Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Bá Chủ Không Gian: Elon Musk, Jeff Bezos Và Công Cuộc Chinh Phục Vũ Trụ

Những Bá Chủ Không Gian: Elon Musk, Jeff Bezos Và Công Cuộc Chinh Phục Vũ Trụ MUSK VÀ BEZOS, hai tỷ phú với hai phong cách và tính khí vô cùng khác biệt, chính là những người đi đầu trong việc làm sống lại chương trình không gian Mỹ. Đầy táo bạo, Musk luôn tiến về phía trước, những thành công và thất bại của ông luôn là tâm điểm của sự chú ý. Ngược lại, Bezos luôn kín kẽ và thận trọng, dự án tên lửa của ông luôn phủ một lớp màn bí mật. Nhưng vẫn còn những người khác nữa. Giống như Bezos, Richard Branson hứa hẹn sẽ đưa các du khách vượt qua tận cùng của không gian để có thể nhìn thấy Trái Đất từ trên cao và trải nghiệm vài phút không trọng lượng. Paul Allen, nhà đồng sáng lập Microsoft, người đứng sau thiết bị vũ trụ thương mại đầu tiên bay ra ngoài không gian, hiện đang sản xuất chiếc máy bay lớn nhất từng thấy trên thế giới. Lớn hơn chiếc Spruce Goose (Con ngỗng Bảnh bao) của Howard Hughes, nó có khả năng “phóng tên lửa trên không” từ độ cao gần 11.000m – và cả một chiếc tàu con thoi mới, có tên là “Black Ice” (Băng Đen), cũng đang được bí mật phát triển. Những bá chủ không gian này đang cùng nhau đứng sau những thương hiệu lớn nhất thế giới – Amazon, Microsoft, Virgin, Tesla, PayPal – những thương hiệu đã làm gián đoạn các ngành từ bán lẻ đến thẻ tín dụng đến hàng không. Và giờ đây, họ đang đánh cược phần lớn khối tài sản khổng lồ của mình để đưa số đông ra ngoài không gian, vượt qua chính phủ trong hành trình phát triển du lịch không gian. Về cốt lõi cuốn sách Những Bá Chủ Không Gian, câu chuyện được châm ngòi bởi cuộc cạnh tranh mới nhen nhóm giữa hai nhà lãnh đạo của phong trào không gian mới này. Sự căng thẳng ngày một gia tăng trong những văn bản kiện tụng và trên Twitter, nhắm vào tầm quan trọng của những cuộc hạ cánh và sức đẩy của những tên lửa của mỗi bên, và thậm chí là cả cuộc cãi cọ về bệ phóng tên lửa. Musk, chú thỏ đồng ngạo mạn, đi tiên phong để người khác đi theo, trong khi Bezos, chú rùa chậm chạp và giữ kẽ, luôn hài lòng với việc tiến từng bước một trong cuộc đua mới chỉ vừa bắt đầu. NHẬN XÉT TỪ CHUYÊN GIA: “Một bản tường thuật chi tiết về thế hệ doanh nhân mới đang xoay vần chuyển đổi ngành du lịch không Một áng văn tuyệt vời về trí tưởng tượng và nỗ lực của con người lẫn dòng chảy không ngừng của ngành công nghiệp vũ trụ." – Financial Times “Một một câu chuyện thú vị đầy ắp thông tin và những tầm nhìn sắc bén. Một cuốn sách lấp lánh tài năng kể chuyện sắc sảo của Davenport.” - Walter Isaacson, New York Times “Những bí mật, những câu chuyện hậu trường chưa từng được tiết lộ về cuộc chiến tranh giành quyền kiểm soát ngành du lịch không gian mới nổi.” - The New Yorker *** TÁC GIẢ: Christian Davenport là cây viết chính của tờ Washington Post từ năm 2000 và hiện đang phụ trách mảng các ngành công nghiệp vũ trụ và quốc phòng của tờ báo này. Ông cũng là tác giả của những bài báo nổi tiếng về các vụ bắn tỉa ở khu vực DC, vụ bê bối nhà tù Abu Ghraib và các vấn đề chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Ông đã nhận được giải thưởng Peabody cho tác phẩm của mình về các cựu binh bị chấn thương sọ não và từng thuộc nhóm các phóng viên lọt vào vòng chung kết đề cử Giải Pulitzer ba lần. *** ‘Những bá chủ không gian’ – làn sóng tỷ phú đua vào vũ trụ Tác giả Christian Davenport vẽ bức tranh toàn thể về làn sóng đua vào vũ trụ của những tỷ phú hàng đầu thế giới. Những kẻ chạy đua Được công chúng truyền thông nhắc đến nhất phải kể đến SpaceX của Elon Musk được thành lập vào năm 2002 với tham vọng rất rõ ràng là tìm một hành tinh khác để con người định cư – đó là sao Hỏa. SpaceX với sự xông xáo và mạnh miệng của Musk đã trải qua hết lần này đến lần khác phóng tên lửa thất bại, cạn sạch tiền, đứng trước nguy cơ phá sản, rồi lại được NASA tài trợ lần lượt 278 triệu USD và 1,6 tỷ USD, rồi lại phóng, rồi thất bại… Phải đến năm 2010, công ty mới có dấu mốc đầu tiên khi phóng thành công tên lửa Falcon 9 và 5 năm sau đó, Falcon 9 mới hạ cánh thành công lần đầu tiên. Gần đây nhất, vào 2h22 phút ngày 31/5 theo giờ Hà Nội, tên lửa Falcon 9 đưa tàu Crew Dragon lên quỹ đạo thành công từ bệ phóng 39A ở Trung tâm vũ trụ Kennedy của NASA tại Florida. Sự kiện này có một ý nghĩa quan trọng bởi sau 9 năm mới có tàu chở người lên vũ trụ đi từ đất Mỹ và lại được thực hiện bởi một doanh nghiệp tư nhân với mức chi phí thấp hơn nhiều so với các chương trình trước đây của NASA. Sớm hơn một chút, từ năm 2000, ông chủ của Amazon là Jeff Bezos cũng đã kín đáo mở một công ty hàng không có tên là Blue Origin, với blue – chấm xanh màu xanh nhạt chính là Trái Đất, và origin – đại diện cho nơi loài người bắt đầu, tuyên bố sứ mệnh “gieo hạt giống cho sự hiện diện lâu dài của loài người trong không gian”. Ngược lại với nguyên tắc hoạt động của SpaceX phải nhanh hơn, tăng tốc tối đa thì Blue Origin kiên trì đi từng bước một nhỏ để tiến đến đích. Công ty của Bezos cũng có những thành công nhất định khi phóng thành công tên lửa New Shepard ra ngoài không gian và hạ cánh thành công trong cùng một năm. Tuy vậy, Blue Origin vẫn chưa chính thức đưa bất cứ tàu không gian nào lên quỹ đạo. Một vị tỷ phú khác cũng đang bắt đầu tăng tốc trong cuộc đua này là Richard Branson với Virgin Galactic. Branson mua lại công nghệ đứng sau SpaceShipOne và quyết tâm tạo ra hãng hàng không vũ trụ thương mại đầu tiên trên thế giới với chuyến bay thương mại đầu tiên năm 2007. Dù phải đến năm 2019, Virgin Galactic mới đưa được hành khách đầu tiên lên không gian nhưng quyết tâm của Branson chưa bao giờ bị xóa bỏ. Và cũng không thể không nhắc đến Paul Allen, nhà đồng sáng lập của Microsoft với công sức bỏ ra tại Vulcan và con tàu SpaceShipOne. Khi SpaceShipOne nhận được Giải thưởng Ansari X, việc này đã chỉ ra rằng một công ty thương mại có thể đưa một người lên không gian. Quan trọng là họ có dám làm đến cùng hay không. Sau thành công của Richard Branson với thương vụ mua công nghệ của SpaceShipOne, Paul Allen cũng không thể ngồi yên và quyết định quay lại cuộc chơi. Chỉ trong vòng khoảng 20 năm, ngành công nghệ không gian của nước Mỹ cũng như của thế giới đã thay đổi hoàn toàn. Trước khi có những bá chủ không gian, người đọc có lẽ sẽ không tìm được ở đâu toàn cảnh một cuộc đua vũ trụ nhộn nhịp đến vậy. Hãy bắt đầu như một tỷ phú Đã qua rồi thời đại của Mỹ và Liên Xô cạnh tranh nhau trong cuộc đua vũ trụ thời chiến tranh lạnh chỉ vì mục đích chính trị tiêu tốn hàng tỷ đô la. Những bá chủ không gian thời hiện đại chạy đua lên vì sao vì mục đích tiền bạc, máu phiêu lưu và một cơ hội để đưa loài người đi xa hơn vào không gian mãi mãi. Nếu nhìn lại những đặc điểm chung của những kẻ tham gia cuộc đua này thì có thể nhận thấy hai điều. Thứ nhất, họ đều là những kẻ đam mê vũ trụ. Khi Neil Armstrong và Buzz Aldrin đặt chân lên Mặt Trăng, Branson mới là một thanh niên 19 tuổi, Allen 16 tuổi, Bezos thì 5 tuổi, Musk thậm chí còn chưa sinh ra, nhưng tất cả đều bị ảnh hưởng bởi mơ ước đặt chân lên Mặt trăng và các vì sao như bao cô bé cậu bé khác. Họ cũng đều là những người xuất chúng với trí tuệ hơn người, yêu thích các trò chơi và phim ảnh về vũ trụ như Chiến tranh giữa các vì sao, Du hành giữa các vì sao… Chính điều đó đã thôi thúc họ biến những điều viển vông thành hiện thực, thành lập ra hàng loạt những công ty không gian để đưa con người khám phá những vũ trụ. Nhưng điều quan trọng thứ hai, họ đều rất giàu và mong muốn còn giàu hơn nữa từ ngành này. Bezos có trong tay khoảng gần 2 tỷ đô khi thành lập Blue Origin nhờ vào sự phát triển của Amazon, Musk khiêm tốn với mức khoảng 500 triệu đô, Allen có số tiền khổng lồ từ Microsoft, còn Branson khi ấy đã là ông chủ của chuỗi các công ty Virgin. Phải giàu mới có thể theo đuổi những vụ phóng tên lửa hàng chục triệu USD mà biết trước rằng chúng có thể tiêu tan trong nháy mắt. Phải giàu thì mới nghĩ lớn được, và chính vì mang tư duy của người giàu nên mới muốn cắt giảm chi phí càng nhiều càng tốt. Và đó chính là cách nhanh nhất để trở thành một triệu phú trong ngành không gian. Hãy bắt đầu như một tỷ phú. Để tên lửa được tự do cất cánh Ngành công nghiệp không gian tiêu tốn rất nhiều tiền, đó là lý do tại sao trước giờ chỉ có các quốc gia với tiềm lực tài chính của mình mới dám thực hiện những sứ mệnh vươn ra ngoài vũ trụ. Sau thành công của nước Nga đưa người đầu tiên đi vòng quanh Trái Đất và con tàu Apollo 11 của Mỹ đổ bộ lên Mặt trăng, có biết bao đứa trẻ sau này mơ ước trở thành phi hành gia được khám phá bầu trời. Nhưng đáng tiếc thay, ước mơ đó thường chỉ dừng lại ở trong đầu mà khó có cơ hội thành hiện thực. Kể cả khi đứa trẻ đó có thể lực tương đối tốt và xuất chúng thì tần suất chúng được bay lên không gian cũng không nhiều bởi chi phí thì quá nhiều mà cơ hội lại quá ít. Từ năm 1997, Andy Beal, một tỷ phú trong ngành bất động sản đã thành lập công ty hàng không Beal Aerospace với kế hoạch “Tạo ra một tên lửa không tốn quá 200 triệu đô-la để phóng”. Với tiềm lực tài chính lớn, nhưng điều khiến Beal quyết định từ bỏ ngành này chính là sức ép của chính phủ. Sẽ không bao giờ có một ngành công nghiệp phóng tên lửa tư nhân nếu như NASA cùng chính phủ Mỹ vẫn tiếp tục lựa chọn và tài trợ cho các hệ thống phóng. Chính phủ cần tránh sang một bên và để cho thị trường tự do cất cánh. Chỉ đến khi đó, sự độc quyền của NASA trong ngành không gian mới kết thúc và mở ra một nền kinh tế không gian mới. Khi Beal từ bỏ Elon Musk đã nhảy vào, kế thừa tư tưởng của ông và cũng từng phát biểu trước Quốc hội năm 2004. Để bất cứ người bình thường nào cũng có cơ hội nhìn thấy Trái Đất từ không gian, có ba cách Quốc hội cần làm và phải làm: tạo ra nhiều giải thưởng hơn để ngành có thể cạnh tranh giành lấy chúng, tập trung vào các phương tiện có thể cắt giảm chi phí lên không gian, đảm bảo sự công bằng trong hợp đồng đấu thầu chính phủ. Vì vậy, Những bá chủ không gian không chỉ là hành trình các công ty tìm tòi, khám phá, cải tiến công nghệ của mình, ổn định các nguồn lực cả về nhân sự và tài chính, mà còn là công cuộc đi tìm sự cạnh tranh công bằng với chính phủ trong lĩnh vực hàng không. Bay tới vô cực, và xa hơn nữa Cuốn sách Những bá chủ không gian của Christian Davenport có thể coi là một trong những cuốn sách quan trọng trong thập kỷ, là minh chứng rõ ràng nhất để con cháu chúng ta biết được các thế hệ đi trước đã nỗ lực hết sức mình để tìm kiếm tương lai cho nhân loại. Cuốn sách khép lại khi SpaceX thông báo dự định thực hiện hai sứ mệnh vận chuyển hàng hóa lên sao Hỏa trước năm 2022 còn Blue Origin muốn quay trở lại tiếp cận Mặt trăng và biến Mặt trăng thành nhà của con người, trước khi đến gần hơn với sao Hỏa. Dù được hình thành từ nhiều năm nhưng cuộc đua mới chỉ bắt đầu và còn tiếp diễn trên một hành trình dài không thể nhìn thấy trước, có thể là vài thập kỷ, thế kỷ nữa, thậm chí có thể kéo dài hơn cuộc đời của Bezos, Musk, Branson và Allen. Một cuộc đua vượt xa thậm chí cả những sự tưởng tượng của họ, sâu thẳm vào trong vũ trụ, đến một điểm tưởng chừng không có vạch đích. Nhưng đó không phải là lý do để những bá chủ không gian chùn bước trong ngày hôm nay. *** Với “đặc quyền” được tiếp cận trực tiếp cả bốn doanh nhân hàng đầu thế giới, cũng như những người thân cận nhất của họ, tác giả Davenport (cây viết chính của tờ Washington Post từ năm 2000 và hiện đang phụ trách mảng các ngành công nghiệp vũ trụ và quốc phòng của tờ báo này) đã đưa vào cuốn sách rất nhiều sự kiện chưa hề được biết đến, và đây chính là một trong những điểm hấp dẫn tuyệt vời của cuốn sách. Ngày 31/5 vừa qua, hàng triệu triệu người trên thế giới đã dán mắt vào màn hình ti vi hoặc liên tục bấm phím F5 máy tính hay các thiết bị di động để cập nhật tin tức về vụ phóng tàu vũ trụ chở người lên trạm vũ trụ quốc tế ISS của công ty tư nhân SpaceX do Elon Musk làm chủ. Và giây phút con tàu vũ trụ Crew Dragon hoàn thành việc kết nối với ISS, giúp hai phi hành gia của NASA có thể trượt vào khoang của trạm vũ trụ, bắt tay phi hành đoàn ISS khiến cả triệu trái tim rung lên. Với đội ngũ chuyên gia siêu việt của SpaceX, Elon Musk đã khiến giấc mơ chinh phục vũ trụ của loài người ở trong tầm với hơn bao giờ hết. Không chỉ  Elon Musk, nước Mỹ còn có tỷ phú Jeff Bezos, Richard Branson, Paul Allen(nhà đồng sáng lập Microsoft) cũng đang tham gia vào hành trình chinh phục vũ trụ. Và cuốn sách “Những bá chủ không gian - The space barons của tác giả Christian Davenport chính là bản tường thuật chi tiết và đầy hấp dẫn về cuộc đua thú vị này. Mở đầu cuốn sách bằng sự kiện tai nạn máy bay của Jeff Bezos khi đi tìm nơi đặt trụ sở của Công ty Blue Origin tại phía Tây bang Texas, Mỹ; “Những bá chủ không gian - The space barons” đưa ra câu chuyện hấp dẫn về các doanh nhân đang sở hữu những thương hiệu lớn nhất thế giới – Amazon, Microsoft, Virgin, Tesla, PayPal – đang đầu tư phần lớn khối tài sản khổng lồ của mình vào ngành công nghiệp vũ trụ, với mục tiêu trước mắt là phát triển ngành du lịch không gian và xa hơn là tìm ra hành tinh thứ hai cho sự sống của nhân loại.  Với “đặc quyền” được tiếp cận trực tiếp cả bốn doanh nhân hàng đầu thế giới này, cũng như những người thân cận nhất của họ, tác giả Davenport (cây viết chính của tờ Washington Post từ năm 2000 và hiện đang phụ trách mảng các ngành công nghiệp vũ trụ và quốc phòng của tờ báo này) đã đưa vào cuốn sách rất nhiều sự kiện chưa hề được biết đến, và đây chính là một trong những điểm hấp dẫn tuyệt vời của cuốn sách. Ví dụ như câu chuyện năm 2013 tàu vũ trụ Dragon có một bộ đẩy bị mắc kẹt khiến nó có nguy cơ không thể cất cánh được, trong khi SpaceX đã nhận được tiền để vận chuyển hàng hóa lên Trạm vũ trụ quốc tế ISS. Khi ấy, mặc dù có 60 năm kinh nghiệm về không gian vũ trụ, Lori Garver (Phó giám đốc của NASA), Bill Gerstenmaier (Giám đốc nhân sự NASA) và Michael Suffredini (người quản lý chương trình ISS) chỉ đóng vai trò cố vấn để các kỹ sư kiểm soát nhiệm vụ của SpaceX điên cuồng giải quyết vấn đề. Họ đã kiên nhẫn dạy cho các kỹ sư SpaceX cách câu cá, thay vì sốt ruột cầm lấy cần câu và bắt cá thay cho họ. SpaceX cuối cùng đã khắc phục sự cố về bộ đẩy, và tàu Dragon đã đến trạm ISS mà không gặp trở ngại nào.  Hay câu chuyện cải tiến để tiết kiệm tiền mà SpaceX đã thực hiện trong nhiều năm qua như: thay then đóng khoang hàng hóa trên tàu Dragon trị giá 1.500 đô-la bằng dụng cụ thay thế chỉ có giá 30 đô-la; lắp đặt máy điều hòa không khí thương mại đã được sửa đổi thay vì phiên bản đặc biệt dùng cho các tàu vũ trụ trị giá 3 - 4 triệu đô-la như thông thường...  Cuốn sách cũng cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết mới về Jeff Bezos. Giống như Elon Musk, Bezos đã quan tâm đến không gian và vũ trụ từ những ngày thơ ấu được chứng kiến cảnh tượng Neil Armstrong và Buzz Aldrin đặt chân lên Mặt trăng qua màn hình tivi, xem Star Trek nguyên bản và đọc các bộ sách khoa học giả tưởng đồ sộ tại thư viện gần nông trại của ông ngoại. Nhưng trong khi Musk muốn chinh phục và biến Sao Hỏa trở thành một bản sao lưu cho Trái đất, thì Bezos muốn bảo tồn Trái đất bằng cách thực hiện tất cả “công việc bẩn thỉu” của nhân loại trong không gian. Ông nói rằng Trái đất nên giống như một công viên quốc gia với các khu dân cư và công nghiệp nhẹ. Richard Branson, người sáng lập Virgin Galactic, cũng được khắc họa là nhân vật đầy táo bạo, dám chấp nhận mạo hiểm như chính con người ông  trong ngành công  nghiệp mới mẻ này.  Trong khi đó, Paul Allen, nhà đồng sáng lập Microsoft, người đứng sau thiết bị vũ trụ thương mại đầu tiên bay ra ngoài không gian, hiện đang sản xuất chiếc máy bay lớn nhất từng thấy trên thế giới. Lớn hơn chiếc Spruce Goose (Con ngỗng Bảnh bao) của Howard Hughes, nó có khả năng “phóng tên lửa trên không” từ độ cao gần 11.000m – và cả một chiếc tàu con thoi mới, có tên là “Black Ice” (Băng Đen), cũng đang được bí mật phát triển… Jeff Bezos trong vài trò ông chủ của Bule Origin Trong cuộc đua chinh phục không gian này, Musk và Bezos nổi bật hơn hết thảy với hai phong cách và tính khí vô cùng khác biệt. Đầy táo bạo, Musk được coi như chú thỏ đồng, luôn tiến về phía trước, những thành công và thất bại của ông luôn là tâm điểm của sự chú ý. Ngược lại, Bezos với hình tượng chú rùa nhẫn nại luôn kín kẽ và thận trọng, dự án tên lửa của ông luôn phủ một lớp màn bí mật.  Lén lút và trơn tru, Bezos hợp tác với các công ty hàng không vũ trụ lớn để tham gia vào trò chơi. Đúng với tính cách của mình, Musk kiêu ngạo đệ đơn kiện chính phủ, ngay cả khi ông cố gắng giành được các hợp đồng đó cho doanh nghiệp của mình. Những người khổng lồ trong ngành hàng không vũ trụ ban đầu coi Musk là một kẻ phiền toái, kẻ cắn mắt cá chân, nhưng Musk vẫn tồn tại và cuối cùng giành được các hợp đồng trị giá hàng tỷ đô-la với công việc vận chuyển hàng tiếp tế cho Trạm vũ trụ quốc tế. Và điều đặc trưng nhất của hai doanh nghiệp, 2 doanh nhân này là: ​​thất bại của Blue Origin được thông báo cho các phương tiện truyền thông sau khi nó đã xảy ra trên thực tế, trong khi thất bại của SpaceX xảy ra dưới ống kính rộng mở của hàng trăm máy quay truyền hình trực tiếp và ánh đèn flash sáng chói.  Với lối kể chuyện hấp dẫn tài tình, “Những bá chủ không gian” sẽ cung cấp cho bạn ngồn ngộn câu chuyện với các sự kiện hết sức chi tiết về các nhà lãnh đạo, công ty đã và thay đổi việc kinh doanh tên lửa và chinh phục không gian cho đến ngày hôm nay.  Và cả những bí mật, những câu chuyện hậu trường chưa từng được tiết lộ về cuộc chiến tranh giành quyền kiểm soát ngành du lịch không gian mới nổi này. Trong 15 năm qua, từ chuyến bay đầu tiên của SpaceShipOne giờ đây nhân loại đã có thể mơ đến viễn cảnh quỹ đạo Trái đất là địa điểm du lịch, giải trí mới; thậm chí là những chuyến di cư cứu loài người thoát khỏi thảm họa hủy diệt nếu không may thảm họa trong quá khứ lại lặp lại. Và bạn hãy dành ngay thời gian khám phá cuốn sách hấp dẫn “Những bá chủ không gian - The space barons này để biết rằng:  Quỹ đạo trái đất -  với nửa ngày lái xe thẳng lên - chỉ là khởi đầu. Tương lai ngoài vũ trụ bao la đang vẫy gọi chúng ta. “Những bá chủ không gian - The space barons” nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ các tờ báo hàng đầu nước Mỹ. Nhận xét về cuốn sách trên tờ New York Times, tác giả tiểu sử nổi tiếng Walter Isaacson viết: Những bá chủ không gian là một câu chuyện thú vị đầy ắp thông tin và những tầm nhìn sắc bén. Một cuốn sách lấp lánh tài năng kể chuyện sắc sảo của Davenport”.  Trong khi Financial Times nhận xét cuốn sác là “Một áng văn tuyệt vời về trí tưởng tượng và nỗ lực của con người lẫn dòng chảy không ngừng của ngành công nghiệp vũ trụ." Tác giả cuốn sách Christian Davenport là cây viết chính của tờ Washington Post từ năm 2000 và hiện đang phụ trách mảng các ngành công nghiệp vũ trụ và quốc phòng của tờ báo này. Ông cũng là tác giả của những bài báo nổi tiếng về các vụ bắn tỉa ở khu vực DC, vụ bê bối nhà tù Abu Ghraib và các vấn đề chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Ông đã nhận được giải thưởng Peabody cho tác phẩm của mình về các cựu binh bị chấn thương sọ não và từng thuộc nhóm các phóng viên lọt vào vòng chung kết đề cử Giải Pulitzer ba lần. “Những bá chủ không gian” cùng với cuốn sách “Elon Musk: Tesla, SpaceX và sứ mệnh tìm kiếm một tương lai ngoài sức tưởng tượng” là một cặp đôi hoàn hảo để bạn đọc tìm hiểu về những đại nhân vật hàng đầu thế giới, cũng như những chuyển biến vĩ đại trong ngành khoa học vũ trụ của nhân loại trong 20 năm trở lại đây.   Đọc thêm: Những bá chủ không gian: Elon Musk đã làm gì để tên lửa đầu tiên của mình được NASA chú ý? Nguyễn Cường – Trạm đọc   Mời các bạn đón đọc Những Bá Chủ Không Gian: Elon Musk, Jeff Bezos Và Công Cuộc Chinh Phục Vũ Trụ của tác giả Christian Davenpor & Trần Thanh Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Những Ông Trùm Tài Chính: Những Chủ Ngân Hàng Lũng Đoạn Nền Tài Chính Thế Giới
Ngày 15/08/1931, một thông cáo báo chí được đăng tải: “Thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh quốc bị ốm nhẹ do phải gánh chịu nhiều áp lực nặng nề trong những tháng vừa qua. Theo lời khuyên của bác sĩ, ông đã tạm gác lại công việc và đi nghỉ ở nước ngoài để thay đổi không khí.” Vị thống đốc đó là Montagu Collet Norman, D.S.O – không như mọi người vẫn lầm tưởng, ông đã nhiều lần từ chối vinh hạnh được phong tước. Dẫu vậy, ông vẫn tự hào được mang mấy chữ D.S.O sau tên mình – Distinguished Service Order – Huân chương Công trạng Xuất sắc, huân chương cao quý thứ nhì của quân đội trao thưởng cho một quân nhân vì lòng dũng cảm vượt bậc. Norman vốn chán ghét báo giới và nổi tiếng vì những gì ông sẵn sàng làm để thoát khỏi con mắt tọc mạch của các phóng viên – đi du lịch bằng tên giả; nhảy xe lửa; thậm chí trong một lần, ông còn trèo qua thành một chiếc tàu biển trên thang dây giữa lúc sóng to gió lớn. Tuy nhiên, trong dịp này, khi chuẩn bị lên con tàu Duchess of York để tới Canada, ông đã bày tỏ một thái độ cởi mở đến không ngờ. Với năng lực nói năng tuyệt khéo được trời phú cho những con người thuộc tầng lớp của ông và những người sinh ra ở nước Anh, ông tuyên bố với các phóng viên đang vây kín trên cảng rằng, “Tôi cảm thấy cần nghỉ ngơi chút ít bởi thời gian qua tôi đã gặp nhiều chuyện căng thẳng. Do sức khỏe vẫn chưa được hồi phục hoàn toàn nên tôi nghĩ một chuyến du lịch trên con tàu xinh đẹp này sẽ tốt cho mình.” Thể trạng tinh thần mong manh của ông đã không còn là một bí mật trong giới tài chính suốt một thời gian khá dài. Chỉ một số ít dân ngoại đạo biết được sự thật bên trong – rằng trong hai tuần qua, khi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã lên đến đỉnh điểm và hệ thống ngân hàng châu Âu đứng trên bờ vực sụp đổ, vị thống đốc này đã bị suy nhược thần kinh trầm trọng do phải hứng chịu vô vàn áp lực nặng nề. Thông cáo báo chí của Ngân hàng Anh quốc, được đăng tải ở khắp các tờ báo từ San Francisco cho tới Thượng Hải, đã gây nên cú sốc lớn đối với nhà đầu tư trên toàn thế giới. Bao nhiêu năm đã trôi đi kể từ ngày những sự kiện trên diễn ra, giờ đây thật khó để có thể hình dung nổi quyền lực và danh tiếng của Montagu Norman lớn lao đến mức nào vào giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh, cái tên của ông ngày nay chỉ còn vọng lại rất ít tiếng vang. Nhưng vào thời đó, ông được coi là vị thống đốc ngân hàng Trung ương có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất thế giới, nói như tờ New York Times, là “vị chúa tể của [một] đế chế vô hình.” Đối với Jean Monet, ông trùm của Liên minh châu Âu, Ngân hàng Trung ương Anh quốc khi ấy là “thành trì của những thành trì” và “Montagu Norman là người cai trị thành trì đó. Ông là người đáng được kính nể.” Trong suốt thập kỷ vừa qua, Norman và các thống đốc đứng đầu ba ngân hàng Trung ương lớn khác đã là một phần của thứ được báo chí phong là “câu lạc bộ độc nhất vô nhị trên thế giới.” Norman, Benjamin Strong thuộc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York (New York Feral Reserve Bank), Hjalmar Schacht thuộc Ngân hàng Trung ương Đức (Reichsbank), và Émile Moreau thuộc Ngân hàng Trung ương Pháp (Banque de France) đã hợp thành bộ tứ thống đốc ngân hàng Trung ương đảm nhận sứ mệnh tái thiết guồng máy tài chính thế giới sau Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Song đến giữa năm 1931, chỉ còn Norman là thành viên duy nhất của bộ tứ trụ lại. Strong đã mất năm 1928 ở tuổi 55, Moreau nghỉ hưu năm 1930, và Schacht từ chức năm 1930 do xung đột với bộ máy chính phủ và quay sang ve vuốt Adolf Hitler và đảng Đức Quốc xã. Do vậy trọng trách lãnh đạo thế giới tài chính đã được đặt trọn lên vai người đàn ông Anh quốc tính tình màu mè nhưng bí ẩn này, con người có nụ cười “tinh nghịch,” phong thái hư hư thực thực đầy chất kịch, với bộ râu của Van Dyke , và trang phục kín đáo: chiếc mũ rộng vành, tấm áo choàng dài, và chiếc kim cài cà vạt bằng ngọc lục bảo lấp lánh. Đối với vị thống đốc ngân hàng quyền lực nhất thế giới thì việc bị suy nhược thần kinh trong khi nền kinh tế toàn cầu đang phải trải qua năm thứ hai của một cuộc suy thoái chưa từng có tiền lệ trước đó quả là một điều bất hạnh thật sự. Nền sản xuất ở hầu hết các quốc gia đều đã sụp đổ - ở hai quốc gia bị thiệt hại nặng nề nhất, Mỹ và Đức, quy mô sản xuất đã thu hẹp tới 40%. Các nhà máy trên khắp thế giới công nghiệp - từ những xưởng lắp ráp ô tô tại Detroit cho đến những xưởng thép ở Ruhr, từ những xưởng dệt lụa ở Lyons cho đến những xưởng đóng tàu ở Tyneside - đều đóng cửa, nếu không thì cũng chỉ hoạt động cầm chừng. Đứng trước mức cầu sụt giảm, các doanh nghiệp đã phải cắt giảm giá thành sản phẩm tới 25% tính từ thời điểm kinh tế bắt đầu suy thoái. Những đội quân thất nghiệp vất vưởng khắp hang cùng ngõ hẻm ở các thị trấn và thành phố của các nước công nghiệp. Tại Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, khoảng 8 triệu đàn ông và phụ nữ, tương đương với 15% lực lượng lao động, đã mất việc làm. 2,5 triệu người ở Anh và 5 triệu người ở Đức, hai nền kinh tế lớn thứ nhì và thứ ba thế giới, cũng đành đứng vào hàng ngũ những người thất nghiệp. Trong số bốn đầu tàu kinh tế lớn, chỉ có Pháp là có vẻ được bảo vệ phần nào khỏi sự tàn phá từ cơn bão đang hoành hành khắp thế giới, song đến giờ, ngay cả nền kinh tế này cũng đã bắt đầu chứng kiến sự sụt giảm. Những tốp thanh niên và đàn ông thất nghiệp không có việc gì để làm ngày ngày vật vờ ở khắp các góc phố, trong công viên, quán bar và tiệm cà phê. Ngày càng có nhiều người rơi vào cảnh ăn không ngồi rồi, do đó chẳng còn đủ tiền để trang trải cho một chỗ ở dù khiêm tốn nhất, kết quả là những khu ổ chuột tồi tàn được xây cất cẩu thả từ kiện đóng hàng, sắt vụn, thùng đựng dầu nhờn, vải nhựa, và thậm chí cả vỏ xe hơi mọc lên nhan nhản ở các thành phố như New York và Chicago – ngay giữa công viên Trung tâm cũng có hẳn một khu trại như thế. Các khu nhà tạm tương tự cũng rải rác khắp ngoại ô Berlin, Hamburg, và Dresden. Ở Mỹ, hàng triệu người lang thang đã rời bỏ bầu không khí ảm đạm của nghèo đói đang bủa vây các thành phố để lên đường hòng tìm kiếm việc làm. Thất nghiệp dẫn đến bạo lực và nổi loạn. Ở Mỹ, những cuộc cướp bóc lương thực, thực phẩm xảy ra như cơm bữa ở Arkansas, Oklahoma, và khắp các bang ở miền Trung và Tây Nam. Ở Anh, công nhân mỏ tổ chức biểu tình, rồi đến công nhân xưởng bông và các thợ dệt. Berlin gần như rơi vào tình trạng nội chiến. Trong suốt các cuộc bầu cử vào tháng Chín 1930, đảng Đức Quốc xã, lợi dụng sự sợ hãi và chán nản cùng cực của dân thất nghiệp và chiêu bài buộc tội tất cả những lực lượng khác – từ quân Đồng minh đến những người cộng sản và dân Do Thái – vì đã gây ra bao đau khổ cho nước Đức, đã giành được gần 6,5 triệu phiếu bầu, nhờ đó tăng số ghế của đảng này trong Quốc hội Đức từ 12 lên 107 ghế và đưa nó thành đảng phái lớn thứ hai góp mặt tại Quốc hội sau đảng Dân chủ Xã hội. Trong khi đó trên các đường phố, các nhóm người theo đảng Đức Quốc xã và các nhóm người cộng sản đụng độ, xô xát với nhau hàng ngày. Còn ở Bồ Đào Nha, Brazil, Argentina, Peru và Tây Ban Nha, đảo chính là tình trạng phổ biến. Mối đe dọa kinh tế lớn nhất hiện nay đến từ hệ thống ngân hàng đang sụp đổ. Tháng Chín năm 1930, Bank of United States (dù mang tên như vậy song đây là một ngân hàng tư nhân không có vị thế chính thức nào) sụp đổ, trở thành vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ, làm đóng băng khoảng 200 triệu đô-la trong các tài khoản tiền gửi. Tháng Năm năm 1931, ngân hàng lớn nhất nước Áo, Creditanstalt, ngạc nhiên thay, chính là sở hữu của gia tộc Rothschild, với giá trị tài sản lên tới 250 triệu đô-la, cũng đành đóng cửa. Ngày 20 tháng Sáu, tổng thống Herbert Hoover công bố lệnh tạm hoãn trả tất cả các khoản nợ và khoản bồi thường chiến phí phát sinh từ cuộc chiến tranh vừa qua trong vòng một năm. Vào tháng Bảy, Danatbank, ngân hàng lớn thứ ba ở Đức, gục ngã, gây hoảng loạn trên toàn bộ hệ thống ngân hàng Đức và khiến dòng vốn ào ạt rời bỏ đất nước này. Thủ tướng Đức, Heinrich Bruning, bèn ra tuyên bố về ngày các ngân hàng đóng cửa, trong đó giới hạn số tiền mỗi công dân Đức có thể rút khỏi tài khoản ngân hàng của mình, và tạm ngừng thanh toán các khoản nợ nước ngoài ngắn hạn. Chỉ cuối tháng đó, khủng hoảng đã lan đến tận London, chủ nợ cực lớn của Đức; giờ đây, London bàng hoàng nhận ra rằng việc thu nợ lúc này đã trở thành bất khả thi. Đột nhiên phải đối mặt với một cảnh huống chưa từng lường được trước đó rằng nước Anh sẽ không còn khả năng hoàn thành nghĩa vụ của mình, các nhà đầu tư trên khắp thế giới bắt đầu đổ xô đi rút vốn khỏi London. Ngân hàng Trung ương Anh quốc buộc phải vay tới 650 triệu đô-la từ các ngân hàng ở Pháp và Mỹ, bao gồm cả Ngân hàng Trung ương Pháp và Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, để tránh làm cạn kiệt kho dự trữ vàng của mình. ... Mời các bạn đón đọc Những Ông Trùm Tài Chính: Những Chủ Ngân Hàng Lũng Đoạn Nền Tài Chính Thế Giới của tác giả Liaquat Ahamed.
Những Năm Tháng Của Tôi ở General Motors - Alfred P. Sloan, Jr
Cuốn sách đã được nhiều người công nhận là một trong những quyển sách về quản trị hay nhất mọi thời đại, trong đó có chuyên gia Peter Drucker và tỷ phú Bill Gates. Trong Những năm tháng của tôi ở General Motors, Sloan đã mô tả sự nghiệp của ông một cách vô cùng chân thực, không khoa trương hay màu mè. Ông trình bày các suy nghĩ của mình, nhấn mạnh về việc quản trị, cách tổ chức và dẫn dắt một doanh nghiệp lớn, cũng như cách ông biến suy nghĩ của mình thành hành động ra sao. Bên cạnh đó, đây còn là một cuốn sách về lịch sử kinh tế của một trong những giai đoạn biến động nhất lịch sử, với cuộc Đại suy thoái, Chiên tranh thế giới thứ II, ... Hơn hết, độc giả sẽ biết được General Motors đã vượt qua mọi trở ngại to lớn đó để vươn lên dẫn đầu như thế nào, mà trong đó công lao to lớn đó để vươn lên dẫn đầu như thế nào, mà trong đó công lao to lớn nhất đương nhiên không thuộc về ai khác - chính là Alfred Sloan. *** Cuốn sách các bạn đang cầm trên tay mô tả rất chi tiết về quá trình hình thành và phát triển của General Motors. Có rất nhiều điều để nói về doanh nghiệp tư nhân lớn nhất thế giới này. Lịch sử của nó kéo dài cả thế kỷ, hiện hữu ở nhiều khu vực trên thế giới, xuất hiện ở bất cứ đâu có đường đi. Nó liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mau lẹ của nghệ thuật chế tạo máy. Rõ ràng, tên tuổi của tập đoàn được viết nên bằng các dòng xe Chevrolet, Pontiac, Oldsmobile, Buick, Cadillac và GMC Truck & Coach cùng với các nhà sản xuất của khoảng một nửa lượng xe lữ hành và xe tải được sản xuất tại Mỹ và Canada ngày nay. Các cơ sở tại nước ngoài của chúng tôi – gồm Vauxhall ở Anh, Adam Opel ở Đức, General Motors-Holden’s ở Úc và các nhà máy sản xuất của chúng tôi ở Argentina và Brazil – chiếm khoảng 1/10 số lượng xe lữ hành và xe tải được sản xuất ngoài Mỹ và Canada năm 1962 trong thế giới tự do. Tập đoàn cũng sản xuất ra một lượng ổn định các đầu máy, động cơ diesel, tua-bin khí và nhiều đồ gia dụng trên toàn thế giới. Từ khi General Motors tập trung chủ yếu vào sản xuất các sản phẩm ô tô – chiếm khoảng 90% mảng kinh doanh dân dụng hiện tại – thì tôi đa phần ở trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, tôi cũng dành riêng một vài chương cho lĩnh vực phi ô tô và vai trò của GM trong chiến tranh và quốc phòng. Những ấn tượng của tôi về khoảng thời gian hơn 65 năm hoạt động trong ngành công nghiệp ô tô – với 45 năm ở GM – là mạch nguồn của cuốn sách này. Tuy nhiên, bởi câu chuyện diễn ra trong một thời gian quá dài, chủ đề phức tạp và những hạn chế về tư duy nên câu chuyện của tôi chủ yếu dựa trên những ghi chép và hồi ức về quá khứ. Tôi cũng thường xuyên nhờ đến trí nhớ của các cộng sự của mình. Để không bị dàn trải, tôi phải tập trung vào các nhân tố cụ thể mà theo tôi, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tập đoàn – cụ thể là nguồn gốc và sự phát triển một tổ chức phi tập trung như GM, hệ thống kiểm soát tài chính, cũng như quan điểm về hoạt động kinh doanh được thể hiện qua cách tiếp cận với thị trường ô tô đầy cạnh tranh trên toàn cầu. Theo tôi, có 3 nhân tố làm nền tảng đường hướng phát triển cho hoạt động kinh doanh của GM trên thị trường. Về lịch sử, tôi đã phác thảo ra toàn bộ vòng đời phát triển của GM, từ khi được thành lập bởi thiên tài công nghiệp W.C. Durant vào năm 1908 – với những sự kiện thời kỳ đầu – cho đến nay. Nhưng tôi tập trung chủ yếu vào giai đoạn sau năm 1920, hay thứ mà tôi gọi là tập đoàn hiện đại và cụ thể hơn là giai đoạn từ năm 1923 đến năm 1946, giai đoạn mà tôi là tổng giám đốc, rồi sau đó là chủ tịch, kiêm CEO của tập đoàn. Trong suốt giai đoạn này, tập đoàn đã định hình nên một vài đặc điểm cơ bản vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tôi đã mô tả một tập đoàn thời cũ trước năm 1921 để các bạn thấy được xuất phát điểm mà từ đó chúng tôi đã bắt tay vào xây dựng một tập đoàn hiện đại như ngày nay. Về phần tự truyện, tôi sẽ kể lại thời gian đầu mới vào ngành và mối lương duyên của tôi đối với tập đoàn trong năm 1918. GM và Hyatt Roller Bearing Company, một doanh nghiệp mà tôi là giám đốc kiêm cổ đông trước khi nó trở thành một phần của United Motors Corportation và sau đó là GM, chiếm một phần rất quan trọng trong cuộc đời sự nghiệp của tôi. Tôi là một cổ đông quan trọng của tập đoàn từ ngày gia nhập và trong một thời gian dài, tôi đã là một trong những cổ đông cá nhân lớn nhất với khoảng 1% cổ phần của tập đoàn. Gần như toàn bộ số tiền mà lượng cổ phần đó đại diện đã biến mất và đến với tổ chức từ thiện dưới tên tôi và rồi từ đó, vào giáo dục và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực y khoa và các lĩnh vực khác. Vì thế, tôi đưa ra quan điểm ở cương vị một cổ đông rất tự nhiên. Tôi luôn giữ một vị trí quan trọng với cương vị một cổ đông, đặc biệt là với các vấn đề như quyền đại diện trong ban giám đốc và các ủy ban hay việc phân chia cổ tức. Thế nhưng, tôi cũng coi mình là một trong những giống loài mà giờ đây chúng ta gọi là “giám đốc.” Chuyên môn của tôi là quản lý. Trong thời gian là CEO, thi thoảng tôi được quyền đưa ra các chính sách. Tuy nhiên, ở GM, đã trở thành thông lệ: Chính sách có thể được đưa ra từ bất cứ đâu, nhưng nó phải được các ủy ban nhất trí phê duyệt trước khi được các cá nhân thực thi. Nói theo cách khác, GM được quản lý theo nhóm được tạo nên từ nhiều cá nhân có năng lực. Và vì thế, tôi thường dùng đại từ nhân xưng “chúng tôi” thay cho “tôi,” và mặc dù thi thoảng tôi cũng dùng “tôi,” nhưng nó cũng vẫn hàm ý là “chúng tôi.” Xét đến sự phát triển của GM, chúng tôi cần phải nhìn nhận đến rất nhiều các nhân tố đa dạng xuất hiện ở nền tảng của tổ chức. Hiếm ai nghĩ, với đội ngũ doanh nhân năng động; với các nguồn lực khoa học, công nghệ, kinh doanh cũng như phương pháp sản xuất công nghiệp; với các không gian lớn, đường sá và thị trường màu mỡ; với những đặc điểm như dễ thay đổi, cơ động và sản xuất đại trà; với việc mở rộng mạnh mẽ trong thế kỷ này cũng như với hệ thống tự do nói chung và doanh nghiệp cạnh tranh tự do nói riêng, GM có thể tồn tại ở đâu đó ngoài quốc gia này. Việc thích ứng với đặc tính chuyên biệt của thị trường ô tô tại Mỹ là một nhân tố rất quan trọng và khá phức tạp trong quá trình phát triển của GM. Nếu chúng tôi đóng góp vào phong cách Mỹ như đóng góp vào ngành ô tô, thì hẳn là kết quả có được nhờ sự tương tác. Ví dụ, sự sống sót trong ngành công nghiệp ô tô tại Mỹ dựa chủ yếu vào việc giành được thiện ý của người mua ô tô mới mỗi năm. Một phần là nhờ mẫu mới hàng năm, khuyến khích tổ chức phải đổi mới hoặc chết. GM được thúc đẩy bởi sự cấp thiết của việc làm thỏa mãn yêu cầu này. Rất nhiều yếu tố về sự phát triển của doanh nghiệp và ngành đã “đâu vào đó” nhờ ý tưởng về mẫu xe mới hàng năm – nguồn gốc và sự phát triển của nó; quan điểm liên đới về các loại xe đang được nâng cấp trong đó GM đóng vai trò tiên phong đối lập với tổ chức Ford ban đầu. Tôi cũng không quên việc nhấn mạnh rằng ô tô đại diện cho một trong những cơ hội công nghiệp lớn nhất trong thời hiện đại. GM đã thật may mắn khi tiên phong trong lĩnh vực này. Suy nghĩ này đã làm nảy sinh quan điểm liên quan đến hai chương đầu tiên – chủ yếu tập trung vào thời kỳ đầu trong quá trình phát triển của GM. Hơn thế nữa, bằng cách trao cho GM mối liên kết gần gũi với sự phát triển của động cơ đốt trong, ô tô đã khuyến khích chúng tôi tham gia vào việc ứng dụng nguồn năng lượng kiểu này cho các loại máy móc cần sử dụng năng lượng khác, điển hình là máy bay và đầu máy xe lửa. Tỷ lệ tăng trưởng của chúng tôi phần lớn là nhờ việc sản xuất hàng loạt các phương tiện được lắp động cơ đốt trong. Không có gì ngạc nhiên khi tôi cảm thấy lạc quan về GM và hoạt động hiệu quả của tập đoàn. Nhưng đó chỉ là quan điểm chủ quan của riêng tôi khi nói rằng GM đã biến cơ hội mang tính lịch sử của mình thành sự hài lòng xét về quyền lợi của tập đoàn, từ cổ đông đến nhân viên, từ nhà cung cấp đến người tiêu dùng cuối. Tuy nhiên, với vị thế của một doanh nghiệp lớn nhất – với hơn 1 triệu cổ đông, khoảng 600.000 nhân viên, 9,2 tỷ đô-la tài sản; 14,6 tỷ đô-la doanh thu và 1,46 tỷ đô-la lợi nhuận trong năm 1962 – GM nổi lên như một điểm khác biệt và đôi lúc khiến tập đoàn trở thành mục tiêu chính trị. Tôi rất vui khi đề cập đến vấn đề về quy mô, đối với tôi, quy mô của một doanh nghiệp cạnh tranh là kết quả của hiệu suất cạnh tranh và khi doanh nghiệp sản xuất những thứ như ô tô, đầu máy xe lửa với số lượng lớn cho một cường quốc và thị trường thế giới, thì quy mô lớn là điều dễ hiểu. Cũng phải nhớ rằng giá cả của những sản phẩm này rất cao, thậm chí một nhà sản xuất ô tô “nhỏ” cũng có thể nằm trong hàng ngũ hàng trăm các tập đoàn công nghiệp lớn nhất nước Mỹ. Tôi tin rằng tăng trưởng là nguồn sống cho sự phát triển của một doanh nghiệp. Ngừng tăng trưởng đồng nghĩa với chết. Chúng tôi có thể đưa ra đầy rẫy các ví dụ điển hình minh chứng cho điều đó trong nền công nghiệp Mỹ. Trong ngành công nghiệp ô tô và rất nhiều ngành khác, quá trình tăng trưởng đã mang đến cho chúng ta những doanh nghiệp quy mô lớn vốn được cho là nét đặc trưng của xã hội. Chúng ta làm mọi thứ một cách rầm rộ tại Mỹ. Tôi luôn tin vào việc lập kế hoạch lớn và cũng luôn khám phá ra sự thật sau đó rằng, dù là gì đi chăng nữa, chúng ta cũng làm chưa tới. Thế nhưng, tôi đã không tiên đoán quy mô của GM hay đặt quy mô là một mục tiêu trong đầu. Đơn giản bởi tôi nghĩ rằng, chúng ta nên tập trung vào công việc hiện tại và bỏ qua mọi hạn chế. Tôi không giới hạn đà tăng trưởng của tập đoàn. Tăng trưởng và phát triển có mối liên hệ mật thiết với nhau bởi một doanh nghiệp không được phép nghỉ ngơi hay lơ là trong một nền kinh tế cạnh tranh. Những trở ngại, xung đột, các vấn đề mới nảy sinh ở mọi hình dạng và những giới hạn mới gia tăng liên tục đã khuấy đảo hình dung và sự liên tục của quá trình tăng trưởng ngành. Tuy nhiên, thành công có thể mang đến sự tự mãn. Lúc đó, sự cạnh tranh sinh tồn, động lực kinh tế mạnh mẽ nhất, sẽ bị làm lu mờ. Tinh thần mạo hiểm trôi tuột, thay vào đó là tâm lý ngại thay đổi. Khi những ảnh hưởng như thế nảy sinh, tăng trưởng có thể ngừng lại hoặc suy giảm, nguyên nhân là do doanh nghiệp không nhận ra công nghệ đã được nâng cao hoặc nhu cầu của khách hàng thay đổi, hay có lẽ là do cạnh tranh ngày càng gay gắt và mạnh mẽ. Trong bất cứ ngành công nghiệp nào, việc liên tục duy trì được thành công hoặc tiêu chuẩn cao bất thường về khả năng lãnh đạo đôi khi còn khó khăn hơn nhiều so với việc đạt được thành công hoặc khả năng lãnh đạo ban đầu. Đó là một thách thức cần GM đáp ứng trong tương lai. Cần phải làm rõ rằng tôi không coi quy mô là một rào cản. Đối với tôi, đó chỉ là một vấn đề về quản lý. Những suy nghĩ của tôi vốn xoay quanh một quan điểm ẩn chứa sự phức tạp rất lớn cả về lý thuyết lẫn thực tế – khái niệm được đưa ra với cái tên đã được đơn giản hóa: Phi tập trung. Tổ chức kiểu GM – phối hợp trong chính sách, phi tập trung trong quản lý – không chỉ hiệu quả đối với chúng tôi mà còn trở thành tiêu chuẩn trong phần lớn các ngành công nghiệp Mỹ. Khi được kết hợp với sáng kiến hợp lý về tài chính, khái niệm này là bước đệm chắc chắn cho chính sách về tổ chức của GM. Một khía cạnh cần thiết liên quan đến triết lý quản lý của chúng tôi là cách tiếp cận thực tế đối với hoạt động đánh giá kinh doanh. Đương nhiên, hành động cuối cùng trong đánh giá kinh doanh chỉ mang tính trực giác. Có lẽ, có rất nhiều cách chính thống để cải thiện tính hợp lý của chiến lược kinh doanh hay hoạch định chính sách. Nhưng phần quan trọng đằng sau đánh giá kinh doanh là tìm kiếm và thừa nhận những sự thực và tình huống liên quan đến công nghệ, thị trường, v.v… với các dạng thức thay đổi liên tục. Tốc độ thay đổi công nghệ hiện đại đã khiến việc tìm kiếm những sự thật trở thành một tính năng rất cần thiết trong ngành. Điều đó có vẻ rõ ràng, thế nhưng, một vài thay đổi lớn nhất về vị thế trong ngành xuất hiện một phần bởi ai đó đã đưa ra ý tưởng mà anh ta cho là bất biến. Tuy nhiên, để đảm bảo cho hoạt động quản lý có cơ sở vững vàng, phải cần hơn một sơ đồ tổ chức. Không có ai tổ chức hợp lý hơn những người điều hành nó và ủy quyền cho người khác điều hành nó. Họ là những người “cầm cân, nảy mực” trong một tổ chức phi tập trung hướng đến sự tập trung và thậm chí là quy tắc một-người. GM trụ được lâu trên thương trường đến như vậy là nhờ được điều hành bằng cả tinh thần và sự ổn định của hoạt động phi tập trung. Có vẻ hợp lý khi nói GM là một thể chế. Tập đoàn có môi trường hoạt động khách quan và tinh thần đoàn kết doanh nghiệp. Một trong những thế mạnh lớn nhất của tập đoàn nằm ở sự khách quan, khác hẳn kiểu tổ chức đắm mình trong chủ nghĩa chủ quan cá nhân. Tuy nhiên, kinh nghiệm của tôi cho thấy, không có công thức đơn giản nào về vấn đề này của tổ chức. Vai trò của tính cá thể quan trọng đến mức đôi lúc nó là nhân tố cần thiết để xây dựng tổ chức hoặc một phần tổ chức theo một hoặc một vài cá nhân thay vì ép các cá nhân phải phù hợp với tổ chức. Xét dưới góc độ phát triển đội ngũ nhân viên kỹ thuật thời kỳ đầu của chúng tôi, điều đó xuất hiện dưới dạng rất ấn tượng. Tuy nhiên, khi bất cứ phần nào của tập đoàn bị gò theo một cá nhân nào đó, thì áp lực nặng nề gia tăng bởi mỗi quy trình đều có những hạn chế riêng. Và như tôi đã nói ở trên, để tồn tại và phát triển, mỗi tổ chức phải luôn thường trực xu hướng vượt lên trên tính chủ quan cá nhân của mình. Nếu đề cập hoặc ám chỉ đến thứ được gọi là ý thức hệ trong cuốn sách này, thì đó là bởi tôi cho rằng cạnh tranh như một tín điều, một phương tiện tiến bộ và một cách sống. Cạnh tranh xuất hiện ở nhiều dạng: Ví dụ, GM cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên cương vị một tổ chức (phi tập trung) và trong các hoạt động kinh doanh lâu dài (nâng cấp các dòng sản phẩm), cũng như trong các hoạt động kinh doanh thường nhật. Mặt khác, Henry Ford lại đặt niềm tin của mình vào cơ cấu tổ chức tập quyền và kiểu mẫu không có gì thay đổi. Cuộc cạnh tranh về chính sách cơ bản như thế đôi lúc rất dứt khoát. Chúng tôi cũng tiếp tục tiến lên với niềm tin vào sự thay đổi, điều thể hiện rõ trong hoạt động hoạch định đầu tư cho tương lai. Chúng tôi sản xuất hàng hóa không phải cho số ít khách hàng chọn lọc mà cho thị trường đại chúng dựa trên mức sống ngày càng tăng cao của người dân. Nhận thức của chúng tôi về mức sống ngày càng tăng đã làm nên sự khác biệt mang tính quyết định giữa chúng tôi và các đối thủ trong thuở sơ khai làm nên thị trường hiện đại. Lĩnh vực thuộc GM mà tôi tập trung trong cuốn sách này không phải là thứ lúc nào cũng hữu hình. Nó bắt nguồn từ ban giám đốc đến các bộ phận sản xuất, gồm cả hành chính tổng hợp, các giám đốc điều hành, các ủy ban chính sách, tổ chức chuyên môn và năng lực và các mối quan hệ giữa các bộ phận sản xuất; nói cách khác, lĩnh vực mà trong đó bộ phận bổ sung cho tổ chức còn tổ chức hỗ trợ các bộ phận. Vì thế không phải các bộ phận sản xuất mà là sự tổng hòa của mọi bộ phận làm nên General Motors – chủ đề của tôi trong cuốn sách này. Cuốn sách được chia thành hai phần. Phần I là một câu chuyện liên tục, thống nhất với nội dung chính liên quan đến quá trình phát triển của GM, đề cập đến nguồn gốc và sự phát triển của những quan điểm về quản lý cơ bản của tập đoàn trong các lĩnh vực tổ chức, tài chính và sản phẩm. Phần II đi vào các thông tin chi tiết và chuyên biệt như kỹ thuật, phân phối, các hoạt động ở nước ngoài, chiến tranh và các sản phẩm quốc phòng, bồi thường khuyến khích và nhiều khía cạnh khác cũng như các chi nhánh của tập đoàn. Tuy nhiên, tôi không cố gắng liệt kê ra mọi thông tin. Việc cố gắng kể lại chi tiết một câu chuyện về GM với quá trình hình thành và phát triển trong hơn một nửa thế kỷ là điều không tưởng. Tôi đã chọn lọc – hầu hết các tác giả đều làm vậy – dựa trên phần lớn kinh nghiệm của bản thân và các đồng sự để đưa ra những phán đoán hợp lý. Cuốn sách này ra đời nhằm phân tích các hoạt động kinh doanh dựa trên một quan điểm logic, kết hợp các ý tưởng với lịch sử. Cấu trúc của cuốn sách này, cụ thể là thứ tự các chương trong phần I, là kết quả của sự cân nhắc về tính logic trong quản lý liên đới với các sự kiện của ngành công nghiệp ô tô. Đương nhiên, cũng có những cách tiếp cận tiềm năng khác, về tâm lý, xã hội, chủ quan, v.v… nhưng tôi vẫn lựa chọn cách tiếp cận logic bởi nó giúp diễn giải một lượng lớn các tài liệu phức tạp trong không gian hạn chế. Nó cũng giúp hiện thực hóa việc đưa ra quan điểm rõ ràng về hoạt động kinh doanh trên cương vị một doanh nghiệp. Cách tiếp cận như vậy khá phù hợp đối với mục tiêu của GM, bởi một khía cạnh trong chiến lược kinh doanh của tập đoàn là nỗ lực luôn khách quan trong suốt quá trình theo đuổi các mục tiêu kinh doanh. Vậy nên, tôi đã tập trung vào những gì đã đạt được trong quá khứ, khi rất nhiều các chính sách cơ bản, lâu dài lần đầu tiên được đưa ra. Tuy nhiên, tôi cũng nhận ra rằng trong suốt những năm tháng thăng trầm của tập đoàn, đội ngũ cán bộ và công nhân viên ở đây đã luôn nỗ lực trong việc định hình và làm mới các chính sách ban đầu. Hơn nữa, các chính sách mới cũng được đưa ra để đáp ứng với các điều kiện trong tình hình mới. Như tôi từng nói, thay đổi đồng nghĩa với thách thức và khả năng xử lý những thách thức là một dấu hiệu cho thấy hoạt động quản lý hiệu quả. Những thay đổi khó khăn về sản phẩm, nhu cầu và áp lực từ bên ngoài phải được đáp ứng mau lẹ để duy trì sự tăng trưởng và thịnh vượng của GM. Thực tế, ban quản lý hiện tại của GM đang đáp ứng và bao quát được gần như toàn bộ các vấn đề mới nảy sinh vốn làm đau đầu các thế hệ nhà quản lý của tập đoàn này. Mời các bạn đón đọc Những Năm Tháng Của Tôi ở General Motors của tác giả Alfred P.sloan, Jr.
Những Âm Mưu Hủy Diệt Bill Gates - Gary Rivlin
Ngày 4-2-1998, trong chuyến sang Brussels dự hội nghị với giới chức Liên minh châu Âu, nguyên một ổ bánh kem to tướng đã bay thẳng vào mặt Bill Gates từ tay một người Bỉ tên Noel Godin. Sự tích “bánh kem tặng Gates” đó chỉ là một phần nhỏ trong chuỗi những sự kiện, những “thích khách”, những âm mưu và những tổ chức dài dằng dặc luôn sẵn sàng tư thế nghiền nát Bill Gates cùng tập đoàn phần mềm Microsoft vì ganh tỵ, vì mặc cảm thất bại và vì thèm khát vị trí độc tôn. Cuốn sách Những âm mưu hủy diệt Bill Gates thuật lại diễn biến những kế hoạch lật đổ Bill Gates của các tập đoàn khác và phân tích nguyên nhân đằng sau những sự vụ ấy.  *** Bill Gates đã và đang là thần tượng của rất nhiều người nhưng cũng là kẻ thù không đội trời chung của rất nhiều kẻ khác. Nhiều người xem Gates là một anh hùng mã thượng nhưng cũng không ít người xem Gates “chỉ là một kẻ gian hùng, khôn lanh và quỷ quyệt”. Nhiều lời khen khâm phục về một thiên tài mẫu mực, đam mê công việc và bản lĩnh thương trường nhưng cũng nhiều lời chỉ trích “hắn ta (Gates) thực sự là một gã huênh hoang, ngang tàng, nguy hiểm và vô nguyên tắc”. Gates là một tấm gương của một con người đại diện cho trí tuệ, khát vọng và ước mơ nhưng cũng từng bị lăng mạ là “một kẻ láu cá, cơ hội không hơn không kém và tột cùng tham lam”... Ngày 4-2-1998, trong chuyến sang Brussels dự hội nghị với giới chức Liên minh châu Âu, nguyên một ổ bánh kem loại king-size đã bay thẳng vào mặt Bill Gates (kẻ thực hiện là một người Bỉ tên Noel Godin). Sự tích “cái bánh kem tặng Gates” này chỉ là một phần nhỏ trong chuỗi những sự kiện, những “thích khách”, những âm mưu và những tổ chức dài dằng dặc luôn sẵn sàng tư thế nghiền nát Bill Gates cùng tập đoàn phần mềm Microsoft – vì ganh tỵ, vì mặc cảm thất bại và vì thèm khát vị trí độc tôn. Trong khi gần một nửa thế giới viết thánh ca cho Bill Gates, gần một nửa còn lại cũng nóng lòng chuẩn bị giấy bút soạn điếu văn Bill Gates trong sung sướng, hả hê. Khi một bài báo ca ngợi Bill Gates xuất hiện, gần như một bài báo khác công kích, nguyền rủa Bill Gates cũng chuẩn bị ra mắt. Điều này cho thấy Bill Gates có sư ác hấp dẫn sự quan tâm của công chúng cỡ nào. Đến nay, đã có khoảng 79.500 quyển sách trên thế giới viết về Bill Gates (theo Amazon.com ngày 13-10-2004). Và đến nay, “con ruồi” ngoại hạng Bill Gates (như tên khoa học Eristalis gatesi mà giới côn trùng học lấy tên ông đặt cho một loài ruồi hoang) vẫn đậu dai dẳng ở vị trí cao nhất trên ổ bánh kem to và ngon lành nhất của vương quốc công nghệ phần mềm, liên tục hơn một thập kỷ qua. Chuyên san kinh tế Forbes trong ấn bản ngày 11-10-2004 vẫn xếp Bill Gates đứng đầu 400 người Mỹ giàu nhất Hoa Kỳ với tài sản ròng 48 tỉ USD (không kể giá trị cổ phiếu) – vị trí mà liên tục hơn mười năm qua, con ruồi Bill Gates chẳng chịu bay đi đâu cả. Hơn một thập niên qua, người ta vẫn liên tục ca tụng Bill Gates cũng như nguyền rủa ông, dùng phần mềm Microsoft Word của ông để viết những bài chỉ trích cay độc và xỉa xói Gates và họ cũng liên lạc nhau trên các diễn đàn chống Gates bằng công cụ Microsoft Explorer hoặc Microsoft Outlook Express của Gates. Đó là cái sự nực cười đậm mùi hài hước nằm bên trong bản chất nghiêm túc của cuộc chiến mà phần còn lại của thế giới công nghiệp phần mềm liên kết nhau để diệt Bill Gates. Gates ra tòa, Gates bị phạt, phần mềm của Gates bị lỗi, Gates có khả năng bị thua lỗ..., nhiều kẻ chắc chắn sẽ vỗ tay ăn mừng và cụng champagne côm cốp, lòng vui như mở cờ khi khai thác, nghe những thông tin đại loại như vậy. Một cuộc chiến kéo dài mà tất cả mọi giới đều vào cuộc, từ những cá nhân riêng lẻ đến các tập đoàn cá mập, từ những “điệp viên săn tin” đến các hệ thống truyền thông – báo chí khổng lồ, từ các luật sư trứ danh cho đến tối cao pháp viện, từ các ông chủ tỉ phú đến các đảng phái, giới chức cầm quyền nước Mỹ. Tất cả các thế lực liên kết với nhau, tạo nên một cuộc chiến đẳng cấp trí tuệ, từ những xung đột âm thầm đến những cuộc đối đầu trực diện một mất một còn, từ thương thuyết đe dọa đến tòa án, từ vận động hành lang, mua chuộc đến công khai lật tẩy, công kích... Thế nhưng, qua tất cả, cho đến hiện nay cuối cùng thì Gates vẫn là Gates và Microsoft vẫn là Microsoft. Chưa ai địch lại Bill Gates cả, trong khi cuộc chiến chống Gates không hề là cuộc chiến của châu chấu đá xe. Tất cả các kẻ thù của Bill Gates đều là đối thủ khổng lồ, sừng sỏ, có nanh có nọc. Thế nhưng họ vẫn thua, vẫn bị hạ đo ván bởi cặp găng lì đòn, biến thiên vạn hóa cùng tư duy và tầm nhìn đặc biệt của Gates. Những đối thủ nặng ký của Gates từng hung hăng trên võ đài với Gates đã phải phải qui phục như Netscape, Oracle, IBM, Sun... Vấn đề ở chỗ – như những gì thuật lại trong The Plots to Get Bill Gates – An Investigation of the World’s Richest Man and the People Who Hate Him của Gary Rivlin – liên minh chống Gates – trong thực tế – là một liên minh ganh ăn ghét ở, đầy mưu mô và thủ đoạn chỉ chực hạ gục Bill Gates để thiết lập lại “trật tự mới” cho thế giới công nghiệp phần mềm. "Trật tự mới" này có thể hiểu là những cuộc đại chiến tiếp theo với mục tiêu giành chiếc ngai “sẽ bỏ trống” của Microsoft. Do bản chất như vậy chẳng trách sao những âm mưu (“the plots”) bóp cổ Bill Gates đã chưa bao giờ thành công. Và rồi, Gates vẫn còn đó, vẫn là người phát biểu chính trên các diễn đàn quốc tế công nghệ phần mềm với tư thế của một ông trùm danh bất hư truyền, vẫn tung ra đúng lúc những ý tưởng táo bạo trong việc thống lĩnh chiến trường cạnh tranh và tìm kiếm vũ khí cùng cách thể hiện mới cho vị thế độc tôn, bành trướng của mình; vẫn thu tiền đều đều từng ngày từ việc bán các phiên bản phần mềm máy tính cho thế giới, và cho cả đối thủ của mình, và nhất là vẫn nghênh ngang vị trí giàu có nhất hành tinh. Sẽ còn nhiều âm mưu, kế hoạch khác nữa để công kích, để phá hoại và để mong khai tử ông vua phần mềm đặc biệt này. Đó cũng chính là những gì sẽ được kể trong quyển sách này mà First News mang đến cho bạn đọc. – First News 2004 Mời các bạn đón đọc Những Âm Mưu Hủy Diệt Bill Gates của tác giả Gary Rivlin.
Tay Không Gây Dựng Cơ Đồ - Vikrom Kromadit
Tay Không Gây Dựng Cơ Đồ là quyển sách nói về cuộc đời và quá trình tạo dựng sự nghiệp của tỷ phú Thái Lan: Vikrom Kromadit, người chủ của những khu công nghiệp Amata. Từ một cậu bé quê mùa tỉnh lẻ ở Kanchanaburi trở thành một doanh nhân nổi tiếng và thành đạt "đến bất ngờ", tại sao Vikrom Kromadit có thể làm được như vậy? Ngay từ thuở nhỏ, cái khao khát "trở thành ông chủ" đã ngấm sâu trong máu thịt của ông. Dù có lúc trong túi chỉ còn vỏn vẹn 25 xu, Vikrom vẫn không ngừng khao khát tìm kiếm sự thành công trong kinh doanh và cơ hội trở thành một ông chủ, dù chỉ là "ông chủ 25 xu". Vikrom Kromadit không bao giờ từ bỏ ước mơ làm giàu của mình. Cuốn sách hữu ích cho những ai mang hoài bão trở thành một doanh nhân thành đạt và những ai quan tâm tìm hiểu cách xây dựng mối quan hệ nhằm đạt được các mục tiêu trong kinh doanh. Bởi vì xuyên suốt quyển sách là một tinh thần khởi nghiệp không mệt mỏi, dù kiến thức hạn chế, vốn liếng cũng không có thế mà Kromadit vẫn không bao giờ từ bỏ. Một điểm rất hay là tác giả luôn đề cao việc lấy đạo đức làm trọng là gốc của sự nghiệp vững bền. Quyển tự truyện viết một cách thực tế, chân thật, không màu mè, không hoa lệ về con đường làm giàu của Vikrom Kromadit. Bạn đọc sẽ học hỏi nhiều điều qua cuốn sách bổ ích này bởi ông đã nêu cụ thể cách thức mà ông sử dụng để có được ngày hôm nay. Ngoài ra, bạn còn có thể học hỏi những tư tưởng tốt đẹp, nhân văn của Vikrom Kromadit đối với xã hội. *** Năm 2003, nhân dịp sinh nhật lần thứ 50, tôi cho ra đời cuốn sách đầu tay “Hãy làm người tốt”. Kể từ đó đến nay, tất cả các cuốn sách về sau của tôi đi cùng chủ đề này đều bán rất chạy với số lượng tổng cộng lên đến một triệu bản. Đây quả là một “liều thuốc thần” đem lại cho tôi và tất cả những người có đóng góp cho cuốn sách niềm xúc động, hạnh phúc và tự hào, đồng thời là nguồn động viên tinh thần lớn lao đối với tôi trong việc truyền đến bạn đọc những điều bổ ích rút ra từ cuộc sống, sự hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân tôi trong cả một quãng đời dài trước đó. Có thể xem đây như là một “kim chỉ nam” giúp bạn đọc đạt được mục tiêu trong cuộc sống như ước muốn của mình mà không bị lầm đường lạc lối như tôi. Khi trang cuối cùng của cuốn sách này hoàn thành, tôi vui mừng khôn tả, không phải chỉ vì mình đã hoàn thành được một công việc bấy lâu nay ấp ủ mà còn vì tôi sẽ có được một “món quà” quý giá để tặng bạn đọc, những người đã quan tâm theo dõi công việc của tôi trong suốt thời gian qua, và đã đáp lại bằng những tình cảm ấm áp qua hàng ngàn bức thư, điện thoại và vô số nụ cười dành cho tôi mỗi khi có dịp gặp mặt. Tôi thật sự xúc động khi Giám đốc Quan hệ Công chúng của Khách sạn Princess đem cuốn sách “Hãy làm người tốt” đến để tôi ký tên. Cuốn sách trông cũ kỹ và nhàu nát vì cô đã truyền tay cho tổng cộng 50 người bạn thay nhau đọc. Điều đó cho thấy cuốn sách nhỏ của tôi đã tỏ ra có ích cho nhiều người và giúp bạn đọc nhận ra giá trị của cuộc sống dựa vào tình yêu thương, sự rộng lượng, sự gắn bó đùm bọc trong gia đình nhằm xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nếu như cuốn “Hãy làm người tốt” tập đầu tiên có thể xem là “kim chỉ nam” cho cuộc đời tôi thì cuốn “Tay không gây dựng cơ đồ”, là “cuốn sổ tay” trên con đường hoạt động kinh doanh ghi chép rất nhiều những bài học mà nhờ đó tôi có được thành công như ngày nay. Tôi tin rằng nếu các bạn đem các nguyên tắc, lối tư duy, cách nhìn và các phương pháp được nêu trong cuốn sách này vận dụng vào công việc tổ chức và quản lý kinh doanh của mình, chắc chắn sẽ thu được nhiều lợi ích trong việc cắt giảm chi phí và định hướng kinh doanh hiệu quả hơn. Sau cùng, tôi xin kính chúc tất cả bạn đọc đạt được những mục tiêu cao cả trong cuộc sống một cách bình an. Tất cả nội dung trong cuốn sách “Tay không gây dựng cơ đồ” này đều là những câu chuyện người thật việc thật mà chính bản thân tôi đã trải qua, do đó điều không thể tránh khỏi là nó có cả cái hay lẫn cái không hay đan xen nhau. Vì vậy tôi thành thật xin lỗi nếu có điều nào đó gây khó chịu cho những người có liên quan. Tôi cũng mong nhận được ý kiến phê bình góp ý của tất cả bạn đọc để bổ sung sửa chữa làm cho cuốn sách hoàn thiện hơn. Nếu thấy cuốn sách này bổ ích, mong bạn hãy truyền tay cho người khác cùng đọc để chia sẻ cùng họ. Xin cám ơn. - Vikrom Kromadit Mời các bạn đón đọc Tay Không Gây Dựng Cơ Đồ của tác giả Vikrom Kromadit.