và “hồi ký” là sự thành thật, người viết hồi ký phải tôn trọng sự thật mặc dù được phép viết một cách chủ quan. Nhưng viết bút ký và hồi ký cũng chưa phải là trò chơi nguy hiểm. Người viết ký chỉ cần công nhận mình chủ quan trong cách ghi chép sự việc là ngay lập tức mọi lỗi lầm được tha thứ. Người viết hồi ký còn rộng chân rộng tay hơn nữa. Vì chỉ những người đã may mắn “có một chút danh gì với núi sông” mới viết hồi ký. Trong ánh hào quang của danh vọng và sự an toàn của người đã ra ngoài cuộc, người viết hồi ký chiếm được nhiều tiện nghi. Có cái sang trọng hấp dẫn của “miệng nhà quan”, và vì ông quan “có gang có thép” một thời ấy bây giờ đã “từ quan”, nên không còn là đối tượng của những ghen ghét, đố kỵ. Nói hay người ta khen, nói dở người ta thông cảm. Chỉ còn những người liều lĩnh chọn viết một thể loại nguy hiểm, là tùy bút. Vì người viết tùy bút phải đem cái tôi ra nói từ đầu chí cuối, như là một người khỏa thân ngay giữa chợ. Chẳng những thế, tuy được phép nói về mình, nhưng tùy bút không cho phép nói có đầu có đuôi, có thắt có mở như người viết truyện. Tùy bút cũng không cho phép ăn nói nghiêm trọng. Trong một cuộc hội họp bù khú cuối tuần, người được Trời ban cho cái giọng thiên phú, thu hút thiên hạ bằng những lời hiệu triệu chính trị hùng hồn hoặc những bài hát karaoke. Người có tài kể chuyện cũng là chúa tể của một nhóm khác. Riêng các anh chị viết tùy bút, trong những dịp ấy, họ chẳng khác nào những người có tài tán gẫu, nói những chuyện có vẻ bông lơn chẳng có gì trầm trọng nhưng ai nghe cũng thích thú. Khi chia tay, cảm giác thích thú ấy cứ còn hoài, tuy cố nhớ thì cũng không thấy anh chàng ăn nói lan man có duyên ấy nói những chuyện gì. Trong The Importance of Living (Nguyễn Hiến Lê dịch thành cuốn Một Quan Niệm Về Sống Đẹp), Lâm Ngữ Đường bàn về những cái thú ở đời. Lâm tiên sinh có bàn về một cái thú rất dễ tìm nhưng ít ai lưu ý: cái thú tán gẫu. Những lúc đó, vô phúc gặp phải những tay hùng biện thao thao bất tuyệt về những chuyện vá trời lấp biển, thì phí mất một ngày cuối tuần. Hoặc gặp phải một ông thầy tu dạy dỗ những điều phải làm, ngồi nghe phải kính cẩn xếp hai bàn tay ngay ngắn trên đầu gối, miệng đánh nhịp “bạch thầy” với “lạy cha” thì cũng chán chết. Kẻ may mắn mới gặp được những chuyên gia tán gẫn trong những tối cuối tuần, hoặc đọc được những tập tùy bút có duyên. “Tán gẫu” không phải là “tán thán”, lại càng không phải là “tán nhảm”. Chuyện đem ra bàn không phải là chuyện có đầu có đuôi, một người xướng rồi những người nói sau phụ họa như một giàn hợp xướng đơn điệu. Ở đây, không có ai dẫn đạo, không có ai theo đuôi. Đề tài được mở rộng, cái gì hứng khởi thì cho tới luôn, đang tới mà thấy cái gì lạ thì bẻ ngoặc rẽ sang hướng khác cũng không sao. Võ hiệp gọi là “vô chiêu”. Người tán gẫu giỏi hay người viết tùy bút hay, không lụy vào bất cứ khuôn thước nào, cứ tùy hứng mà bay nhảy thoải mái. Trúc Chi viết tùy bút như thế! “Trong cuộc sống hàng ngày, tôi vẫn thích có được mươi mười lăm phút ngồi một mình như vậy. Ngồi im vậy thôi chứ không có bận tâm gì về cái thiên hình vạn trạng của hai chữ xuất xứ của người nay và người xưa. Đời tôi kể cũng có một đôi lúc khá xui, nhưng chưa bao giờ phải xuất, phải bất hạnh mà gánh lấy việc quân quốc trọng sự như ông quân sư đầy mưu thần chước quỷ nọ, ngồi một mình bên hồ cá nghĩ kế chận năm đạo quân xâm lược đang rục rịch tiến vào Thành Đô. Còn về chữ xử, thì hình như tôi vẫn chân trong chân ngoài. Tôi ngồi trong một tư thế rất thoải mái cho cơ thể tôi, không phải kiết già kiết trẻ chi, mà cũng không phải để thiền thiếc gì. Những lúc ấy đầu óc tôi bận rộn lắm, nhảy hết chuyện này sang chuyện khác, cứ loạn xà ngầu cả lên như là màn ảnh ti-vi chớp từ đài này sang đài kia. Cứ ngồi vậy thôi, để cho bộ máy thần kinh hoàn toàn độc lập, tự do, nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác. Những lúc ấy, hình như tôi… hạnh phúc lắm. Không biết đó có phải là hạnh phúc thật không, nhưng riêng tôi, tôi lấy đó làm một cái thú thường nhật”. Lúc cô độc một mình, Trúc Chi thích nghĩ lan man. Cho nên khi viết, anh cũng thích viết lan man. “Ấy, cái lối viết lách của tôi nó vậy đó. Định viết về một chuyện mà rồi lại nhảy sang chuyện khác. Nó cứ giống như thói quen của các bà nội trợ tham con diếc tiếc con rô mà tôi vẫn thường thấy trong các siêu thị ở đây. Thấy bó rau muống tươi, sắp sửa mua thì lại bị mấy quả xoài đầu mùa nhập cảng từ Mễ Tây Cơ nó cám dỗ. Thành ra cái rổ chợ (đúng ra thì phải nói cái xe chợ) nhiều khi có phần… đa mang. Thành ra bài vở của tôi cũng vậy, nhét quá nhiều thứ, mà lại không có đầu đuôi gì cả. Hỏng!”. Đọc tùy bút của Trúc Chi, không thể không nghĩ tới tùy bút của Nguyễn Tuân. Phong cách tùy bút của hai người có nhiều điểm giống nhau: giọng thiết tha khi nói đến thanh đến sắc, niềm xót thương cho những thân phận ca kỹ về chiều, chút khinh bạc dành cho những kẻ tối mặt vì những thứ phù vân. Những trang tùy bút hay nhất của Trúc Chi, cũng như Nguyễn Tuân, là những trang “thương hoa tiếc ngọc”. Đọc những trang viết ấy tôi cứ liên tưởng đến mấy câu của Chu Mạnh Trinh viết trong Bài Tựa Truyện Kiều (qua bản dịch): “Ta cũng nói tình thương người đồng điệu, cái kiếp không hoa lẩm cẩm, còn hồn xuân mộng bâng khuâng. Đã toan đúc sẵn nhà vàng chờ người quốc sắc, lại muốn mượn chùm phương thảo hú vía thuyền quyên…”. Nhưng tôi cũng nhận ra được điểm khác biệt lớn lao giữa Nguyễn Tuân và Trúc Chi. Lấy lại hình ảnh những buổi tán gẫu trên kia. Trong những dịp họp mặt thích thú đó, một người như Nguyễn Tuân dĩ nhiên là cái đinh của cuộc vui. Tùy bút Nguyễn Tuân hay, điều đó khỏi cần bàn cãi. Qua cái ảo diệu uyển chuyển của ý và lời, trong tùy bút Nguyễn Tuân, tôi vẫn lờ mờ thấy có cái phần “biểu diễn”, cái phần “muốn lấn lướt” để vượt lên trên đám nhân sinh lổn nhổn đang vây quanh ông. Ngyễn Tuân không hề che giấu lòng khinh mạn lũ người ngợm dung-thường đang trố mắt thán phục ông, cho nên trong cái ngang tàng ngất ngưởng của Nguyễn Tuân, có chen nhiều chất “kịch”. Trong buổi tán gẫu có mặt Nguyễn Tuân, tôi nghĩ chỉ có Nguyễn Tuân xướng, và ông cũng không muốn cho ai khác hơn ông được xướng. Tùy bút Trúc Chi không có cái phần “kịch” ấy. Trúc Chi là một người biết rõ cốt tủy của thú tán gẫu: sự bình đẳng. Ông hòa đồng chứ không muốn nổi bật. Ông tỉ tê lan man chứ không cao giọng. Nguyễn Tuân nói rõ những kẻ đáng khinh đáng ghét. Trúc Chi chia nhân loại làm hai hạng: đáng yêu chiếm đa số; thiểu số còn lại là những người đáng thương. Hãy nghe Trúc Chi “tán gẫu” về một người chồng phụ bạc: “… Bởi vì nó đang đưa tôi về với một buổi chiều hè trong một quán rượu ở đường Montparnasse, có Hoài, có tôi, có nhiều mất mát. Vẫn biết, như câu chuyện cũ trong sách giáo khoa, mình mất người khác được, nhưng những thứ mà Hoài và tôi từng bị đời cướp mất, lại không ai buồn lượm cả. Thành ra cái buổi hội ngộ sau tháng Tư 75 ấy, nó nhuốm một chút bùi ngùi, đượm một chút chua chát. Hôm ấy là lần đầu tiên Hoài nói thật với tôi rằng Nhân quyết định ở lại Việt Nam, không phải vì Nhân thích “bên kia” như tôi vẫn tưởng, mà chính vì Nhân không thể xa người đàn bà ấy, vốn cũng là bạn của tôi. Trong cái nháo nhào, trong cái tuyệt vọng của số đông vào cái ngày 30 tháng Tư năm ấy, có hai tâm hồn tự tách rời ra khỏi những biến cố trọng đại của lịch sử để mà xây một cái tổ ấm trên cái đống tro còn nóng của một thời khói lửa. Kể cũng can đảm. Mà cũng đẹp chứ không phải không. Cái anh chàng Nhân bạn học của tôi, tôi nghĩ mà thương. Ngày còn thanh niên, Nhân vui vẻ, hay đùa giỡn, trêu thầy, chọc bạn. Ra đời nhờ bẩm sinh thông minh lanh lẹn, lại thành công sớm trong ngành thầu xây cất. Tôi biết rõ Nhân lắm, con người hoạt bát và lịch lãm ấy hẳn không phải là không nát óc, không nát ruột khi phải chọn giữa bên vợ và bên bồ. Tôi nghĩ đến những vở kịch thời cổ bên Hy Lạp mà cốt chuyện được dựng trên cái xung đột nội tâm của nhân vật chính. Tôi nghĩ đến cái dằng co giữa Hiếu và Tình, giữa Trung và Hiếu trong một đôi tuồng hát bộ. Phải rồi: Song phủ cứu lai chánh hậu Ngửa vái trời soi thấu lòng ngay Xét thân hổ với cao dày Phơi gan giúp chúa, chau mày phụ cha. Xót xa lắm chứ. Tôi còn thấy được hình ảnh khổ đau của nhân vật này trong tuồng Sơn Hậu, nếu tôi không lầm, đôi lông mày nhíu lại cơ hồ chỉ còn có một đường ngang dưới trán, hai tay dang ra với một vẻ sững sờ hầu như là tuyệt vọng khi kẹt trong một cái thế lưỡng nan: giết cha hay phò chúa. Vậy nhưng mà trong lòng những con người thời trước, có cao dày, có trời đất chứng giám cho, còn ở trong lòng người bạn hiền mang tên Nhân, mà tôi biết là không tin ở một đấng nào trong cõi siêu hình cả, động cơ nào đã thúc đẩy anh đi đến quyết định bỏ Hoài mà ở lại với người đàn bà rất tài hoa kia? Hình như nó là cái chữ Tình thì phải. Chữ Tình mà người đời trước đã tự hỏi xem nó là cái chi chi!”. Một phong cách thật sự thoải mái, thư giãn, đi chung với một tâm hồn nhân hậu, tôi nghĩ đó là kết hợp tuyệt vời tạo ra vẻ đẹp trong tùy bút của Trúc Chi. Xin bạn đọc gác tạm những lo toan vướng víu sang một bên, và cùng Trúc Chi hưởng cái thú tán gẫu bằng những trang tùy bút sau đây. Nguyễn Mộng Giác - Đó Đây, tùy bút của Trúc Chi, nhà xuất bản Văn Học, 1999 Nguồn: Tạp Chí Văn Học, số 164. Mời các bạn đón đọc Đó Đây của tác giả Trúc Chi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Một Mùa Hè Vắng Bóng Chim (Han Suyin)
Birdless Summer là cuốn thứ ba trong một bộ sách của Han Suyin và là cuốn duy nhất được Nguyễn Hiến Lê dịch ra tiếng Việt. Bản thân tác giả là một phụ nữ Trung Hoa lai Bỉ, có chồng là một sĩ quan tương đối cao cấp trong chính quyền Tưởng Giới Thạch. Han Suyin - đang theo học đại học y khoa tại Bỉ - vì tình yêu quê hương tha thiết đã quyết định bỏ trường đại học, bỏ hôn phu, bỏ cuộc sống yên bình, bỏ châu Âu để trở về Trung Hoa kháng Nhật. Trên chuyến tàu định mệnh ấy, cô gặp lại Pao - người bản thuở ấu thơ khi còn ở Bắc Kinh. Hai con người cùng lý tưởng ấy dễ dàng cảm thấy gần gũi rồi thành vợ chồng. Thế nhưng ngay khi về đến Trung Hoa, ảo tưởng của cô gái trẻ Han Yu Sin về lý tưởng, về tình yêu… dần dần bị đập vỡ. Và từ đó, qua tác phẩm của mình, bà đã dựng lại cho người đọc thấy một mảng khuất ít người biết của lịch sử Trung Quốc thời kì Tưởng Giới Thạch: sự tàn bạo, bất nhân và nỗi thống khổ của hàng triệu, triệu người Trung Hoa. Chân thực là thế nhưng sách của Han Yu Sin không phải tiểu thuyết lịch sử khô khan, nó thực ra chỉ là một tác phẩm tự sự về cuộc đời bà. Bên cạnh một dân tộc cùng các sự kiện to lớn, ta còn thấy cuộc hôn nhân bi kịch mà bà đã vướng vào. Một cuộc hôn nhân không phải không có tình yêu nhưng đã bị chính những ảo tưởng vò nát, để lại những vết rạn vỡ không bao giờ có thể hàn gắn được. Tình yêu trong trái tim cô gái trẻ Han Suyin cứ lụi tàn theo năm tháng cho đến khi tất cả chỉ còn là sự vô cảm chai sạn. Đọc xong Birdless summer, tôi cảm thấy trong mình là sự choáng ngợp trước dòng chảy lịch sử vĩ đại mà nó truyền tải nhưng đâu đó còn là sự xót xa cho những số phận cụ thể mà tác phẩm nhắc đến. Và tôi đã hiểu tại sao Nguyễn Hiến Lê lại so sánh Han Suyin với Pearl Buck ngay từ những trang sách đầu tiên. Tìm mua: Một Mùa Hè Vắng Bóng Chim TiKi Lazada Shopee *** Mùa hè vắng bóng chim 1, cuốn tiểu thuyết tự truyện của Han Suyin (Hàn Tú Anh), thuật truyện riêng đời tác giả, một thiếu nữ Trung Quốc lai Bỉ (cha gốc Hán, mẹ người Bỉ), nhiệt tình yêu đất nước Trung Hoa, và tình nguyện trở về cứu nước, khi thấy đất nước trước hoạ xăm lăng của Nhật Bản. Han Suyin, xuống Tàu Laborde, nhổ neo ở Marseille (Pháp) và đi Hương Cảng. Bà gặp bạn cũ là Tang Pao Huang 2, hồi nhỏ học ở Bắc Kinh, tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, vì lí tưởng, họ yêu nhau và cưới nhau trên đường về nước 3. Nhưng ngay sau ngày cưới, Han Suyin đã thấy ngay những dự định của mình thành ảo tưởng. "Mùa hè vắng bóng chim" bắt đầu từ đấy… Cuốn tự truyện thuật lại hết sức sinh động, bi kịch từ hai phía: lí tưởng phục vụ tổ quốc và tình yêu… Chỉ khi về đến Tổ quốc, chỉ khi chung sống với Pao, một sĩ quan trẻ của quân đội Tưởng Giới Thạch, Han Suyin mới thật sự vỡ mộng. Tổ quốc Trung Hoa mà bà yêu tha thiết, trong tay chính quyền Tưởng Giới Thạch, đã thực sự suy yếu. Tập đoàn cai trị, từ Tưởng Giới Thạch, Hà Ứng Khâm, Hồ Tôn Nam, Tai Lee 4, dưới mắt tác giả, đều là những chính khách bất tài, dùng những thủ đoạn chính trị để bốc lột đàn áp dân chúng, đàn áp phong trào kháng chiến, bòn rút tiền viện trợ của ngoại quốc, để làm giàu cho bản thân họ. Còn Tang Pao Huang chồng Han Suyin, bề ngoài tưởng là một thanh niên yêu nước thật sự, nhưng thực ra hệ tư tưởng của anh cũng không thoát khỏi ý thức của lớp trí thức trẻ, con các gia đình phong kiến rất hám danh lợi, ích kỉ. Dù là hạng tân học, song đầu óc Pao đặc sệt tư tưởng cổ hủ của phong kiến xưa. Dù yêu vợ, song Pao không hề mong vợ có chí tiến thủ, chỉ muốn vợ biến thành một người lệ thuộc, phục vụ riêng cho mình… Han Suyin là một phụ nữ tiến bộ, lại ở nước ngoài từ bé 5, sẵn có tư tưởng dân chủ trong mình, hoàn toàn chống lại… Và Pao đã hành hạ Han Suyin rất thậm tệ, đánh đập không tiếc tay, ở trong nhà và ngay ở công viên… Nhờ vào chức vụ của Pao, thói hãnh tiến của anh ta mà Han đã tiếp xúc với được nhiều hạng người trong giới thượng lưu, do đó bà đã rõ bộ mặt thối nát của tập đoàn Tưởng Giới Thạch, và thất vọng về tương lai của Tổ quốc. Cuốn tự truyện đã vượt ra khỏi đời riêng của một phụ nữ Trung Hoa, vẽ ra một bức tranh toàn cảnh, rất sinh động về tình hình đất nước của bà từ ngày Nhật xâm lăng, chiếm Mãn Châu, cho đến lúc Thế Chiến thứ hai kết thúc 6. Bằng bút pháp linh động, tinh tế, mổ xẻ những hiện tượng tâm lí xã hội của tấm bi kịch riêng của vợ chồng bà, cũng như tấn bi kịch lớn của đất nước Trung Hoa. "Mùa hè vắng bóng chim" là một cuốn tiểu thuyết có giá trị về nhiều phương diện.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Mùa Hè Vắng Bóng Chim PDF của tác giả Han Suyin nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Không Quê Hương (Kurt Vonnegut)
Người không quê hương là tuyển tập các tiểu luận và bài phát biểu của Vonnegut với những trang minh họa của chính tác giả, được dày công thực hiện trong suốt năm năm. Đứng trên lập trường của một nhà nhân văn và tư tưởng gia tự do, ông đã công khai thể hiện quan điểm sắc bén về nước Mỹ trên nhiều lĩnh vực, chính trị, nghệ thuật, tình dục…Xuyên suốt cuốn sách mỏng là một Vonnegut trào phúng mà sâu sắc, một người tự nhận mình là “người không quê hương” nhưng lại không hề bàng quan trước thực tại đất nước. Kurt Vonnegut (1922-2007), là một trong những nhà văn Mỹ xuất sắc nhất thế kỷ XX. Vai trò của ông được đánh giá cao đến nỗi nếu thiếu ông, thuật ngữ văn học Mỹ sẽ chẳng còn trọn vẹn. Ông sinh tại Indianapolis, tiểu bang Indiana, theo học chuyên ngành Hóa-Sinh, Đại học Cornell từ năm 1940-1942, sau đó đăng lính phục vụ trong Thế Chiến II. Xuất ngũ trở về, Vonnegut theo học Đại học Chicago và bắt tay vào sự nghiệp cầm bút. Tiểu thuyết đầu tay của ông, Player Piano, xuất bản năm 1952. Các tác phẩm tiêu biểu khác bao gồm Slaughterhouse-Five, Cat’s Cradle, Jailbird, Deadeye Dick…Vonnegut nổi tiếng vì văn phong đặc biệt với những câu văn dài và rất ít dấu câu, thẫm đẫm tinh thần hài hước. Người không quê hương (2005) là tác phẩm cuối cùng trong văn nghiệp của ông. *** Kurt Vonnegut (1922-2007), là một trong những nhà văn Mỹ xuất sắc nhất thế kỷ XX. Vai trò của ông được đánh giá cao đến nỗi nếu thiếu ông, thuật ngữ văn học Mỹ sẽ chẳng còn trọn vẹn. Ông sinh tại Indianapolis, tiểu bang Indiana, trong một gia đình người Mỹ gốc Đức, và sớm phải đối mặt với sóng gió cuộc đời. Cuộc Đại Khủng Hoảng 1930 đã khiến gia đình ông khánh kiệt, cha ông suy sụp, mẹ mất vì dùng thuốc ngủ quá liều. Chủ đề “Giấc mơ Mỹ - đạt được và đánh mất” xuất hiện khá nhiều trong những tác phẩm của ông sau này.Vonnegut theo học chuyên nghành Hóa-Sinh, Đại học Cornell từ năm 1940-1942, sau đó đăng lính phục vụ trong Thế Chiến II. Ông từng tham gia trận Bulge lịch sử và bị bắt làm tù binh tại Dresden, Đức. Trải nghiệm khốc liệt đó được tái hiện trong cuốn sách nổi tiếng nhất của ông, Slaughterhouse-Five (1969). Tìm mua: Người Không Quê Hương TiKi Lazada Shopee Xuất ngũ trở về, ông theo học ngành Nhân chủng học, Đại học Chicago, sau đó chuyển đến làm việc tại công ty General Electric, Schenectady. Trong thời gian này, ông bắt đầu viết báo và truyện ngắn. Năm 1951, ông từ chức và dành toàn bộ tâm sức vào văn nghiệp. *** Khi còn bé tôi là thành viên nhỏ tuổi nhất trong gia đình, và đứa trẻ nhỏ tuổi nhất trong bất kỳ gia đình nào cũng luôn thích đùa, vì nói đùa là cách duy nhất để nó có thể tham gia câu chuyện của người lớn. Chị tôi lớn hơn tôi năm tuổi, anh tôi hơn tôi chín tuổi, và cả bố lẫn mẹ tôi đều là những người hoạt ngôn. Vì thế hồi tôi còn nhỏ xíu, mỗi khi ăn tối với cả nhà, tôi luôn khiến mọi người chán chết. Họ không muốn nghe mấy chuyện trẻ con ngốc nghếch đã xảy ra trong ngày với tôi. Họ muốn nói về những thứ thực sự quan trọng xảy ra ở trường phổ thông không thì cũng ở trường đại học hay chốn công sở. Vì vậy cách duy nhất để tôi có thể tham gia một câu chuyện là nói cái gì đó vui vui. Tôi nghĩ mới đầu chắc chỉ do tôi tình cờ thôi, tình cờ chơi chữ trong lời nói khiến cuộc đàm thoại phải ngừng lại, đại loại vậy. Và sau đó tôi nhận ra rằng bông đùa là một cách để xen vào cuộc trò chuyện của người lớn.Tôi lớn lên trong thời kỳ mà hài kịch ở đất nuớc này rất huy hoàng - thời kỳ Đại Suy Thoái. Có rất nhiều diễn viên hài kỳ cựu hàng đầu trên sóng phát thanh. Và dù không chủ định, tôi đã thực sự học hỏi họ. Tôi thường nghe hài kịch ít nhất một tiếng đồng hồ mỗi đêm suốt cả thời trai trẻ và rất quan tâm muốn biết thế nào là chuyện đùa, làm cách nào nó lại gây cười.Khi nói đùa, tôi cố gắng không xúc phạm đến ai. Tôi nghĩ phần lớn những gì mình làm chưa gây phản cảm cho người nào. Tôi nghĩ mình chưa làm nhiều người phải ngượng ngùng hay căng thẳng. Cách nói chuyện gây sốc duy nhất mà tôi sử dụng là thỉnh thoảng dùng một từ dung tục. Có vài thứ chẳng thể gây cười. Chẳng hạn, tôi không thể tưởng tượng ra nổi một cuốn sách hay một vở kịch trào phúng nào nói về trại tập trung Auschwitz. Tôi cũng chẳng thể nào đùa giỡn về cái chết của John F. Kennedy hay Martin Luther King. Ngoài những thứ đó ra, chưa có đề tài nào mà tôi lại tránh né hay không thể tận dụng. Những thảm họa lớn cũng hài hước chết đi được, như Voltaire đã từng chứng minh. Các bạn biết đó, vụ động đất ở Lisbon thật buồn cười[1].Tôi đã chứng kiến Dresden bị tàn phá. Tôi đã thấy cái thành phố đó trước khi trốn vào hầm tránh bom và thấy lại nó sau khi ra khỏi hầm, và dĩ nhiên tiếng cười là một phản ứng. Có Chúa chứng giám, ấy là linh hồn tìm kiếm chút khuây khỏa.Bất cứ đề tài nào cũng có thể gây cười, và tôi cho rằng có một loại tiếng cười rất kinh hãi - tiếng cười của những nạn nhân ở trại Auschwitz.Tiếng cười là một phản ứng gần như bản năng của cơ thể trước nỗi sợ hãi. Freud[2] nói tiếng cười là một trong những phản ứng trước sự thất vọng. Ông nói một con chó khi không thể ra khỏi cổng sẽ cào cửa và bắt đầu đào bới rồi có những động tác vô nghĩa, có lẽ là gầm gừ hay làm gì đó, để đối phó với sự thất vọng hay ngạc nhiên hay sợ hãi.Và rất nhiều tiếng cười phát sinh từ nỗi sợ. Mấy năm trước tôi tham gia thực hiện một chương trình truyền hình hài dài tập. Chúng tôi cố gắng cùng tạo nên một chương trình theo nguyên tắc cơ bản: luôn đề cập tới cái chết trong mỗi tập. Yếu tố này làm cho tiếng cười trở nên sâu sắc hơn mà khán giả không nhận ra được cách thức chúng tôi tạo ra những tiếng cười thắt ruột.Có một loại tiếng cười hời hợt. Bob Hope chẳng hạn, ông không hẳn là nhà hài hước. Ông là diễn viên hài với thiên tư rất mỏng, chưa bao giờ đề cập đến bất cứ vấn đề gì nhức nhối. Trước đây tôi thường cười ngặt nghẽo khi xem Laurel và Hardy[3] diễn xuất. Có một sự bi ai thê lương phảng phất đâu đó trong cách diễn của họ. Những con người ấy quá hiền lành để có thể tồn tại trong thế giới này và luôn đứng trước nguy cơ rất lớn. Họ có thể dễ dàng bị thủ tiêu. *** Ngay cả những chuyện đùa đơn giản nhất cũng dựa trên những cái giật mình sợ hãi khe khẽ, chẳng hạn như câu hỏi, “Cái thứ màu trăng trắng trong phân chim là gì?” Người nghe, như thể bị gọi trả bài trong trường, ngập ngừng trong giây lát vì sợ sẽ nói ra điều gì đó ngu ngốc. Khi nghe được câu trả lời, “Cũng là phân chim thôi!”, họ xua tan nỗi sợ bản năng bằng tiếng cười. Dù sao thì họ cũng chưa từng bị làm vật thí nghiệm bao giờ mà.“Tại sao lính cứu hỏa lại mặc dây đeo quần màu đỏ?” Và “Tại sao người ta lại chôn George Washington trên sườn đồi?” Vân vân và vân vân.Lẽ đương nhiên, còn có những chuyện đùa không cười nổi, cái mà Freud gọi là “hài hước giá treo cổ”[4]. Có những tình huống thật ngoài đời vô vọng đến nỗi không bao giờ người ta có thể thấy khuây khỏa.Khi chúng tôi bị dội bom ở Dresden, ngồi trong hầm trú, hai tay ôm đầu đề phòng trần hầm sụp xuống, chúng tôi nghe một anh chiến sĩ nói như thể mình là nữ công tước trong lâu đài vào một đêm mưa lạnh lẽo, “Ta tự hỏi những người dân nghèo đang làm gì tối nay.” Chẳng ai cười, nhưng chúng tôi ai cũng vẫn mừng là anh đã nói câu ấy. Ít ra thì chúng tôi vẫn còn sống! Anh đã chứng minh được điều đó.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Không Quê Hương PDF của tác giả Kurt Vonnegut nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Namaskar! Xin Chào Ấn Độ (Hồ Anh Thái)
Namaskar! Xin chào Ấn Độ của Hồ Anh Thái được xuất bản lần đầu vào năm 2008, nay được NXB Trẻ tái bản lại cùng lúc với cuốn Salam! Chào Ba Tư - một sáng tác mới của tác giả, làm thành một bộ 2 cuốn về hai nền văn hóa lâu đời của thế giới.Namaska! Xin chào Ấn Độ phác họa đất nước Ấn Độ khái quát từ chiều dài lịch sử đến bề rộng, chiều sâu về văn hóa, tôn giáo,… được trình bày theo lối nghĩ khoa học, sắc bén của một nhà ngoại giao, tiến sĩ văn hóa Phương Đông qua lối viết mềm mại của nhà văn Hồ Anh Thái. Được đánh giá là một cuốn sách độc đáo có ích dành cho những ai lần đầu tiên đến Ấn Độ, hoặc muốn khám phá đất nước - văn hóa - con người Ấn Độ, vì đọc Namaska! Xin chào Ấn Độ có thể tìm thấy ngay những điều cần quan tâm: Lịch sử hay Kinh sách; Tôn giáo hay Văn hóa hay Văn chương… Những khái niệm về Ấn Độ đã được tóm lược một cách súc tích, ngắn gọn nhưng sáng rõ ở mức dễ tiếp nhận nhất, được trình bày theo quan niệm của đạo Hindu: Tư tưởng, sản phẩm văn hóa, biểu tượng ký hiệu, phong tục tập quán… Cuốn sách hấp dẫn hơn một cuốn nhập môn là bởi giọng văn Hồ Anh Thái. Anh sử dụng nhiều thể loại cho từng phần: du ký dành cho các miền văn hóa, tản văn khi viết về tính cách Ấn, khảo cứu, tiểu luận khi đề cập tôn giáo,lịch sử, phong tục tập quán. Sách còn đẹp vì còn có nhiều minh họa - là những bức tranh thần thánh Hindu theo phong cách tranh thờ dân gian hoặc tranh tượng hiện đại, và hình các biểu trưng. *** Vốn có một sự đam mê cuồng nhiệt với Ấn Độ nên chỉ cần có quyển sách nào viết về Ấn là tôi sẽ lôi về đọc thử, có lẽ đó cũng như là một sự thương nhớ Ấn, đọc để soi mình trong đó, để tìm thấy những điểm chung rồi “à, mình biết” hoặc để tìm thấy những điều mình không biết rồi bứt rứt và lên kế hoạch cho những lần đến Ấn Độ sau đó. Tìm mua: Namaskar! Xin Chào Ấn Độ TiKi Lazada Shopee “Namaskar!” cũng vậy. Hồ Anh Thái là một cái tên lạ lẫm nhưng đọc phần tiểu sử thấy ông đã từng có những năm tháng sống và làm việc ở Ấn Độ nên cũng háo hức mượn Yến về đọc thử. Cảm nhận đầu tiên à, sách dày, giấy nhẹ được bọc rất cẩn thận, khổ cầm vừa tay, các phần tiêu đề khá promising và tràn cảm xúc cũng như suy nghĩ của người Viết. Khởi đầu cũng không tệ. Đọc thử xem sao. Đọc hết quyển rồi đóng sách lại, ấn tượng duy nhất của mình về quyển sách là một mớ kiến thức chen lẫn với những cảm xúc của người viết, một cách lộn xộn. Để rồi đọc xong vẫn không hình dung được Ấn Độ, vẫn thấy những mơ hồ chen lấn, tựa như dòng suy nghĩ của người viết cũng lộn xộn. Theo từ điển định nghĩa “khảo luận” là dạng “nghiên cứu và bàn luận sâu một vấn đề gì, thường là dưới dạng luận, dạng một cuốn sách” Vây mà những kiến thức được trình bài trong này lại không sâu, đọc và có cảm giác như mình đang đọc một mớ kiến thức wiki được tổng hợp lại, những thứ kiến thức bề mặt, chỉ search internet là ra. Những kiến thức không có sự đối chiếu từ nhiều nguồn cũng như sự reflect thông qua những trải nghiệm của bản thân người viết (với dân bản xứ chẳng hạn) để có cái nhìn từ nhiều khía cạnh của vấn đề. Cũng phải thôi, cả một nền văn hóa mà gọi gọn trong mấy trăm trang sách là điều không thể thế nhưng quả thật cách viết một vấn đề theo những thông tin quá bề mặt như vậy thực sự làm mình thấy khó chịu. Là một người đã từng ở Ấn, đã từng đến thăm hàng loạt đền thờ, nhảy múa trong lễ hội với dân địa phương nên những điều tác giả viết về các vị thần ở Ấn thật sự khiến mình thất vọng khi nó cứ đều đều và thậm chí còn chẳng giống những câu chuyện dân gian mà mình từng được nghe các bạn Ấn kể. Thấy đất nước Ấn Độ của Hồ Anh Thái hiện ra xa lạ. Một phần mình thấy không ổn trong cuốn sách đó là sự ưu ái mà tác giả dành cho ngôi chùa Việt Nam cùng sư chủ trì của ngôi chùa ở đất Phật Ấn Độ. Nếu như trong những phần trước, Hồ Anh Thái chỉ đóng vai trò là người gom nhặt, liệt kê các thông tin thì trong những câu chuyện về ngôi chùa, Hồ Anh Thái đã đóng vai trò như một nhân vật của câu chuyện, và cuốn khảo luận trở nên giống một cuốn du ký hơn khi Hồ Anh Thái kể lại những câu chuyện của mình, những mẩu đối thoại, suy nghĩ mang tính cảm xúc hơn là suy luận, phân tích. Nhưng một lần nữa, mình không thấy Ấn Độ của mình trong những câu chuyện này, câu chuyện vậy là cứ trôi tuột. Hơn nữa, mình đọc vì Ấn Độ, để xem con người Ấn Độ, văn hóa Ấn Độ được thể hiện trong từng bữa ăn, nhịp thở, từng cử chỉ hàng ngày. Hoàn toàn không phải để đọc về văn hóa Phât giáo Việt đã được mang vào Ấn như thế nào và phát triển ra sao. Hồ Anh Thái chỉ là không cho người đọc cái quyền lựa chọn ấy. Cứ thê, câu chuyện về ngôi chùa và vị sư chủ trì kéo dài, kéo dài. Cuối cùng là nói về kết cấu cuốn sách. Mỗi phần của cuốn sách được phân ra theo tiêu đề của các chủ đề sẽ được nói đến trong cuốn sách. Chủ đề hay nhưng sắp xếp loạn, không theo một logic nào hết khiến người đọc không tạo được dòng suy nghĩ, không xâu chuỗi được sự việc. Cuốn sách cứ dài thượt mà sau này tìm lai mục phần có thông tin quan trọng chắc là điều bất khả thi lắm. Mình suggest cuốn sách này cho ai nhỉ? Cho những bạn mới biết ít về Ấn Độ hoặc đang thu thập thông tin chuẩn bị cho cuộc dạo chơi ở vùng đất này nhé. Còn với những bạn yêu Ấn, hiểu Ấn, đã từng ở Ấn thì có lẽ cuốn sách là một sự thừa thãi mà bạn chưa chắc đã nhất tiết phải đọc. Cứ giữ Ấn Độ của bạn trong tim thôi/Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Namaskar! Xin Chào Ấn Độ PDF của tác giả Hồ Anh Thái nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Viết Về Bạn (Bùi Ngọc Tấn)
Viết về bè bạn là tập hợp hai cuốn hồi ký Rừng xưa xanh lá và Một thời đã mất của nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Mỗi câu chuyện trong Viết về bè bạn là một mảnh ghép tạo nên bức tranh chân thực đến từng millimet của đời sống nghệ thuật một thời đã mất, thời bao cấp, thời goulag đã qua. Đọc Viết về bè bạn, ta biết thêm một Dương Tường bán máu đằng sau một Dương Tường dịch giả, những câu chuyện đằng sau dịch phẩm Tể tướng lưu gù, những bài thơ Cầu xi măng, Chợ Cầu Rào, Nói chuyện với mèo, Kiếp sau, chuyện của “người sống và chết vì nghệ thuật như người tử vì đạo” Lê Đại Thanh, chuyện của “người điên” Nguyên Bình, hay phiêu lưu cùng màu trắng với Nguyễn Thanh Bình, và chuyện của “nhà văn của những người dưới đáy” - Nguyên Hồng. Với hơn 600 trang sách, Bùi Ngọc Tấn đã đạo diễn một bộ phim tư liệu về những mặt ít được nói tới của văn chương nghệ thuật, về cả những con người thành danh lẫn những tiếng nói bị vùi dập. Ông viết về những khó khăn gian khổ, những long đong lận đận; ông viết về, và viết cho những con người viết để sống, sống để mà viết. Văn phong giản dị, chân thực, cách kể cuốn hút, chắt lọc, giàu tính triết luận mà cực kỳ hài hước, Viết về bè bạn là cuốn nghệ thuật sử có giá trị; một cuốn sách giúp ta hiểu hơn về quá khứ và cũng để lạc quan hơn về tương lai, để vui sống, sống chứ không phải tồn tại, để tin tưởng “thế hệ sau sẽ làm được những điều chúng ta ao ước.” ***Trước hết có thể gọi đây là một thiên sử ký về một tình yêu, tình yêu Hải Phòng - Bùi Ngọc Tấn viết trong một cái nhìn hồi cố nhưng thấu suốt đến hiện tại: “Tôi lãng mạn có cánh. Tôi không hiện thực nghiêm khắc. Càng không hiện thực trần truồng. Và tôi càng yêu thành phố Hải Phòng… cho dù đời tôi có nổi chìm thế nào chăng nữa”(tr.286). Ông viết ở đây những chân dung nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà nhiếp ảnh dù có sinh ra ở Hải Phòng hay không nhưng đã gắn một phần đời mình với Thành phố Cảng, với tình bạn của ông và đặc biệt đó “hầu hết là những người chịu nhiều vất vả, kể cả đắng cay, những người lận đận, không thành đạt… những người luôn vượt lên, không đầu hàng số phận” (tr.6) mà ông gọi là “những ngôi sao mờ mịt vần vụ bão giông”, phần nào bởi thế mà hầu hết họ đã có thể chia sẻ với thân phận của “những người mang nghiệp chướng trong mình” mà chính ông trải nghiệm. Tìm mua: Viết Về Bạn TiKi Lazada Shopee Tuy nhiên đây không chỉ đơn thuần một tập hồi ký nhớ-và-kể. Bùi Ngọc Tấn với văn chương của ông là một tài năng hiếm hoi có thể dùng sức mạnh của hư cấu để kể những chuyện trung thực, tức dựng lại được cái cốt truyện ẩn sâu bên trong mỗi cuộc đời nhìn bề ngoài có vẻ như toàn những ngẫu nhiên sống động khôn lường… Những chân dung văn nghệ sĩ trong tập sách này đều khiến nghĩ đến các ký họa chân dung tài hoa mạnh mẽ lột tả thần thái những nhân cách văn học một thời. Bùi Ngọc Tấn không đặt ngọn đèn của tình cảm vào chỗ khuất bóng. Hai tiếng “bạn bè” trong ngôn ngữ của ông thấm thía tình cảm trong sáng, trìu mến, lấp lánh một ánh mắt mẫn tiệp và ân cần, khiến dòng tự sự của ông luôn dồi dào cảm xúc. Nhưng nhãn quan hiện thực chủ nghĩa - theo đúng hàm nghĩa cổ điển của thuật ngữ này - dẫn dắt văn chương của ông một cách nhất quán. Và điều đó là căn cốt trong phong cách truyện kể của ông: sự lựa chọn những chi tiết, những giai thoại để kể và mô tả, việc đặt những tình tiết và giai thoại như thế vào đúng chỗ cần thiết trong tổng thể ký ức chính mình một cách hài hòa sống động, cách kể khách quan hóa vai trò chứng nhân của mình trong toàn bộ bối cảnh được tái tạo như là chấm phá nhưng luôn luôn gây được ấn tượng thời-gian-thực và tình-thế-sống. Tính chất khiêm nhường không thể nhầm lẫn trong giọng điệu ấy chẳng bao giờ làm phương hại đến khát khao kể những gì cần phải kể. Tất cả những điều ấy khiến cho rất nhiều khúc truyện ở đây gây ấn tượng như những đoạn phim tài liệu xã hội-kinh tế đầy sức biểu hiện. Và đọc những chân dung này có thể thấy sâu bên trong chúng cái cốt cách những thiên “Bản kỷ”, “Thế gia” kinh điển phương đông. Mà phẩm chất văn chương vượt trội của chúng - cái vẻ đẹp giản dị tuyệt vời của thứ ngôn ngữ vừa chính xác vừa thấm nhuần tình cảm, vừa thâm viễn vừa hàm súc - khiến nghĩ đến một thiên sử ký của thời đại. Nguyễn Chí Hoan ReviewĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Viết Về Bạn PDF của tác giả Bùi Ngọc Tấn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.