Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Làm Lẽ

Tiểu thuyết ngắn đầu tay của Mạnh Phú Tư, đoạt giải Tự lực văn đoàn năm 1939. Mạnh Phú Tư (1913-1959), tên thật là Phạm Văn Thứ, cùng chi với chi của tuyển thủ bóng đá nam quốc gia Phạm Như Thuần, quê ở xã Thanh Lang, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông là một tác giả văn xuôi nổi tiếng trước năm 1945, trong đó tác phẩm tiêu biểu là tiểu thuyết "Làm lẽ" được giải thưởng của Tự lực văn đoàn năm 1939. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Thanh Hà. Ông tiếp tục viết văn, làm báo. Năm 1959, ông mất ở Hà Nội khi đang làm biên tập viên báo "Văn học". Tác phẩm chính: Làm lẽ (1939), Gây dựng (1941), Nhạt tình (1942), Sống nhờ (1942), Một thiếu niên (1942), Người vợ già (1942), ... *** Giải thưởng Tự Lực Văn Ðoàn năm 1939   PHẦN THỨ NHẤT Một buổi trưa nắng gắt, cuối hè. Hình như có bao nhiêu sức nóng, ngày giờ cố hút hết, để sắp sửa sang thu. Trong làng không một tiếng động; mọi vật bị nắng đốt, im lìm trong không khí khó thở. Không một hơi gió. Trên chiếc sân đất nẻ, gồ ghề và rắn cứng, Trác đội chiếc nón chóp rách, khom lưng quét thóc. Nàng phải dển hai bàn chân để tránh bớt sức nóng của sân đất nện. Thỉnh thoảng, nàng đứng ngay người cho đỡ mỏi lưng, rồi đưa tay áo lên lau mồ hôi ròng ròng chảy trên mặt. Chiếc áo cánh nhuộm nâu đã bạc màu và vá nhiều chỗ bị ướt đẫm, dán chặt vào lưng nàng. Cái yếm trắng bé nhỏ quá, thẳng căng trên hai vú đến thì và để hở hai sườn trắng mịn. Mỗi lần Trác cúi hẳn xuống để miết chiếc chổi cùn nạy những hạt thóc trong các khe, cái váy cộc, hớt lên quá đầu gối, để lộ một phần đùi trắng trẻo, trái hẳn với chân nàng đen đủi vì dầm bùn phơi nắng suốt ngày. Dưới mái hiên, ngay gần chái nhà bếp, bà Thân, mẹ nàng, ngồi trên mảnh chiếu rách, chăm chú nhặt rau muống. Bà cầm trong tay từng nắm rau con, vảy mạnh cho sạch những cánh bèo tấm, rồi cẩn thận ngắt lá sâu, lá úa; vạch từng khe, từng cuống tìm sâu. Bà cẩn thận như thế là vì đã hai bữa cơm liền, bữa nào trong bát rau luộc cũng có sâu, và Khải, con giai bà, đã phải phàn nàn làm bà đến khó chịu. Chốc chốc, bà với chiếc khăn mặt đỏ rách vắt trên vai, lau mắt như để nhìn cho rõ thêm. Hết mớ rau, bà mệt nhọc, ngồi ngay hẳn lên, thở hắt ra một hơi dài, đưa mắt nhìn ra sân. Thấy Trác làm lụng có vẻ mệt nhọc, bà động lòng thương, dịu dàng, âu yếm bảo: - Nắng quá thì để đến chiều mát hãy quét con ạ. Tội gì mà phơi người ra thế. Rồi bằng một giọng buồn buồn như nói một mình: - Khốn nạn! Con tôi! Nắng thế này! Trác thấy mẹ ngọt ngào, tỏ vẻ thương mình, trong lòng lâng lâng vui sướng. Nàng cũng dịu dàng đáp lại: - Chả còn mấy, mẹ để con quét nốt. Nói xong nàng lại cúi xuống thong thả quét. Nàng vui vẻ thấy đống thóc gần gọn gàng: nhưng nàng vẫn không quên rằng hót xong thóc lại còn bao nhiêu việc khác nữa: tưới một vườn rau mới gieo, gánh đầy hai chum nước, thổi cơm chiều, rồi đến lúc gà lên chuồng, lại còn phải xay thóc để lấy gạo ăn ngày hôm sau. Song nàng không hề phàn nàn, vì phải vất vả suốt ngày. Những việc ấy, không ai bắt buộc nàng phải làm, nhưng nàng hiểu rằng không có thể nhường cho ai được, và nếu nàng không dúng tay vào tất trong nhà sẽ không được êm thấm, vui vẻ. Quét vòng quanh mấy lần, từng thóc đã dần dần dày thêm, và nhát chổi đã thấy nặng, Trác lấy cào vuôn thóc vào đống. Bà Thân đã nhặt xong ba mớ rau. Bà biết rằng bà đã xem xét cẩn thận lắm, nên bà vừa bới những ngọn rau trong rổ, vừa thì thầm: "Lần này thì đào cũng chẳng có lấy nửa con!" Bà đứng lên mang rổ rau đi rửa. Vì ngồi lâu, nên hai chân tê hẳn, mấy bước đầu bà phải khập khiễng, như đứa bé mới tập đi. Bà cầm chiếc nón rách cạp, đội lên đầu, rồi bước xuống sân. Thấy Trác đặt chiếc cào mạnh quá, bà khẽ nói: - Đưa cào nhẹ chứ con ạ, kẻo nó trật gạo ra. Trác im lặng, không trả lời; nhưng từ nhát cào sau nàng làm theo lời ngay. Tính nàng vẫn thế. Không bao giờ nàng muốn trái ý mẹ, ngay những lúc mẹ bắt làm những việc mà riêng nàng, nàng không ưng thuận. Trác còn nhớ một lần, mây kéo đen nghịt trời, trận mưa to như sắp tới. Rơm rạ, phơi khắp mọi nơi, ngoài sân sau nhà, và cả ở những góc vườn không trồng rau. Nàng vội lấy nạng để đánh đống, mẹ nàng cứ nhất định bắt làm tua để hứng nước ở các gốc cau. Nàng bảo dọn rơm, rạ vào trước, rồi làm tua sau, nhỡ có mưa ngay thì rơm, rạ cũng không bị ướt. Nàng lại nói thêm: "Thưa mẹ, nước thì không cần cho lắm, không hứng cũng được, con đi gánh. Chứ ngần này rơm, rạ ướt thì phơi phóng đến bao giờ cho nỏ". Nhưng mẹ nàng nhất định không thuận: - Cứ nghe mẹ làm tua hứng nước đi đã rồi hãy dọn cũng vừa. Trời này có mưa cũng còn lâu. Kiếm ngụm nước mưa mà uống cho mát ruột. Tội gì ngày nào cũng đi gánh cho u vai lên ấy! Thế rồi bà bắt nàng lấy hai cái thùng sắt tây, hai cái nồi đất và cả chiếc nồi mười để hứng nước. Trác không cưỡng được ý mẹ, cặm cụi làm năm cái tua buộc vào năm gốc cau mang nồi ra đặt. Công việc ấy vừa xong, trận mưa đổ xuống. Bao nhiêu rơm, rạ ướt hết. Trận mưa chỉ độ một lúc, rồi tạnh hẳn. Mẹ nàng đội nón giời râm ra thăm nước mưa. Nhưng mỗi tua chỉ được chừng một bát nước. Bà thở dài: "Rõ chán! Nước mưa chẳng thông tráng nồi, lại ướt mất mẻ rơm". Nghe mẹ nói, Trác chỉ buồn cười, không dám nói gì, e mẹ phật ý. Nàng mang chuyện ấy kể cho mấy bạn gái hàng xóm. Họ ngặt nghẹo cười, nàng như muốn chữa thẹn: "ấy, bây giờ bà cụ già nên đâm ra lẩm cẩm thế đấy! Chúng mình ngày sau biết đâu rồi lại không quá!". Bà Thân đã rửa rau ở cầu ao về. Bà tì cạp rổ vào cạnh sườn, một tay dang ra giữ lấy. Rổ rau chưa ráo nước, hãy còn luôn luôn rỏ xuống gần chân bà, và làm thành một vệt ướt trên bờ hè. Thấy Trác đang khệ nệ bưng thóc đổ vào cót, bà mỉm cười bảo, tựa như nàng hãy còn bé bỏng lắm: - Con tôi! Rõ tham lam quá. Xúc ít một chứ mà bưng cho dễ. Người bé lại cứ mang những thùng nặng như cùm. Nàng thong thả đáp lại: - Không nặng đâu mẹ ạ. Cái thùng bé tý ấy mà. Nàng như quên cả nắng, bức; hốt một lúc đã hết đống thóc. Nàng sung sướng ngồi nghỉ ở đầu hè, cầm chiếc nón lá phe phẩy. áo nàng ướt, lại thêm gió quạt, nên nàng thấy một thứ mát dịu dàng thấm thía cả thân thể, làm da thịt nàng đê mê, như khi ta lẹ làng đưa tay trên tấm nhung. Mấy chiếc tóc mai cứ theo chiều gió quạt bay đi bay lại. Hai má nàng vì có hơi nóng, nổi bật màu hồng, và nét mặt nàng càng thêm xinh tươi. Trác thấy bớt nóng, đứng dậy lồng hai chiếc nồi đất vào quang gánh nước. Chẳng bao giờ nàng phải suy nghĩ mới nhớ ra việc; nàng đã quen rồi. Việc gì phải làm trước, việc gì phải làm sau, nàng biết ngay từ sáng sớm. Và ngày nào cũng hình như chỉ có ngần ấy việc, nên buổi tối, khi nàng đặt mình vào giường, là bao nhiêu công việc đã gọn gàng cả, không một việc gì bỏ sót. Tới sáng hôm sau, lúc gà bắt đầu gáy, nàng thức dậy, những công việc phải làm đã như xếp sẵn trong óc. Trác vừa gánh đôi nồi ra khỏi nhà được một lúc, có tiếng chó sủa. Bà Thân vội chạy ra. Bà Tuân tay cầm một cành rào để xua chó, vừa thấy bà Thân đã cười cười nói nói: - Nào, hôm nay lại ăn rình một bữa đây! Cụ có cho không hay là lại lấy nạng nạng ra. Bà Thân cũng cười một tràng dài: - Chỉ sợ lại chê cơm khê rồi làm khách thôi. Rồi bà vừa mắng con chó cứ dai dẳng sủa mãi, vừa lấy giọng đứng đắn. - Sao lâu nay không thấy cụ lại chơi? Bà Thân đưa tay cầm cái bã trầu đã lia ra tới mép, vứt đi; lấy mùi soa lau mồm cẩn thận, rồi ghé vào tai bà bạn như sắp nói một câu chuyện kín đáo can hệ: - Úi chà! Bận lắm cụ ạ. Cụ cứ xét nhà cụ thì đủ rõ. Công việc là cứ ngập lên tận mắt. Bà vừa nói vừa hoa tay, như để nhời nói thêm dễ hiểu. Bà Thân chưa kịp trả lời, bà ta đã sang sảng: - Hôm nay là đánh liều, sống chết mặc bay, nên mới lại hầu cụ được đấy. Thôi chỗ bạn già cả, mình còn gần gụi nhau lúc nào được lúc ấy. Đến lúc trời bắt tội, nhắm mắt buông xuôi xuống âm ty liệu có gặp nhau nữa không? Bà Thân cảm động vì những câu nói thân mật đó, thỉnh thoảng điểm một câu cười giòn và len thêm những tiếng: "Vâng!... vâng!..." như để chấm đoạn chấm câu cho bà bạn. Bà rủ khách vào nhà. Nhưng khách không nhận lời, nói giải chiếu ngồi ngoài hè cho mát. Bà đi tìm cơi trầu, chìa vôi, rồi ngồi đối diện với khách têm trầu. Bà Tuân hình như có câu nào đã nói ra hết; bà Thân khơi chuyện bằng câu hỏi: - Cụ đã ngả được mấy mẫu rồi? - Chưa được lấy một góc. Năm nay mượn phải anh lực điền làm vụng mà chậm quá. Làm với ăn chán như cơm nếp nát. Mời các bạn đón đọc Làm Lẽ của tác giả Mạnh Phú Tư.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mai Sẽ Là Một Ngày Mới
Một cô gái sinh ra trong nhung lụa với tương lai rộng mở đầy hứa hẹn. Ai quen biết cô đều nói cô có một cuộc sống đẹp như tranh vẽ, mọi thứ đều đã được trải thảm, chỉ việc nhẹ nhàng bước đi. Có ai ngờ bức tranh đó có ngày lại bị một vài đường nguệch ẩu lên, phá hỏng tất cả. Con đường vốn bằng phẳng bỗng trở thành ngõ cụt. Cô gái đang quen sống trong sự sung túc thoải mái sẽ phải làm gì? Trải qua nhiều chuyện, điều dẫn dắt cô qua khó khăn, tăm tối lại là một suy nghĩ tưởng chừng rất đơn giản, chính là câu nói nổi tiếng năm nào của Scarlett O’ Hara “Sau tất cả, mai sẽ là một ngày mới”. *** “Where there is love, life begins Over and over again” (I want to spend my lifetime loving you – Marc Anthony ft. Tina Arena) Phong là một thằng trai hư đúng nghĩa. Đó là ấn tượng ban đầu và đã kéo dài suốt một thời gian của tôi đối với nó. Xin đừng hiểu lầm, tôi không ghét Phong, thậm chí là ngược lại. Thành thật thì chơi với một thằng trai hư cực kỳ thú vị, với điều kiện tiên quyết là bạn chỉ “chơi” chứ không phải “yêu” hay “thích” Trái ngược với vẻ thâm trầm, có phần cục mịch của Long, Phong rất hoạt bát, sôi nổi. Nó nói nhiều, luôn là tâm điểm của mọi cuộc vui. Với khuôn mặt quá mức đẹp trai, vóc người cao ráo, gia thế tốt và lối nói chuyện có duyên, khỏi nói cũng biết đám con gái bám nó đến thế nào. Tôi may mắn không nằm trong số ấy bởi vì một lẽ nào đó, tôi chỉ thích kiểu ít nói đàn ông của Long. Tôi thực sự không hiểu có gì hay ho khi yêu một người không có chút an toàn nào như vậy. Và đặc biệt, cái cách cư xử của Phong với đám bạn gái của nó càng làm tôi kinh ngạc hơn bởi mức độ thô lỗ đến phản cảm. - Anh đừng hút thuốc nữa, hại sức khỏe lắm. – Cô bạn gái cực kỳ xinh đẹp ngồi bên cạnh thò tay rút điếu thuốc trên môi Phong dụi đi. - Mặc anh. – Nó gần như không chú ý tới thái độ kia, rút điếu thuốc mới ra. - Đừng hút nữa mà. – Cô nàng kiên nhẫn giật điếu thuốc thứ hai khỏi tay nó. Mời các bạn đón đọc Mai Sẽ Là Một Ngày Mới của tác giả Sherry.
Sách Ngược Đời Xuôi
Một nơi tử tế thì đâu thể thiếu tiệm sách được chứ, Izzie! Bởi thế mà ngoài khơi xa, ở nơi nắng vàng lấp lóa trên sóng bạc đảo xanh, nơi dân cư thưa thớt lại không thích học hành, vẫn có một tiệm sách nho nhỏ màu đỏ tía. Tiệm này không bán truyện hậu hiện đại, huyền huyễn, viễn tưởng, hậu tận thế; không bán hồi ký, trinh thám, thiếu nhi, truyện tranh, sách dịch, teen và hồi teen; ghét truyện nhiều phông chữ và minh họa nhiều hình, loại thẳng cánh các cuốn có số trang trên bốn trăm hay dưới trăm rưỡi. Gã chủ thì khó đăm đăm và xa lánh nhân tình thế thái… Mặc kệ, tiệm sách vẫn tồn tại. Để một ngày nọ, có người vào tiệm cuỗm đi món đồ quý giá nhất, Rồi một ngày nọ, có người giả khách vào xem sách và lén lút vứt con lại. Từ ấy có một em bé lớn lên giữa mùi giấy mới; có một cô gái muộn chồng với hàm răng to oành, “mông cũng chẳng khá hơn, 31 mà uống rượu như mới 25, đã ăn mày lại quyết đòi xôi gấc”; có một người đàn ông thức giấc nhờ mùa xuân thứ hai của cuộc đời… Câu chuyện tình cảm và tinh quái, pha phối chút bí hiểm, xoáy tròn như một cơn lốc qua các giá sách, người đọc sách lẫn người không đọc. Từ chối mọi kịch tính hay lắt léo. Chỉ rõ khác biệt giữa sách và đời, lại không thể phủ nhận ảnh hưởng đầy êm ái của cả hai bên đối với nhau. Sách ngược đời xuôi (The Storied Life of A.J. Fikry) có mặt bốn tháng liền trên New York Times Best Seller List, trụ hạng 1 lâu dài trên National Indie Bestseller List và đạt thành tích ngoạn mục ở rất nhiều quốc gia khác. *** Đôi khi không thích một cuốn sách chỉ là do ta đọc nó chưa đúng thời điểm mà thôi. A.J. Firky sở hữu một tiệm sách duy nhất ở một hòn đảo xa xôi phải đi mất hai chuyền phà mới tới nơi. Anh có cả một danh sách dài những thể loại bản thân ghét và sẽ không bao giờ bán ở tiệm của mình. Không tiểu thuyết văn học về những cuộc diệt chủng Do thái hay các bi kịch của nhân loại. Không "thể loại lai tạp" như tiểu thuyết văn học trinh thám hay viễn tưởng văn học. Không sách thiếu nhi, đặc biệt là về lũ trẻ mồ côi. Không tiểu thuyết đạo nhái, sách tranh, sách ảnh, hồi ký của mất tay nổi tiếng. Hiếm khi nhập các cuốn sách đầu tay hay những cuốn lãng mạn, hài hước dành cho các thiếu nữ mộng mơ, trừ khi tiệm của anh được đặt hàng trước. Anh cũng bỏ qua những series được hứa hẹn, nếu như chúng không nằm trong danh sách bán chạy của New York Times. A.J. không thích sách dày quá 400 trang nhưng cũng không được mỏng hơn 150 trang. Với anh, sách nào cũng được, miễn là không phải đống trên.   A.J. cũng chẳng phải là tay bán sách thân thiện gì. Anh thẳng tay đuổi mấy đứa nhóc vào bôi bẩn những cuốn sách trưng bày. Anh khó chịu với những phụ nữ trung niên lượn lờ trong tiệm mà chẳng mua gì. Anh cáu gắt với nhân viên của nhà xuất bản đến chào hàng sách mới. Thế nên tiệm sách Hải Đảo dần dần thua lỗ một cách trầm trọng. Nhưng cuộc đời anh bỗng chốc được rẽ ngoặt sang một trang mới khi có hai sự kiện lớn xảy đến tiệm sách Hải Đảo. Một là cuốn sách giá trị nhất trong bộ sưu tập của A.J. biến mất không để lại dấu vết, và hai là người ta để “quên” một con nhóc 2 tuổi trong tiệm của anh. Sách ngược đời xuôi không chỉ kể lại câu chuyện cuộc đời của A.J. Fikry mà còn khắc họa tình cha con sâu đậm giữa một gã bán sách khó tính và một cô nhóc có gu đọc sách dở tệ. Mỗi chương sách là tên của một cuốn sách mà A.J. vô cùng yêu thích, dù số sách này cũng chỉ hơn số đầu ngón tay một chút, kèm theo đó là một bức thư mà ông bố ấy vụng về gửi cho con gái Maya. Đọc sách, độc giả sẽ cười nghiêng ngả rồi lại rơm rớm nước mắt trước cuộc đời đầy những sự ngược đến với A.J. chứ chẳng xuôi gì. Bước sang tuổi 40, anh không chỉ trải qua nỗi đau mất vợ, rồi lại đến chứng vắng ý thức khiến anh đơ như bức tượng gỗ trong vài phút, mà còn là cơn nghiện rượu dai dẳng và nỗi cô đơn cùng cực. Nhưng sự xuất hiện của Maya đã đem lại sức sống mới cho anh, cũng giống như tiệm sách Hải Đảo mang đến niềm vui cho đảo Alice. A.J. quyết định nâng cấp tiệm sách cũng như thay đổi chính mình, vì người ta vẫn nói: thay đổi tất cả thì không thể tệ hơn giữ nguyên mọi thứ như ban đầu. Và anh tin vào điều đó. Sách ngược đời xuôi chắc chắn không phải là một câu chuyện cổ tích, vì vốn trong cuốn sách đâu có kẻ tốt hay người xấu. Nhưng mỗi chúng ta đều có quyền tin vào cái kết kỳ diệu dành cho mỗi nhân vật và cả các cửa hàng sách. Ở một nơi tử tế thì đâu thể thiếu tiệm sách được cơ chứ! *** Gabrielle Zevin là nữ tiểu thuyết gia trẻ người Mỹ, đến nay đã là tác giả của chín cuốn sách được dịch ra hơn 30 thứ tiếng. Sách ngược đời xuôi là một trong những tác phẩm nổi tiếng của cô, đã từng đứng trong danh sách bán chạy của tờ New York Times suốt bốn tháng liền. Hiện Zevin đang tập trung vào sự nghiệp biên kịch trước khi bắt tay vào cuốn sách thứ mười của cô. Mời các bạn đón đọc Sách Ngược Đời Xuôi của tác giả Gabrielle Zevin.
Chuyện Tình Tự Kể
Lyudmila Zakharovna Uvarova* xuất hiện trên văn đàn Xô-viết vào giữa những năm 60 bằng những truyện ngắn mang sắc thái riêng – trữ tình, tinh tế và sâu sắc, đã thu hút ngay cảm tình của đông đảo bạn đọc, nhất là giới trẻ. Từ đó tới nay, L. Uvarova đã cho ra đời hơn mười cuốn sách. Đáng chú ý hơn cả là các tập truyện ngắn và truyện vừa: Vừa giữa trưa đã hoàng hôn, Mới đây hoặc trước kia, Sẽ có âm nhạc, Chuyện tình tự kể… Qua những cảnh đời thường, những chuyện xảy ra hàng ngày, ngòi bút của L. Uvarova đã tái tạo được những tính cách đặc sắc, những con người có đời sống nội tâm phong phú và luôn khao khát tự vượt lên chính mình để vươn tới một thái độ sống trung thực, nhân hậu… Nữ văn sĩ không hề “khua chuông gõ mõ” về các phẩm chất nhân vật của mình. Văn của chị không trực tiếp miêu tả thế giới bên trong con người nhưng tất cả cái vẻ bề ngoài của mọi sự vật được khắc họa một cách hết sức tinh tế ấy lại toát ra những bài học đạo đức rất sâu sắc. Bạn đọc Việt Nam đã được biết tới tài năng của L. Uvarova lần đầu tiên qua truyện ngắn Chú gà trống trên ban công (trong tập truyện Tiếng nhạc trên sân ga – Nhà xuất bản Văn học 1973), sau đó là các truyện ngắn: Chòm sao Song tử xanh, Hồi ức triệu năm qua…, Bé Olya của tôi và truyện vừa Vừa giữa trưa đã hoàng hôn (trong tập truyện Nửa đời nhìn lại – Nhà xuất bản Tác phẩm mới 1982). CHUYỆN TÌNH TỰ KỂ in trong tập truyện cùng tên (Nhà xuất bản Nước Nga Xô-viết 1984) đã được đông đảo bạn đọc Xô-viết đón nhận nồng nhiệt và góp phần đưa tác giả của nó lên hàng những cây bút văn xuôi được mến mộ nhất hiện nay ở đất nước Xô-viết. NHÀ XUẤT BẢN LONG AN *** Đây là lời giới thiệu của nhà xuất bản ở thời điểm tác phẩm được in (1986). Lyudmila Uvarova là nhà văn và nhà viết kịch Liên Xô, sinh 21 tháng 11 năm 1918 và mất 24 tháng 8 năm 1990 đều tại Moskva. *** Irina Tôi không hề có ảo tưởng. Tôi biết tại sao anh ấy muốn lấy tôi làm vợ. Anh đã yêu một người phụ nữ khác, nhưng đột nhiên cô ta đã bỏ anh, rồi vì buồn, vì uất ức, vì nỗi giận hờn đắng cay của mình, và cũng có thể do muốn vươn tới một sự tự khẳng định nào đó, anh bỗng ngỏ lời hỏi tôi làm vợ. Chúng tôi quen biết nhau đã nhiều năm, đã sống hàng xóm láng giềng với nhau trên cùng một đường phố. Anh lớn hơn tôi ba tuổi rưỡi, thuở nào khi tôi học lớp bốn chẳng hạn thì anh học lớp bảy, cái đó đã tạo nên một khoảng cách lớn giữa chúng tôi. Nhưng về sau, khi tôi tròn hai mươi ba tuổi, còn anh – hai mươi sáu, thì chúng tôi đã bằng vai với nhau. Hơn nữa, người ta vẫn bảo rằng phụ nữ bao giờ cũng trưởng thành sớm hơn về mặt sinh học. Thực ra tôi không hề thấy mình trưởng thành hơn anh. Ngược lại, tôi luôn cảm thấy anh trưởng thành hơn, thông minh hơn và lớn lao hơn tôi. Có lẽ trên thực tế cũng là như vậy. Chúng tôi tốt nghiệp đại học vào thời gian khác nhau – anh ở đại học xây dựng, còn tôi – đại học kinh tế kế hoạch. Tôi mới qua tuổi hai mươi ba, làm việc ở một cơ quan thiết kế với mức lương tương đối khá, còn anh là kỹ sư trưởng của một công ty xây dựng. Một buổi sáng nọ, vào thứ bảy, anh bỗng đến nhà tôi. Chúng tôi đã lâu không gặp nhau, thế mà bây giờ bỗng nhiên anh lại đến. Ông chú Oleg Georgievich của tôi hỏi: - Tôi phải nói với cháu nó thế nào, ai đến thăm nó? Anh đã trả lời: - Xin ông nói giùm là có Pikaskin đến. Ông chú có thói quen không hề ngạc nhiên trước chuyện gì bao giờ, hỏi lại một cách lịch sự: - Xin lỗi, thế nào? Pikaskin ư? Tôi nghe có đúng không? Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Tự Kể của tác giả Lyudmila Uvarova.
Forrest Gump (Tiếng Việt)
Tiểu thuyết Forrest Gump của Winston Groom in năm 1986 thoạt tiên không phải là cuốn sách ăn khách cho đến khi bộ phim chuyển thể ra đời năm 1994 với ngôi sao Tom Hanks. Theo một thống kê, trước khi có bộ phim này thì cuốn sách đã được bán 30.000 bản, và khi Forrest Gump qua mặt rất nhiều bộ phim xuất sắc cùng năm để giành giải Oscar phim hay nhất, đã có 1,7 triệu bản sách được bán trên khắp thế giới. Còn bộ phim đã xếp thứ tư trong các bộ phim có doanh thu lớn nhất mọi thời đại cho đến thời điểm đó. Năm 2011, Thư viện Quốc hội Mỹ đã chọn Forrest Gump vào danh sách bảo tồn của Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia vì "có ý nghĩa về mặt văn hóa, lịch sử và mỹ học."  Winston Groom là một cựu binh thời chiến tranh ở Việt Nam, sau khi trở về, ông làm phóng viên và chuyển sang viết tiểu thuyết năm 32 tuổi và đã gặt hái được nhiều thành công. Cuốn tiểu thuyết Conversations with the Enemy (1982). [Trò chuyện với kẻ thù] với chủ đề cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam đã lọt vào chung kết giải Pulitzer năm 1983. Năm 1985, Groom quay về Mobile và bắt đầu viết Forrest Gump. Cuốn sách đã trở thành dấu mốc cho sự nghiệp sáng tác của ông. Nhân vật Forrest Gump đã được Groom xây dựng như một người "tự kỷ bác học'", đã có những thay đổi khi được chuyển thể trên màn ảnh Hollywood. Sự khác biệt ở hình tượng Forrest Gump giữa truyện và phim dường như là nhà văn chủ ý xây dựng một nhân vật phản anh hùng, trong khi các nhà làm phim Hollywood thực hiện theo hướng ngược lại, người hùng kiểu mới có kết cục thành công có màu sắc Giấc mơ Mỹ. Truyện và phim đều đã gây nên những cuộc tranh luận về khía cạnh chính trị và tính biểu tượng của nhân vật Gump cũng như mối quan hệ với xã hội của chàng ngốc có chỉ số IQ (chỉ số thông minh) chỉ có 75 nhưng đã đi khắp nơi và gặp đủ loại người. Cuộc phiêu lưu của Forrest Gump suốt ba thập niên bao trùm lịch sử sau thế chiến II đã vẽ nên chân dung một nước Mỹ: Gump đã gặp 2 tổng thống Mỹ, lên tàu vũ trụ, đóng phim ở Hollywood, sang Trung Quốc và tham chiến ở Việt Nam mà không hiểu mình chiến đấu vì lẽ gì.  Forrest Gump đề cập vấn đề muôn thuở của kiếp nhân sinh: chúng ta từ đâu tới, chúng ta làm gì và chúng ta đi về đâu? Thừa hưởng cái tên của ông tướng thời nội chiến đẻ ra phong trào phân biệt chủng tộc Klu Klux Klan,Forrest Gump sinh ra với chỉ số thông minh của "thằng đần" nhưng mẹ cậu bé luôn đấu tranh cho con mình có được nền giáo dục công bằng nhất. Người mẹ tuyệt vời này luôn dạy con khi cậu bé bị chúng bạn trêu chọc "con không có gì khác biệt hết". Và hễ ai cật vấn "sao mày ngu vậy?" thì Gump có câu trả lời mẹ dặn: "Người ta chỉ ngu khi làm trò ngu".  Bằng giọng văn hài hước, châm biếm, gây cười nhưng cũng để lại dư vị cay đắng, những trang sách dẫn dụ người đọc đi vào thế giới nội tâm với cái nhìn ngây thơ mà không hề giản đơn của một kẻ đần. Cuộc phiêu lưu dị thường mà Gump đã trải qua, vẽ nên chân dung nước Mỹ sau thế chiến II - một đế quốc đã phát động cuộc chiến phi nghĩa với Việt Nam và phải trả giá.  Đó là sự mất mát niềm tin của thế hệ trẻ, hàng nghìn người chết, các cuộc biểu tình. Forrest Gump tham gia cuộc chiến mà không hề hiểu mình chiến đấu vì lẽ gì, “sao chuyện này lại xảy ra?”. Sáng lên trên cảnh nền tăm tối, hỗn loạn đó là ước mơ về hạnh phúc, về hòa bình qua hình ảnh một chiếc thuyền câu tôm, một đầm nuôi tôm.  Mỗi số phận trong tác phẩm là một câu trả lời về sự tồn tại, tin ở các giáo lý, luật lệ, mệnh lệnh hay chính mình. Trên lộ trình đưa ra các đáp án, tác phẩm cũng kịp lấy ngay những câu chuyện thời cuộc để nói về "chúng ta làm gì" của những thanh niên Mỹ khi phải tham chiến. Người bạn Bubba trước khi chết trên chiến trường Việt Nam đã đau xót hỏi Gump: "Tại sao chuyện này lại xảy ra?". Cuộc chiến tranh ở Việt Nam trên phim được khắc họa đậm nét hơn so với tiểu thuyết phần nào cho thấy cuộc chiến hằn dấu ấn đậm nét trong truyền thông nước Mỹ, đến mức nhà làm phim đã gạt bớt các chuyện phiêu lưu khác như bay vào vũ trụ, đóng phim, đấu vật, tranh cử nghị viện... trong truyện để dành đất cho Gump và các bạn của chàng ta đối diện câu hỏi "đi về đâu?". Ðây chính là sự khác biệt lớn giữa phim và truyện khi nhà văn để nhân vật tiếp tục phiêu lưu.  Các nhân vật của phim có vẻ hành động logic với hiện thực hơn nhưng cũng buông xuôi theo thời hơn. Phim vừa có vẻ khẳng định thắng lợi của triết lý Tin Lành Max Weber (Gump phải đổ máu, mất mát và lao động cật lực để giàu có), vừa có màu sắc hư vô (cuộc đời như một hộp kẹo, bạn không thể biết mình sẽ chọn được cái nào). Truyện làm rõ hơn tinh thần không thúc thủ trước hoàn cảnh của Gump và bè bạn của chàng ta, hết keo này đến keo khác khiến người đọc phải mê say và nghĩ "ờ, cuộc đời này quả không đến nỗi tồi để sống".  Cả phim và truyện đều giữ một hình ảnh Forrest Gump khờ nhưng nhân hậu, luôn đối xử tốt với mọi người xung quanh mà không toan tính. Bút pháp cường điệu hài hước của hai tác phẩm đã khiến chàng khờ Gump không còn là thằng ngốc - nạn nhân kiểu nhân vật của Dostoyevsky, mà là người còn lại sau rốt để thanh thản kể câu chuyện đời mình, đầy nụ cười và niềm phấn khích bất tận. Mời các bạn đón đọc Forrest Gump của tác giả Winston Groom & Ngọc Trà (dịch).