Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Thú Nhận Của Tay Lừa Đảo Felix Krull

Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Thomas Mann, nhà văn Đức đoạt giải Nobel năm 1929. Dù chưa hoàn thành, Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là bức tranh chi tiết về châu Âu cuối thế kỷ 19, một câu chuyện hài hước với văn phong mượt mà uyển chuyển, mang nhiều suy tư triết lý đậm chất Thomas Mann. *** Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Thomas Mann, nhà văn Đức đoạt giải Nobel năm 1929.  Câu chuyện dẫn dắt người đọc đi cùng Felix Krull, một cậu bé sinh ra trong một gia đình trung lưu sung túc miền Rhine nước Đức. Sau khi người cha tán gia bại sản và tự sát, cậu sống trong cảnh nghèo khó với mẹ, những vẫn luôn nuôi mộng về một cuộc sống xa hoa. Felix đã lừa các bác sĩ quân y để trốn đi nghĩa vụ quân sự. Rồi, với công việc chạy buồng thang máy và bồi bàn ở một khách sạn sang trọng ở Paris, nhờ vẻ bề ngoài đẹp như nam thần Hy Lạp, cậu kiếm được bộn tiền từ những quý bà khát tình. Sau đó, Felix có bước ngoặc cuộc đời, cú lừa đảo lớn nhất, khi cậu giả danh một hầu tước trẻ Luxembourg làm chuyến du lịch vòng quanh thế giới, trong khi vị hầu tước ở lại Paris với người tình. Felix tới Lisbon trong lộ trình đi tới Nam Mỹ, và ở đây, cậu có những khám phá kiến thức và lạc thú xa hoa. Nhân vật Felix Krull được giới thiệu lần đầu trong một truyện ngắn của Thomas Mann năm 1901 nhưng mãi đến năm 1936 mới được xuất bản trong tập "Truyện ba thập kỷ", tập hợp các truyện ông viết từ năm 1896 đến 1929. Sau này Thomas Mann viết tiếp và mở rộng câu chuyện, nhưng ông mất năm 1955 khi bản thảo còn dang dở. Dù chưa hoàn thành, Lời thú nhận của tay lừa đảo Felix Krull là bức tranh chi tiết về châu Âu cuối thế kỷ 19, một câu chuyện hài hước với văn phong mượt mà uyển chuyển, mang nhiều suy tư triết lý đậm chất Thomas Mann. *** Khi đặt bút viết những dòng này trong cảnh ẩn dật an nhàn - trí óc vẫn hoàn toàn minh mẫn, mặc dù thể chất mệt mỏi, rất mệt mỏi (vậy nên tôi chắc chỉ có thể tiến hành việc viết lách theo từng chặng nhỏ, xen lẫn nhiều khoảng nghỉ ngơi), tóm lại, khi quyết định trao gửi lời thú nhận này vào trang giấy nhẫn nại, bằng nét chữ viết tay gọn gàng đẹp mắt của chính mình, trong lòng tôi đã gợn lên một thoáng lo ngại, sợ mình không đủ kiến thức hàn lâm để đương đầu với thử thách trí tuệ này. Song, bởi tất cả những điều tôi muốn kể đều tập hợp từ kinh nghiệm sống của bản thân tôi, từ những sai lầm cũng như đam mê tôi đã trực tiếp trải qua, nên tôi có thể đoan chắc rằng mình nắm vững cốt truyện một cách tuyệt đối, và như thế nỗi lo của tôi chỉ tập trung vào chỗ chọn lựa hình thức diễn đạt để có được sự tế nhị và lịch lãm cần thiết, mà về mặt này thâm tâm tôi vẫn tin rằng học hành bằng cấp đầy mình cũng không bằng năng khiếu tự nhiên và được giáo dục tốt trong gia đình. Khoản ấy thì tôi không thiếu, bởi tôi xuất thân từ một gia đình khá giả với nếp sống phong lưu, mặc dù có hơi phóng túng. Chị Olympia của tôi và tôi trong nhiều tháng trời đã được hưởng sự kèm cặp của một cô gia sư người Vevey*, cô này tuy nhiên về sau phải cuốn gói vì một sự cạnh tranh mang đặc thù nữ giới với mẹ tôi - mà đối tượng là cha tôi. Thêm vào đó, cha đỡ đầu của tôi, ông Schimmelpreester, một người rất thân thiết, gần gũi đối với tôi, là một nghệ sĩ được đánh giá cao trên nhiều phương diện, tất cả cư dân của cái thị trấn tỉnh lẻ quê hương tôi đều gọi ông là “giáo sư”, mặc dù có lẽ chưa bao giờ ông được chính thức trao tặng cái danh hiệu cao quý rất được ham chuộng ấy. Còn cha tôi, mặc dù thân thể to béo kềnh càng nhưng bù lại ông có nhiều nét duyên dáng và đặc biệt là rất sính nói chữ. Cha tôi được thừa hưởng dòng máu Pháp của một người bà, bản thân ông đã sống ở Pháp trong thời gian học nghề, từ đó ông luôn quả quyết rằng mình rành Paris như lòng bàn tay. Trong lúc trò chuyện, ông rất thích xen vào những từ như c‘est ça, épatant hay parfaitement* - mà với một lối phát âm cực chuẩn - hoặc giả ông thường hay nói: “Về phần moi... ”* Đến tận cuối đời ông vẫn được hưởng rất nhiều ưu ái của phái nữ. Nhưng tôi nói trước ra ngoài lề mất rồi. Trở lại năng khiếu trời cho của tôi trong cách diễn đạt, tài ăn nói là cái xưa nay tôi vẫn vận dụng không chút khó khăn, điều này đã được chứng tỏ trong suốt cuộc đời ba chìm bảy nổi của tôi, và tôi tin rằng mình có thể phát huy năng khiếu ấy cả trong việc viết lách. Hơn nữa tôi cũng đã quyết tâm khi chấp bút sẽ tôn trọng sự thật một cách tuyệt đối, dẫu có vì thế mà bị mang tiếng là huênh hoang hay tự đắc. Lời thú tội còn có ý nghĩa và giá trị đạo đức gì nữa, nếu được viết ra một cách không chân thực! Thành phố Thụy Sĩ thuộc vùng Pháp thoại, hồi thế kỷ XIX nổi tiếng là nơi cung cấp các cô bảo mẫu và gia sư cho toàn châu Âu. (Các chú thích đều là của người dịch, tham khảo thêm lời bình của Thomas Sprecher và Monica Bussmann in trong tập 12.2 bộ Thomas Mann, Khảo luận ấn bản Frankfurt bao gồm tác phẩm - thư từ - nhật ký do S. Fischer Verlag GmbH xuất bản năm 2012.) Vậy đó, tuyệt vời hay hoàn hảo (tiếng Pháp). “Về phần tôi...” (dịch lấy ý). Tôi là một đứa con của Rheingau*, dải đất được thiên nhiên ưu đãi khí hậu ôn hòa và đất đai trù phú, thành phố làng mạc đông đúc, dân cư vui nhộn, một trong những vùng tươi đẹp nhất trên quả địa cầu. Nơi đây được dãy núi Rheingau che chắn gió bấc và được mặt trời hào phóng ban nắng ấm, nhờ thế các đô thị mọc lên như nấm với những địa danh nổi tiếng chỉ cần nghe tên các tay đệ tử Lưu Linh đã mở cờ trong bụng, nào Rauenthal, nào Johannisberg, nào Rüdesheim, và cả cái thị trấn nhỏ bé cổ kính nơi tôi mở mắt chào đời vài năm sau ngày thành lập Đế chế Đức vinh quang*. Thị trấn quê hương tôi nằm hơi xế về phía Tây khúc gấp nơi con sông Rhein lượn quanh thành phố Mainz, là bến chính của các chuyến tàu thủy xuôi ngược dọc dòng sông, dân số chỉ khoảng bốn ngàn nhưng nổi tiếng nhờ các hãng rượu vang đóng đô ở đó. Kế bên chúng tôi là thành phố Mainz phồn hoa và các khu suối nước nóng dưỡng bệnh lừng danh của vùng Taunus như: Wiesbaden, Homburg, Langenschwalbach và Schlangenbad, địa điểm sau cùng này đi từ chỗ chúng tôi chỉ mất độ nửa giờ đồng hồ ngồi xe lửa đường ray hẹp lên núi. Vào mùa đẹp trời, gia đình chúng tôi gồm cha mẹ tôi, chị Olympia và tôi đã bao lần du ngoạn khắp bốn phương bằng tàu thủy, xe ngựa hay xe lửa, vì xung quanh đâu đâu cũng có những danh lam thắng cảnh được tạo dựng bởi thiên nhiên và bàn tay con người. Tôi vẫn như thấy trước mắt hình ảnh cha tôi mặc bộ đồ vét mùa hè rộng rãi bằng vải kẻ ca-rô, ngồi cùng chúng tôi ở một tiệm ăn ngoài trời nào đó - cái bụng bự không cho phép ông ngồi sát vào bàn - và với sự khoan khoái vô cùng tận, ung dung thưởng thức món cua bể với chất nước vàng óng của cây nho. Cha đỡ đầu của tôi, ông Schimmelpreester cũng thường hay có mặt trong những chuyến dã ngoại của gia đình, ông ngồi lặng lẽ chĩa cái nhìn soi mói qua cặp kính gọng nhựa trong mắt tròn to tướng, quan sát phong cảnh và người qua kẻ lại, hấp thụ tất cả mọi ấn tượng lớn nhỏ vào tầm hồn nghệ sĩ của mình. Vùng trồng nho làm rượu nổi tiếng của Đức nằm ở hữu ngạn sông Rhein. Đế chế Đức được thành lập năm 1871. Người cha tội nghiệp của tôi sinh thời là chủ hãng Engelbert Krull, cơ sở sản xuất loại rượu vang “Loreley extra cuvée”*, một nhãn hiệu nay đã biến mất tăm khỏi thị trường. Hãng chúng tôi có các hầm rượu nằm dọc bờ sông Rhein, không xa bến tàu thủy là mấy, và khi còn là một cậu bé, tôi đã không ít lần lẻn xuống dưới các mái vòm mát rượi, rón rén dạo bước trong các hành lang lót đá chạy ngang dọc giữa những hàng giá cao ngất, ngắm nhìn không biết chán đội quân bằng chai xếp nghiêng tầng tầng lớp lớp trên giá, lòng miên man suy nghĩ. Các ngươi nằm đây, tôi nghĩ thầm trong bụng (tất nhiên khi ấy tôi chưa biết diễn tả ý nghĩ của mình bằng những từ ngữ chính xác như thế này), các ngươi nằm đây trong bóng tối nhá nhem dưới lòng đất, và trong bụng các ngươi diễn ra quá trình lên men thầm lặng của thứ chất lỏng màu vàng sủi bọt kia, thứ chất lỏng thần thánh làm những trái tim rộn ràng tăng nhịp đập, làm những cặp mắt rực sáng long lanh! Giờ đây các ngươi còn trần trụi xấu xí, nhưng sẽ đến một ngày các ngươi trang điểm lộng lẫy ngoi lên thế giới bên trên, xuất hiện trong hội hè, đám cưới, lễ lạt, tự hào bật nút văng lên trần nhà với tiếng nổ giòn tan, đem đến cơn say, sự bốc đồng và hứng thú cho con người. Cậu bé con hồi đó đã có những ý nghĩ đại loại như thế, và trong đó chí ít cũng có một điều đúng, đó là hãng Engelbert Krull rất chú trọng việc trang hoàng hình thức bề ngoài của các chai rượu, công đoạn hoàn thiện sau cùng mà từ chuyên môn gọi là coiffure. Chiếc nút bấc được ép chặt vào miệng chai, chụp lên trên một lưới thép nhỏ mạ bạc và chằng buộc bằng một sợi dây đay mạ vàng gắn sáp niêm phong đỏ thẫm, một con dấu tròn trang trọng như dấu sắc lệnh của Giáo hoàng hay chiếu chỉ của Hoàng đế treo toòng teng bằng sợi chỉ vàng nơi cổ chai quấn giấy thiếc sáng choang, và quanh bụng chai nổi bật một nhãn hiệu cầu kỳ do cha đỡ đầu Schimmelpreester của tôi thiết kế riêng cho hãng, trên đó ngoài một mớ huy hiệu, ngôi sao, tên ba tôi và dòng chữ “Loreley extra cuvée” mạ vàng, còn có hình một người đàn bà ngoài vòng tay vòng cổ tịnh không mang thêm một thứ trang phục nào khác trên mình, ngồi vắt tréo chân trên một mỏm đá, vươn tay đưa chiếc lược chải vào mái tóc dài bồng bềnh. Cũng phải nói thêm rằng phẩm chất rượu trong chai không hoàn toàn tương xứng với cái vỏ ngoài hào nhoáng. “Này Krull”, cha đỡ đầu Schimmelpreester của tôi có lần bảo cha tôi, “ông là người đáng kính, nhưng rượu champagne của ông lẽ ra phải bị cảnh sát cấm mới đúng. Tám ngày trước tôi dại dột uống nửa chai, và cho đến tận hôm nay vẫn còn dở sống dở chết. Ông pha cái chết tiệt gì vào đấy thế? Hay ông trộn xăng dầu vào làm chất phụ gia? Tóm lại, rượu của ông đúng là thuốc độc. Ông nên dè chừng luật pháp!” Nghe vậy, người cha tội nghiệp của tôi tỏ ra rất bối rối, vì ông là người nhu mì và không quen với những lời chỉ trích nặng nề. “Ông chê thì dễ lắm, Schimmelpreester”, cha tôi chống chế, vừa nói vừa theo thói quen đưa mấy đầu ngón tay nhẹ nhàng vuốt bụng, “nhưng tôi buộc phải bán rẻ, vì thiên hạ có thành kiến với rượu nội. Tóm lại, tôi chỉ cung cấp cho công chúng cái mà họ muốn. Đã thế các hãng cạnh tranh còn ngồi trên cổ tôi đây này, ông bạn thân mến, không hạ giá thành thì cầm cự làm sao nổi.” Đó là về cha tôi. “Rượu vang thượng hạng Loreley” (tiếng Pháp). Biệt thự của chúng tôi thuộc vào hàng những dinh cơ xinh xắn nằm dựa lưng trên sườn núi thoai thoải, mặt hướng xuống thung lũng sông Rhein. Mảnh vườn dốc thoai thoải được trang điểm một cách hào phóng nào là các chú lùn, cây nấm và đủ loại thú vật bằng sành giống như thật; một quả cầu thủy tinh bóng loáng nằm chễm chệ trên một cái bệ, soi gương vào đó sẽ thấy mặt mũi méo xệch đi rất tức cười; ngoài ra còn có cả một cái chuông gió hình cầy đàn lia, nhiều hòn giả sơn với hang động và một cái giếng phun nước: từ một bức tượng rất mỹ thuật, những tia nước không ngừng được ném lên không trung, dưới bể đàn cá bạc bơi lội tung tăng. Nội thất nhà chúng tôi được trang hoàng đúng theo sở thích của ba tôi, vừa ấm cúng vừa tươi tắn. Các bao lơn kín đặt sẵn ghế như mời mọc người ta ngồi nghỉ, và trong một góc còn dựng cả một cái xa quay sợi thật. Vô số vật trang trí nhỏ: các bức tượng bằng sứ, vỏ sò, vỏ ốc, hộp gương và chai dầu thơm nằm la liệt trên giá kệ và bàn bọc nỉ; gối lông bọc lụa thêu thùa rực rỡ nhiều không đếm xuể, rải đầy trên ghế xô pha và ghế nằm, vì ba tôi thích chỗ ngả lưng phải thật êm ái; rèm cửa sổ treo trên những ngọn kích dài, cửa thông giữa các phòng che bởi những tấm mành mành kết bằng ống trúc và hạt cườm sặc sỡ, nhìn thì kín đáo, nhưng có thể bước qua mà không cần phải nhấc một ngón tay, vì nó tự rẽ ra với tiếng lách cách vui tai rồi tự khép lại. Bên trên cửa trong khoang chắn gió có gắn một thiết bị tinh xảo, mỗi khi cánh cửa từ từ sập vào nó lại tấu lên những âm thanh thánh thót mở đầu bài hát “Hãy yêu đời đi”. Mời các bạn đón đọc Lời Thú Nhận Của Tay Lừa Đảo Felix Krull của tác giả Thomas Mann & Nguyễn Hồng Vân (dịch) & Trần Đàm Thành (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Thu Của Cây Dương - Kazumi Yumoto
  AudioBook Mùa Thu của Cây Dương   Việc cầm một cuốn sách trên tay và đọc nó đem lại cho bạn nhiều thi vị hơn là đọc sách qua màn hình máy tính nhờ ebook hay các trang web đọc sách trực tuyến. Tôi còn nhớ mãi cái cảm giác của mình khi đọc “Mùa thu của cây dương” vào những ngày tết vừa rồi. Đó là một ấn tượng đặc biệt tới từ trang bìa bắt mắt hình thảm lá rơi vàng rực, từ mùi thơm nhẹ nhàng của bookmark kẹp trong trang giấy, từ cuốn sách nhỏ chỉ dày hơn 200 trang mà tôi có thể cầm trong tay hay để gọn nơi đầu giường vào mỗi đêm sau khi đọc.        Nhưng điều cuốn hút nhất của một cuốn sách bao giờ cũng đến từ chính câu chuyện và thế giới ngôn ngữ của tác giả. “Mùa thu của cây dương” với tôi cũng vậy. Truyện mở ra trước mắt tôi một thế giới đậm chất Nhật Bản với không khí u nhã đặc trưng.        Gấp sách lại, bạn sẽ nhớ khu trang viên cây dương ngập sắc vàng vào mùa lá rụng, những căn phòng đơn sơ nơi hằng ngày những con người chất phác vẫn sinh hoạt, trò chuyện và dành tặng nhau bao điều ấm áp của cuộc sống, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn. Nhân vật trung tâm của câu chuyện – cô bé Chiaki đã lớn dần lên cùng với cây dương, cái cây mỗi thu, đông sang hay mỗi lúc xuân về đều thủ thỉ cùng chuyện trò; với sự chăm sóc của mẹ và bà cụ, sự gần gũi của cô Sasaki, anh Osamu hay sự đôn hậu của bác Nishioka. Cứ thế, những con người này lặng lẽ cũng nhau chia sẻ bao nhiêu vui buồn của cuộc sống, mặc năm tháng trôi đi. Trang viên cây dương như một nơi để người ta quên đi rằng thời gian vẫn chảy ở bên ngoài.        Đọc truyện, người đọc có dịp ngẫm suy sâu hơn về sự sống và cái chết. Truyện mở đầu bằng cái chết của bố Chiaki, kết thúc bằng cái chết của bà cụ. Suốt dọc câu chuyện là nỗi hoang mang ngây thơ của cô bé Chiaki về cái chết, cô sợ cái chết sẽ giống như một cái hố đen ngòm một ngày nào đó sẽ lôi tuột mình và người thân xuống đó, cô sợ lúc ngăn tủ đựng thư của bà cụ đầy chặt cũng là lúc bà sẽ phải qua đời để làm nhiệm vụ chuyển những bức thư cho người chết. Thế nhưng, cách Kazumi Yumoto nói về cái chết không gây cảm giác sợ hãi ở người đọc. Nỗi hoang mang vẩn vơ của cô bé rồi đây sẽ được bà cụ giúp giải tỏa. Sống trong tình cảm ấm áp của mọi người, Chiaki dần quên đi những sợ hãi, âu lo. Vì thế kết lại bằng cái chết, nhưng câu chuyện vẫn để lại một dư âm gì đó thật sáng tươi.        Con người không thể trốn chạy khỏi sự thật về cái chết, nhưng chúng ta có thể xua đi ám ảnh về nó và làm cho những ngày ta đang sống đẹp thêm, ý nghĩa hơn nhờ một thứ phép màu, đó chính là YÊU THƯƠNG.        Cùng với niềm vui của giây phút hồi hộp mở cuốn sách ra, giờ đây tôi có thêm niềm vui khi gấp sách lại mà vẫn thấy ấm áp, tựa như có một thứ ánh nắng đang chiếu vào tâm hồn mình từ những tán lá dương có màu của mùa thu. Nguồn: facebook        Trong cuốn sách này, các nhân vật đều quan tâm và chia sẻ với nhau những điều nhỏ nhặt, giản đơn nhưng đặc biệt ấm áp. Cốt truyện giản đơn, nhưng tác giả Kazumi Yomoto đã cuốn độc giả vào một không gian tinh tế, như khi Chiaki nhổ cỏ cùng bà cụ chủ nhà, bà thường lén bỏ một ít cỏ vào giỏ của cô bé để em khỏi xấu hổ về việc mình nhổ được ít; khi bà cụ ăn vận kimono đẹp đẽ sang trọng để đi xin lại việc cho bác hàng xóm; hay khi bà cụ đã láu cá bịa ra đủ thứ chuyện với mọi người…      Với giọng điệu dịu dàng, lời văn đẹp, giàu chất thơ, lồng ghép những triết lý nhẹ nhàng, sâu sắc, “Mùa thu của cây dương” thực sự đã mang đến một cách cảm, cách nghĩ đậm chất phương Đông. Trích Mùa thu của cây dương: Giản dị mà day dứt mãi - Đinh Phương Linh Nguồn: Website: www.kienthuc.net.vn (http://kienthuc.net.vn/)              Không cầu kì, kiểu cách, không đao to búa lớn, “Mùa thu của cây dương” cũng nhẹ nhàng như một chiếc lá dương vàng óng xoay xoay theo làn gió thu rớt xuống khu vườn. Một câu chuyện giản dị nhưng sâu sắc lạ thường. Một câu chuyện về tình yêu, tình người, và một lần nữa, về cái chết. Nói “một lần nữa” bởi đây cũng là chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm “Khu vườn mùa hạ”. Cái chết trong câu chuyện của Yumoto Kazumi có lẽ không hề đáng sợ như nhiều người vẫn nghĩ. Cái chết, với bà cụ chủ nhà giống như một chuyến đi, một nghĩa vụ, một công việc phải làm. Cũng chính bởi thế, nên đám tang của bà cụ không hề buồn bã như những đám tang khác. Có nỗi tiếc thương cho người đã khuất, nhưng tâm trạng của ai cũng nhẹ nhõm hơn hẳn. Có lẽ bởi ai trong số họ cũng đinh ninh rằng, bà cụ đang thực hiện chuyến đi của mình, đang làm công việc mà bà đã dành thời gian nhiều năm chuẩn bị - công việc chuyển những lá thư.      Một mùa thu nữa lại trải lá vàng trên căn hộ Cây Dương, nơi lưu giữ những kỷ niệm về một con người kì lạ. Bà cụ ấy không hề được tác giả nhắc tên, suốt từ lúc bà xuất hiện trong cuộc đời cô bé Chiaki cho đến lúc qua đời. Khi bà ra đi, cũng không có ai là họ hàng thân thiết, nhưng bà lại có vô số bạn bè. Những người bạn đưa tiễn bà bằng sự quý trọng, bằng tình yêu, tình người, và trên tất cả, là một sự thanh thản, nhẹ nhàng mà không phải đám tang nào cũng có. Bà sẽ sống mãi trong trái tim họ như một biểu tượng về lòng tốt thầm lặng. Một lòng tốt giản đơn thôi, dễ dàng thôi, lòng tốt của người dưng qua đường, lòng tốt giữa con người với con người, nhưng mấy ai trong đời này có được? Trích "Mùa thu của cây dương" - Có những lòng tốt giản đơn thôi Nguồn: Website Afamily.vn (http://afamily.vn/) Giới thiệu tác giả Kazumi Yumoto   Kazumi Yumoto sinh năm 1959 tại Tokyo. Cô theo học khoa sáng tác tại Đại học Âm nhạc Tokyo. Trong khoảng thời gian đó, cô từng viết lời cho các vở opera, kịch nói trên sóng phát thanh và truyền hình. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của của Kazumi - Khu vườn mùa hạ (Natsu no niwa) xuất bản lần đầu năm 1992 đã nhanh chóng giành được thành công ở trong và ngoài nước. Tác phẩm tiếp theo của cô - Mùa thu của cây dương (Popura no Aki) cũng nhận được rất nhiều chú ý từ dư luận, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   Những tác phẩm của Kazumi Yumoto - Mùa Thu Của Cây Dương - 2010 - Khu Vườn Mùa Hạ - 1992    
Nắp Biển - Banana Yoshimoto
Trước biển, hai cô gái trẻ gặp nhau khi hè sang. Mari đưa Hajime đi khắp thị trấn biển mà chính mình cũng vừa trở lại. Đêm dạ quang, mũi đất hoàng hôn, gốc liễu già, vương quốc thủy tề nơi hõm đá - ngày nối ngày họ thăm lại những nơi đã một thời tưng bừng rực rỡ, nay ngấp nghé tàn phai. Đế hiểu hơn cuộc đời mình qua ký ức, để chữa lành những vết thương ẩn sâu, để khi mùa hè đi dần về kết thúc, cố gắng đóng lại nắp biển còn bỏ ngỏ … Vẫn phong vị thuần khiết và thành thật đã lôi cuốn bao lứa độc giả vào thế giới của cô, nhưng Banana ở tuổi trưởng thành đã nương bớt mỹ học của cái lạ lùng để kể về chiêm nghiệm của người sống đời giản dị, về ý nghĩa sâu xa từ cái thường ngày. Nắp biển như một bài thơ mỏng nhẹ nhưng đầy ắp cảm giác, rằng cuộc sống đã là phép lạ, rằng linh hồn thế giới ngụ trong từng vốc nước nhành cây, và rằng năng lực của những con người bé nhỏ nơi góc biển cũng có thể vì tình yêu với một không gian mà khiến nó nở đầy hoa đẹp. *** Banana Yoshimoto tên thật là Mahoko Yoshimoto sinh ngày 24.7.1964, là con gái của triết gia Nhật nổi tiếng Takaali Yoshimoto. Banana Yoshimoto tốt nghiệp ngành Văn học tại trường Nihon University, tại đây cô đã lấy bút danh là “Banana”, cái tên mà theo cô là rất “chúa” và “lưỡng tính”. Trong khi làm bồi bàn tại một hàng ăn vào năm 1987, Banana Yoshimoto bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình. Kitchen, cuốn tiểu thuyết đầu tay của cô ngay lập tức trở thành một hiện tượng với hơn 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ, và được tái bản trên sáu mươi lần tại Nhật Bản. Báo chí gọi đó là “Bananamania” (Hội chứng Banana). Sau Kitchen, Banana đã bán trên sáu triệu bản sách tại Nhật Bản và đã trở thành một tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới với hàng loạt các tác phẩm như NP, Lisard, Goodbye Tugumi, Amrita, Sly, Argentina Hag, Hardboiled and Hard luck… trong đó Goodbye Tugumi (Vĩnh biệt Tugumi) đã được dựng phim và đoạt Yamamoto Shugoro Literary Prize năm 1994. Đến nay tác phẩm của Banana Yoshimoto bao gồm mười hai tiểu thuyết và bảy tập truyện ngắn. Hiện tại, Banana Yoshimoto đã lập gia đình và đang sống ở Tokyo. Mời các bạn đón đọc Nắp Biển của tác giả Banana Yoshimoto.
Vĩnh Biệt Tugumi - Banana Yoshimoto
VĨNH BIỆT TUGUMI          Thông Tin   Tên truyện: Vinh Biệt Tugumi Tác giả:   Yoshimoto Banana  NXB:  Đà Nẵng Dịch: Vũ Hoa Người dịch:   Lương Việt Dung Thể loại:   Tiểu thuyết , tình cảm,   ngôn tình , văn học nhật bản,   văn học phương đông . eBook:   Romance Book Nguồn:   Romance Book Đăng:   Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới Thiệu Bốn người bạn: Maria, Tugumi, Yoko và Yoichi đã sống cùng nhau một mùa hè cuối cùng trước khi bước vào tuổi trưởng thành, với căn nhà nghỉ cũ và bờ biển quê hương. Và Tugumi, cô gái xinh đẹp, ốm yếu, trái tính, đôi khi còn độc ác, đã là trung tâm của những liên hệ tinh thần của họ. Đối mặt với sức mạnh hoang dại bên trong thân thể yếu ớt của Tugumi cũng như kh ả năng đánh mất cô, Maria cuối cùng đã có thể tới gần nhất sự sống cốt tủy và độc đáo mà cô cất giữ. Chính trong những ngày hè cuối cùng đó, nhóm bạn đã được trải nghiệm những cảm xúc đẹp đẽ và sâu xa về cuộc sống, về cho và nhận, tĩnh tại và đổi thay, về sức mạnh của tinh thần và những ranh giới mơ hồ của cảm giác... Tinh tế và đầy âm hưởng, khi không còn quá ám ảnh với những dự cảm tăm tối về hư vô và cái chết, thế giới trong suốt, tươi mới của Banana lại hiện ra, làm say những ai đã đem lòng yêu mến lối đi nhỏ trong văn chương của cô.       Ti ể u s ử tác giả   Tên thật là  Yoshimoto Mahoko  ( 吉本   真秀子   Yoshimoto Mahoko ,  Cát Bản Chân Tú Tử ), sinh ngày 24 tháng 7  năm 1964 tại Tokyo , nhóm máu A, là con gái của triết gia Nhật nổi tiếng Yoshimoto Takaaki . Banana tốt nghiệp ngành Văn, khoa Nghệ thuật trường Đại học Nihon . Tại đây cô đã lấy bút danh là Banana, cái tên mà theo cô là rất "chúa" và "lưỡng tính". Trong khi làm bồi bàn tại một nhà hàng vào năm 1987, Banana bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình. Kitchen , cuốn   tiểu thuyết   đầu tay của cô ngay lập tức trở thành hiện tượng với hơn 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ và đã tái bản trên sáu mươi lần tại Nhật Bản. Báo chí gọi đó là "Bananamania" (hội chứng Banana).  Kitchen  giúp cô đoạt đuợc các giải thưởng văn học như Giải Kaien cho các nhà văn mới năm 1987,  Umitsubame First Novel Prize, Best Newcomer Artists Recommemded Prize  của Bộ Giáo Dục và Giải văn chương Izumi Kyoka cùng vào năm 1988. Sau  Kitchen , cô đã bán trên sáu triệu bản sách tại Nhật Bản và trở thành tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới với hàng loạt các tác phẩm như  N.P ,  Lizard ,  Asleep ,  Vĩnh biệt Tsugumi ,  Amrita ... Đến nay tác phẩm của Banana bao gồm mười hai   tiểu thuyết   và bảy tập truyện ngắn. Hiện tại, cô đã lập gia đình và sống ở Tokyo. Khá khiêu khích, nữ tác giả còn phát biểu rằng tham vọng lớn nhất của mình là đoạt giải Nobel Văn học . Rất đặc biệt trong cách công bố tác phẩm của mình. Cô rất hăng hái tung các tác phẩm của mình không những trên những tạp chí văn học mà còn cả ở tạp chí làm đẹp, thời trang có đông người đọc. Hành động có hàm ý là văn học không phải là một hình thức nghệ thuật dành riêng cho giới đặc tuyển có học, mà là một kiểu văn hóa cùng hàng với nhạc pop , truyện tranh , trò chơi điện tử và thời trang. Đây có thể là một trong những nguyên nhân làm nên hiện tượng Banana.   Những tác phẩm của Yoshimoto Banana được dịch ·        - Kitchen , Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản Hội nhà văn, H. 2006  - N.P, Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006 - Vĩnh biệt Tugumi, Vũ Hoa dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007. - Amrita (Amurita), Trần Quang Huy dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2008. - Say ngủ, Trương Thị Mai dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2008. - Thằn Lằn, Nguyễn Phương Chi dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn học, 2009.
Amrita - Yoshimoto Banana
Amrita    Thông Tin   Tên truyện:   Amrita  Tác giả:   Yoshimoto Banana  NXB: Hội Nhà Văn Dịch: Trần Quang Huy Người dịch:   Lương Việt Dung Thể loại:   Tiểu thuyết , tình cảm,   ngôn tình , văn học nhật bản,   văn học phương đông . eBook:   Romance Book Nguồn:   Romance Book Đăng:   Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới Thiệu   Vào cửa hàng sách và cứ đứng tần ngần mãi để chọn một quyển truyện phù hợp với tâm trạng lúc bấy giờ. Lúc đấy tôi cảm thấy bản thân mình đang thấy quá nặng nề và cần cho mình một thứ gì đó thật nhẹ nhàng mà sâu lắng, lướt qua và lướt qua các kệ sách, bỗng nhiên dừng lại với Amrita. . Sau khi mất người em gái xinh đẹp của mình, một nữ minh tinh trứ danh, chết vì tự sát, Sakumi ngã cầu thang và mất trí nhớ do chấn thương sọ não. Cố gắng tìm lại trí nhớ về những người cô yêu thương và về những gì cô đánh mất, cô bắt đầu bước vào một cuộc hành trình cảm động độc nhất vô nhị, đôi khi có người yêu của em gái đã mất đồng hành, đôi khi người đồng hành lại là cậu em trai có khả năng dự cảm tương lai. Và Amrita chính là câu chuyện về hành trình khác thường của Sakumi qua nỗi đau, những giấc mơ, và bóng tối, tới một nơi mà tâm hồn được khám phá và biến đổi.   . Đọc Amrita, cả người, cả trí óc như đang chìm đắm trong một vùng kí ức xa xôi mà lâu lắm rồi tạm cất nó ở đâu đó trong một góc trái tim. Nhiều người ví tiểu thuyết của Banana Yoshimotogiống như một trò Jet-coaster – một trò chơi cảm giác mạnh, một khi đã ngồi lên rồi thì ta sẽ bị cuốn đi đến tận cùng với tốc độ của nó. Nhưng với Amrita, điều này có gì đó đúng lại cũng có gì đó không đúng. Vì đúng là khi đã đọc thì không thể dứt ra được, cứ muốn đọc mãi không thôi. Nhưng phải đọc Amrita, hay những tác phẩm khác của Yoshimoto mới thấy, giọng văn của bà quá đỗi nhẹ nhàng, như làn mây khói thoảng qua trong đầu mỗi người, mà lại thấm sâu vào từng ý nghĩ. Amrita, không cao trào và kịch tính như mọi người tưởng khi đọc xong giới thiệu. Câu chuyện cứ đan xen giữa việc Sakumi trong hành trinh tìm kiếm bản thân và việc Sakumi nhớ lại những điều trước và trong khi Mayu tự vẫn. Tôi rất thích bà mẹ và cô bạn của mẹ Sakumi- cô Junko, thích cả cách mà hai người ý sống và xử lí mọi việc xoay quanh cuộc sống của bản thân và con cái mình. Tôi rất tâm đắc với suy nghĩ của Sakumi sau khi cô tìm lại được trí nhớ : “Sớm mai ra, tôi vẫn muốn mình sẽ thức giấc ở đâu đó“. Nó tạo thêm niềm tin và sức mạnh để sống, để mà chờ đợi ngày mai đến. Amrita khiến cho chúng ta sống chậm lại hơn trong cái guồng quay hối hả của vòng đời bây giờ. Lối viết văn của Yoshimoto giúp cho mỗi ai đọc sẽ quay đầu nhìn lại những quá khứ, để biết mình đã làm những gì, để thấy lại những điều giản dị thân quen mà đôi khi, do nhịp điệu của công việc mà ta vô tình bước qua. Có một người bạn có nói với tôi, Amrita mang màu sắc của tâm linh nhiều quá nên bạn không viết review. Đúng thế. Amrita có nhưng không đến nỗi quá nhiều khiến người ta cảm giác linh thiêng thần thánh. Chỉ đơn giản là đề cập đến Yoshio – em trai của Sakumi – có khả năng dự cảm được tương lai, hay Saseko – một trong những người bạn của Ryuichiro ở Saipan – có thể nhìn thấy người chết, trò chuyện với họ hay hát cho họ nghe. Tôi rất thích những điều như thế này, chúng tuy thần bí nhưng vẫn gần gũi với cuộc sống. Sakumi và Ryuichiro, rốt cuộc cũng yêu nhau. Không hiểu sao, trong đầu tôi khi nghĩ đến tình yêu của họ, lại cảm thấy rằng Sakumi như đang yêu Ryuichiro cho cả phần của Mayu nữa. Và cách mà Sakumi đối xử với tình yêu của mình cũng khá đặc biệt. Không quá vồn vã. Không quá tình cảm. Có gì đó lành lạnh. Nhưng trong trái tim thì lại thầm cầu nguyện: “Sớm mai khi tình dậy, mong rằng anh đừng chết, đừng ra đi mãi mãi, và nếu ngày ấy có phải đến như một lẽ đương nhiên, thì cũng làm ơn đừng báo trước cho tôi điều đó.” Có lẽ, đến đây thì tâm trạng của người đang yêu cũng có phần nào phù hợp hơn với Sakumi. Đọc Amrita mất nhiều thời gian hơn tôi nghĩ. 506 trang, và là những khoảng thời gian đọc cách quãng. Thỉnh thoảng nhớ đến tôi lại lôi nó ra đọc, và lại đọc ngấu nghiến. Không phải truyện dở. Không phải vì bận bịu không có thời gian. Mà bởi, truyện nhẹ quá, đọc như không, cảm thấy cầm quyển truyện dày hơn 500 trang trên tay mà nhẹ hẫng, chẳng khác nào đang cầm một đám kẹo bông. Do vậy, nên tôi cố dứt ra khỏi trang truyện để nó không cuốn mình trôi đi. Và cứ thế, dù cho có chuyện gì xảy ra, cuộc sống của tôi vẫn không có gì thay đổi và chỉ trôi đi mãi, không ngừng.   . Cuộc đời của một con người, luôn cứ trôi chảy vô tình và đều đều như thế. Nhưng mấy ai đã thử một lần đặt chân lên hành trình đi tìm chính bản thân mình?   Ti ể u s ử tác giả   Tên thật là  Yoshimoto Mahoko  ( 吉本   真秀子   Yoshimoto Mahoko ,  Cát Bản Chân Tú Tử ), sinh ngày 24 tháng 7  năm 1964 tại Tokyo , nhóm máu A, là con gái của triết gia Nhật nổi tiếng Yoshimoto Takaaki . Banana tốt nghiệp ngành Văn, khoa Nghệ thuật trường Đại học Nihon . Tại đây cô đã lấy bút danh là Banana, cái tên mà theo cô là rất "chúa" và "lưỡng tính". Trong khi làm bồi bàn tại một nhà hàng vào năm 1987, Banana bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình. Kitchen , cuốn   tiểu thuyết   đầu tay của cô ngay lập tức trở thành hiện tượng với hơn 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ và đã tái bản trên sáu mươi lần tại Nhật Bản. Báo chí gọi đó là "Bananamania" (hội chứng Banana).  Kitchen  giúp cô đoạt đuợc các giải thưởng văn học như Giải Kaien cho các nhà văn mới năm 1987,  Umitsubame First Novel Prize, Best Newcomer Artists Recommemded Prize  của Bộ Giáo Dục và Giải văn chương Izumi Kyoka cùng vào năm 1988. Sau  Kitchen , cô đã bán trên sáu triệu bản sách tại Nhật Bản và trở thành tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới với hàng loạt các tác phẩm như  N.P ,  Lizard ,  Asleep ,  Vĩnh biệt Tsugumi ,  Amrita ... Đến nay tác phẩm của Banana bao gồm mười hai   tiểu thuyết   và bảy tập truyện ngắn. Hiện tại, cô đã lập gia đình và sống ở Tokyo. Khá khiêu khích, nữ tác giả còn phát biểu rằng tham vọng lớn nhất của mình là đoạt giải Nobel Văn học . Rất đặc biệt trong cách công bố tác phẩm của mình. Cô rất hăng hái tung các tác phẩm của mình không những trên những tạp chí văn học mà còn cả ở tạp chí làm đẹp, thời trang có đông người đọc. Hành động có hàm ý là văn học không phải là một hình thức nghệ thuật dành riêng cho giới đặc tuyển có học, mà là một kiểu văn hóa cùng hàng với nhạc pop , truyện tranh , trò chơi điện tử và thời trang. Đây có thể là một trong những nguyên nhân làm nên hiện tượng Banana.     Những tác phẩm của Yoshimoto Banana được dịch   ·        - Kitchen , Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản Hội nhà văn, H. 2006  - N.P, Lương Việt Dũng dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006 - Vĩnh biệt Tugumi, Vũ Hoa dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007. - Amrita (Amurita), Trần Quang Huy dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2008. - Say ngủ, Trương Thị Mai dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2008. - Thằn Lằn, Nguyễn Phương Chi dịch, Công ty Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn học, 2009.