Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đường Hầm Ôđetxa

- Tên sách : Đường hầm Ôđetxa Tập 1+2         - Tác giả : Valentin Kataep                         Trần Lê Huy, Thương Thục, Hoài Dân dịch         - Nhà xuất bản Văn học         - Năm xuất bản : 1968         Dịch theo bản dịch Pháp văn LES CATACOMBES D'ODESSA của Esfir Berstein và Olga Wormsber — (Nhà xuất bản Ngoại văn Mạc-tư-khoa — Nhà xuất Editeurs Franẹaís Réunis — Paris) Đ ường hầm Ôđetxa của Valentin Kataep[1] cho ta một khái niệm về chiến tranh nhân dân ở Liên-xô và chứng minh qui luật chiến tranh nhân dân nhất định thắng lợi. Ôđetxa là một thành phố cảng lớn của Liên-xô, nằm trên bờ Hắc-hải, có truyền thống lâu đời chống ngoại xâm, đã từng chứng kiến cuộc thất trận thảm hại của quân Thổ-nhĩ-kỳ, cũng như đã từng đập vỡ cuộc can thiệp của mười bốn nước đế quốc vào nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười. Trong lòng đất dưới thành phố và miền phụ cận, có một hệ thống hầm, hào chằng chịt, có từ lâu đời, tạo nên cả một thành phố ngầm với hàng trăm ngàn đường, ngõ ngoắt ngoéo, được mệnh danh là những hầm mộ ở Ôđetxa. Hệ thống hầm ngầm ấy đã từng được sử dụng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đã từng là cơ sở bí mật của các chiến sĩ bônsêvich hồi Cách mạng tháng Mười. Đến chiến tranh thế giới lần thứ hai, trước khi đội thiết giáp Đức tiến vào thành phố, những hầm mộ ấy lại trở thành những căn cứ vững chắc của các đội du kích, các đội công tác bí mật, các cơ quan kháng chiến nằm trong lòng địch để bám đất, bám dân. Bọn phát-xít chiếm đóng có biết điều ấy không? Biết. Nhưng không phải bất kỳ lúc nào chúng cũng dám sục xuống cái mê hồn trận ấy. Những tên liều mạng đã phải trả bằng một giá rất đắt vì nhưng quả mìn tự động, vì những tràng đạn rất chính xác từ các ngóc ngách tối om bắn ra. Những vòm hầm đổ ụp xuống làm hàng đơn vị địch bị tan xác, thậm chí những đống xác chết chồng chất của chính bọn chúng cũng tạo nên những vật chướng ngại vít hẳn đường vào. Bọn phát xít dùng đủ mọi cách, đại bác, bom, mìn, hơi độc, chẹn kín các cửa lên, xuống... Nhưng kết quả không hoàn toàn như ý đồ đen tối của chúng. Trong suốt thời kỳ phát-xít chiếm đóng, đội công tác bí mật của Secnôivanenkô, cũng như bao nhiêu đội khác, vẫn tồn tại và phát triển, vẫn phá hoại có kết quả trong lòng địch, vẫn đánh cho địch những đòn ác liệt làm cho chúng điên cuồng lồng lộn, ăn không ngon ngủ không yên. Họ vẫn nắm được nhân dân và gắn bó với nhân dân, vẫn đem được luồng sinh khí của Đảng đến thổi cao ngọn lửa căm thù, chiến đấu trong lòng nhân dân. Những ai đã nhảy vào cuộc vật lộn gay go, dai dẳng trong lòng địch như vậy? Đó là Secnôivanenkô, một cán bộ Đảng lãnh đạo trực tiếp đội công tác bí mật, người chỉ huy rất sáng suốt, kiên quyết, không khoan nhượng với địch, đồng thời yêu thương đồng đội một cách sâu sắc. Đó là bác công nhân già Xiniskin Jêleznư, con người “bằng sắt”, tuy mắc bệnh lao phổi nhưng có một ý chí chiến đấu không gì lay chuyển nổi. Đó là Kôletnisuc, một cán bộ ngoài Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh dưới ngọn cờ của Đảng, cùng vợ là Raitxa Lvôpna, một phụ nữ gốc Do-thái, muốn ở bên chồng để chia sẻ nỗi gian nguy. Đó là bà Matriôna Têrenchiepna, vợ người chủ tịch một ngư trang tập thể ở vùng phụ cận thành phố, một phụ nữ rất kiên cường, sôi nổi. Đó là đại úy Hồng quân Drujinin với những hoạt động táo bạo và tinh thần bất khuất đáng kính. Đó là anh thanh niên dũng cảm và rất yêu đời Xviatôxlap. Đó là Batsây trầm tĩnh, từ Mạc-tư-khoa xuống, ngẫu nhiên tham gia và tham gia kiên trì vào cuộc chiến đấu trong mấy năm ròng rã. Đó là nhà tri thức Xêrêđôpxki khảng khái nhất định không chịu cộng tác với quân thù. Đó là các em thiếu niên tiền phong Pêchya và Valentin. Các em đã góp phần không nhỏ vào việc tết vòng hoa chiến thắng cho thành phố Ôđetxa thân yêu. Tính chất nhân dân trong cuộc chiến tranh giữ nước của Liên-xô là như vậy. Nhiều người đã hy sinh. Những “hầm mộ“ từ bao đời đã trở thành hầm mộ thực sự của những người con bỏ mình vì sự nghiệp vinh quang bảo vệ đất nước xô-viết. Khó khăn gian khổ, nhưng họ vẫn giữ vững một niềm tin tưởng lạ lùng ở chiến thắng. Những ngày cuối cùng ở dưới hầm mộ, nhóm của Secnôivanenkô bị lạc trong cái mê hồn cung trăm ngàn ngõ ngách ấy, họ không tìm được lối lên mặt đất trong khi bi-đông của họ chỉ còn một giọt dầu cuối cùng. Họ đã kiệt sức, hấp hối trong cơn khát, nhưng vẫn tin là “không thể chết được“. Chúng ta hãy nghe Secnôivanenkô truyền niềm tin tưởng say sưa đó cho người bạn chiến đấu Batsây trong hoàn cảnh nguy nan: “Chúng ta sẽ tiêu diệt được bọn chúng, vì chúng ta làm một cuộc chiến tranh chính nghĩa, một cuộc chiến tranh nhân dân, một cuộc chiến tranh kiểu mới. Một cuộc chiến tranh vì tương lai của tất cả nhân loại cần lao, một cuộc chiến tranh vì chủ nghĩa cộng sản!“. Cuộc chiến tranh nhân dân đã tôi luyện cho họ một nhân sinh quan cách mạng chân chính, một tình đoàn kết sâu sắc, một tinh thần dũng cảm đầy sáng tạo và một lòng tin tưởng vô bờ bến. Đó là những nền tảng không thể thiếu được của chiến thắng. * Valentin Kataep có một phong cách nghệ thuật độc đáo khi thể hiện chủ đề của mình. Trước hết là vấn đề nhân vật. Trong các tác phẩm của ông, các em thiếu niên thường đóng một vai trò quan trọng. Một nhà phê bình văn học viết: “Trong tâm hồn nhà văn Kataep, vẫn còn một thằng bé ẩn náu ở đâu đó!“ Đúng. Lần này, “thằng bé“ đáng yêu đó lại xuất hiện và hoạt động dưới hình dạng của chú thiếu niên tiền phong Pêchya Batsây với nhiệm vụ mở đầu và kết thúc cuốn sách. Trong suốt câu chuyện chú bé không phải chỉ là người chứng kiến thời đại mà còn là một thủy thủ trên con tàu thời đại. Hành động tham gia chiến đấu đầu tiên của chú bé là nhận lá cờ đẫm máu của một chiến hạm Liên-xô từ tay anh thủy binh hấp hối Lavrôp. Tác giả đã miêu tả một cách lý thú sự diễn biến tâm lý của chú bé, từ trạng thái rụt rè sự hãi chuyển sang thái độ can đảm, hăng say. Tâm hồn lãng mạn cách mạng của tuổi thiếu niên được miêu tả rất đúng qua cử chỉ giơ tay tuyên thệ trước xác anh thủy thủ Hồng quân. Lá cờ thiêng liêng được cất giấu giữa đêm đoàn xe tăng phát-xít tiến vào chiếm đóng Ôđetxa. Từ đó Pêchya đi vào cuộc chiến đấu, cùng chia nỗi vui, buồn, gian khổ với các bạn đồng đội vào tuổi cha, chú. Cuốn truyện chấm dứt bằng cuộc “khải hoàn” của chú bé từ thành phố Ôđetxa giải phóng trở về Mạc-tư-khoa, với tấm huân chương chiến công chói lòa trên ngực bộ quân phục nhỏ bé. Chú đã giữ đúng lời thề của thiếu niên tiền phong hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu cuối cùng khi tìm ra và trao lá cờ nói trên cho bộ tư lệnh Hồng quân. Tác giả gắn vào hình tượng thiếu niên tất cả tấm lòng ưu ái và tin tưởng, quí trọng lớp măng non tương lai của đất nước. Trong truyện, chúng ta gặp lại nhiều nhân vật trong các tác phẩm trước của ông. Hai chú bé Pêchya và Gavrick trong Cánh buồm trắng tham gia sôi nổi vào làn sóng Cách mạng từ đầu thế kỷ đã trở nên bác Batsây rất trung thành và đồng chí Secnôivanenkô giàu nghị lực. Thế là lớp trước trưởng thành, lớp sau bước tiếp. Niềm hy vọng nồng nhiệt, thiết tha của thế hệ trước gửi lại thế hệ sau được gói ghém trong bức thư của Đrujinin trước giờ bị hành quyết, ghi trên bức tường của ngục tối gửi cho con gái yêu quí của mình. Sức sống của chủ nghĩa xã hội, của Tổ quốc xô-viết thực là bất diệt. Tuy cấu trúc và nội dung tác phẩm dành cho tuổi trẻ một địa vị quan trọng, nhưng tác phẩm của ông không phải chỉ viết riêng cho thiếu niên. Pêchya cũng như Valentin đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là cả một tập thể chiến đấu. Tâm hồn, ý chí, cảm nghĩ của mỗi người được ngòi bút sắc sảo của Kataep phân tích tỉ mỉ, đúc thành những dạng điển hình. Tác phẩm ông không phải chỉ có con người bàng bạc trong thời gian và không gian rộng rãi, ta luôn thấy hình ảnh thành phố quê hương thân yêu của ông, với đường phố, lâu đài, bến cảng, cầu tàu, cần trục, bờ dốc đứng, thảo nguyên... khi ẩn khi hiện, với tất cả buồn, vui, thương, giận. Không phải chỉ có con người xô-viết đánh giặc mà cả thiên nhiên xô-viết cũng vùng lên, tiêu diệt bọn cướp nước hung tàn. Phong cách sáng sủa, cách bố cục chặt chẽ, chia chương ngắn gọn, khiến câu chuyện tuy dài mà vẫn dễ theo dõi, tiếp thu. * Đường hầm Ôđetxa đến với chúng ta giữa lúc cả nước ta đang quyết liệt tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước. Những hầm ngầm chiến đấu nổi tiếng của thành phố Ôđetxa khiến chúng ta liên tưởng đến hệ thống địa đạo vô cùng vĩ đại của đồng bào miền Nam đánh giặc. Tất nhiên hoàn cảnh lịch sử, địa lý mỗi nơi mỗi khác, phương thức chiến đấu cũng không hẳn giống nhau, nhưng có một khía cạnh có thể cung cấp cho chúng ta nhiều suy nghĩ bổ ích. Ấy là vấn đề con người trong chiến tranh nhân dân. Con người được giác ngộ sâu sắc, được lãnh đạo tốt, được tổ chức tốt, nhất định sẽ làm nên những sự nghiệp thần kỳ. Với ý nghĩ ấy, chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc Đường hầm Ôđetxa.   Hà-nội, 16-3-1967 LÊ HUY Mời các bạn đón đọc Đường Hầm Ôđetxa của tác giả Valentin Petrovich Kataev.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới - Og Mandino
Cho đến nay, “Người bán hàng vĩ đại nhất Thế giới” được dịch ra 18 thứ tiếng, đã bán ra hơn 9 triệu cuốn và trở thành cuốn sách bán chạy nhất Thế giới. Không ai có thể ngăn cản bạn làm gì, trở thành người như thế nào nếu điều đó là chính đáng, có lợi cho bạn, gia đình và xã hội. Mọi cái đều có thể nếu bạn dám ước mơ và dám hành động để biển giấc mơ đó thành hiện thực. Tuy nhiên ước mơ là một chuyện, cái khó là ở chỗ làm sao để hành động biến ước mơ thành hiện thực.  Cuốn sách này được gói gọn trong mười cuốn da dê giúp bạn trở thành một Người bán hàng vĩ đại nhất thế giới, tuy nhiên nó không chỉ dạy bạn cách “bán hàng”, mà nó còn là một cuốn sách dạy bạn làm người, giúp bạn trở thành người “vĩ đại nhất” trong lĩnh vực mà mình đã chọn. Nội dung cuốn sách này được đúc rút từ những kinh nghiệm xương máu mà nhờ đó nó đã biến các ước mơ của cổ nhân thành hiện thực. Chứ không phải do một cá nhân nào đó tưởng tượng ra trong khi lại chưa được thực nghiệm kiểm chứng cả. Mỗi người đều có quyền tự do lựa chọn con đường để thực hiện giấc mơ của mình tuỳ thuận với nhận thức riêng của họ. “Quyển sách này” là một trong những con đường có thể giúp bạn đạt được ước mơ của mình. HỌC + LÀM = GIÀU Con Đường Thành Công    Ngay cả lời nói của Thượng đế cũng cần phải bán được cho con người để họ có thể lắng nghe Tất cả chúng ta, ai cũng đều đang rao bán một thứ gì đó trong mọi lúc của cuộc sống. Là một tu sĩ, chúng ta đang rao bán niềm tin của chúng ta về thương đế. Là một nhà giáo, chúng ta đang rao bán kiến thức của mình về khoa học. Là một nhà chính trị, chúng ta đang rao bán chính kiến của mình về một xã hội. Và là một con người chúng ta đang rao bán tình yêu của chúng ta đối với mọi người quanh ta. Một ý nghĩ có vẻ quá thực dụng nhưng lại là một thực tế mà chúng ta thường vẫn luôn tránh né, một cách vô thức, chẳng muốn nhìn nhận. Nếu chúng ta chấp nhận bán hàng là một hành động phục vụ, chúng ta sẽ nhận ra những hàm ý thực sự cao đẹp và đáng trọng của hai từ này. Nếu chúng ta thực tâm hiểu ra và tôn trọng hai từ này, ai trong chúng cũng có thể trở thành một người bán hàng vĩ đại nhất thế giới này. “The Greatest Salesman in the World” là một cuốn sách tuyệt vời đã từng được con người viết ra. Cuốn “Người Bán hàng Vĩ đại Nhất Thế giới” này là một cuốn sách mà những thông điệp ẩn mật đáng trân trọng của nó thường bị bỏ quên bởi chính cái tên của cuốn sách. Chúng ta cần phải hiểu hai chữ bán hàng được nói ở đây có nghĩa rộng hơn nhiều chứ không chỉ là công việc bán hàng bình thường như mọi người ngầm hiểu. Og Mandino là một tác già sách ‘self help’ (tự thân cải tiến) nổi tiếng chứ không phải một tác giả sách marketing. Chính vì lý do này mà chúng ta cần phải hiểu đây không thể là một cuốn sách về một ý thức hay những phương pháp bán hàng một cách đơn thuần. Theo ý của tác giả Og Mandino thì đây là một cuốn sách mượn công việc bán hàng để nói đến một phong cách sống phục vụ sẽ đưa ta đạt đến những thành công to lớn trong cuộc sống và nếu có, thì quan trọng hơn nữa là –cảm nhận niềm hạnh phúc của việc “được sống” một cách độc lập và tự do trong giới hạn của TÌNH YÊU. *** Và rồi thật nhanh chóng, một đoàn xe được bảo vệ nghiêm ngặt rời khỏi Damascus mang theo các giấy chứng nhận chủ quyền và vàng đến cho những ai đang quản lý các cửa hàng của thương quốc Hafid. Từ Obed ở Joppa đến Reuel ở Petra, từng người quản lý một đều nhận được lời giã biệt và tặng vật của Hafid trong sự im lặng đến mức sững sờ. Cuối cùng, khi đến cửa hàng ở Autipatris, nhiệm vụ được giao của Eramus đã hoàn tất. Thương quốc mạnh mẽ và rộng lớn nhất một thời đã không còn tồn tại nữa. Trái tim nặng trĩu, Eramus báo về cho ông chủ của mình biết là các kho hàng nay đã hoàn toàn trống rỗng và các cửa hàng một thời là niềm tự hào của Hafid nay đã không còn nữa. Người đưa tin trở lại với yêu cầu của Hafid. Eramus nhanh chóng trở về và gặp lại chủ nhân của mình bên hồ nước trong lâu đài. Khi gặp lại, Hafid quan sát nét mặt của người quản lý già: “Mọi việc đã xong?” “Vâng thưa ông, đã xong.” “Đừng đau khổ, ông bạn. Hãy theo tôi.” Chỉ có tiếng bước chân của họ dội lên trong căn phòng rộng lớn, trống rỗng khi Hafid dẫn Eramus dọc theo lối đi bằng cẩm thạch xanh dẫn ra phía sau. Đôi khi bước chân của Hafid chậm lại khi đi ngang qua những bình hoa trống rỗng, cô đơn trên các chân đế bằng gỗ cam cao nghệu và ông mỉm cười khi nhìn thấy những tia nắng đang làm cho màu của thuỷ tinh chuyển từ trắng thành tím nhạt. Rồi 2 người bạn già bắt đầu leo lên những bực thang dẫn đến một căn phòng nằm ngay bên dưới mái vòm của lâu đài. Erasmus nhận thấy những người canh gác vẫn thường hiện diện ở đây trong bao năm qua nay không còn nữa. Hai người lên đến tầng giữa, họ tạm ngừng để lấy lại hơi thở đã mất vì những bậc thang quá dài, rồi lại tiếp tục leo lên tầng hai trong im lặng. Đến trước một khung cửa, Hafid lấy ra một cái chìa khoá nhỏ vẫn đeo nơi lưng quần và mở cánh cửa bằng gỗ sồi nặng trịch ra. Ông nghiêng người đẩy cánh cửa mở ra một cách khó khăn và bước vào. Erasmus chần chừ cho đến khi ông chủ của mình yêu cầu ông bước vào, Erasmus thận trọng bước vào trong căn phòng mà từ hơn 30 năm qua chưa từng một ai được cho phép bước vào. Ánh sáng mờ nhạt len vào từ những khe hở chung quanh mái vòm ở bên trên, Erasmus nắm chặt lấy tay chủ nhân của mình cho đến khi đôi mắt dần quen đi với ánh sáng tù mù trong căn phòng bí mật đó. Với một nụ cười mơ hồ, Hafid nhìn người bạn trung thành của mình đang chậm chạp nhìn quanh căn phòng trống rỗng. Chỉ có một cái rương nhỏ thấp thoáng phản chiếu ánh sáng nằm ở một góc phòng. “Bạn cảm thấy thấy thất vọng ư, Erasmus?.” “Tôi không biết nói gì, thưa ông.” “Ông không thất vọng vì mọi thứ ở đây ư, ông bạn già. Chắc chắn là những gì chứa chất trong căn phòng này là một trong những bí mật đối với mọi người đã từng làm việc với tôi. Ông không thắc mắc hay quan tâm gì đến những gì được cất giấu ở đây dưới sự canh gác cẩn mật bao lâu nay sao?” ... Mời các bạn đón đọc Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới của tác giả Og Mandino.
Đánh Cược Với Tình Yêu - Suzanne Enoch
Tác phẩm thuộc series tiểu thuyết ăn khách của Suzanne Enoch, Scandalous bride, tác giả nổi tiếng dòng văn học lãng mạn Mỹ, mới phát hành tại Việt Nam. Diane Benchley và Oliver Warren từng có một mối tình đẹp như mơ ở Vienna. Nhưng câu chuyện cổ tích đột ngột kết thúc khi Oliver bỏ đi không rõ lý do. Oliver lúc đó chỉ là một kẻ tay trắng, kiếm tiền bằng cách chơi cờ bạc bịp trên khắp các sòng bài. Anh sợ rằng, mình sẽ phải lòng người phụ nữ quyến rũ, giỏi giang này và không kiềm được ý muốn kết hôn với cô. Anh không muốn đến với cô khi chẳng có gì chắc chắn để đảm bảo cuộc sống của hai người. Nhưng anh không ý thức được rằng, nỗi khổ tâm của anh, sự ra đi đường đột của anh đã giết chết một phần con người Diane.  Oliver quay về London, xin lỗi người bác già cả cho những lầm lỡ trước kia của mình, thừa kế tước hiệu Hầu tước Haybury và quyết tâm làm lại một cuộc đời mới. Nhưng số mệnh không tuân theo sự sắp đặt của anh. Oliver ý thức được điều đó ngay từ khi nghe tin Diane Benchley trở về Anh quốc. Cảm giác day dứt và vấn vương khiến anh buộc phải đi theo tiếng gọi của trái tim mình. Haybury chấp nhận trở thành cộng sự kinh doanh của Diane, tham gia vào kế hoạch điên rồ đầy mạo hiểm của cô. Diane luôn cho rằng, bài bạc đã lấy đi nhiều thứ quý giá của mình. Và như một lời thách đố với số phận, cô quyết tâm chọn cách mở một sòng bài. Sự thành công của cô sẽ giống như một chiến thắng vẻ vang trước quá khứ chua xót luôn làm cô day dứt. Nhưng, Diane dù thông minh đến mấy cũng thiếu kinh nghiệm quản lý một sòng bạc, còn Oliver lại thừa hiểu biết về lĩnh vực này. Cô buộc phải tìm đến anh, vừa để thực hiện kế hoạch kinh doanh mình nung nấu, vừa như một cách "trêu ngươi" tình cũ - kẻ mà cô tuyên bố đã chẳng còn chút vấn vương nào. Trải qua nhiều sóng gió, Diane ngây thơ đã biết cách dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích của mình. Điểm yếu duy nhất của cô, đó chính là sự lỡ nhịp của trái tim. Oliver và Diane tưởng đã mất nhau, nhưng hai người đã "đánh cược" cả trái tim vào đối phương. Nhờ đó, họ tìm được hạnh phúc viên mãn. Đánh cược với tình yêu không chỉ kể câu chuyện lãng mạn, đó còn là thông điệp về lòng vị tha trong tình yêu. *** Bộ sách Scandalous bride, gồm có: #0.5 – The Wicked One # 1 – A Beginer’s Guide to Rakes - Đánh Cược Với Tình Yêu # 2 – Taming an Imposible Rogue - Kẻ Phóng Đãng Bất Trị # 3 – Rules to Catch a Devilish Duke # 4 – The Handbook to Handling His Lordship *** Trên thế giới này có rất ít chuyện có thể khiến Oliver Warren, Hầu tước Haybury, giật mình. Thực tế là anh có thể đếm những chuyện đó trên đầu ngón tay của một bàn tay. Như tiếng tru tréo của lũ trẻ con. Tiếng cọ xát của kim loại han rỉ. Và tên của người đó. Vẫn ngồi bất động, anh ngước lên, quên béng chồng phỉnh bạc (1) giữa ngón tay mình. “Anh vừa nói gì?” James Appleton ngồi bên trái anh liền gật đầu. “Tôi đã nghĩ nhà Benchley sẽ tìm ra cách giữ lại trang viên đó, dù gì nó cũng là tài sản của gia tộc từ rất lâu rồi. Nhưng giờ bà quả phụ đó đã mở cửa lại Dinh thự Adam House cũ. Theo tin tức tôi nghe ngóng được thì cô ta chỉ vừa mới đến tối qua. Dù sao thì cũng hơn ba năm mới có người đến sống ở đó.” Oliver đặt cược lên con ba bích, tập trung vào ván bài trong lúc người chia bài lật con bốn, con chín và con Q cơ. “Hừm”, Oliver nói, anh cho rằng sự quan tâm nhạt nhẽo sẽ là phản ứng thích hợp đối với những tin đồn vô thưởng vô phạt thế này. “Phu nhân Cameron. Cô ta đã đến lục địa rồi phải không? Cô ta tên gì ấy nhỉ? Marianne à?” “Diane.” Appleton sửa lại, cuối cùng nhận ra mình đã thua khi đặt cược vào con bốn bích. “Khốn thật. Tôi nghe nói là ở Vienna (2) hay Amsterdam gì đó. Tôi đoán là hơn hai năm sau cái chết của Fredrick cô ta cảm thấy nhớ London.” “Có vẻ thế.” Hình ảnh suối tóc đen huyền và cặp mắt xanh lạ lùng xẹt qua tâm trí Oliver trước khi anh kịp gạt đi. Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt. Anh liếc sang anh chàng ngồi phía bên trái. “London hẳn là chán chết ấy Appleton”, anh giễu cợt, “nếu như tin tức hấp dẫn nhất anh nhặt nhạnh được là một quả phụ đang trở lại nhà của người chồng quá cố của cô ta.” Từ phía bên kia bàn, Bá tước Beaumont cười phá lên. “Anh đang vấp phải thời điểm chán nản của mùa vũ hội đấy, Haybury. Chẳng có tin gì thú vị đâu. Tôi nghĩ chúng ta đã không có vụ tai tiếng nào kể từ tháng Giêng, và cũng chẳng ai thèm quan tâm vì có ai ở trong thành phố để buôn chuyện đâu chứ.” Bá tước nâng ly rượu của mình. “Chuyện này mang lại hy vọng sẽ sớm có một trò tiêu khiển đẫm máu.” Oliver nâng ly vì câu nói đó. Bất cứ điều gì giúp anh không phải nghe lại cái tên Diane Benchley chết tiệt từ miệng của ai đó trong sáu tuần tiếp theo sẽ nhận được sự ủng hộ của anh. “Tối nay anh không đặt cược nữa hả Appleton?”, anh khiêu khích. “Chúng tôi có thể cung cấp cho anh một cái khung thêu nếu anh thích tiếp tục líu lo.” Gò má và cổ họng Appleton đỏ lựng. “Tôi chỉ nghĩ chuyện đó thú vị”, anh ta phản bác. “Bá tước Cameron quá cố cùng phu nhân của anh ta chạy trốn khỏi London ngay trước mũi bọn chủ nợ, và giờ cô ta trở về một mình với nửa tá xe ngựa loại lớn nhất – vào lúc nửa đêm.” “Có lẽ cô ta đã tìm cho mình một vị công tước nước Phổ nào đó.” Nhân vật thứ tư trong nhóm, Jonathan Stucliffe, Tử tước Maderlin, rốt cục cũng nhập cuộc. “Theo như tôi nhớ thì cô nàng rất xinh đẹp.” Anh ta vỗ vai Oliver. “Sau đó anh không ở lại London nhỉ? Thực sự anh chưa từng tới Vienna à?” “Đâu đó quanh đấy.” Cái liếc mắt cùng cặp lông mày nhướng cao đã thuyết phục Maderlin buông vai anh ta. “Tôi cũng trở lại trên một cỗ xe màu đen loại lớn nhất đấy Appleton. Của riêng tôi. Anh cũng xì xầm về tôi đấy chứ?” Cuối cùng Appleton cũng toét miệng cười. “Đã và sẽ tiếp tục làm thế. Gần như là liên tục.” “Hay lắm. Tôi đã làm việc rất chăm chỉ để giữ tất cả những kẻ hóm hỉnh bận rộn.” “Đúng đấy!” Ngài Beaumont ra dấu và một gã phục vụ trong bộ đồng phục câu lạc bộ tiến đến rót đầy cốc rượu của anh ta. “Vậy thì anh sẽ phải chịu trách nhiệm cho sự yên ả này. Hãy cho chúng tôi một vụ tai tiếng đáng nguyền rủa đi nào, Haybury.” Oliver nghiêng đầu. “Tôi sẽ làm hết sức mình. Đúng hơn là tồi tệ nhất.” Diane Benchley, Phu nhân Cameron, ở London. Và anh cho rằng họ sẽ sớm chạm mặt nhau ở một buổi vũ hội nào đó. Xét cho cùng thì Mayfair là một nơi nhỏ bé. Thậm chí còn nhỏ hơn cả Vienna. Anh uống cạn lượng uýt-ki còn lại trong ly và tự rót cho mình một ly khác. Tối nay tên cô ta có lẽ đã khiến anh giật mình, nhưng nếu - khi – anh mặt đối mặt với cô ta, anh sẽ không phải là người giật mình. Không một cái nhăn mặt. Hay một cái nhíu mày nào. Và tốt hơn hết cô ta nên dán kín cái miệng xinh đẹp của mình lại hoặc anh buộc lòng phải làm một việc gì đấy chướng tai gai mắt. “Anh có đặt cược không hả, Haybury?” Manderlin hỏi. “Hay anh đang khâu vá?” Gói ghém những ý nghĩ không dễ chịu lắm cho khoảng thời gian riêng tư sau này, Oliver liếc nhìn những lá bài đã được lật và đặt hai bảng lên con J. Theo kinh nghiệm của anh con J luôn thắng. “Diane, có người muốn gặp cô.” Diane Benchley, Phu nhân Cameron, ngước lên từ đống giấy tờ trên bàn làm việc của người chồng quá cố. “Tôi không định gặp ai hết”, cô lầm bầm và tiếp tục chọn lọc các con số thập phân cùng các phép trừ ở mỗi bảng biểu có vẻ nổi bật. “Không có ngoại lệ.” “Tôi biết chứ, thưa cô”, người bạn đồng hành với cô đáp lại, vẫn không rời khỏi cửa ra vào. “Đó là ngài Cameron.” Trong tích tắc, cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Diane. Cũng trong khoảng khắc ngắn ngủi đó, mỗi bàn tay cô từng nắm, mỗi làn gió thổi qua eo biển từ Lục Địa hay mỗi tin tức sét đánh nổ ầm trong lồng ngực kể từ khi cô rời Vienna, lại nghèn nghẹn trong cuống họng. Sẽ chẳng có chuyện gì, nếu như…. Lầm rầm nguyền rủa, cô rùng mình. Frederick Benchley đã chết. Hai năm trước. Cô đã ở bên cạnh lúc anh ta trút hơi thở cuối cùng. Cô đã đứng bên phần mộ của anh ta khi hai người làm công đào hố và chôn cỗ quan tài gỗ thông rẻ tiền của anh ta xuống lòng đất. “Vì Chúa, Jenny, đừng doạ tôi chứ”, cô hô to, đặt cây bút chì sang một bên và dùng ngón tay vẫn còn run rẩy của mình để xoa xoa hai bên thái dương. Sự hoảng hốt lướt qua khuôn mặt người bạn đồng hành của cô, Genevieve Martine vội vã bước vào phòng. “Ôi, Chúa ơi. Cô biết ý tôi là Bá tước mới kia mà. Tôi chưa bao giờ nghĩ là…” “Đừng bận tâm, Jenny. Có điều cô đã làm tôi nổi gai ốc đấy. Anthony Benchley đang ở đâu?” “Trong phòng khách buổi sáng (3). Anh ta đòi gặp cô, và sau đó gọi trà.” Diane chống tay lên bàn làm việc, đứng dậy. “Ừm. Chí ít chúng ta có thể phỏng đoán tin tôi trở về London đã nhanh chóng lan xa. Tôi cho là cũng có ý nghĩa đấy chứ.” “Phải đấy, chúng ta có thể tính là một may mắn kể từ lúc trở về đây.” Jenny thở dài. “Và hai tá điều bất hạnh. Tôi nên xếp Ngài Cameron vào mục nào đây?” “Bất hạnh. Nếu có thể cô hãy đi cùng tôi. Tôi muốn dứt khoát với anh ta càng nhanh càng tốt.” “Cô nghĩ anh ta muốn gì?” Genevieve hỏi với âm hưởng Pháp thanh thoát dường như có thể nhẹ nhàng hoặc mạnh mẽ tuỳ thuộc vào tâm trạng của cô ta. ... Mời các bạn đón đọc Đánh Cược Với Tình Yêu của tác giả Suzanne Enoch.
Chồn Mật - Robert Ruark
Tại châu Phi có một loài vật khát máu, không biết sợ ai, cái gì... bao giờ, mang tên Chồn Mật. Có lẽ nó là con vật hạ đẳng nhất thế giới. Nó thích mật ong, và mọi loài lông vũ. Nó giết chóc nhiều khi không phải là vì đói, vì căm hận mà chỉ để thỏa tính hung bạo và để.... giải trí. Đặc biệt, khi tấn công con người, nó không nhắm vào cổ hay bất kỳ đâu mà chỉ nhắm vào chỗ kín. Bản chất ấy phải chăng được thấy trong một con người Mỹ hiện đại - «Alex Barr», nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết ấn tượng này. "Chồn Mật" được coi là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Robert Ruark. Đây là câu chuyện về một người đàn ông, một nhà văn tài năng, bị giằng xé giữa công việc và đàn bà. Có lẽ người đọc sẽ không khó nhận ra phần nào nguyên mẫu của chính tác giả trong đó. Nhưng "Chồn Mật" vẫn không mang dáng vẻ của một hồi ký, kể cả khi đã nhắc không ít tới các nhân vật tiếng tăm có thực với tính cách, tài năng và số phận thực của họ, như nhà báo Ernie Pyle, nhà văn Ernest Hemingway... *** Trời rất nóng và đầy hơi nước, cái nóng của New York ẩm ướt, đặc sệt lại, đè nặng lên người. Tầng áp mái nhô lên khỏi 17 tầng nhà trên khu đông Manhattan, khoe ra những cây đào trên sân thượng. Chẳng có chút gió nào lay động nổi những chiếc lá đào, còn sân thượng được phủ một lớp bồ hóng xốp mịn. Không có máy điều hòa trong căn hộ kiểu cũ xây tường dày, và thường khá mát mẻ. Alexander Barr, với bộ đồ cộc, vừa ra khỏi vòi nước lạnh, và mới chỉ đi xa buồng tắm hai bước, mồ hôi đã bắt đầu chảy ròng ròng trên người. Amelia, vợ Alexander Barr, đang ngồi trước bàn trang điểm tô lại đôi môi, có cái vẻ mát mẻ khiêu khích. Như Alex Barr cảm thấy, nàng trông giống như người vừa hiện ra từ một thế giới toàn những kẻ vô danh, tất cả bọn họ đều bị ám ảnh bởi những ý nghĩ ích kỷ nhỏ mọn. Chiếc cốc đầy tới nửa một thứ gì đó có vẻ như rượu gin pha, rịn ra khá nhiều nước ở cạnh khuỷu tay nàng. Một điếu thuốc lá có đốm lửa đỏ ở đầu, buồn bã cháy âm ỉ trong chiếc gạt tàn bóng loáng bên cạnh. Alex Barr đã uống cạn một cốc khi anh từ ngoài đường vào nhà - mặt bóng nhẫy, mồ hôi ròng ròng, chiếc áo sơmi ướt sũng dính chặt vào người - nhưng cốc rượu chỉ khiến anh nóng thêm. Anh liệng chiếc cốc ra ngoài khoảng sân đầy bồ hóng, hy vọng có một chuyển động đáng thương hại trong không khí, và khi chằm chằm nhìn qua lan can xuống đường phố tít bên dưới, anh gần như bị ức chế một cách không thể chịu đựng nổi bởi ý nghĩ cả cái quả đất chưa được thăm dò chứa đầy những con “người kiến” bé tí xíu, tất cả đều bị tù hãm một cách cuồng loạn bởi những vấn đề cá nhân. Đột nhiên toàn bộ thế giới rộng lớn túm được đầu của Alexander Barr trong bàn tay gồ ghề của nó, bóp mạnh, và ép bộ óc anh phọt ra đằng tai. Anh cảm thấy như một bên hộp sọ của mình gãy vụn, rồi nở phồng ra, và ở chỗ vốn là não bộ giờ đây chỉ là một khối bê tông cứng. Alex muốn thét lên, muốn chạy trốn, muốn núp vào một xó nhà đầy mạng nhện và xé toạc lớp vỏ bọc đang bao phủ cái hộp sọ bị đổ bê tông, Anh muốn, anh muốn, anh không biết mình muốn gì nữa. Nhưng anh biết cái anh không muốn. Anh không muốn tới chỗ Hazeltines để ăn tối. “Không,” anh kêu lên. “Không, tôi sẽ không. Chắc chắn là sẽ không!” “Sẽ không làm gì kia?” Amelia vừa hỏi bằng cái giọng trẻ con vừa quay mặt khỏi tấm gương nàng đang soi để tô mắt bằng chiếc bút lông. “Nhanh lên nào, anh yêu, đừng bực nữa. Mình sẽ bị muộn bữa tối với Hazeltines mất,” Alex Barr nhìn vợ bằng cặp mắt uể oải, vô hồn, như nhìn vào một người lạ thờ ơ. Nàng thật đẹp, anh thầm nghĩ, với chiếc áo choàng đen thật gợi cảm. Năm nay nàng để dài mớ tóc màu hạt dẻ. Nàng đẹp, Alex Barr lại nghĩ, nhưng với mớ tóc mềm dài như vậy trông nàng rất giống một chú chó con lông xù. Nàng đã chải lại tóc và sửa móng xong. Chiếc áo dài dạ tiệc màu đen thanh nhã - một chiếc Hattie xinh xắn - đã được đặt cẩn thận trên chiếc khăn trải màu đỏ tía của chiếc giường khổ lớn. Khi đánh xong đôi mắt và trang điểm nốt phần mặt còn lại, nàng chui đầu qua chiếc áo dài Hattie, cẩn thận với lớp lụa mỏng để không làm son môi dây bẩn lên áo. Sau đó nàng vuốt lại mái tóc, mím môi để son dàn đều, rồi quay người lại và nói, như Alex Barr đã biết trước: “Anh yêu, chúng ta bị muộn mất thôi, đừng đi đi lại lại nữa và hãy mặc quần áo vào. Anh biết bọn người hầu của Hazeltines giờ giấc chính xác thế nào rồi đấy. Nếu muốn có chút thời gian để uống gì đó khi đến thì anh phải nhanh lên.” “Không,” anh nhắc lại - phải chăng anh đã nói vậy, hay anh mới chỉ nghĩ là anh đã nói vậy? “Không. Anh sẽ không. Chắc chắn là anh sẽ không”. Amelia nhìn anh vẻ khó chịu. “Anh đang nói gì đấy? Chắc chắn không cái gì?” “Chắc chắn anh sẽ không đến muộn bữa tối của Hazeltines.” ... Mời các bạn đón đọc ​Chồn Mật của tác giả Robert Ruark.
Lá Cờ Thêu 6 Chữ Vàng - Nguyễn Huy Tưởng
Sinh năm 1912 mất năm 1960, Nguyễn Huy Tưởng thuộc số các tác giả lớn có vai trò quan trọng cho việc xây dựng nền văn học mới ở Việt Nam, trước và sau mốc lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945. Trước 1945 - đó là tác gia tiêu biểu về đề tài lịch sử, qua các tiểu thuyết Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1943) và kịch Vũ Như Tô (1943). Sau 1945 - đó là người viết tạo được sự gắn bó mật thiết giữa cảm hứng thời sự và cảm hứng lịch sử qua kịch Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948)… đến tiểu thuyết Bốn năm sau (1959), Sống mãi với thủ đô (1961). Ở cuối đời viết, vào nửa sau thập niên năm mươi, Nguyễn Huy Tưởng còn để lại một chùm truyện thiếu nhi đặc sắc, trong đó có Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960). Chiến công hiển hách trong cuộc chiến chống Nguyên Mông của vương triều Trần - thế kỷ XIII - đó là đề tài đã đến với Nguyễn Huy Tưởng từ rất sớm, khi ông mới bước vào nghiệp văn khoảng nửa đầu thập niên bốn mươi; rồi trở thành đề tài ông theo đuổi suốt đời. Là người đam mê đề tài lịch sử và trong tư chất một nhà văn hoá chuyên tâm, Nguyễn Huy Tưởng dành nhiều thời gian và tâm huyết cho lịch sử vương triều Trần. Khởi đầu là chuyện về An Tư, một liệt nữ trong tiểu thuyết cùng tên (An Tư, 1943); và khép lại là chuyện về Trần Quốc Toản, người anh hùng nhỏ tuổi trong truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960). Một phụ nữ và một thiếu nhi - đó là hai chân dung được chọn đưa vào cận cảnh, trong bối cảnh một cuộc chiến chống ngoại xâm vào loại dữ dội và khó khăn bậc nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Phạm vi miêu tả của truyện là cuộc chiến diễn ra lần thứ hai (1285) thời Trần Nhân Tông, khi nhà Trần phải chịu thất thủ Thăng Long; Trần Quốc Tuấn lui quân về Thanh Hoá; quân Nguyên gồm hai cánh: Thoát Hoan và Toa Đô cùng áp đánh cả hai mặt Bắc và Nam. Đây cũng là thời gian diễn ra hai sự kiện lịch sử lớn là Hội nghị Bình Than (cuối năm 1282) và Hội nghị Diên Hồng (đầu năm 1285), thể hiện tập trung ý chí và trí tuệ của toàn dân trong một quyết tâm Sát Thát. Là thời gian hội đủ những gương mặt tiêu biểu, tượng trưng cho khí phách của vương triều như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Bình Trọng… chung quanh Trần Nhân Tông; với sự bổ sung gương mặt Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, người thiếu niên chưa đến tuổi để được dự bàn việc nước, đã tự chiêu binh mãi mã đi đánh giặc… Về phía địch - đó là một loạt nhân vật từ sứ thần Sài Thung, thái tử Thoát Hoan đến viên dũng tướng Toa Đô. Còn có thể kể thêm những nhân vật cũng có vị trí trong cuộc chiến như anh em Thế Lộc, tướng Tống Triệu Trung sang theo quân Trần cùng đánh giặc Nguyên Mông, với thấp thoáng một nhân vật đầu thú là Trần Ích Tắc cam tâm đi hàng giặc… Một truyện với quy mô nhỏ nhưng bao chứa một lượng nhân vật khá lớn - trên cả hai phía! Cuộc chiến thứ hai là cuộc chiến dữ dội và khó khăn nhất của vương triều Trần; do vậy mà thế giới nhân vật - kể cả chính và phụ đều có nhiều đất đai cho diễn biến nội tâm và hành động. Số lượng nhân vật thì đông đảo, nhưng vị trí trung tâm vẫn là Trần Quốc Toản, với cách miêu tả vừa mở rộng vừa tập trung. Mở rộng biên độ cho sự thể hiện nhân vật, qua các quan hệ với mẹ, với người lão bộc, với gia binh, với người anh em thiểu số Thế Lộc, với các bậc quan gia; và tập trung trong sự chiếu rọi tư chất một thiếu niên tận trung với vua, với nước, mang trong mình ý chí quyết đánh, quyết thắng được hun đúc trong khí quyển một vương triều được lòng dân. Nguyễn Huy Tưởng đã đưa nhân vật trung tâm Trần Quốc Toản cùng với lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng: Phá cường địch báo hoàng ân vào hai địa bàn chiến trận – đó là cuộc chiến diễn ra ở miền núi, với sự sát cánh cùng anh em Thế Lộc ở trại Ma Lục; và cuộc chiến diễn ra trên sông cùng với đại quân nhà Trần do Trần Nhật Duật chỉ huy, với Toa Đô… Trên hai không gian mang đặc thù cảnh quan của đất nước Việt Nam, hiện lên chân dung oanh liệt của một nhân vật lịch sử nhỏ tuổi xứng đáng là sự nối dài của Thánh Gióng trong cuộc chiến chống giặc Ân nhiều nghìn năm trước. Mở đầu truyện là giấc mơ của Toản bắt sống được tên sứ ngông nghênh, ngạo mạn Sài Thung; và kết thúc truyện là cảnh Toản cùng đại quân đánh bại Toa Đô trên sông, rồi lại tiếp tục cuộc rượt đuổi trên bộ với giọng văn tưng bừng, hào sảng. Viết về Trần Quốc Toản, cũng như về các nhân vật lịch sử khác thuộc các vương triều từ nhà Trần trở về trước, tư liệu lịch sử để lại rất ít ỏi. Ách đô hộ hà khắc mang tính hủy diệt văn hóa kéo dài suốt 20 năm của nhà Minh đã tạo nên những mất mát lớn, những khoảng trống lớn cho lịch sử nước ta. Ngoài chuyện Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản tức khí vì bị coi là trẻ con mà bóp nát quả cam, chuyện chàng ra trận với lá cờ đề sáu chữ, cùng hai câu thơ trong Đại Nam quốc sử diễn ca: “Hoài Văn tuổi trẻ chí cao  Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công” thì chân dung Trần Quốc Toản được Nguyễn Huy Tưởng dựng lên, căn bản bằng sức tưởng tượng và sáng tạo trong một cốt truyện phong phú giàu các chi tiết đặc sắc. Tức là bằng hư cấu nghệ thuật. Nhưng sự hư cấu ở đây tuyệt không gợi cảm giác giả mà hướng đến tính chân thực nghệ thuật, tức là một sự thực có thể đã diễn ra như thế. Lá cờ thêu sáu chữ vàng được Nguyễn Huy Tưởng viết sau một quá trình cầm bút hai mươi năm. Cũng như L. Tolstoy với những trang cho thiếu nhi thật huy hoàng và trong trẻo vào cuối đời, Nguyễn Huy Tưởng đến với thiếu nhi khi đã là một tác gia hàng đầu về đề tài lịch sử, một cây bút tiêu biểu về Thăng Long - Hà Nội. Từ vị thế đó, và từ những tri thức và trải nghiệm sống, cộng với kinh nghiệm viết già dặn, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, cùng với Tìm mẹ, An Dương Vương xây thành ốc, Kể chuyện Quang Trung… đã trở thành những tác phẩm kinh điển viết cho thiếu nhi trong kho tàng văn học Việt Nam hiện đại. Nhận xét về văn phong của Nguyễn Huy Tưởng trong mảng văn học cho thiếu nhi, nhà văn Nguyên Ngọc viết: “Ông viết kỹ từng câu, chọn từng từ, nương nhẹ như với những cánh hoa”. Nhận xét này thật đúng với tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng, cuốn sách được Nguyễn Huy Tưởng viết đi sửa lại nhiều lần để đạt tới một văn phong cổ kính, trang nhã mà vẫn rất giản dị, tự nhiên. Giáo sư - dịch giả Trung Quốc Chúc Ngưỡng Tu đã chọn dịch Lá cờ thêu sáu chữ vàng sau khi dự Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam, được tổ chức tại Hà Nội vào đầu năm 2010. Trước hết phải nói đây là một sự lựa chọn rất đáng hoan nghênh. Nhưng tại sao ông lại quyết định dịch cuốn sách thiếu nhi này, của Nguyễn Huy Tưởng, mà không phải một tác phẩm nào khác trong nền văn học Việt Nam nói chung mà chắc chắn đã được không ít nhà xuất bản, tác giả, dịch giả Việt Nam giới thiệu tại hội nghị quan trọng ấy? Phải chăng là do trong truyện có nhân vật Triệu Trung, một viên tướng nhà Tống không chịu hàng phục nhà Nguyên Mông, đã sang nương nhờ Đại Việt và cùng quân Trần tham gia vào trận chiến Hàm Tử chống kẻ thù chung? Nhưng nếu tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng không có được những phẩm chất văn học nổi trội mà một cuốn truyện, nhất là truyện cho thiếu nhi đòi hỏi, thì vị tất đã lọt được vào mắt xanh người dịch, và – điều này còn quan trọng hơn, được bạn đọc quan tâm một khi được dịch ra? Mời các bạn Lá Cờ Thêu 6 Chữ Vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng.