Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Điều Nhỏ Nhặt Tạo Nên Số Phận

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Điều Nhỏ Nhặt Tạo Nên Số Phận của tác giả Andy Andrews. ĐÃ KHI NÀO bạn lâm vào hoàn cảnh khó khăn, vướng trong những vòng xoáy dường như không bao giờ dứt của cuộc sống bế tắc và chẳng thể tìm ra lối thoát? Xuyên suốt các câu chuyện trong cuốn sách này là Jones – một ông lão giản dị nhưng rất mực bí ẩn – người đã làm nên sự thay đổi sau những cuộc gặp gỡ định mệnh. Tài năng dẫn dắt và sự uyên thâm của ông đã biến đổi những con người mất niềm tin và phương hướng trong cuộc sống sang một phận khác – trưởng thành và thành công hơn. Điều nhỏ nhặt tạo nên số phận là những câu chữ tâm đắc được viết ra từ chính những trải nghiệm của Andy và những mảnh đời xung quanh. Và từng dòng, từng trang sẽ mở ra trước mắt chúng ta nhận thức sâu sắc về những điều hiển hiện thường nhật không ngờ trong cuộc sống. Những lúc khốn cùng, chúng ta cần bình tâm nhận thức vấn đề một cách sâu sắc, rồi sẽ tìm được hướng đi riêng cho mình. Hãy đắm chìm trong tác phẩm để cảm nhận, để khám phá thế giới xung quanh ta, một thế giới tưởng chừng như đời thường, gần gũi nhưng lại vô cùng thú vị, và hẳn những câu chuyện kỳ diệu này sẽ phần nào thay đổi cách bạn nhìn cuộc sống. Trân trọng giới thiệu tới độc giả! Hà Nội, tháng 5 năm 2015 CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH ALPHA *** TÔI ĐÃ TÌM THẤY ÔNG Không phải tôi đang tìm kiếm ông, nhưng ông ở đó, thật hơn bao giờ hết. Đầu tiên chỉ là một cái nháy mắt, nhưng rồi ông dừng bước và xoay hẳn người lại, như thể cảm nhận được cái nhìn chằm chằm của tôi. Vào khoảnh khắc chúng tôi nhìn nhau, ông cười, như thể chưa từng bỏ đi bao giờ. Nhưng ông đã bỏ đi. Ông đã biến mất nhiều năm trước không một lời chia tay, và như chính bản thân mình, hoàn cảnh ông ra đi cũng kỳ lạ. Ông rời khỏi cộng đồng dân cư ven biển nhỏ bé này mà không ai nhìn thấy đã là một điều kỳ lạ − dân cư thị trấn nhỏ này chẳng mấy khi bỏ lỡ điều gì – ông còn để lại một tin nhắn bí ẩn bên trong một chiếc vali mòn cũ và bỏ nó giữa một bãi đỗ xe… Vâng, toàn bộ sự việc rất khó hiểu. Đó cũng là chủ đề được bàn tán số một trong thị trấn chúng tôi nhiều tuần liền. Tuy nhiên, cuối cùng, cư dân vùng Orange Beach cũng tin rằng ông đã ra đi mãi mãi và đủ loại đồ tang được bày ra khắp cả thị trấn. Đó không phải là một bi kịch. Chúng tôi đã chịu đựng các cơn bão và những vụ tràn dầu – chúng tôi biết bi kịch là như thế nào. Việc John ra đi giống một nỗi trống vắng mà chúng tôi khó có thể định nghĩa chính xác được. Do đó, thay vì thực hiện điều gì đó cụ thể, chúng tôi trò chuyện không dứt về những gì mình nhớ. Chúng tôi nói về quần áo của ông và tự hỏi tại sao chúng tôi chưa bao giờ thấy ông trong trang phục gì khác ngoài quần jeans và áo thun. Bên cạnh đôi giày bằng da, sự phối hợp đó đại diện cho toàn bộ tủ quần áo của ông. Chúng tôi đã từng nhìn thấy ông tại một lễ cưới, trong các nhà hàng và thậm chí trong nhà thờ một hay hai lần, nhưng chưa bao giờ ông mặc thứ gì khác ngoài quần jeans và áo thun. Không ai biết nơi ông sống hay thậm chí nơi ông ngủ vào buổi tối. Theo như chúng tôi biết, ông chưa bao giờ ngủ nhờ tại nhà ai dù là trong đêm mưa tầm tã. Ông không sở hữu tài sản gì trong hạt này – tất cả chúng tôi đều có bạn làm việc ở toà án, và họ đã giúp kiểm tra. Chúng tôi cũng đồng ý rằng ông không thể có một cái lều trong chiếc vali nhỏ màu nâu lúc nào cũng sát bên mình. Và về chiếc vali đó… cho đến ngày ông biến mất, không ai trong số chúng tôi từng nhìn thấy ông mà không có nó bên cạnh. Đó là một buổi sáng sớm, khi Ted Romano, ông chủ cửa hàng Pack & Mail, tìm thấy túi hành lý cũ kỹ, mòn vẹt gần như trống hoác đó nằm trơ trọi giữa bãi đỗ xe. Tất cả chúng tôi đều có những mẩu chuyện về việc ông vật lộn với chiếc vali qua một cánh cửa hẹp hoặc mang nó theo bên mình khi ông lấy thức ăn từ quầy tự phục vụ, nhưng không ai ngoại trừ ông từng chạm vào túi hành lý đó cho đến ngày ông biến mất. Ngoài ra còn việc liên quan đến tuổi tác. Cả thị trấn hầu như bị ám ảnh với chủ đề ông đã bao nhiêu tuổi. Chúng tôi từ lâu đã kết luận rằng không thể biết chắc chắn tuổi của ông được. Ngay cả vẻ bề ngoài của ông cũng không đưa ra gợi ý nào cả. “Già” là điều sát nhất chúng tôi có thể đoán. Tóc ông hơi dài – không đủ dài để cột đuôi ngựa, nhưng hơi dài – và trắng như cước. Nhưng mái tóc chỉ là điều đầu tiên về ông mà mọi người để ý đến. Đôi mắt của ông là thứ sẽ khiến mọi người phải dừng bước. Lấp lánh như tiếng cười trẻ thơ và mang một sắc màu mà tôi chỉ có thể miêu tả như màu xanh yên bình, gần như phát sáng. Tương phản với màu da nâu và mái tóc màu tuyết trắng, đôi mắt đó sẽ giữ chân bất kỳ ai ông muốn trò chuyện. Và ông thật sự có thể trò chuyện… Không ai trong chúng tôi từng có cơ hội lắng nghe – thực sự lắng nghe – bất kỳ ai như ông trước đây. Không phải là ông nói nhiều. Chỉ là khi ông nói, ngôn từ quá chính xác và ý nghĩa nên ai cũng lắng nghe say sưa. Bạn có thể nghĩ tôi đang khoa trương, nhưng không ít người ở Orange Beach này phải công nhận rằng người đàn ông đó đã thay đổi cuộc sống của họ. Có lẽ, tôi thuộc nhóm đầu tiên trong danh sách dài đó. Nhưng về sau, mối quan hệ của tôi và Jones đã kéo dài hơn bất kỳ ai khác. Ông tìm thấy tôi vào khoảng thời gian cuộc đời tôi gặp nhiều khó khăn, khi ấy tôi hai mươi ba tuổi. Trong nhiều tháng liền, ông là một người bạn khi tôi không có ai bên cạnh và nói với tôi sự thật vào thời điểm mà tôi không muốn nghe. Sau đó ông biến mất trong khoảng gần ba mươi năm. Lần tiếp theo tôi nhìn thấy ông là một vài năm trước, cũng đột ngột y như lần đầu tiên. Tôi đã nhận thấy một điều vô cùng kỳ lạ rằng ông đã rời khỏi thị trấn hàng năm trời. Có lẽ phải hàng thập kỷ. Bạn còn nhớ chuyện chúng tôi không biết ông bao nhiêu tuổi không? Tôi đã trò chuyện với một vài người khá lớn tuổi, và họ nói rằng ông đã ở đó khi họ còn là những đứa trẻ. Và họ cũng thề rằng lúc đó ông đã là một người già rồi. Dĩ nhiên, điều đó không hề có ý nghĩa gì đối với tôi, thậm chí đến tận lúc này. Nhưng phải thừa nhận rằng, trông ông không khác lắm kể từ lần đầu tiên tôi nhìn thấy. Tuổi tác không phải là điều kỳ lạ duy nhất về người đàn ông đó. Màu da của ông cũng là một điều lạ khác, với màu đồng sậm. Hoặc nâu đen. Không ai có thể biết chắc liệu màu da của ông là do di truyền hay bởi dãi dầu dưới ánh nắng mặt trời. Người Mỹ gốc Phi thì cho rằng ông là người da đen, và người Cáp-ca (tức người da trắng) lại cho rằng ông là người da trắng. Tôi thường được chứng kiến những tranh luận đó nên cảm thấy rất thú vị. Thậm chí có lần tôi đã từng hỏi ông về việc đó. Mặc dù câu trả lời của ông không mấy liên quan đến câu hỏi, tôi cũng không lấy làm ngạc nhiên. Tôi yêu người đàn ông đó, và tôi không phải là người duy nhất. Và tôi cũng vừa nói với bạn, ông đã khiến cuộc đời chúng tôi khác biệt nhiều đến thế nào. Nhưng sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến điều này: cũng có người trong thị trấn nghĩ rằng người đàn ông đó điên khùng. Tất cả đều kỳ lạ… ngay cả việc bị một số kẻ đem ra trêu chọc và làm trò hề, nhưng ông chỉ cười và tiếp nhận những lời đàm tiếu đó. Một vài người trong thị trấn thậm chí còn gọi ông bằng những biệt danh. Còn tôi? Tôi chỉ gọi ông là Jones. Không phải là ông Jones. Chỉ là Jones. *** Review Điều nhỏ nhặt tạo nên số phận là một cuốn sách hay và giàu ý nghĩa, được viết bởi Andy Andrews. Cuốn sách kể về những câu chuyện về Jones, một ông lão bí ẩn đã có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời của nhiều người. Jones là một người đàn ông giản dị nhưng rất mực uyên thâm. Ông có thể nhìn thấu tâm can của con người và giúp họ tìm thấy con đường đúng đắn trong cuộc sống. Những câu chuyện về Jones là những bài học quý giá về cuộc sống, về cách đối nhân xử thế và cách vượt qua khó khăn. Cuốn sách được chia thành 10 chương, mỗi chương là một câu chuyện khác nhau. Câu chuyện đầu tiên kể về chính tác giả, Andy Andrews, và mối quan hệ của ông với Jones. Andy là một thanh niên trẻ đang gặp khó khăn trong cuộc sống, và Jones đã giúp ông tìm thấy mục đích sống. Những chương tiếp theo kể về những người khác đã được Jones giúp đỡ. Có người đã vượt qua những tổn thương trong quá khứ, có người đã tìm thấy tình yêu đích thực, và có người đã đạt được thành công trong sự nghiệp. Những câu chuyện trong cuốn sách rất cảm động và đầy ý nghĩa. Chúng cho chúng ta thấy rằng, ngay cả những điều nhỏ nhặt nhất cũng có thể thay đổi cuộc đời của chúng ta. Điểm nổi bật của cuốn sách: Những câu chuyện cảm động và đầy ý nghĩa Những bài học quý giá về cuộc sống Cách viết cuốn hút và hấp dẫn Đánh giá chung: Điều nhỏ nhặt tạo nên số phận là một cuốn sách hay và đáng đọc. Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những bài học quý giá về cuộc sống và giúp bạn thay đổi cách nhìn nhận về thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách Điều Nhỏ Nhặt Tạo Nên Số Phận của tác giả Andy Andrews.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh - Nassim Nicholas Taleb
Trong Khả năng cải thiện nghịch cảnh, Taleb khẳng định vai trò quan trọng của tính bất định, làm cho nó trở nên đáng mong đợi, thậm chí cần thiết, và đề xuất rằng sự việc nên được xây dựng sao cho có khả năng cải thiện nghịch cảnh. Khả năng cải thiện nghịch cảnh không chỉ là sự mạnh mẽ hay khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi chỉ có thể chịu đựng những cú sốc và trở về nguyên trạng; trong khi khả năng cải thiện nghịch cảnh nghĩa là trở nên ngày càng tốt hơn. Quyển sách này bao trùm vấn đề phát minh đổi mới thông qua thử nghiệm và sửa sai, các quyết định trong đời sống, chính trị, quy hoạch đô thị, chiến tranh, tài chính cá nhân, các hệ thống kinh tế, và y khoa. *** Nassim Nicholas Taleb sinh năm 1960 tại Liban, là một nhà viết tiểu luận, học giả, nhà thống kê. The Black Swan (Thiên Nga Đen)là cuốn sách nổi tiếng của ông ra đời năm 2007.   Mời các bạn đón đọc Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống - Nhã Nam tuyển chọn
Bộ sách Thông điệp yêu thương lan truyền những cảm hứng về cuộc sống, về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình, tình thầy trò… thông qua những mẩu chuyện, những câu nói giúp bạn sống lạc quan, yêu đời, hạnh phúc và thành công hơn. Hi vọng mỗi cuốn sách sẽ là quà tặng ý nghĩa, là người bạn đồng hành cùng bạn đọc trong cuộc sống. Cuốn sách Luôn mỉm cười với cuộc sống gồm những câu văn, câu chuyện ngắn đầy yêu thương giúp bạn thật sự lạc quan trong cuộc sống dù cuộc sống của bạn không ngừng với những bộn bề lo toan… Mời các bạn đón đọc Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống của tác giả Nhã Nam tuyển chọn.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3
Quyển một “Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” đã giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về Sáng tạo học và Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM). Quyển hai “Thế giới bên trong con người sáng tạo” và quyển ba “Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống” có mục đích trình bày các kiến thức, được rút ra một cách chọn lọc từ những khoa học có đối tượng nghiên cứu là tư duy, hoặc liên quan, hỗ trợ hoạt động tư duy. Các kiến thức này đóng vai trò các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM, theo nghĩa, chúng giúp bạn đọc hiểu cơ sở khoa học của PPLSTVĐM và sử dụng các công cụ có trong PPLSTVĐM (sẽ trình bày từ quyển bốn trở đi) một cách chủ động với hiệu quả cao. Như bạn đọc đã biết, quyển hai dành nói về tâm lý học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, nhằm giúp bạn đọc biết, hiểu và sử dụng những hiện tượng phong phú thuộc thế giới bên trong của mình tốt hơn. Từ đó, bạn đọc có thể thấy rằng, cần có những nỗ lực cá nhân hướng đến phát triển khả năng điều khiển thế giới bên trong cũng như các hành động của chính mình, đáp ứng nhu cầu phát triển các nhân cách sáng tạo. Quyển ba này trình bày các kiến thức lấy từ lôgích học hình thức, phép biện chứng duy vật và khoa học hệ thống. Theo chủ quan của người viết, cùng với quyển hai, đây là những kiến thức cần thiết nhất và phục vụ tốt nhất trong tư cách là các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM. Giống như trong quyển hai, những gì trình bày trong quyển ba này là kết quả người viết được học, tự học, nghiên cứu và sử dụng chúng. Bạn đọc nên xem những gì viết ở đây chỉ là tối thiểu, mang tính chủ quan, do vậy, cần tự suy xét, đánh giá và tìm hiểu sâu, rộng thêm các kiến thức liên quan thông qua những nguồn khác. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Vào thế kỷ 17, 18, cơ học cổ điển của Galileo, Newton... đạt được nhiều thành tựu lớn cả trong nhận thức thế giới lẫn giải quyết các bài toán thực tiễn đề ra, tạo nên sự phát triển xã hội mạnh mẽ. Có lẽ vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa các luận điểm cơ học cổ điển thành thế giới quan (chủ nghĩa) cơ giới: Giải thích sự phát triển của tự nhiên và xã hội bằng các quy luật của hình thức cơ học vận động vật chất. Những quy luật đó được xem là phổ biến và đúng cho tất cả các hình thức vận động vật chất. Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa cơ giới là sự đánh đồng một cách trừu tượng hình thức vận động vật chất bậc cao với hình thức vận động vật chất bậc thấp: Ví dụ, hình thức xã hội với sinh học; sinh học với hóa học hoặc/và vật lý... cho đến cơ học. Tuy có những hạn chế, thế giới quan cơ giới là sự tiến bộ vào thời kỳ đó và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, triết học. Các kiến thức cơ học giúp người ta hiểu, giải thích được nhiều hiện tượng tự nhiên, thoát khỏi các quan điểm thần bí, tôn giáo giáo điều. Việc dùng các quy luật cơ học ra ngoài phạm vi áp dụng của chúng (xem mục nhỏ 6.5.4. Tính ì tâm lý do ngoại suy ra ngoài phạm vi áp dụng của quyển hai) và tuyệt đối hóa chúng tạo nên bức tranh cơ giới về thế giới: Toàn bộ vũ trụ (từ nguyên tử đến các hành tinh) là hệ cơ học khép kín, bao gồm những yếu tố không thay đổi mà sự vận động của chúng tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển. Tư duy tương ứng với mức phát triển nói trên của khoa học chính là tư duy siêu hình. Sự phát triển tiếp theo của khoa học cho thấy, các cố gắng dựa trên các quy luật cơ học cổ điển để giải thích các hiện tượng điện–từ, hóa học, sinh học, đặc biệt, các hiện tượng xã hội đã hoàn toàn thất bại. Các thành tựu khoa học tự nhiên, xã hội của thế kỷ 19, 20 đã phá vỡ bức tranh cơ giới về thế giới, cũng như cách tư duy siêu hình. Thay thế cho cách tiếp cận cơ giới (Mechanistic Approach), được dùng phổ biến từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, là cách tiếp cận hệ thống (Systems Approach). Từ giữa thế kỷ 20, cách tiếp cận hệ thống được dùng rộng rãi trong nghiên cứu các đối tượng phát triển phức tạp như các hệ thống sinh học tự tổ chức, tâm lý, xã hội, các hệ kỹ thuật lớn, hệ thống “người và máy móc”... Cách tiếp cận hệ thống có các nhiệm vụ: 1) Nghiên cứu các phương tiện mô tả, biểu diễn các đối tượng được nghiên cứu hoặc được thiết kế chế tạo như là các hệ thống; 2) Xây dựng các mô hình khái quát hệ thống, các mô hình về các loại hệ thống và các tính chất của hệ thống; 3) Nghiên cứu cấu trúc của các lý thuyết về hệ thống cùng các quan điểm, phương pháp hệ thống; 4) Là cơ sở lý thuyết và phương pháp luận của phân tích hệ thống. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3 của tác giả Phan Dũng.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 2 - Phan Dũng
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”. “Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”. “Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Chương 5: Từ nhu cầu đến hành động và ngược lại trình bày những yếu tố tương đối độc lập, cần lưu ý nhất, như nhu cầu, xúc cảm, các thói quen tự nguyện, tư duy thuộc thế giới bên trong và hành động của mỗi cá nhân, cùng các mối liên kết giữa chúng. Chương 6: Tư duy sáng tạo: Nhìn theo góc độ thông tin – tâm lý tập trung chi tiết hóa quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định của cá nhân. Các hiện tượng thông tin – tâm lý đóng vai trò chủ đạo trong tư duy sáng tạo được trình bày cùng với các lời khuyên về cách sử dụng chúng sao cho có hiệu quả. Không ít người hiện nay để cho suy nghĩ nói riêng, các hoạt động của thế giới bên trong con nguời mình nói chung, diễn ra một cách tự nhiên và không để ý đến chúng. Do vậy, nhiều phép thử sai như là kết quả của các hành động cá nhân đã không được những người đó tìm hiểu, giải thích theo quan hệ nguyên nhân–kết quả một cách khoa học. Những kiến thức của Chương 5 và 6 giúp cá nhân không chỉ có ý thức một cách tương đối đầy đủ về các hoạt động thuộc thế giới bên trong mà còn giúp cá nhân “lắng nghe” và “suy nghĩ” về chúng, tức là, về chính bản thân mình. Điều này có nghĩa, cá nhân cần dành thời gian, công sức tự hỏi, tự quan sát, tự theo dõi, tự trả lời và tự rút kinh nghiệm để phát huy các mặt mạnh, hạn chế các mặt yếu của các hiện tượng thuộc thế giới bên trong con người. Chương 7 này có mục đích phát triển tiếp những gì đã trình bày, theo hướng thảo luận nhằm trả lời câu hỏi: “Cần làm những gì và làm như thế nào để có thể điều khiển được hành động và thế giới bên trong của con người sáng tạo?”. Ở đây, người viết không có tham vọng trả lời trọn vẹn câu hỏi nói trên vì đấy là công việc phức tạp và của rất nhiều người. Do vậy, bạn đọc nên quan niệm Chương 7 này giống như sự cung cấp các thông tin, chia sẻ các kiến thức để chúng ta còn quay trở lại thảo luận tiếp trong tương lai, khi có dịp thuận tiện. Đi vào cụ thể, Chương 7 sẽ trình bày một số ý tưởng cơ bản chung của một bộ môn khoa học, gọi là điều khiển học. Có một loạt từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với “điều khiển” như quản lý, quản trị, điều hành, lãnh đạo, dẫn dắt, điều chỉnh, lái, lèo lái, kiểm soát... Trừ những trường hợp cần nhấn mạnh, nói chung, người viết sẽ dùng từ “điều khiển”. Tiếp theo, Chương 7 sẽ trình bày mối quan hệ, tác động qua lại của cá nhân và môi trường (hiểu theo nghĩa rộng nhất), có tính đến những kế thừa lịch sử phát triển tự nhiên, xã hội. Để đối phó với những thách thức đến từ môi trường, con người hiện đại có nhu cầu thay đổi thế giới bên trong của chính mình, hiểu theo nghĩa, phải chủ động điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong, một mặt, cho phù hợp với các thay đổi môi trường. Mặt khác, điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong để điều khiển quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định, tạo ra các hành động biến đổi môi trường, phù hợp với các quy luật phát triển khách quan. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 2 của tác giả Phan Dũng.