Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hôi Của Đông Lăng

Danh gia cổ vật là bộ tiểu thuyết lấy đề tài giám định và sưu tầm đồ cổ tiêu biểu cho các sáng tác của Mã Bá Dung, ngay sau khi ra mắt đã được đông đảo bạn đọc yêu thích đón nhận. Cuối năm 2018, tác phẩm được Tencent Pictures chuyển thể thành phim dài tập cùng tên với sự tham gia diễn xuất của Hạ Vũ, Kiều Chấn Vũ… TẬP 3: Giám định cổ vật, thực ra là đo lòng người đấy thôi. Báu vật càng trân quý càng soi thấu lòng người đáng sợ. Ngược dòng thời gian về năm Dân Quốc thứ mười bảy, ông nội Hứa Nguyện là Hứa Nhất Thành bấy giờ đang theo học ngành khảo cổ ở đại học Thanh Hoa, bất ngờ nhận được nửa bức thư in dấu tay máu của một người bạn cũ. Chữ “lăng” trơ trọi trên mảnh giấy dường như ám chỉ một âm mưu nhắm tới những lăng tẩm đế vương đang bị quên lãng giữa thời cuộc rối ren, nhưng ai sẽ là kẻ ra tay thủ ác và mục tiêu sau cùng là gì? Lần theo những manh mối mơ hồ, những sự kiện tưởng chừng rời rạc, Hứa Nhất Thành dần tìm ra từng mảnh ghép của một âm mưu chấn động. Song thế lực y phải đương đầu không chỉ có một, trong khi hậu phương là Minh Nhãn Mai Hoa lại chỉ như con rùa rụt cổ… DANH GIA CỔ VẬT (trọn bộ 4 tập): - Kỳ Án Đầu Phật - Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ - Hôi Của Đông Lăng - Minh Nhãn Mai Hoa VỀ TÁC GIẢ: MÃ BÁ DUNG sinh năm 1980, tại Xích Phong (Ulankhad) thuộc khu tự trị Nội Mông. Ông là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc với bút lực dồi dào, văn phong đa biến. Phạm vi sáng tác trải từ phê bình, tản văn, tiểu phẩm đến tiểu thuyết vừa và dài, thể loại sáng tác phong phú, bao gồm khoa học viễn tưởng, kỳ ảo, lịch sử, trinh thám v.v… Năm 2005, ông đạt giải thưởng Ngân Hà dành cho tác phẩm khoa học viễn tưởng Trung Quốc. Năm 2010, ông đạt giải thưởng Văn học Nhân dân, một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất của văn đàn Trung Quốc. *** Review DANH GIA CỔ VẬT - HÔI CỦA ĐÔNG LĂNG. Bài đăng của bạn Nguyen Viet Ha trên Nhã Nam reading club. Tác giả: Mã Bá Dung Warning: Review có spoil. _ Chuyện xảy ra vào năm Dân quốc thứ mười bảy. Năm ấy Bắc Kinh vô cùng hỗn loạn, các phe cánh chính trị đối chọi nhau gay gắt, giới cổ vật cũng nổi lên sóng gió. Người Nhật sang Trung Quốc dưới danh nghĩa khảo cứu và bảo tồn văn vật, nhưng thực chất là muốn mang văn vật Trung Quốc về Nhật Bản; còn chính người Trung Quốc thì cũng lại lén lút đánh cắp, bòn rút cổ vật có giá trị hòng bỏ túi riêng. Trong không khí đượm mùi chết chóc và hỗn loạn của Bắc Kinh bấy giờ, Hứa Nhất Thành nhận được nửa mảnh giấy in năm dấu tay máu và chữ “lăng” mơ hồ từ một người bạn cũ. Người ấy trước lúc chết đã gắng sức níu lấy một ông lão qua đường, khẩn cầu ông ta báo tin đến y, như thể chỉ cần chậm trễ một chút thôi là cả tấn bi kịch sẽ đổ xuống Bắc Kinh vốn đã chẳng bình an gì mấy này. Hẳn Hứa Nhất Thành khi ấy cũng sẽ không ngờ, mảnh giấy ấy sẽ dẫn y tới một vụ án chấn động không chỉ giới cổ vật, mà còn liên quan đến vận mệnh quốc gia. Ban đầu, Hứa Nhất Thành vốn tưởng chỉ có người Nhật có liên quan đến bí ẩn sau mảnh giấy dính máu mà bạn mình để lại, nào ngờ trên đường tra án, y nhận ra càng ngày càng xuất hiện thêm nhiều thế lực khác, mới có cũ có, mà mục đích cuối cùng, đều là nhắm vào lăng tẩm của các đế vương Trung Quốc, hay nói đúng hơn, là đồ tuỳ táng được chôn cùng chủ nhân những lăng tẩm ấy. Nhưng mà, có thật là những thế lực kia chủ ý muốn sở hữu cổ vật trong Đông lăng không, hay đó chỉ là bước đầu để che giấu một âm mưu khác đáng sợ hơn nhiều? Rốt cuộc trong Đông lăng có thứ gì, mà phải khiến người ta lao tâm khổ tứ giăng bẫy hòng đặt chân vào ngôi mộ ấy như thế? Các triều đại luôn có sự liên kết với nhau, hình thành nên sợi dây lịch sử kéo dài không dứt. Đến lúc này, khi có kẻ muốn lật đào lịch sử lên, mối liên hệ giữa những ngôi mộ lặng yên đã hàng trăm năm ấy cũng dần được hé lộ... ___ “Danh Gia Cổ Vật - Hôi của Đông Lăng” không nối tiếp câu chuyện của Hứa Nguyện ở tập 1 và tập 2, mà là kể lại chuyện xưa của ông nội Hứa Nguyện - Hứa Nhất Thành, khi vẫn đang theo học ngành khảo cổ ở đại học Thanh Hoa. Kiến thức về văn hoá và cổ vật vẫn được cài cắm xuyên suốt tập truyện, song mình đánh giá tập 3 này vụ án khó hơn và tình tiết cũng bất ngờ hơn hai tập trước. Ngay từ cái tên và vết tích cuối cùng trên mảnh giấy mà Hứa Nhất Thành nhận được, người đọc có thể dễ dàng đoán ra trung tâm của tập này là “lăng”, còn “hôi của Đông Lăng” thì ám chỉ về một vụ trộm mộ. Đông Lăng là lăng mộ của vua chúa nhà Thanh, nơi chôn cất hoàng đế Thuận Trị, Khang Hi, Càn Long, Hàm Phong, Đồng Trị và các phi tần, hoàng tử, công chúa. Từ xưa việc quật mồ mả người chết vẫn luôn là việc không nên, rất tổn hại âm đức, thế nhưng những đồ tuỳ táng chôn theo ở lăng tẩm vua chúa không chỉ có giá trị lịch sử, mà giá trị vật chất thực cũng không ít món hời, do vậy không ít kẻ vẫn bất chấp tất cả mà tìm đường vào lăng hòng “hôi của”. Tình cảnh năm ấy thật sự rất loạn, ngay cả Minh Nhãn Mai Hoa tiếng tăm lẫy lừng cũng phải khúm núm nhún nhường trước tiền bạc và quyền lực, nhưng Hứa Nhất Thành lại không màng nguy hiểm mà quyết tâm tìm ra bí mật sau mảnh giấy kia đến cùng. Thứ nhất là bởi y muốn hoàn thành uỷ thác mà người bạn quá cố đã giao cho mình, thứ hai là bởi y không thể trơ mắt nhìn văn vật Trung Quốc cứ vậy mà rơi vào tay người Nhật. Y không thể chịu nổi cảnh người Trung Quốc bị “đào trốc rễ”, văn hoá lịch sử bị ngoại quốc lấy sạch chẳng còn gì. Có lẽ tính tình cố chấp, cương trực thẳng thắn của Hứa Nguyện di truyền từ Hứa Nhất Thành. Đúng là con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, Hứa Nhất Thành tài giỏi như vậy, đến đời Hứa Nguyện cũng không hề thua kém. Chỉ khác là Hứa Nhất Thành có vẻ chín chắn và dứt khoát hơn Hứa Nguyện. Ngoài những đoạn phá án hồi hộp thì tập này có khá nhiều những phân cảm xúc, ví như đoạn Hứa Nhất Thành bất lực nhìn Đông lăng bị xới tung lên, con người nổi lòng tham mà ào vào vơ vét đồ tuỳ táng, dẫm đạp lên lịch sử văn hoá và người đã khuất. Vào thời buổi rối ren bấy giờ, mỗi người chọn cho mình một con đường riêng, còn Hứa Nhất Thành, dù trải qua bao phen hiểm nguy gian khổ, y vẫn trước sau như một giữ trọn tấm lòng sáng như gương, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ nguồn cội của dân tộc. Đúng là một người rất đáng quý. Nói chung “Danh Gia Cổ Vật - Hôi của Đông Lăng” hay lắm. Tập này có thể coi là một ngoại truyện, vì vậy nếu tách ra đọc riêng thì vẫn có thể hiểu được. Mình thật sự mong chờ tập 4 - cũng là tập cuối cùng trong series này được xuất bản để xem hành trình của “Danh Gia Cổ Vật” sẽ tiếp diễn và kết thúc thế nào. *** Một gia tộc truyền đời cũng giống như một món cổ vật thượng hạng vậy. Trải bao đời giữ gìn và đánh bóng, âm thầm tích lũy giữa dòng thời gian đằng đẵng, dần dà, nó sẽ khoác lên mình một lớp hồ bọc đậm đà tinh thuần, ôn nhuận trầm lặng, toát lên vẻ cổ kính. Cổ vật hữu hình, truyền thừa vô hình, không nhìn thấy, không chạm tới được song lại thấm vào xương máu con cháu đời sau trong gia tộc, trở thành sợi dây ràng buộc tinh thần giữa các thành viên trong gia tộc với nhau, thậm chí trở thành một phần trong tính cách và số phận họ. Trên đường tới gặp Lão Triều Phụng, tinh thần của nhà họ Hứa đã ẩn tàng cả nghìn năm nay trong cơ thể tôi bắt đầu thức tỉnh. Nó rục rịch, sôi trào như muốn nói gì đó với tôi. Đó không phải sự biểu đạt bằng ngôn ngữ, mà là sự cộng hưởng vượt lên cả hạn chế của thời gian. Câu chuyện nó muốn kể rất dài, song khi truyền đạt cho tôi lại chỉ mất một cái chớp mắt. Những con người quá khứ, những câu chuyện xa xưa cùng những món cổ vật truyền kỳ đã ngưng kết lại thành cảm xúc trong một khoảnh khắc, khiến tôi đang đi chợt dừng bước, đặt tay lên ngực, ngẩng đầu nhìn trời. Tuy không thấu triệt, nhưng tôi cảm nhận được, đây là một câu chuyện liên quan đến ông nội Hứa Nhất Thành của tôi. Một truyền kỳ tôi chưa bao giờ được biết.   Hạ tuần tháng Năm năm Dân Quốc thứ mười bảy*, Bắc Kinh đương lúc chuyển mùa giữa xuân và hạ, khắp thành nở đầy hoa hòe. Đây là lúc trời nóng dần lên, dễ xảy ra đại dịch nên dân gian kiêng kị rất nhiều. Kiêng dán cửa, kiêng chuyển nhà, không cắt tóc, không phơi giường, ai nấy đều mong tới Đoan Ngọ giết sâu bọ xong mới bắt tay sửa sang dọn dẹp. Dân gian thường gọi là tháng Năm độc, hễ đến tháng này, nhất định sẽ có chuyện. Năm nay chưa nóng đã có gió lớn. Trận gió này cực lớn, cuốn theo cát bụi đầy trời phủ lên chùa Đàm Giá, trùm lấy núi Hương, cuồn cuộn ập vào thành, liên tục suốt mấy ngày. Quả là bụi lấp mặt trời, đâu đâu cũng một màu vàng của cát, cả thành Bắc Kinh như một bức ảnh cũ, trời mù mịt đất mù mịt tường mù mịt, người ngựa đi trên đường đều mù mịt, khiến lòng người ta cũng mịt mờ. Hằng năm Bắc Kinh đều nổi bão cát, nhưng chủ yếu vào mùa xuân. Năm nay trận bão này lại oái oăm, đến vào tháng Năm độc. Người già kể rằng loại gió này rất có lai lịch, gọi là gió Hoàng sát, chuyên khắc hoàng thượng. Năm Sùng Trinh treo cổ, Bắc Kinh đã nổi gió này; năm Viên Thế Khải qua đời, cũng nổi gió; về sau khi Tuyên Thống đế bị Phùng Ngọc Tường trục xuất khỏi Tử Cấm thành, gió này cũng đến. Bởi thế năm nay gió vừa nổi, lại gặp ngay tháng Năm độc, người già ở Bắc Kinh đều nhủ bụng, e rằng… lần này lại thay triều đổi đại rồi đây. Hoàng Khắc Vũ ôm tay nải xanh, liêu xiêu chạy men theo chân Thiên Đàn về phía Tây. Giữa mịt mù bão cát lại chạy ngược gió, dù đang trai tráng bẻ gãy sừng trâu, cậu cũng phải khom lưng cúi đầu nín thở. Hễ chạy nhanh là miệng đầy cát, vừa hít thở đã sặc sụa vì bụi. Nhưng việc gấp như lửa đốt, Hoàng Khắc Vũ làm gì còn tâm trạng oán trách thời tiết, đành kéo sụp vành mũ xuống, chạy không ngơi nghỉ. Vừa qua cầu Hổ Phường, trời đã nổi gió lớn, đất vàng mịn hơn cả phấn cuồn cuộn bốc thành làn sương bụi che mờ cả đất trời. Đừng nói đến mái tháp phía xa và biển hiệu treo trên rào chắn ở gần, ngay người ngựa bên kia đường, cách mấy bước chân cũng chẳng trông rõ được. Hoàng Khắc Vũ nheo mắt cúi đầu chạy như bay, ngờ đâu phía trước lại mọc ra một bóng người sau làn sương bụi, khiến cậu không kịp dừng bước, đâm sầm vào người ta. Hoàng Khắc Vũ có võ, lập tức lùi lại mấy bước, túm lấy cây cột đứng vững, song người kia thì ngã nhào. Hoàng Khắc Vũ vội cúi xuống đỡ, vừa khom người đã thầm than không ổn, người kia mặc quân phục xanh xám, đầu buộc một dải băng lem luốc, tay còn cầm cây súng Mauser 13, ra là lính Phụng Thiên! Lính Phụng Thiên là quân Đông Bắc do Trương Tác Lâm dẫn vào quan nội, kỷ luật cực kém, dân chúng vẫn gọi vụng là quân thổ phỉ. Từ đầu năm, khi hai phe Nam Bắc lại giao tranh, tổng thống Trương vẫn sa lầy trong chiến sự ở một dải Sơn Đông, Hà Nam, quân Bắc phạt đánh thẳng lên phía Bắc, lính Phụng Thiên bị thương trong thành Bắc Kinh ngày càng nhiều. Bề trên bỏ bê lương thưởng nên trong tay đám thương binh này chẳng có gì ngoài cây súng, chúng bèn tụ hợp lại, gặp người là cướp, thấy hiệu là phá, cảnh sát cũng chẳng dám động đến. Hoàng Khắc Vũ không muốn rầy rà, vội chắp tay xin lỗi rồi quay người toan lẩn vào màn cát bụi chuồn thẳng. Nào ngờ tên lính Phụng Thiên kia lồm cồm bò dậy, lên đạn cách một tiếng, chĩa súng vào Hoàng Khắc Vũ quát lớn, “Đâm vào ông mày còn định chạy à?” Hoàng Khắc Vũ đành đứng lại. Tên lính Phụng Thiên kia khập khiễng đi đến, giáng ngay cho cậu một bạt tai, “Thằng ranh này! Mắt ném cho chó ăn rồi hả?” Hoàng Khắc Vũ nghiến răng nhìn trừng trừng họng súng không đáp. Tên lính Phụng Thiên thấy cậu khoác tay nải thì sáng mắt lên, ra lệnh, “Ông nghi mày là tay trong của quân phản loạn, đưa đây! Mở ra ông kiểm tra!” Đoạn vươn tay định giật. Tay nải này hết sức quan trọng, Hoàng Khắc Vũ đời nào để hắn chạm vào, bèn xoay người né tránh. Tên lính nổi điên chửi “Rõ là đéo biết điều” rồi giơ súng lên định kéo cò. Tình thế cấp bách, Hoàng Khắc Vũ đành sấn lên nửa bước, tay phải nắm lấy họng súng hất lên, tay trái nhanh như chớp chặt mạnh vào gáy hắn. “Đoàng” một tiếng, đạn bay sượt qua đầu Hoàng Khắc Vũ bắn vào khoảng không, tên lính kia cũng ngã xuống đất ngất lịm. Hoàng Khắc Vũ sờ đầu, mặt tái xanh. Nếu chậm nửa bước, e rằng cậu đã bị bắn chết tươi ngay trên phố. Giữa kinh đô nổi tiếng là đất lành, vậy mà chẳng biết từ bao giờ lại hỗn loạn tới mức này? Cậu thần ra mấy giây, rồi sực nhớ mình đang có việc quan trọng, vội ném cây súng xuống, thắt chặt tay nải, quay người lẩn vào màn cát bụi mù trời. Chẳng bao lâu sau, lại thấp thoáng mấy bóng người đi đến, thấy tên lính Phụng Thiên nằm mê man, chúng liền xúm lại lột sạch quần áo hắn, cuỗm luôn cả cây súng. Hoàng Khắc Vũ thoát được tên lính, chạy một mạch qua cổng Tuyên Vũ, tới cửa hội quán Thái Nguyên nằm ở đầu Đông ngõ Trữ Khố Doanh mới dừng lại. Chạy cả một quãng dài, cậu thấy phổi nóng rát như bị giội nước sôi, buộc phải nghỉ chân, chống gối thở hổn hển. Vừa ngẩng lên, cậu đã thấy một cậu trai trắng trẻo đeo kính tròn đứng dưới gốc hòe già vẹo vọ đầu ngõ, rõ ràng đã đợi khá lâu. “Đem đến rồi à?” Kẻ kia hỏi. Hoàng Khắc Vũ thận trọng cầm tay nải lên tay, nâng niu vuốt ve, “Dọc đường gặp nhiều rắc rối, suýt nữa làm hỏng.” Hoàng Khắc Vũ đang định cởi tay nải ra thì cậu trai kia đã đưa mắt ra hiệu đừng nói chuyện. Hoàng Khắc Vũ nhìn quanh, phát hiện gần hội quán Thái Nguyên có rất nhiều cảnh sát đi tuần, họ túm năm tụm ba đứng giữa bụi mù, như hồn ma ngoài nghĩa địa giữa đêm hôm, chẳng thấy rõ được dáng dấp và mặt mũi, song vẫn rờn rợn ác ý. “Đi từ từ thôi, đừng chạy, cũng đừng ngoái lại.” Cậu trai hạ giọng dặn, đoạn hai người sánh vai đi vào trong ngõ. Mời bạn đón đọc Danh Gia Cổ Vật Tập 3: Hôi Của Đông Lăng của tác giả Mã Bá Dung.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bác Sĩ Cuối Cùng Dưới Tán Hoa Anh Đào
[REVIEW] "BÁC SĨ CUỐI CÙNG DƯỚI TÁN HOA ANH ĐÀO" - NIỀM TIN SẼ TẠO NÊN KÌ TÍCH? - CUỐN TIỂU THUYẾT HẤP DẪN VÀ XÚC ĐỘNG KHÔNG THỂ BỎ QUA - "Bác sĩ cuối cùng dưới tán hoa anh đào" của tác giả Atsuto Ninomiya là cuốn tiểu thuyết tâm lí - y học mới được phát hành vào ngày 28/5 bởi Ai Novel. Ngoài phần mở đầu ngắn, cuốn sách gồm 3 chương chính tương ứng với 3 cái chết đặc biệt của nhân viên văn phòng, sinh viên và bác sĩ (được thể hiện ngay ở tên chương). Ung thư hay các bệnh về tế bào thần kinh... nếu chỉ nghe qua hay chưa từng chứng kiến thì sẽ không thể nào tưởng tượng được hết sự kinh khủng, nguy hiểm và cả những xúc cảm mãnh liệt của bệnh nhân. Fukuhara - Viện phó bệnh viện với trái tim nồng cháy, luôn hết mình với bệnh nhân, mong muốn và tin tưởng vào cái gọi là "kỳ tích": giống như sau cơn mưa trời lại sáng, trải qua hành trình chống bệnh gian khổ dài đằng đẵng, kỳ tích nhất định sẽ xuất hiện, căn bệnh quái ác nhất định sẽ bị đập tan. Kiriko - Bác sĩ có biệt danh "Tử Thần", với suy nghĩ sống mà phải chịu đau đớn, dày vò thì thà lùi lại 1 bước để ngắm nhìn cuộc sống tươi đẹp xung quanh và tận hưởng tháng ngày quý báu ít ỏi còn lại sẽ tốt hơn nhiều. 2 bác sĩ, 2 tư tưởng, 2 định hướng... nhưng lại có chung mục đích: tất cả là vì bệnh nhân. Nghe thật lạ lùng nhưng sự thật chính là vậy! Sẽ có người vì không muốn gia đình thương tổn mà chấp nhận chịu đau để thực hiện hóa - xạ trị, sẽ có người lại chấp nhận hy sinh để sống một cuộc sống đúng nghĩa trước khi quá muộn... Lựa chọn theo tư tưởng của vị bác sĩ nào thì cũng chẳng có gì là sai trái hay bất hợp lí cả, vì mỗi bệnh nhân sẽ có thứ đáng giá để coi trọng và suy nghĩa riêng biệt. Cách viết của tác giả vô cùng chân thực và giàu cảm xúc khiến cho người đọc có thể dễ dàng cảm nhận được những chiêm nghiệm và ý nghĩa sâu sắc về sự sống, sức khỏe và thời gian mà tác giả muốn truyền đạt. Chắc chắn là khi đọc xong, bạn sẽ thấy cuốn sách được đánh giá cao trên Amazon là hoàn toàn hợp lí! *** “Ông còn nửa năm để sống…”. Tại một bệnh viện nọ, bác sĩ Kiriko – người được mệnh danh là thần chết – đã nói với bệnh nhân như vậy. Anh giải thích rằng khi đón nhận cái chết, ta sẽ trân trọng những ngày còn lại. Tuy nhiên, phó viện trưởng Fukuhara lại tin vào điều kỳ diệu, anh sẽ không ruồng bỏ ‘sự sống’ cho đến phút cuối cùng. Kết cục của cuộc đối đầu trong thời gian có hạn giữa hai con người đối lập này là? Trước lựa chọn cuối cùng, bệnh nhân có thể quyết định được không? Ánh sáng lấp lánh của sự sống được vẽ theo cách sống của từng người. Câu chuyện về nghề y nghẹt thở và đầy cảm động. *** Atsuto Ninomiya Sinh năm 1985 tại vùng đô thị Tokyo. Tốt nghiệp khoa Kinh tế Đại học Hitotsubashi. Là một tác giả của thế hệ mới được chú ý, có tác phẩm “! (Bikkurimāku)” đã bán ra 200.000 bản, Atsuto Ninomiya liên tiếp xuất bản các tác phẩm mới. *** Bệnh viện trọng điểm khu vực - bệnh viện Musashi no Shichijuuji. Ba tòa nhà chín tầng với những dãy tường trắng dài dằng dặc; ở góc tầng hai, của phòng tư vấn đang hé mở. Bài trí trong phòng vô cùng tối giản. Chỉ đặt bàn, ghế và bảng trắng. Bốn người sắc mặt buồn bã đang ngồi. Một trong số đó là bệnh nhân luống tuổi, mặc bộ pyjama phủ thêm tấm áo choàng. Ba nhân vật còn lại là người nhà gồm bạn đời và hai vợ chồng con trai ông. Họ lắng tai nghe từng tiếng bước chân với nhịp điệu đều đặn, chuẩn xác như đồng hồ quả lắc. “Xin lỗi vì đã để mọi người phải chờ.” Tiếng bước chân dùng lại trước phòng tư vấn. Đấy cánh của và bước vào phòng, Kiriko Shuuji cất tiếng. Khi anh ngồi xuống, tà áo trắng lay động khe khẽ. Vóc người nhỏ nhắn, làn da trắng và đôi mắt mang sắc nâu nhàn nhạt. Vị bác sĩ với ngoại hình hơi mềm mại nữ tính, đâu đó tỏa ra cảm giác lành lạnh này nhìn lướt qua khuôn mặt của bốn người rồi nói: “Bác là bệnh nhân Hashida đã yêu cầu tư vấn cùng người nhà phải không ạ. Cháu là Kiriko.” “Vâng, bác sĩ ơi, chuyện là…” “Bác muốn bệnh viện kiểm tra tình trạng bệnh hiện giờ và nói rõ phương hướng điều trị về sau phải không ạ?” Kiriko không tán chuyện phiếm dù chỉ một câu. Thấy bác sĩ lập tức đi thẳng vào vấn đề, bốn người cùng nín lặng. Không ngập ngừng, không do dự, Kiriko nói tiếp. “Cháu đã xem bệnh án rồi, tình trạng của bác không thể cải thiện được đâu. Một phần do tuổi tác đã cao ạ. Bác còn khoảng nửa năm. Giờ chỉ còn xem trì hoãn thời hạn này được bao lâu thôi ạ.” “Ơ…” Giữa lúc cả gia đình còn đang ngơ ngác, Kiriko nhìn thẳng vào mắt bệnh nhân lớn tuổi, anh hỏi: “Bác Hashida, bác muốn ra đi như thế nào ạ? Kể cả khi dùng thuốc điều trị ung thư bác cũng chỉ sống thêm được vài tháng thôi và sẽ phải nhập viện suốt vài tháng đó. Bác có thế lựa chọn chuyển hẳn sang chăm sóc giảm nhẹ* đồng thời sử dụng thời gian còn lại sao cho có ý nghĩa ạ.” “Chờ, chờ đã!” Anh con trai ngồi bên cạnh hấp tấp chồm hẳn người lên. “Bố tôi đang làm hóa trị*… Bác sĩ phụ trách bảo chỉ số của bố đang khá lên mà.” Kiriko xem tập giấy tờ. “Đúng vậy ạ. Tình trạng của bác không xấu đi, Nhưng chỉ số ở mức độ này thì gia đình không nên kỳ vọng tình trạng bệnh sẽ có khởi sắc đâu ạ. Về mặt y học, trường hợp của bác đã vô phương cứu chữa rồi ạ. Giờ chúng ta chì có thể vừa kéo dài thời gian vừa cầu nguyện sẽ xảy ra một điều kỳ diệu thôi.” “Nhưng, nhưng, bố tôi vừa thi lấy bằng lái thuyền mơ ước từ lâu… Ông ấy đã rất cố gắng dành thời gian mới thi được để từ giờ còn lái thuyền mà. Các cậu phải có cách gì khác chứ? “Không có cách nào đâu ạ. Nếu còn phương pháp chữa trị khác thì tôi đã nói với gia đình rồi ạ.” “Kể cả thế, tôi nghe nói dùng chiết xuất nấm tác dụng rất tốt, liệu pháp Proton*, rồi còn thảo dược nữa… Phải, phải có cách khác chứ? Cậu đã tìm hiểu kĩ càng chưa đấy?” “Không còn cách nào đâu ạ. Phương pháp điều trị có căn cứ khoa học, được nhận định mang lại hiệu quả là thuốc chống ung thư bác đang dùng. Loại thuốc chống ung thư này không thế ngăn bệnh tình tiến triển, chỉ có tác dụng đến thế thôi ạ. Giờ không phải lúc chúng ta nên tranh luận vấn đề bác nhà có tử vong hay không, phí phạm thời gian. Tử vong là chắc chắn. Sang năm bố anh sẽ không còn nữa đâu ạ. Mọi người cần bàn xem nên làm gì trong khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại trước khi bác mất. Với tư cách là một chuyên gia, tôi sẽ hỗ trợ mọi người hết khả năng ạ.” “Cậu, cậu! Sao cậu lại có thể nói đến chuyện… chết chóc ở đây. Cậu nói gì với chồng tôi vậy hả? Chúng tôi chỉ trông chờ một tia hy vọng. Vậy mà cậu ăn nói như thế, thật quá quắt…” Đến lượt vợ người bệnh lên tiếng, mắt bà đỏ hoe. Kiriko nghiêng đầu, vẻ mặt đầy khó hiểu. “Bác trai rất quan trọng với mọi người phải không ạ?” “Đương nhiên rồi!” “Cháu nghĩ, chính vì bác trai rất quan trọng nên mọi người càng cần nghiêm túc cân nhắc về việc ra đi của bác ấy mới phải.” Giọng điệu lãnh đạm của Kiriko khiến cả gia đình bùng nổ. Ba người họ đều cực kỳ giận dữ. Phòng tư vấn ngập tràn những tiếng tranh cãi. Lông mày không hề máy động, Kiriko lẳng lặng quan sát toàn bộ khung cảnh trước mắt, bình thản như thể mình đang xem kịch. Anh nghĩ mãi vẫn không hiểu vì sao họ phải làm ầm ĩ đến mức này. Chỉ riêng bệnh nhân là không lên tiếng. Ông im lìm cúi đầu, gương mặt trắng bệch. Trời rất đẹp, gió thổi mạnh. Vừa ngắm tán cây tiêu huyền rung rinh Fukuhara Masakazu vừa sải rộng bước chân trên hành lang nối giữa hai tòa nhà. Nước da rám nắng khỏe khoắn, vóc dáng rắn rỏi cứng cáp, gương mặt anh mang những đường nét sắc cạnh và đôi mắt chứa đựng một ý chí mạnh mẽ. Vừa thẳng tiến anh vừa chào hỏi nhân viên bệnh viện và bệnh nhân mình chạm mặt trên đường. “Bác sĩ gì mà không hiểu tâm trạng người bệnh! Chúng tôi sẽ không bao giờ đến cái bệnh viện này nữa!” Đột nhiên có tiếng quát tháo vọng tới. Fukuhara vừa nhìn sang liền thấy người nhà bệnh nhân lao ra từ phòng tư vấn tòa nhà phía bắc. Mặt họ đều đỏ gay lên vì giận dữ. Một người phụ nữ ôm mặt khóc nức nỏ đang được chàng trai ôm vai dìu đi. “Có chuyện gì vậy?” Fukuhara vội vàng đi tới. Thấy Fukuhara cao lớn lại gần, người phụ nữ thoáng giật mình, nhưng thấy tấm bảng tên “Bác sĩ khoa Ngoại Fukuhara Masakazu” đính trên ngực áo anh, bà cất tiếng như nài nỉ. “Bác sĩ chỗ các anh cứ nói chồng tôi sẽ chết.” “Nghĩa là sao ạ?” “Cậu ta hết lần này đến lần khấc khăng khăng bảo chồng tôi sắp chết. Bác sĩ ăn nói kiểu đó, chúng tôi chữa cũng như không… Bác sĩ đã mặc kệ thì chúng tôi còn biết làm thế nào. Các anh định vứt bỏ bệnh nhân đang khốn khổ hay sao?” “Xin bác bình tĩnh đã ạ. À, bác là… bác Hashida ở khoa Huyết học? Bác đang làm hóa trị đợt đầu* phải không ạ?” Đỡ lấy người phụ nữ, Fukuhara nhìn sang bệnh nhân trong bộ pyjama. “Bác sĩ biết bố tôi sao?” Con trai bác Hashida rất bất ngờ vì vị bác sĩ mới gặp mặt lần đầu này lại biết tường tận về bệnh tình của bố anh đến vậy. “Tôi là Viện phó, ít nhiều cũng nên ghi nhớ thông tin bệnh nhân đang nhập viện điều trị chứ.” “Viện phó…?” Nhìn kiểu gì thì Fukuhara cũng chỉ tầm ba mươi mấy tuổi. Nếu đặt vào vị trí người đảm nhận chức vụ Viện phó của một bệnh viện lớn thì anh còn quá trẻ. Con trai bác Hashida tròn mắt ngỡ ngàng. “Chúng tôi nghe nói khoa Ngoại bệnh viện Shichijuuji có một bác sĩ kỳ diệu. Nhờ liên tiếp cứu sống nhiều bệnh nhân nguy kịch cùng thành tích quá xuất sắc nên đã được đề bạt thành Viện phó?” “Không phải đâu, tôi vẫn còn phải học tập nhiều lắm ạ. Bố tôi là Viện trưởng, từ nhỏ bố đã định hướng cho tôi học hành. Mà tôi làm phiền mọi người lâu quá rồi. Tôi sẽ cho tư vấn lại trường hợp của bác nhà ngay. Em ơi, gọi giúp anh bác sĩ phụ trách ca này được không? Bác sĩ Akazono khoa Huyết học ấy.” Sau khi gọi y tá đi ngang qua, Fukuhara đỡ bác Hashida ngồi xuống xe lăn. Y tá gật đầu, nhanh nhẹn đi vào phòng trục của y tá. Fukuhara đứng dậy. Anh cao ráo đến mức người khác phải ngước nhìn, dáng vẻ khiến người ta tin cậy. “Tôi cũng sẽ tham gia tư vấn. Tôi ở khoa Ngoại, tuy chuyên môn khác nhưng biết đâu có thể giúp ích được gì đó. Để tôi cùng mọi người chiến đấu với bệnh tật.” Fukuhara nhìn bác Hashida, ánh mắt cương quyết. “Bác Hashida, chúng cháu không bỏ cuộc đâu ạ. Làm bác sĩ, cháu từng chứng kiến nhiều kỳ tích rồi. Kỳ tích có xảy đến đấy ạ. Không, chúng ta hãy cùng nhau tạo nên kỳ tích nhé.” Cánh cửa sau lưng Fukuhara mở ra. Kiriko Shuuji rời phòng tư vấn. Kẹp giấy tờ vào dưới cánh tay, anh nhè nhẹ nhìn lướt qua bác Hashida ngồi trên xe lăn, người nhà của bác và Fukuhara. “Xin hãy giữ gìn sức khỏe ạ.” Chỉ nói vậy rồi Kiriko xoay gót bỏ đi. Tiếng bước chân đều đều, nhịp nhàng như đồng hồ quả lắc xa dần. Chỉ vào lưng Kiriko, vợ bác Hashida nghẹn ngào. “Chính… chính cậu ta. Nói toàn những điều kinh khủng.” “Cháu rất, rất xin lỗi bác ạ.” “Cậu ta là ai thế? Bác sĩ kiểu gì vậy?” Nhăn nhó như ăn phải thuốc đắng, Fukuhara đáp. “Kiriko Shuuji khoa Da liễu ạ. Cậu ta là nhân vật chuyên gây rối của bệnh viện chúng cháu đấy bác à.”   Mời các bạn đón đọc Bác Sĩ Cuối Cùng Dưới Tán Hoa Anh Đào của tác giả Atsuto Ninomiya & Mai (dịch).
SOS
Có một nghề được gọi là “làm mẹ”. Đó là trở thành mẹ của những đứa trẻ không do mình mang nặng, rứt ruột sinh ra. Đó là trở thành mẹ trong một khoảng thời gian định sẵn, với những qui định không mấy dễ chịu, và một trong số những qui định ấy là quên đi hạnh phúc của cá nhân mình. Và cái chốn được gọi là gia đình ấy hẳn phải là nơi đầy ắp tình yêu thương, chan chứa sự vỗ về và an ủi tâm hồn người ta lắm. Bởi chỉ có như thế, “mẹ” mới sẵn sàng quên mình vì hạnh phúc của các “con”. Thế thì điều đó lí tưởng quá còn gì. Thực tế, làng trẻ để các cô gái trẻ tự nguyện vào đây làm mẹ, để chăm sóc những đứa trẻ mồ côi, bất hạnh, lại không được lý tưởng đến thế. Một làng trẻ mà thiếu tiếng trẻ nô đùa, nghịch ngợm. Một làng trẻ mà trật tự khuôn phép được đặt lên hàng đầu. Một làng trẻ không khác nào môi trường quân sự, mà những đứa trẻ chính là những chú lính tí hon dễ bảo. Một làng trẻ mà những đứa trẻ bị đánh mất tuổi thơ… Làm sao để yêu thương và được yêu thương tại một nơi nhân danh yêu thương, nhưng yêu thương lại không hề tồn tại? Làm sao có thể giải quyết được mâu thuẫn giữa yêu thương lí tưởng và lí tưởng yêu thương? Và “làm sao biết được những đôi mắt sớm suy tư đang nghĩ gì?” S. O. S! *** Có một công việc được gọi là “làm mẹ”. Có một quy định được gọi là “làm con”. Tình mẫu – tử chỉ trọn vẹn khi “mẹ” phải mang nặng và đứt ruột khi sinh ra “con”, có phải? Làm sao để yêu thương và được yêu thương tại một nơi mà tính yêu thương nhiều khi là bổn phận? _______________________________ Những câu văn trên được tớ trích ra từ tác phẩm truyện dài “SOS” của Nguyên Hương. Nguyên Hương có lẽ là một cái tên hơi xa lạ với các độc giả nhưng các tác phẩm của cô đều chứa đựng những lí tưởng cao đẹp, quý giá. Tuy “SOS” không phải là quyển sách đầu tiên của Nguyên Hương mà mình đọc, nhưng mình thực sự rất ấn tượng với nó. Ấn tượng từ cái tên, cái bìa và cả nội dung. Toàn bộ câu chuyện dài 180 trang kể về cô gái tên Thùy. Cô đang ở tuổi đời thanh xuân phơi phới, tương lai phía trước đang rộng mở đón chờ cô. Nhưng cô không chọn một công việc bình thường, rồi cưới chồng, rồi chăm lo cho đứa con chính mình đứt ruột sinh ra, mà lại chọn công việc làm “mẹ” ở trại trẻ SOS – trại trẻ dành cho các trẻ em cơ nhỡ, gia đình bỏ rơi. Một mình cô, nuôi 8 đứa “con”, đứa lớn nhất 11 tuổi và đứa nhỏ nhất mới chỉ 4 tuổi. Tại đây, những tình yêu chân thành, chất phát tỏa ra. Với văn phong tự nhiên, ngôn ngữ bình dị nhưng lại giàu cảm xúc xuyên suốt cả nội dung quyển sách, Nguyên Hương đã cho ta thấu cảm được tình mẫu – tử thiêng liêng từ giữa một người mẹ và các đứa con không cùng huyết thống. Những tình cảm chất phác, trong sang của các đứa trẻ đối với “người mẹ” xa lạ nhưng tình cảm ấy lại thân thuộc và ấm áp vô cùng. Đây thực sự là một quyển sách hay, một câu chuyện đẹp và đầy ý nghĩa nhân văn về tình cảm gia đình. Đây thực sự là một quyển sách rất đáng để đọc. _______________________________ Làm sao biết được những đôi mắt sớm suy tư đang nghĩ gì? Làm sao để giải quyết được mâu thuẫn giữa yêu thương lí tưởng và lí tưởng yêu thương? Làm mẹ có phải là một công việc không? REVIEW CỦA BẠN Le Hoang Thuy Vy   Mời các bạn đón đọc SOS của tác giả Nguyên Hương.
Nụ Cười Dưới Chân Thang
Henry Miller là người Mỹ, sinh tại New York, tại một thành phố tượng trưng cho Sinh mệnh Tây phương trong trạng thái huy hoàng nhất, với tất cả khám phá mới mẻ nhất của khoa học và cơ khí, mẫu mực của đời sống con người ở thời đại nguyên tử. Henry Miller chính là người đã phá hủy đời sống theo điệu Mỹ, đã phá Văn minh Mỹ một cách khốc liệt; đối với Henry Miller, tất cả những gì tàn bạo nhất, ngu xuẩn nhất, khờ khệch nhất, bi đát nhất, rỗng tuếch nhất, nhạt nhẽo nhất đều xuất phát từ Mỹ quốc, quê hương của ông. Tất cả những quyển sách của Henry Miller đều tố cáo Văn minh Mỹ quốc, tố cáo sự điêu tàn của Tây phương, tố cáo đời sống nông cạn của con người thời đại, tố cáo những ảo tưởng điên rồ của xã hội, đoàn thể, tôn giáo, đảng phái; luân lý, đạo đức; Henry Miller đánh dấu sự cáo chung của văn chương, thi ca và nghệ thuật: “Cách đây một năm, cách đây sáu tháng, tôi nghĩ rằng tôi là nghệ sĩ. Bây giờ tôi không nghĩ về việc ấy nữa, tôi LÀ!“ (Henry Miller, Tropic of Cancer, trang 1), “Tất cả những gì là văn chương, văn nghệ, văn học đều tách rời khỏi tôi” (op. cit, trang 1); Henry Miller “khạc nhổ vào mặt của nghệ thật, đá vào đít của Thượng đế, của Người, của Sinh mệnh, của Thời gian, của cái Đẹp, của Tình yêu!” (op. cit, trang 2); Henry Miller cho rằng Rimbaud đã thất bại một cách chua xót là vì “thời gian chưa chín muồi” (The time was not ripe) (cf. Henry Miller, the Books in my life, Icon Books; 1963, trang 96); Henry Miller khơi mở tất cả ý nghĩa trong sắc lệnh của Rimbaud: “A bas l’histoire!) (Đả đảo lịch sử!) (cf. Henry Miller, op. cit trang 86); Henry Miller ca tụng Rimbaud và gọi Rimbaud là “Kha Luân Bố của Tuổi trẻ” (cf. New Directions IX, New Directions XI) và cho rằng hành động của Rimbaud (khi lìa bỏ Tây phương để sống cuộc đời vất vả kỳ lạ ấy ở Phi châu) là một sự tự tử, vì Rimbaud thất vọng khi thấy Tây phương không còn thoát khỏi Tất mệnh đau thương kia. Bài văn đầu tiên trong đời Henry Miller là bài cảo luận ông viết về quyển Anti-Christ của Nietzsche; Henry Miller khinh miệt Heidegger, nhưng ông quí Eckhart và trích dẫn câu văn của Eckhart: “Hãy nhìn, tất cả là Bây giờ duy nhất” (cf. Henry Miller, Remember to Remember) và chính Henry Miller thốt lên: “Tất cả phải là một”. “Tất cả là một”, đi ngược lại với εν Πάντα của Héraclite trong tinh thần tương tức tương nhập của Kinh hoa nghiêm Phật giáo, “nhất tức nhất, nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất, nhất thiết tức nhất thiết”; khi đứng tại Mycenae tại Hy Lạp, trước mồ của Clytemnestra, Henry Miller đã sống lại tất cả những bi kịch Hy Lạp Thượng cổ (Eschyle, Sophocle, Euripide, vân vân); tác phẩm vĩ đại nhất của Henry Miller là quyển Colossus of Marcussi, nói lên sự trở về nguồn của Henry Miller khi ông khám phá lại đất trời Hy Lạp, sống lại buổi Triêu Dương của Sinh mệnh Tây phương; niềm vui vô hạn của sự tỉnh thức kỳ diệu lan tràn chan chứa trong quyển Colossus of Maroussi. Henry Miller là người duy nhất (trong mấy ngàn năm của Sinh mệnh Tây phương) người độc nhất đã tỉnh thức hoàn toàn, yêu Hố thẳm và đã mọc cánh bay vút từ Hố thẳm lên đến Thiên Không xanh lơ; ông ôm choàng cuộc đời vũ trụ trong vòng tay âu yếm (Henry Miller: Instinctively; just as a bird takes wing, he threw ou: his arms in an all-encompassing embrace), run say sung sướng tràn trề trong niềm vui lai láng vô biên, thốt lên mừng rỡ ở giây phút tối hậu: “Thế là đến rồi! Đến rồi!” (“At last, At last!”). Henry Miller tự xưng là “một thằng hề” truyện The Smile at the Foot of the Ladder (Cười dưới chân thang) của Henry Miller là nói về một anh hề kỳ lạ nhất chưa từng có trong lịch sự loài người; Henry Miller cho rằng truyện ấy là “truyện kỳ lạ nhất mà tôi đã viết trong đời” (undoubtedly it is the strangest story I have yet written); trong truyện ấy, Henry Miller đã đưa Sinh mệnh đến Tất mệnh và bay lên bầu trời xanh lơ của Tính mệnh trong Bình minh của Hố thẳm: “Niềm vui giống như một con sông: nó chảy miên man không ngừng. Đối với tôi, đó dường như tất cả lời nhắn gửi mà người hề đang cố gắng mang đến cho chúng ta, nhắn gửi chúng ta hãy nhập thế với dòng tuôn chảy di động không ngừng, nhắn gửi chúng ta đừng dừng lại để suy nghĩ, để so sánh, để phân tích, để ghì giữ, mà hãy tiếp tục tuôn chảy không ngừng vô cùng vô tận như dòng nhạc miên man. Đó là dâng bỏ, buông rơi, siêu thoát; người hề đã diễn tả sự siêu thoát ấy một cách tượng trưng. Còn chúng ta hãy làm sự siêu thoát ấy thành hiện thể”. (Joy is like a river: it flows ceaselessly. It seems to me that this is the message which the clown is trying to convey to us, that we should participate through ceaseless flow and movement that we should not stop to reflect, compare, analyze, possess, but flow on and through, endlessly, like music. This is the gift of surrender, and the clown makes it symbolically. It is for us to make it real). Henry Miller đã sống qua hết những mâu thuẫn, những bi kịch đau đớn khôn cùng của cuộc đời: “Chúng ta chết đang khi vùng vẫy để sinh ra đời. Chúng ta không bao giờ đã là, không bao giờ đang là. Chúng ta đang luôn luôn trong tiến trình biến dịch, luôn luôn ly cách và đứt lìa. Luôn luôn ở bên ngoài”. (We die struggling to get born. We never were, never are. We are always in process of becoming, always separate and detached. Forever outside). Những dòng chữ trên nói lên Sinh mệnh cựa quậy trên bờ đất, khi Sinh mệnh không còn tuôn chảy trong dòng sông Tính mệnh. Muốn sống lại, chúng ta chỉ cần khơi mở và khám phá: tất cả đều đã có sẵn trong ta rồi (we uncover and discover. All has been given, as the mystics say). Chúng ta chỉ cần mở mắt và lòng để trở nên một với toàn thể (we have only to open our eyes and hearts, to become one with that which is). Henry Miller là một trong số rất ít người mà Sinh mệnh đã được giải thoát; Henry Miller nhìn thế giới này qua một màu sắc mới lạ khác hẳn cách nhìn của đôi mắt thường nhân. Henry Miller nhìn thấy cuộc đời với một đôi mắt khác. Henry Miller sống tràn trề trọn vẹn trong khoảnh khắc hiện tại và sự hiện diện của Henry Miller chiếu tỏa rực ngời ánh dương buổi sớm, tuôn dậy một bài ca bất diệt của niềm vui chan chứa hương mai. Henry Miller mỉm cười dưới chân thang, một nụ cười thênh thang thiên sứ tuyệt trần (it was a broad, seraphic smile). Mời các bạn đón đọc Nụ Cười Dưới Chân Thang của tác giả Henry Miller.
Một Giọt Nắng Nhạt
Trong nhiều sáng tác Nguyễn Khải ta đã bắt gặp nhân vật xưng tôi. Một nhân vật tôi nửa là nhân vật hư cấu, nửa là chính nhà văn, tức là có một sự mơ hồ, lẫn lộn một cách chủ ý. Lối viết này thực ra không hoàn toàn mới trong lịch sử phát triển của văn học trong nước cũng như trên thế giới. Cái đặc sắc của Nguyễn Khải ở chỗ cái tình rất thực, tự bạch cũng là tự kiểm, tự đánh giá qua tự truyện. Kể cả tự giễu- một khuynh hướng đánh giá có màn sắc triết lý mà cũng rất trần đời. Một giọt nắng nhạt kể về quãng tuổi thơ đầu đời_"cái tuổi 15". Có nhiều nét giống Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, lại có cả những khía cạnh như Cỏ dại của Tô Hoài, nhưng có cái vẻ "dữ dội" hơn ở khía cạnh tâm lý. Cái khổ của vật chất cộng cái khổ tinh thần trĩu xuống tâm hồn thơ dại nhưng cũng đủ hiểu biết, thức tỉnh. *** Nguyễn Khải (3/12/1930 - 15/1/2008) Nhà văn được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. - Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội. Quê nội ở thành phố Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở nhiều nơi. Đang học trung học thì gặp Cách mạng tháng Tám. - Trong Kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Khải gia nhập tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo. Bắt đầu viết văn từ những năm 1950, được chú ý từ tiểu thuyết Xung đột (phần I năm 1959, phần II năm 1962). - Sau năm 1975, ông chuyển vào sinh sống tại tp. Hồ Chí Minh. - Năm 1988, ông rời quân đội với quân hàm đại tá để về làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Khải từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa VII. - Các sáng tác của ông khá phong phú: về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về những vấn đề xã hội–chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống. Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí tỉnh táo. - Năm 1982, ông nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm. - Năm 2000, nhà văn được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật. - Ông mất năm 2008 tại thành phố Hồ Chí Minh do bệnh tim. Tác phẩm đã xuất bản Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, kịch. Trong đó, Nguyễn Khải để dấu ấn qua nhiều tác phẩm như: Xây dựng (truyện vừa, 1952) Xung đột (ghi chép nhiều tập, truyện, 1959-1962) Câu chuyện giữa một người đọc và một người chép (Nghiên cứu lý luận, 1959) Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960)  Một chủ đề chung quán xuyến tất cả sáng tác của tôi: Làm thế nào cho con người sống được hạnh phúc hơn. (trả lời phỏng vấn, báo Văn học, 1962) Sức mạnh của ngòi bút là được chiến đấu cho lẽ phải, cho chân lý (trao đổi, báo Văn học, 1962) Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1963) Đường vào nghệ thuật (NXB Thanh niên, 1963) Gia đình lớn (Truyện vừa, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 1964) Người trở về (Tập truyện vừa, NXB Văn học, 1964)  Sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật thật cao đẹp xứng đáng với nhân dân anh hùng (Báo nhân dân, 1968) Người 40 tuổi (Tự sự lúc bước sang một năm mới, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1970) Ra đảo (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1970) Đường trong mây (tiểu thuyết, NXB Văn học, 1970) Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1971) Chủ tịch huyện (truyện, NXB Văn học 1972) Chiến sĩ (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1973) Đối mặt (kịch, Tạp chí Tác phẩm mới, 1974) Tháng ba ở Tây Nguyên (ký sự, NXB Quân đội nhân dân, 1976) Cách mạng (kịch 4 màn, NXB Quân đội nhân dân, 1978) Cha và Con và... (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1979) Hành trình đến tự do (Kịch, NXB Văn nghệ, 1980) Khoảnh khắc đang sống. (Kịch bản điện ảnh, Báo Văn nghệ, 1980)  Bạn bè trên cao nguyên (truyện, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1981) Gặp gỡ cuối năm (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1982) Khoảnh khắc đang sống (kịch bản phim, truyện ngắn, NXB Văn nghệ, 1982)  Văn xuôi một chặng đường 1963-1983. Báo cáo bổ sung trình bày trong Đại hội lần thứ III Hội Nhà văn Việt Nam (Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 1984) Thời gian của người (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1982) Điều tra về một cái chết (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1986) Cái thời lãng mạn (truyện vừa, Báo Văn nghệ, 1987) Vòng sóng đến vô cùng (truyện, NXB Trẻ, 1987)  Nghề văn, nhà văn và Hội nhà văn (ý kiến, Báo Văn nghệ, 1988) Một giọt nắng nhạt (sách măng non, NXB Trẻ, 1988)  Những suy nghĩ về đổi mới văn nghệ (Báo Văn nghệ, 1989) Đến một nơi rất xa để được hiểu lại mình (Tạp chí Tác phẩm văn học, 1989) Một cõi nhân gian bé tý(tiểu thuyết, NXB Văn nghệ, 1989) Một người Hà Nội (tập truyện, NXB Hà Nội, 1990) Danh nhân của làng (truyện ngắn, 1991)  Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức (truyện ngắn, báo Văn nghệ, 1991)  Chuyện tình của mỗi người (truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1992) Nghề văn cũng lắm công phu (Báo Văn nghệ, 1992-1993) Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu (tập truyện, NXB Hội nhà văn, 1993) Một thời gió bụi (tập truyện ngắn, NXB Lao động, 1993)  Tôi nhiệt liệt ủng hộ các cây bút trẻ có tài. Thư ngỏ gửi nhà văn (báo Văn nghệ trẻ, 1995)  Nhìn lại những trang viết của mình. Tham luận tại Hội thảo Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1995) Hà Nội trong mắt tôi (tập truyện ngắn, NXB Hà Nội, 1995) Nguyễn Khải với nghề văn (Báo Văn nghệ trẻ, 1996) Bắt đầu từ một câu nói (9-1996) Cuộc tìm kiếm mãi mãi (3-1996)  Tâm sự văn chương của nhà văn Nguyễn Khải (Báo Văn nghệ trẻ, 1997) Truyện ngắn và tạp văn (NXB Trẻ, 1997) Chị Xuân, chị Đào (Bút ký, Phụ san Văn nghệ Quân đội, 1998)  Người Ngu (Báo Văn nghệ trẻ, Xuân Mậu Dần, 1998) Những tháng năm yên tĩnh (Bút ký, Báo Văn nghệ, Tết Mậu Dần, 1998)  Ước gì tôi được trẻ lại, Chuyện cà kề, Một lá phiếu và một lá phiếu (Lão Bộc) (Phụ san Văn nghệ Quân đội, 1998)  Hạnh phúc đến muộn (Kịch nói, Tạp chí Tác phẩm mới, 1998) Một bài tiểu luận làm tôi thay đổi cả quan niệm về tiểu thuyết (trả lời phỏng vấn, Báo Tuổi trẻ chủ nhật, 1998)  Chút phấn của đời. (kịch nói 2 màn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1999) Hãy biết cách cống hiến bạn đọc cái phần mạnh nhất của mình. Bài phát biểu tại lễ trao giải thưởng văn học 1998 của Hội nhà văn  Một cuộc bàn giao chậm lại đúng nửa thế kỷ (Báo Văn nghệ Tết Kỷ Mão, 1999)  Đến một nơi rất xa để được hiểu lại mình. (bút ký, Báo Văn nghệ, 1999) Đọc "Tiểu thuyết thứ bảy" (Báo Văn nghệ, 1999)  Chế Lan Viên - một nghệ sĩ, một chiến sĩ (Báo Văn hóa thể thao, 1999) Tìm đất sống (bút ký, Báo Văn nghệ, 1999) Truyện nghề (NXB Hội Nhà văn, 1999)  Tết của một chiến sĩ tình báo (Báo Văn nghệ Tết Canh thìn, 2000) "Tiểu thuyết là tinh hoa của hiện thực" (Báo Văn nghệ Tết Canh thìn, 2000)  Mạch nước trong vẫn lặng lẽ chảy (Báo Sài Gòn tiếp thị, 2000)  Đôi điều biết thêm về Nguyễn Văn Vĩnh (Phụ san Văn nghệ quân đội, 2000) Danh dự (truyện, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 2000)  Người Việt nam những chục năm đầu thế kỷ XX (Báo Văn nghệ, 2000) Tây Nguyên nửa đầu thế kỷ XX (Báo Văn nghệ, 2000)  Tôi là người may mắn (trả lời phỏng vấn, Báo Lao động, 2000)  Giận ông giời (truyện ngắn, Báo Văn nghệ, 2001) Má hồng (truyện ngắn, Báo Văn nghệ, 2001) Sống ở đời (tập truyện, NXB Trẻ, 2002) Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, 2003), mang giọng văn hồi ký về cuộc đời viết lách của ông. Cuối đời, ông dành thời gian đúc kết những nghĩ suy, đau đáu trong tùy bút: Nghĩ muộn (Tùy bút, 2000) Đi tìm cái tôi đã mất (Tùy bút, 2006) Mời các bạn đón đọc Một Giọt Nắng Nhạt của tác giả Nguyễn Khải.