Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Vợ Cô Đơn

Một người đã bước vào cuộc đời nàng, nhờ đó tất cả những gì đối với nàng đều thấy vô nghĩa; một người mà không ai trong chỗ bạn hữu có quen biết; một nhân vật rất tầm thường, rất ít ai biết, nhưng toàn thể cuộc đời của Têre chạy quanh vừng mặt trời chỉ riêng mắt nàng nhìn thấy, và riêng xác thịt nàng biết vị ấm nóng. Pari xào xạc như gió hú trong ngọn thông. Thân thể đó đè lên thân thể nàng, dù nhẹ đến đâu cũng làm cho nàng ngừng thở. *** Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Landes, một vùng dân cư thưa thớt ở tây nam nước Pháp, được bao phủ rộng bởi những cánh rừng thông. Khi thiên tiểu thuyết bắt đầu, một vụ kiện đang bị bác bỏ. Người tường thuật, Thérèse có địa vị, bị xét xử tội đầu độc chồng mình Bernard bằng cách cho ông uống Fowler’s Solution quá liều, một thứ thuốc chứa thạch tín. Tuy có những bằng chứng vững vàng chống lại mình, bao gồm cả những toa thuốc cô giả mạo, vụ kiện bị ngừng lại; gia đình kết thúc các địa vị xã hội để tránh tai tiếng và bản thân Bernard cũng làm chứng cho lời biện hộ của cô. Trên đường từ tòa án về nhà, Thérèse nhìn lại cuộc sống của mình, cố gắng hiểu được điều gì đã khiến cô tiếp tục đầu độc chồng mình sau khi cô quan sát ông tình cờ uống thuốc quá liều. Cô giả thuyết rằng những hành động của cô là một phần của một “con dốc không thể nhìn thấy”, tạo nên từ những áp lực khi làm mẹ và hôn nhân và cuộc sống ngột ngạt khi làm vợ một địa chủ đạo Thiên Chúa những năm 1920 của nước Pháp thôn dã. Tuy vậy, Thérèse và cả người tường thuật không cung cấp một lời giải thích rõ ràng cho hành vi của cô. Thérèse cho rằng cô có thể âm thầm rời bỏ chồng bây giờ khi vụ kiện đã kết thúc. Thay vào đó, Bernard thông báo rằng cô sẽ sống tại nhà của gia đình ông, Argeluose, một vị trí biệt lập trong rừng thông. Ông thực sự giam cầm cô ở đó, lấy lý do rằng cô đang mắc phải bệnh thần kinh, và thường xuyên xuất hiện trước công chúng với cô để dập tắt mọi lời xầm xì. Mối quan tâm của ông là cuộc hôn nhân sắp tới của em gái ông Anne với một chàng rể được duyệt bởi gia đình, không bị ngăn cản bởi vụ tai tiếng nào hết. Ông chỉ cho phép Thérèse bầu bạn với những người hầu dễ ghét, tách cô khỏi con gái mình, và đe dọa tống cô vào ngục vì tội đầu độc nếu không hợp tác. Thérèse sống chủ yếu nhờ rượu và thuốc lá, rơi vào trạng thái ngẩn ngơ thụ động và mất ngủ. Khi cô được yêu cầu tham dự một bữa dạ yến tổ chức cho Anne, chồng chưa cưới và gia đình anh, cô đã tham dự, nhưng vẻ ngoài hốc hác khiến cho các vị khách bị sốc. Bernard quyết định, không phải bàn cãi nữa, rằng vụ bê bối sẽ không bao giờ hoàn toàn được quên lãng trừ khi Thérèse được phép biến mất. Ông hứa cô có thể rời đi sau đám cưới của Anne, và chuyển cô về Argelous để theo dõi sự hồi phục của cô. Đám cưới trôi qua, ông đưa Thérèse tớiParisvà chào tạm biệt. Không có sự ly thân và li dị chính thức, và ông sẽ chu cấp cho cô để tiếp tục sống. Cô được tự do. Thùy Andịch *** Mauriac không đòi cái tuyệt đối; ông biết rằng cái tuyệt đối không tồn tại với đức hạnh trong trạng thái thuần khiết... FRANÇOIS MAURIAC(11/10/1885 - 01/9/1970) Giải Nobel Văn học 1952 * Nhà văn, nhà thơ Pháp * Nơi sinh:Bordeaux(Pháp) * Nơi mất: Paris (Pháp) François Mauriacđược trao giải Nobel vì những tác phẩm phản ánh bi-hài kịch đời người với một tinh thần thấu suốt và nghệ thuật thuyết phục. Chủ đề chính trong sáng tác của ông là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa Xác thịt và Linh hồn của “những con người sa ngã” và “nỗi cơ cực của con người không có Thượng đế”. François Mauriacsinh trong một gia đình buôn rượu vang giàu có theo Công giáo, mồ côi bố khi chưa đầy hai tuổi, đến sống ở trang trại ông bà ngoại; bảy tuổi đi học, suốt đời mang ấn tượng về phong cảnh miền quê. Tốt nghiệp trung học,F. Mauriacvào học khoa văn chương tại Đại họcBordeaux, sau chuyển đếnParis, làm báo và sớm trở thành nhà văn độc lập. Năm 1909, theo lời khuyến khích của tòa soạn báo Thời đại chúng ta,F. Mauriacxuất bản tập thơ đầu tiênNhững bàn tay gắn kết; nhưng phải đến năm 1922 ông mới nổi tiếng là nhà viết tiểu thuyết có tài với cuốnNụ hôn cho người hủi. Trong Thế chiến I, tuy không phải nhập ngũ vì lí do sức khỏe,F. Mauriacvẫn tình nguyện tham gia tổ chức Hồng thập tự, phục vụ trong quân y viện hai năm ở Balkans, năm 1918 mới giải ngũ. Trong những năm 1920 ông viết hàng loạt tiểu thuyết, trong đó có cuốnSa mạc tình yêuđược tặng giải thưởng cao nhất của Viện Hàn lâm Pháp. Thérèse Desqueyroux(1927) cũng là tác phẩm thành công, được giới phê bình coi là tiểu thuyết Pháp hay nhất đầu thế kỉ XX. Ổ rắn độc (1932) kể về một bi kịch gia đình với nghệ thuật phân tích tâm lí sâu sắc được coi là đỉnh điểm trong sáng tác củaF. Mauriac. Năm 1933, nhà văn được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp. Trong Thế chiến II,F. Mauriactham gia chống phát xít Đức chiếm đóng Pháp, ủng hộ De Gaulle. Tiểu thuyếtCuốn sổ đenđược trao tặng huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh. Sau năm 1945F. Mauriaclàm đại diện Pháp trong tổ chức Liên Hiệp quốc (UNESCO). Lần đầu tiên ông được đề cử tặng giải Nobel vào năm 1946, nhưng phải 6 năm sau mới được trao giải. Từ đó đến cuối đờiF. Mauriacxuất bản thêm 2 cuốn tiểu thuyết, hàng loạt hồi kí (chủ yếu về De Gaulle) và làm báo (giữ những chuyên mục rất nổi tiếng thời bấy giờ). Nhà văn mất năm 85 tuổi, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết cuối cùng. Có thời kìF. Mauriacđược đánh giá là nhà văn Pháp lớn thứ hai trong thế kỉ XX (sau M. Proust), nhưng dần dần uy tín của ông bị giảm sút, theo các nhà phê bình thì chủ yếu là do đề tài và văn phong của ông hơi đơn điệu. *Tác phẩm: Những bàn tay gắn kết (Les mains jointes, 1909), thơ. Đứa con dưới gánh nặng xích xiềng (L’enfant chargé de chaines, 1911), tiểu thuyết. Thịt và máu (La chair et le sang, 1920), tiểu thuyết. Nụ hôn cho người hủi (Le baiser aux lepreux, 1922), tiểu thuyết. Sông lửa (Le fleuve de feu, 1923), tiểu thuyết. Bà cụ tổ (Genitrix, 1923), tiểu thuyết. Giông tố (Orages, 1925), thơ. Sa mạc tình yêu (Le désert de l’amour, 1925), tiểu thuyết. Điều đã mất (Ce qui était perdu, 1926), kí. Thérèse Desqueyroux (Thérèse Desqueyroux, 1927), tiểu thuyết. Những đau khổ của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances du Chrétien, 1928), tiểu luận. Chúa và Mammon (Dieu et Mammon, 1929), tiểu luận. Đau khổ và niềm vui của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances et bonheur du chrétien, 1931), [Anguish and Joy of the Christian Life], tiểu luận. Ổ rắn độc (Le noeud de vipère, 1932), tiểu thuyết. Bí ẩn nhà Frontenac (Le Mystère Frontenac, 1933), tiểu thuyết [The Frontenac mystery]. Đêm tàn (La fin de la nuit, 1935), tiểu thuyết. Các thiên thần đen (Anges noirs, 1936), truyện. Đời Jésus (La vie de Jésus, 1936), tiểu luận. Lặn dưới nước (Plongées, 1938), tập truyện. Asmodée (Asmodée, 1938), kịch. Những con đường của biển (Les chemins de la mer, 1939), truyện. Máu Atys (Sang d’Atys, 1940), thơ. Người đàn bà đạo đức giả (La pharisienne, 1941), kịch. Cuốn sổ đen (Le cahier noir, 1943), tiểu thuyết. Nhật kí (Journal, 1934-1950), hồi kí. Con cừu non (L’Agneau, 1954), tiểu thuyết. Hồi kí nội tâm (Mémoires intérieurs, 1959), luận văn. Điều tôi tin (Ce que je crois, 1962), hồi kí. Nghiên cứu về Charles de Gaulle (1964). Một đứa trẻ ngày nào (Un adolessent d’autrefois, 1969), tiểu thuyết. Ba câu chuyện (Trois récits), tập truyện ngắn. *Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Cuộc tình buồn, Nguyễn Bích Như - Thu Uyên dịch, NXB Tổng hợp Bình Định, 1990/Người vợ cô đơn, Mặc Đỗ dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1997. Bí ẩn nhà Frontenac, Dương Linh dịch, NXB Thế Giới, 1999. Mời các bạn đón đọc Người Vợ Cô Đơn của tác giả François Mauriac & Mặc Đỗ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Những Bí Ẩn Của Sa Mạc - Frederik Forsythe
Truyện Những Bí Ẩn Của Sa Mạc, chuyện về một đồng nghiệp chung của cả hai người tại văn phòng hãng nghiên cứu vũ trụ, một người đàn bà trông y như rắn độc, một kẻ ăn tươi nuốt sống đàn ông, lại hóa ra là một kẻ đồng tính. Hai người rời văn phòng ở ngoại ô, vài tháng trước cô đã bán chiếc ô tô của ông chủ vì ông là một tay lái rất tồi, cô sợ ông gặp nguy hiểm nếu tự lái xe lấy. Cả hai đi vào và ông mua một chiếc bánh mà ông rất thích ăn. Trời đổ mưa, họ cúi đầu chạy thẳng ra xe, không hay biết có một chiếc xe đang bám theo. Không dễ thấy điều này, một chiếc xe bình thường với hai người râu cằm đen rậm rì đã theo dõi nhà khoa học từ nhiều tuần nay, nhưng không bao giờ lại gần ông, họ chỉ quan sát và ông đã không trông thấy họ. *** Frederick McCarthy Forsyth, CBE là một tác giả, nhà báo, điệp viên người Anh, và là nhà bình luận chính trị không thường xuyên.  *** Ba người SAS nặng nhọc bước đi suốt phần còn lại của đêm. Họ tiến lên phía trước và đi ngược lên khiến Don Walker, người không phải đeo hành lý và nghĩ mình đang ở tình trạng sức khoẻ tốt, trở nên kiệt sức và thở hổn hển. Đôi lúc anh tưởng như sắp khuỵu xuống, biết rằng mình không thể đi xa hơn, rằng thậm chí chết còn dễ chịu hơn là cứ đau từng bắp thịt một cách dữ dội thế này. Khi điều đó xảy ra, anh có thể cảm thấy hai bàn tay thép, một đặt dưới cánh tay, và nghe thấy giọng vùng Cockney của trung sĩ Stephenson bên tai: - Đi tiếp đi nào, anh bạn. Chỉ còn một chút nữa thôi. Có thấy cái chóp núi kia không? Chúng ta có thể nghỉ ngơi ở sườn bên kia đấy. Nhưng họ không bao giờ làm được điều đó. Thay vì đi về hướng nam đến vùng đồi thấp Jebal và Hamreen, nơi dường như họ có thể gặp phải lính của đội Vệ binh Cộng hoà với xe cơ giới, Mike Martin đi thẳng về phía đông đến dãy đồi cao chạy ra biên giới Iraq. Đó là một chiến thuật buộc các đội tuần tra của những người miền núi Al-Ubaidi phải đi theo họ. Mời các bạn đón đọc Những Bí Ẩn Của Sa Mạc của tác giả Frederik Forsythe.
Ngỡ Đã Là Yêu - Yasmina Khadra
Trong một nhà hàng tại Tel-Aviv, một phụ nữ tự làm mình nổ tung giữa hàng chục khách hàng khác... Trong bệnh viện thành phố, Amine, vị bác sĩ người Israel gốc Palestine đang phẫu thuật cho hàng chục bệnh nhân sống sót qua vụ khủng bố... Bác sĩ không thể ngờ người vợ trẻ mình luôn hết lòng yêu thương lại chính là kẻ khủng bố cảm tử gây ra thảm kịch kia. Người đàn ông mang trong mình những dằn vặt khôn nguôi, và để có được lời giải đáp, anh lao vào một hành trình tìm kiếm tưởng như vô vọng. Thế rồi, một bí mật vĩ đại của tình yêu dần được hé mở... Cuốn tiểu thuyết góp phần khẳng định tên tuổi Yasmina Khadra đã nhận được trên mười giải thưởng văn học trong và ngoài nước, trong đó phải kể đến Giải thưởng lần thứ 25 do Hiệp hội các nhà sách bình chọn, đồng thời xuất hiện trong danh sách đề cử của các giải thưởng văn học danh giá như Goncourt, Renaudot và Giải thưởng lớn dành cho Tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp. *** Chọn một chủ đề rất mực thời sự: nạn đánh bom cảm tử vẫn được đề cập đến hằng ngày trên các bản tin, cuốn tiểu thuyết Ngỡ đã là yêu của nhà văn Algeria Yasmina Khadra (NXB Văn Học ấn hành) mặc nhiên có sức hút đặc biệt với độc giả, kể cả với những ai không quan tâm đến chính trị. Vì vậy, Ngỡ đã là yêu đủ sức tạo nên cơn sốt. Không mấy khó để nhận ra rằng thế giới này thật sự bị bao trùm bởi những nỗi nghi ngờ, hư ảo. Nhưng ẩn sâu trong mỗi ngôn từ đầy biến hóa của Yasmina Khadra là những tiếng gào thét bất lực của khát vọng, của lòng xót thương và cả thù hận. Cuộc sống tất bật, vòng xoáy của khát vọng thành đạt khiến cho mỗi người tự khu biệt quyền lợi, nghĩa vụ của chính mình. Để rồi không ai ngoài bản thân họ còn có đủ khả năng nghe được tiếng lòng của chính mình. Amine, nhà nghiên cứu Israel gốc Palestine, có một cuộc sống sung túc với người vợ mà anh hết mực yêu thương. Hẳn nhiên, ông cũng cảm nhận được tình yêu ấy từ Sihem, một người phụ nữ dịu dàng và xinh đẹp. Cho đến một hôm, một cuộc tấn công khủng bố xảy ra ở Tel Aviv làm chết nhiều đứa trẻ và vợ ông chính là nghi phạm. Câu hỏi “tại sao?” liên tiếp hối thúc được trả lời. Tại sao vợ ông, người phụ nữ phúc hậu, không oán thù ai, không có gì khó hiểu, lại tự nổ một khối bom trong một quán ăn rất đông trẻ em? Tại sao chị không hề hé môi với ông về ý đồ này? Và tại sao ông, một nhà khoa học kiệt xuất, người yêu vợ hết lòng, người trao tặng chị tất cả cuộc sống, lại không cảm nhận được nỗi đau bao ngày của chị? Hàng loạt câu hỏi tại sao mà Amine đặt ra cũng chính là những tự vấn lương tâm của ông. Phải chăng, chính ông đã “quên” (một cách vô tình hay cố ý) việc phải lắng nghe người khác. Mỗi người đều có một cách riêng của mình để cảm nhận và có những hành động của riêng mình về tình yêu. Nhưng ai trong họ có thể tự hào rằng cách yêu của mình là đúng nhất. Bởi ngay cả với Amine, một người yêu vợ đến tôn thờ nhưng khi Sihem qua đời, ông mới biết rằng thực sự ông chưa bao giờ yêu vợ cả. T.Vũ - (Nguồn: Báo Người lao động) *** Yasmina Khadra, tên thật là Mohammed Moulessehoul, sinh năm 1955 giữa vùng sa mạc Sahara thuộc Algeria. Ông là nhà văn được chào đón và được biết đến trên toàn thế giới với những tác phẩm như Lũ sói mơ gì, Nhà văn, Sự giả dối của ngôn từ, Chị họ K. Các tiểu thuyết này của ông đã được chuyển ngữ tại hai mươi hai quốc gia. Những cánh én thành Kaboul và Ngỡ đã là yêu là hai trong số ba tiểu thuyết của ông viết về cuộc đối thoại thầm lặng giữa phương Đông và phương Tây, xuất hiện trong tuyển tập Những hồi còi thành Bagdad. Ngỡ đã là yêu đã được trao các giải: Prix des Libraires 2006, Prix Tropiques 2006, Giải thưởng lớn từ phía độc giả tạp chí Côté Femme, giải thưởng văn học do học sinh trung học và trung cấp chuyên nghiệp Bourgogne bình chọn và giải thưởng từ phía độc giả tờ Télégramme. Hiện Ngỡ đã là yêu đang được các nhà điện ảnh Mỹ chuyển thể thành phim. Nhà văn đoạt giải Nobel J.M. Coetzee nhìn thấy ở nhà văn có bút lực dồi dào này một tiểu thuyết gia hàng đầu.   Mời các bạn đón đọc Ngỡ Đã Là Yêu của tác giả Yasmina Khadra.
Hoang Dã - Jill Barnett
Bị những người dân làng mê tín xa lánh, Teleri Người Rừng nhận thấy thế giới thật đáng sợ. Bao năm qua cô ẩn náu ở sâu trong rừng già nơi những người bạn duy nhất là các sinh linh trong rừng. Nhưng khi cô tìm thấy một hiệp sĩ bị thương trầm trọng thì nơi ẩn trú của cô không còn yên bình nữa. Với tài năng chinh chiến và ngoại giao vang khắp, Roger FitzAlan được cử đi xây dựng một thành lũy nơi biên giới xứ Wales. Bị mai phục và bỏ mặc đến chết bởi một kẻ thù giấu mặt, giờ đây Roger phải chiến đấu không chỉ cho mạng sống của mình – anh phải chiếm được lòng tin và tình yêu của một thiếu nữ hoang dã, người có mọi lý do e sợ anh. Rogers biết mình không thể sống trong thế giới của Teleri, và cô cũng sợ thế giới của anh. Khi hồi phục lại, Roger quyết định tìm kẻ đã định giết mình. Và Teleri phải lựa chọn ở lại nơi hẻo lánh với con tim tan nát – hay là tin người chiến binh mạnh mẽ đã đe dọa tất cả những gì cô thương mến. Họ cùng nhau tới một nơi mà nhiệm vụ là hàng đầu, nơi danh dự của người đàn ông chứ không phải trái tim anh ta - dẫn đường. Ở đó, giữa những bí mật của quá khứ, họ phải mạo hiểm mọi thứ để tìm kiếm một tình yêu vĩnh cửu. *** Bạn đọc thân mến, Tôi thật lòng hi vọng các bạn sẽ yêu thích câu chuyện tình yêu của Roger và Teleri. Phải nói rằng có những ngày tháng hai người ấy chẳng hề hợp tác với tôi chút nào. Nhưng chính nhân vật đôi khi làm nên chuyện, cứ  đứng dậy và cố gắng viết nên câu chuyện của chính họ với tôi đây khập khiễng theo sau. Nhưng hãy để các nhân vật sang một bên, bây giờ tôi cần cám ơn những con người thực. Con gái tôi, khi nghe tôi đọc một cảnh đã vô tình chỉ ra những chi tiết thừa, nhăn nhăn cánh mũi hay mặt mày với vẻ khó chịu làm tôi chạy lại ngay máy tính mà lầm bầm. Đặc biệt cảm ơn em gái tôi, Jan, đã bị chú gá không đầu đuổi theo cách đây nhiều nhiều năm trước và đã kể câu chuyện đó. Một số chú thích lịch sử: Truyền thuyết về Arthur là một phần quan trọng của xứ Wales thời trung cổ. Người xứ Wales tin rằng trong lần thứ hai vua Arthur và các hiệp sĩ của ngài đến, tất cả họ, theo truyền thuyết đều sống trong một cái hang lớn ở giữa những quả đồi xứ Wales, cho tới một ngày họ cưỡi ngựa quay lại giải cứu xứ Wales. Có những lời đồn đại đã trông thấy và có những người quả quyết đã nhìn thấy bóng những người đàn ông bí ẩn cưỡi ngựa qua sườn đồi. Ở xứ Wales tràn ngập những địa danh mang tên theo Arthur – đồi núi, sông suối, giếng nước hay hang động. Một số dựa theo sự trông thấy, và số khác dựa theo truyền thuyết địa phương nhưng giống như những vòng tròn đá, tất cả chúng đều còn bí ẩn cho tới ngày nay. Tôi muốn đem những truyền thuyết này vào trong giọng viết của tôi, bởi khi tôi nhìn thấy một câu chuyện tưởng tượng thật hoang dã tự nhiên như thế, tôi muốn bước ngay vào và tự mình sống trong truyền thuyết. Khi bạn đang đọc những dòng này, là tôi đang vui vẻ viết hay có lẽ lại khập khiễng theo sau – Hiệp sĩ Tobin và tiểu thư Sofia, trong câu chuyện của họ có tên - Wicked (Ma mãnh) mà Pocket Books sẽ xuất bản vào thời gian nào đó năm 1999. Tôi có một linh cảm Sofia sẽ gây khó khăn cho tôi như cô ấy làm với hiệp sĩ Tobin de Clare, nhưng tôi biết mình sẽ gặt hái những niềm vui. Và tôi nghĩ cuộc đời của hiệp sĩ Tobin cũng cần khuấy động đôi chút, phải không các bạn? Hãy thụ hưởng niềm vui sống trong truyền thuyết nhé, các bạn của tôi. Jill Barnett *** Jill Barnett là một tác giả tiểu thuyết lãng mạn và tiểu thuyết bán chạy nhất của New York Times. Năm 1988, Jill Barnett đã bán cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, The Heart's Haven, cho Pocket Books. Nó được xuất bản hai năm sau đó, và dành ba tuần trong danh sách bán chạy nhất.   Mời các bạn đón đọc Hoang Dã của tác giả Jill Barnett.