Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuốn Sách Tiên Tri

"Trong cuốn tiểu thuyết tuyệt vời này, một Erika Swyler đầy tài hoa  đã xuyên suốt qua nhiều thế hệ và nhiều thế kỷ, dịch chuyển một cách khéo léo và dệt các mạch truyện thành một tấm thảm tuyệt đẹp. Tôi ngay tức khắc hòa mình vào trong câu chuyện gia đình đầy thủ đoạn và bất hòa. Văn chương của Swyler hoa mỹ và thanh tao tới mức vô cùng dễ hiểu, tỏa sáng hệt như giọng nói đặc biệt của bà - cách miêu tả của bà về biển và vẻ hung hãn của nó có thể sánh ngang với Annie Proulx trong tác phẩm Shipping News. Tôi thực sự yêu thích cuốn sách này và đã ngấu nghiến đọc một mạch từ đầu đến cuối"  - Trích lời Sara Gruen, tác giả cuốn Water for Elephants; At the Water's Edge - *** Văn học giả tưởng, ma mị là một thể loại cực kỳ thu hút độc giả. Mời các bạn đón đọc review Cuốn sách tiên tri – một câu chuyện cực hot trong thể loại trên. “Trong khi Peabody vẽ và mơ ước, hàng xe vẫn đi theo con đường quanh co chạy theo chiều dài Catawba. Trục xe rên rỉ phản kháng, những cánh cửa xe đóng sập lại và bị kẹt, không khí ẩm ướt khác thường bao trùm lên cả gánh xiếc khi họ mù quáng đi vào trong sương mù.” Cuốn sách tiên tri có cái ma mị của ‘Rạp xiếc đêm’, cũng có chút bất cần tuổi trẻ của ‘Những thành phố giấy’. Cái ma mị bí ẩn trong hình ảnh ngôi nhà bên vách đá gắn với những kỉ niệm, hiệu sách cũ, lửa trại, những lá bài tarot, gánh xiếc, người cá, cuốn sách cổ, những cái chết.. tất cả góp phần tạo nên một không gian truyện bí ẩn và cuốn hút. Đan xen vào đó là những khao khát, ước mơ và cả tình yêu của những con người trẻ tuổi, những con người mang trong mình những đam mê nồng cháy và cảm xúc bùng nổ khi đối diện với người họ thương yêu. Bằng cách kể chuyện song song ở hai khoảng thời gian hiện tại và quá khứ, tác giả như đang thì thầm những bí mật về những con người xa lạ hóa ra lại có mối liên hệ gắn bó và bị thu hút về phía nhau vậy. Tớ rất thích cách viết gắn kết những con người tưởng chừng không chút liên quan, mà qua ngòi bút của tác giả, sợi dây liên kết giữa họ rõ ràng hơn và kì diệu hơn rất nhiều. Không chỉ có vậy, đây còn là câu chuyện về tình cảm gia đình gắn bó, những kỉ niệm đã qua vẫn còn lưu lại trong kí ức tuổi thơ của những kẻ trưởng thành cô đơn, hay những day dứt về sự bồng bột và những hành động trong quá khứ vẫn xuất hiện trong tâm trí họ. Liệu người thân hay chính bản thân họ có dám đối diện với những sai lầm ngày còn trẻ, có thể bằng lòng tha thứ hay không? Bên cạnh đó thì đôi lúc mạch truyện cũng hơi chậm, cảm giác như tác giả cũng đang băn khoăn tìm hướng đi cho nhân vật vậy. Tớ cũng không thích vài chi tiết tình cảm người lớn trong cuốn này, cứ thấy cái gì đó không hợp câu chuyện lắm đâu. Chung lại thì đây là một cuốn khá ổn, nếu anh em muốn thử một cuốn bí ẩn ma mị mà không thiếu đi sự sâu lắng của tình cảm con người thì tớ nghĩ đây sẽ là một câu chuyện phù hợp đó. Cuốn sách tiên tri xoay quanh Simon Watson, anh chàng thủ thư vừa mất việc, rơi vào chán chường vì mất việc đồng nghĩa với không có tiền sửa sang lại căn nhà thơ ấu với bao kỉ niệm cùng bố mẹ và em gái Enola. Một ngày, Simon nhận được cuốn sách cổ từ chủ hiệu sách Churchwarry&son mà trong đó, anh chợt nhận ra những mối liên hệ bất ngờ và một sự trùng hợp kì lạ về những con người đặc biệt từ nhiều năm về trước. Trích dẫn Cuốn sách tiên tri: “Trong khi Amos mơ những giấc mơ của một Cậu bé Rừng xanh – có những đầm lầy dồi dào muông thú, có những đám rong rêu mềm mại để anh ngủ ngon lành trên đó, có sự sảng khoái của những dòng sông mát lạnh áp vào da thịt, có một cô gái đáng yêu trong nước, mái tóc bồng bềnh xung quanh như thảm cỏ – thì những giấc mơ của Evangeline lại u ám hơn nhiều. Cô mơ đến việc bò ra khỏi ngôi nhà màu xám ở Kromeskill, đầu gối đẫm máu, bùn đóng cứng lại cùng với lá thông. Lúc nào bà cô cũng đi theo cô, khuôn mặt tím tái, cầu xin lòng nhân từ và sự cứu giúp. Tại sao? Tại sao? Bà rất yêu cháu. Gánh xiếc đang rời Philadelphia để đến những ngôi nhà gạch có đầu nhọn ở New Castle thì bầu trời nổi gió và mưa trút xuống đe doạ sẽ cuốn trôi cả bầy thú. Con ngựa nhỏ đá chân và lồng lên bên trong xe ngựa của mình, con lạc đà rít lên như một đứa trẻ bị thương. Lo sợ rằng việc cố gắng đi tiếp sẽ khiến chúng bị sa lầy, Peabody lệnh cho tất cả các cỗ xe dừng lại cho đến khi mưa tạnh. Màn đêm buông xuống với hơi nóng dày đặc buộc mọi người phải lên giường đi ngủ. Không khí nặng nề với những đám mây mưa, bầu trời như một quả cân kéo Evangeline xuống như bà của cô đã từng làm. Cô ngủ một giấc ngủ bồn chồn, không yên vì tội lỗi.” Với Cuốn sách tiên tri, tớ chấm 4/5 điểm. *** Ngôi nhà cheo leo bên rìa dốc thẳng đứng trông thật nguy hiểm. Cơn bão đêm qua đã cày tung đất, khuấy đảo vùng biển, khiến bãi biển đầy rẫy chai lọ, rong biển, mai cua hình móng ngựa. Mảnh đất tôi đã sống cả cuộc đời này không chắc có thể trụ qua được mùa bão. Eo biển Long Island rải rác tàn tích của những ngôi nhà và những mảnh đời, tất cả bị chôn vùi trong cái dạ dày tham lam của cát. Nó là một kẻ chết đói. Các biện pháp như xây vách ngăn, tôn nền cao đều không có. Sự thờ ơ của bố đã khiến tôi phải gánh chịu một vấn đề không thể giải quyết, một vấn đề quá tốn kém với một thủ thư ở Napawset. Nhưng, những thủ thư chúng tôi nổi tiếng là có tài xoay xở. Tôi đi về phía những bậc thang gỗ dẫn xuống vách đá. Chân tôi đau nhói ở nơi đá găm vào. Ở bờ biển Bắc này, có một vài thứ cần thiết hơn là bàn chân chai cứng. Vào mùa hè, tôi và em gái Enola thường chạy chân đất cho đến khi vỉa hè nóng ran đến nỗi ngón chân chúng tôi lún xuống nhựa đường. Người ngoài không thể đi bộ trên những bờ biển thế này. Frank McAvoy vẫy tay với tôi từ dưới chân bậc thang trước khi quay ra nhìn chằm chằm vào vách đá. Ông mang theo con thuyền nhỏ xinh xắn, trông như thể được đục đẽo từ một tấm gỗ duy nhất. Frank McAvoy là thợ đóng thuyền gỗ và là một người tốt bụng, đã quen biết gia đình tôi trước cả khi tôi chào đời. Khi cười, khuôn mặt ông hằn lên những nếp nhăn loang lổ của một người Ireland bao năm dãi dầm mưa nắng; cặp lông mày cong lên trên và mất hút dưới vành mũ cũ kỹ. Nếu bố tôi sống đến sáu mươi tuổi, có thể trông ông sẽ giống như Frank, với hàm răng vàng khè và những vết tàn nhang ửng đỏ. Nhìn vào Frank, tôi lại nhớ đến tôi hồi trẻ thơ, đang bò giữa những thanh củi được xếp để đốt lửa trại, bàn tay to lớn của ông kéo tôi khỏi một khúc gỗ đang lung lay. Ông khiến tôi nhớ lại những kỷ niệm về bố, khi ông đang loanh quanh với món lợn quay, ngô nướng, mùi vỏ khô cháy thành than và mùi lụa cháy, trong khi Frank tiêu khiển cho chúng tôi bằng những câu chuyện đi câu. Frank có biệt tài nói dối như thần, đó là điều rất rõ ràng. Mẹ tôi và vợ ông ấy giục ông kể tiếp, tiếng cười của họ khiến cho lũ mòng biển cũng phải khiếp sợ. Hai người họ giờ đã không còn nữa. Tôi nhìn Frank và thấy bố mẹ tôi, tưởng tượng rằng ông không thể nhìn tôi mà không thấy những người bạn đã mất. - Có vẻ như cơn bão đã ảnh hưởng nhiều đến cháu đó. - Ông nói. - Cháu biết. Cháu mất một mét rưỡi. - Một mét rưỡi là đã nói giảm nói tránh rồi. - Bác đã bảo bố cháu phải dựng kè, trồng thêm cây. - Nhà ông McAvoy cách nhà tôi vài trăm mét về phía tây, nằm xa biển, với một cái dốc đứng có bậc thang và cây trồng, được thiết kế để bảo vệ ngôi nhà trong bất cứ hiểm nguy nào. - Bố cháu không bao giờ biết lắng nghe cả. - Đúng thế. Ngoài ra thì một hay hai miếng che trên kè có lẽ đã có thể cứu cháu khỏi một biển rắc rối. - Bác biết bố cháu thế nào mà. - Sau đó là một khoảng lặng đầy cam chịu. Frank hít không khí qua kẽ răng, tạo ra một tiếng huýt sáo khô khốc. - Bác cho rằng bố cháu nghĩ ông ấy có nhiều thời gian hơn thế để sửa chữa mọi thứ. - Có lẽ vậy. - Tôi nói. Ai mà biết được bố tôi đã nghĩ gì. - Dù vậy, mấy năm nay, nước đã lên cao. - Cháu biết, cháu không thể để việc này tiếp diễn lâu hơn được nữa. Nếu bác quen một ai đó mà bác tin tưởng, cháu sẽ rất cảm kích nếu được bác cho biết tên của một nhà thầu. - Chắc chắn rồi. Bác có thể gửi người đến chỗ cháu. - Ông gãi đầu - Nhưng bác không muốn nói dối, tiền công sẽ không rẻ đâu. - Không còn gì khác nữa phải không bác? - Không, bác nghĩ là không. - Cháu có thể xem xét bán một số thứ. - Thật buồn khi thấy cháu làm việc đó. - Vầng trán Frank nhăn lại, khiến chiếc mũ sụp xuống. - Đất đai còn có chút giá trị ngay cả khi ngôi nhà biến mất. - Hãy suy nghĩ thêm. Frank biết vấn đề tài chính eo hẹp của tôi. Cô con gái Alice của ông cũng làm việc tại thư viện. Tóc hoe đỏ và xinh xắn, Alice có nụ cười của bố và cô ấy rất biết cách lấy lòng bọn trẻ. Alice biết cách giao thiệp với mọi người hơn tôi, đó là lý do tại sao cô ấy làm nhiệm vụ thiết lập chương trình, còn tôi làm công việc tra cứu. Nhưng chúng tôi không ở đây để nói về Alice, hay tình trạng nguy hiểm của căn nhà. Chúng tôi ở đây để làm công việc chúng tôi đã làm suốt một thập kỷ qua, thả phao để cách ly một vùng ngập nước. Cơn bão đủ mạnh để kéo phao và mấu neo vào bờ, để lại một đống những dây xích han gỉ và dây thừng bện màu cam, san sát những hàu. Tôi thấy hơi ngạc nhiên khi bị mất đất. - Chúng ta đi chứ? - Tôi hỏi. - Tại sao không? Thời gian không còn dài nữa. Tôi cởi áo, nhấc dây xích và dây thừng lên một bên vai, rồi chầm chậm bước xuống nước. - Có chắc là cháu không cần giúp một tay không? - Frank hỏi. Con thuyền đã chạm mặt cát khi ông đẩy nó xuống nước. - Dạ không, cảm ơn bác, cháu làm được. - Tôi có thể tự mình làm việc này, nhưng có Frank đi theo vẫn an toàn hơn. Ông ở đây không phải vì tôi, mà là vì cái lý do đã khiến tôi làm việc này vào mỗi năm: để tưởng nhớ mẹ tôi, Paulina, bà đã chết đuối ở vùng nước này. Eo biển thật lạnh lẽo vào tháng 6, bước xuống tôi hòa mình vào nó, bàn chân tôi quắp vào nhũng hòn đá bám đầy tảo biển. Dây xích có móc neo khiến tôi chậm lại, nhưng Frank vẫn duy trì tốc độ, xoay tròn mái chèo. Tôi bước đi cho đến khi nước ngập đến ngực, rồi đến cổ. Ngay trước khi lặn xuống, tôi thở hết ra, rồi hít vào, như mẹ tôi đã hướng dẫn tôi trong một buổi sáng ấm áp vào cuối tháng 7, như tôi đã hướng dẫn em tôi. Mẹo để nín thở là chịu khát. “Thở một hơi thật nhanh và mạnh,” mẹ tôi nói, giọng bà êm ái bên tai. Ở vùng nước nông, mái tóc đen dài của mẹ trôi quanh chúng tôi tựa một dòng sông. Hồi đó tôi năm tuổi. Bà ấn bụng tôi cho đến khi các cơ thắt chặt vào, rốn gần chạm xương sống. Bà đẩy mạnh, móng tay sắc nhọn chọc vào tôi, “Bây giờ con hãy hít vào, nhanh. Nhanh, nhanh, nhanh. Xương sườn căng ra. Nghĩ rộng ra.” Bà hít vào, lồng ngực mở rộng, những chiếc xương mảnh như xương chim bành ra cho đến khi bụng bà tròn như cái thúng. Bộ áo tắm của bà là một ánh sáng trắng rạng rỡ trong nước. Tôi nheo mắt nhìn. Bà xỉa một ngón tay vào xương ức tôi. “Con đang thở ra đấy, Simon. Nếu con thở ra, con sẽ chết đuối.” Một cái chạm khẽ khàng. Một nụ cười mỉm. Mẹ bảo tôi hãy tưởng tượng rằng tôi đang khát, cổ họng khô khốc và trống rỗng, rồi uống không khí vào. “Hãy thư giãn xương cốt và uống vào thật nhiều, thật sâu.” Khi bụng tôi đã tròn như chiếc trống cái, bà thì thầm, “Tuyệt, tuyệt. Bây giờ chúng ta lặn xuống nào.” Lúc này tôi lặn xuống. Những tia nắng mềm mại xuyên xuống quanh bóng chiếc thuyền của Frank. Thỉnh thoảng, tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi, đang trôi giạt trong làn nước, và thỉnh thoảng tôi thoáng thấy bà, phía sau lớp rong biển, mái tóc đen hòa lẫn với tảo bẹ. Hơi thở của tôi biến thành một màn sương đẹp đẽ bao phủ lên làn da. Mẹ tôi là một diễn viên ở rạp xiếc và lễ hội, người bói bài tarot, trợ lý ảo thuật gia, và người cá, chuyên sống bằng cách nín thở. Bà dạy tôi bơi như cá, và bà khiến bố tôi mỉm cười. Bà thường xuyên biến mất. Bà thường bỏ việc hoặc làm đồng thời hai hay ba việc một lúc. Bà ở khách sạn chỉ để thử những chiếc giường khác nhau xem chúng như thế nào. Bố tôi, Daniel, là một thợ máy và là một người chồng chung thủy. Ông ở nhà, mỉm cười, đợi vợ trở về, đợi bà gọi ông là anh yêu. Simon, con yêu. Bà cũng gọi tôi như vậy. Tôi lên bảy tuổi vào ngày bà gieo mình xuống nước. Tôi cố quên, nhưng nó đã trở thành kỷ niệm thân thương nhất của tôi về bà. Bà đã bỏ chúng tôi sau khi chuẩn bị xong bữa sáng. Trứng luộc chín phải được đập vào cạnh đĩa và phải dùng móng tay để bóc vỏ. Tôi đập và bóc trứng cho em gái, cắt chúng thành miếng cho vừa những ngón tay nhỏ xíu của đứa trẻ mới chập chững biết đi. Có bánh mì nướng khô và nước cam đi kèm. Những giờ đầu điên của mùa hè khiến bóng tối trở nên tối hơn, khuôn mặt trở nên sáng hơn và chỗ hõm trở nên góc cạnh hơn. Mẹ Paulina là một cảnh tượng đẹp trong sáng hôm đó, vô cùng duyên dáng, không ai sánh bằng. Bố tôi đang làm việc ở nhà máy. Chỉ có mẹ ở nhà với chúng tôi, quan sát, và gật đầu khi tôi cắt trứng cho Enola. - Con là một người anh tốt, Simon à. Con hãy trông chừng Enola. Con bé sẽ muốn chạy trốn khỏi con. Hãy hứa với mẹ rằng con sẽ không để em đi. - Con hứa. - Con là một chàng trai tuyệt vời, phải không? Mẹ không bao giờ trông chờ điều đó. Mẹ không trông chờ điều đó ở con một chút nào. Quả lắc trên chiếc đồng hồ chim cu tích tắc qua lại. Bà gõ một gót giày lên tấm vải son lót sàn nhà, yên lặng. Enola bôi đầy trứng và mảnh bánh mì vụn lên người. Tôi vật lộn với việc vừa ăn sáng, vừa giữ cho em gái tôi sạch sẽ. Một lát sau, mẹ đứng dậy và vuốt thẳng vạt trước của chiếc váy mùa hè màu vàng bà đang mặc rồi nói: - Gặp lại con sau nhé, Simon! Tạm biệt Enola! Bà hôn lên má Enola và áp môi lên đỉnh đầu tôi. Bà vẫy tay tạm biệt, mỉm cười và đi làm, tôi đã nghĩ như vậy. Làm sao tôi có thể biết được lời tạm biệt đó lại chính là lời vĩnh biệt. Những suy nghĩ khó khăn chất chứa trong những lời nói nhỏ bé. Khi bà quan sát tôi trong buổi sáng hôm đó, bà biết rằng tôi sẽ chăm sóc cho Enola. Bà biết chúng tôi không thể theo bà. Đó là thời gian duy nhất bà có thể đi. Không lâu sau đó, khi tôi và Alice McAvoy đang đua xe trên chiếc thảm trải sàn phòng khách nhà cô ấy, mẹ tôi đã trẫm mình xuống eo biển. Tôi lao xuống nước, đẩy nước bằng ngực, thọc chân sâu xuống. Sau khi đã lặn thêm vài mét nữa, tôi thả một cái neo, nó rơi xuống với một tiếng vang nghẹt lại. Tôi nhìn vào bóng của chiếc thuyền. Frank đang lo lắng. Mái chèo đập xuống mặt nước. Hít thở dưới nước sẽ như thế nào nhỉ? Tôi tưởng tượng khuôn mặt méo mó của mẹ tôi, nhưng vẫn tiếp tục đi cho đến khi tôi có thể thả một cái neo khác, và rồi tôi đẩy hết không khí ra khỏi phổi và bước về phía bờ, cố gắng ở phía dưới lâu nhất có thể - đó là một trò chơi mà tôi và Enola đã thường chơi. Tôi chỉ bơi khi không thể giữ nổi thăng bằng để bước đi, sau đó cánh tay tôi di chuyển thành những sải bơi ổn định, cắt qua eo biển như một trong những chiếc thuyền của Frank. Khi nước vừa đủ sâu để ngập đầu, tôi lại chạm xuống dưới đáy. Điều tiếp theo tôi làm là vì Frank. “Chậm thôi, Simon. Hãy mở mắt ra, ngay cả khi con thấy cay mắt. Không được chớp mắt.” Mẹ bảo tôi. Muối làm cho mắt đau nhói nhưng mẹ không bao giờ chớp mắt, không chớp mắt trong nước, không chớp mắt khi không khí bắt đầu đập vào mắt mẹ. Bà đang di chuyển như một bức tượng. “Đừng có thở, ngay cả khi mũi con đã ở phía trên mặt nước. Nếu con hít thở quá nhanh, miệng con sẽ đầy muối. Hãy đợi,” Mẹ nói, kéo dài từ này như một lời hứa. “Đợi cho đến khi miệng con đã lên khỏi mặt nước, nhưng hãy hít thở bằng mũi, hay trông như con bị mệt. Con không bao giờ có thể bị mệt. Rồi con mỉm cười.” Dù miệng nhỏ và môi mỏng nhưng nụ cười của bà luôn căng rộng ra như làn nước. Mẹ chỉ cho tôi cách cúi chào đúng đắn: cánh tay giơ cao, ngực ưỡn ra, như một con sếu chuẩn bị bay. “Đám đông thích những người rất nhỏ và rất cao. Đừng gập cong người như một diễn viên, điều đó sẽ ảnh hưởng đến con. Hãy để họ nghĩ rằng con cao hơn thực chất của mình. Mẹ mỉm cười với tôi khi đang giơ cao cánh tay bà. “Và con sẽ rất cao, Simon à.” Một cái gật đầu căng hết cỡ tới những khán giả vô hình. “Và con hãy thật duyên dáng, Hãy luôn luôn duyên dáng.” Tôi không cúi chào, không phải vì Frank. Lần cuối cùng tôi cúi chào là khi tôi dạy Enola và muối đâm vào mắt chúng tôi đau đến nỗi trông chúng tôi như thể mới đánh nhau. Dù vậy, tôi vẫn mỉm cười và hít một hơi thật sâu qua mũi, để cho xương sườn giãn ra và lồng ngực căng đầy. - Bác nghĩ là bác sẽ phải theo sau cháu. - Frank gọi. - Cháu ở dưới bao lâu rồi bác? Ông nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay bằng dây da đã rạn và thở ra: - Chín phút. - Mẹ cháu có thể làm được mười một phút. - Tôi giũ nước khỏi tóc, đập đập hai lần để nước ra khỏi tai. - Không bao giờ hiểu được điều đó. - Frank thốt lên khi lôi mái chèo ra khỏi khóa. Chúng kêu loảng xoảng khi ông ném chúng vào thuyền. Có một câu hỏi mà cả hai chúng tôi đều không hỏi: mất bao lâu để một người nín thở bị chết đuối? Khi tôi mặc áo, nó đầy cát, đó là hậu quả của việc sống ở bờ biển, cát luôn có trong tóc, dưới móng chân, trong những nếp khăn trải giường. Frank đi đến sau tôi, thở hổn hển vì kéo thuyền. - Lẽ ra bác nên để cháu giúp việc đó. Ông vỗ lưng tôi: - Nếu thỉnh thoảng bác không vận động thì bác sẽ chỉ có già đi thôi. Chúng tôi nói chuyện phiếm về mọi thứ ở bến du thuyền. Ông phàn nàn về sự thịnh hành của những chiếc thuyền bằng sợi thủy tinh, cả hai chúng tôi đều lan man về Windmind, chiếc thuyền đua mà ông và bố tôi cùng sở hữu. Sau khi mẹ tôi chết đuối, bố tôi chẳng nói chẳng rằng đã bán luôn chiếc thuyền đó đi. Ông thật tàn nhẫn khi làm vậy với Frank, nhưng tôi cho rằng Frank đã có thể mua được nó ngay tức khắc nếu ông muốn vậy. Chúng tôi tránh không nói chuyện về ngôi nhà, dù rõ ràng là ông buồn rầu với ý tưởng bán nó đi. Tôi cũng không muốn bán nó. Thế nên chúng tôi cùng trao đổi những lời nhận xét hài hước về Alice. Tôi nói tôi đang để ý đến cô ấy, dù điều đó là không cần thiết. - Thế còn em gái cháu thì sao? Nó đã ổn định ở đâu chưa? - Cháu không rõ. Thật ra mà nói, cháu không biết liệu nó có từng muốn vậy không. Frank khẽ mỉm cười. Cả hai chúng tôi đều nghĩ về điều đó: Enola cũng hoạt bát như mẹ tôi. - Vẫn đang bói bài tarot à? -Nó đang xoay sở với công việc đó. - Em tôi đã bỏ đi cùng với một gánh xiếc. Khi nói ra điều này, chúng tôi đã kết thúc cuộc hội thoại tất yếu. Chúng tôi lau khô và nhấc chiếc thuyền nhẹ trở lại cái kè. - Bác sẽ lên chứ? Cháu sẽ đi bộ về với bác. - Tôi nói. - Hôm nay trời thật đẹp. Bác nghĩ là bác sẽ ở đây thêm một lát nữa. - Nghi thức đã xong. Chúng tôi đi theo hai hướng khác nhau khi chúng tôi đã dìm chết hồn ma của chính mình. Tôi bước lên những bậc thang trở lại, tránh cây thường xuân độc leo lên rào chắn và mọc dày đặc trên dốc đứng - không ai kéo nó xuống, bất cứ thứ gì bám chặt vào cát xứng đáng với bất cứ tội lỗi nào nó đem lại - Và cắt qua đám cỏ biển, hướng về nhà. Giống như rất nhiều ngôi nhà ở Napawset, nhà của tôi là một thuộc địa thực sự, được xây dựng vào cuối những năm 100. Có một tấm bảng từ xã hội lịch sử được treo cạnh cửa trước cho đến khi nó bị thổi bay mất trong một cơn gió đông bắc vài năm trước. Ngôi nhà Timothy Wabash. Với màu sơn trắng bong tróc, bốn cửa sổ vặn vẹo, và một bậc thang dốc, vẻ bề ngoài của ngôi nhà cho thấy nó đã bị lãng quên từ lâu và thiếu tiền tu bổ trầm trọng. Trên bậc thang trước màu xanh lá bạc màu (phải nói đến điều đó) là một gói đồ được dựng mở trên cửa lưới. Người giao hàng luôn để cửa mở dù đã vô số lần tôi để lại lời nhắn là không được như vậy, tôi phải treo lại một cánh cửa vào một ngôi nhà đã không vuông vức kể từ ngày nó mới được xây. Tôi không đặt món hàng nào và không thể nghĩ được ai có thể gửi cho tôi món gì. Enola hiếm khi ở một nơi nào đủ lâu để gửi thư mà chỉ gửi một tấm bưu thiếp. Ngay cả nếu có vậy, chúng cũng thường trống trơn. Gói hàng nặng, kỳ cục, và được đề địa chỉ bằng những nét chữ nguệch ngoạc, khẳng khiu của một người lớn tuổi - một kiểu mà tôi đã quen thuộc, vì khách quen của thư viện chủ yếu là một nhóm những người lớn tuổi. Điều đó nhắc tôi rằng, cần phải nói chuyện với Janice về việc kiếm thêm một khoản trong ngân sách của thư viện. Mọi thứ sẽ không quá tồi nếu tôi có thể đắp kè. Không cần phải tăng lương, chỉ cần một khoản tiền thưởng vào một dịp nào đó, vì thâm niên làm việc. Người gửi là một ai đó tôi không biết, một người nào đó có tên là M. Churchwarry ở Iowa. Tôi dọn sạch một chồng giấy khỏi mặt bàn, đó là một vài bài báo về gánh xiếc và lễ hội, những thứ tôi đã sưu tầm trong những năm qua để bắt kịp cuộc sống của em gái tôi. Hộp đồ có chứa một cuốn sách khá lớn, được bọc cẩn thận. Dù chưa mở thì cái mùi mốc, hăng hăng cho thấy đó là mùi giấy, gỗ, da và keo dán cũ. Nó được gói trong tấm vải mỏng và giấy in báo, khi mở ra, nó là một bìa sách da màu tối trên đó có thể là những họa tiết xoắn phức tạp nếu nó không bị nước hủy hoại. Tôi cảm thấy hơi choáng váng. Nó rất cũ kĩ, không phải một cuốn sách có thể sờ mó bằng những ngón tay trần, mà nó như một thứ đã bị hư hỏng hoàn toàn, tôi hồi hộp chạm vào nó như chạm vào một cái gì đó của lịch sử. Mép trang giấy không bị hỏng mà còn thật mềm mại. Bộ sưu tập săn cá voi của thư viện đã khiến tôi lao mình vào công việc lưu trữ và phục chế, đủ để nói rằng quyển sách có cảm giác như đã tồn tại ít nhất từ những năm 1800. Đây là một sự sắp đặt, không phải một cuốn sách bạn chuyển đến mà không báo trước. Tôi xếp những tờ báo của mình thành hai chồng nhỏ để đỡ cuốn sách - sự thay thế đáng thương cho một cái giá sách nó đáng có được, nhưng như vậy cũng ổn. Có một lá thư được nhét bên trong bìa trước, được viết bằng mực nước cũng với nét chữ run rẩy đó. Cậu Watson thân mến, Tôi tình cờ thấy cuốn sách này tại một buổi đấu giá, nó nằm trong một mớ mà tôi đã mua để đầu cơ. Tình trạng hư hại của cuốn sách này cho thấy nó vô dụng với tôi, nhưng một cái tên bên trong nó - Verona Bonn - đã khiến tôi tin rằng nó có thể là mối quan tâm của cậu hay gia đình cậu. Đó là một cuốn sách thú vị và tôi hy vọng nó tìm được một ngôi nhà tuyệt vời với cậu. Làm ơn đừng do dự liên lạc với tôi nếu cậu có bất kỳ câu hỏi nào cậu cho rằng tôi có thể trả lời. Nó được ký bởi một ông Martin Churchwarry của Hiệu sách Churchwarry & Son nào đó, và có cả một số điện thoại đi kèm. Một người bán sách, chuyên về những cuốn sách cũ và sách cổ. Verona Bonn. Tên bà tôi xuất hiện trong cuốn sách này nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi. Là một người biểu diễn lưu động như mẹ tôi, bà sẽ không có thời gian cho một cuốn sách như thế này. Tôi khẽ lật một trang sách bằng mép ngón tay. Trang sách bên trong đầy những chữ viết phức tạp, một bản khắc đồng được trang trí với những nét cong bay bướm kì dị. Có vẻ như nó là một cuốn sách kế toán hay hành trình của một ông Hermelius Peabody nào đó, liên quan đến điều gì đó có chứa từ xách tay và phép màu. Bất cứ chi tiết nào khác để nhận dạng cũng rất khó đọc vì bị nước làm hư hại và vì sự cống hiến cho nghệ thuật viết chữ đẹp của ông Peabody. Tôi lướt qua thấy những bức phác họa về phụ nữ, nam giới, những tòa nhà, và những cỗ xe ngựa mái cong, tất cả đều màu nâu. Tôi chưa bao giờ biết mặt bà tồi. Bà mất khi mẹ tôi còn nhỏ, mà mẹ tôi thì chẳng bao giờ nói nhiều về bà. Tôi không rõ cuốn sách này có liên quan đến bà tôi không, tuy nhiên, điều đó cũng thật thú vị. Tôi quay số, lờ đi những âm thanh ám chỉ đó là một tin nhắn. Nó reo một hồi vô cùng lâu trước khi chuyển sang chế độ trả lời tự động và giọng nói già nua của một người đàn ông nói rằng tôi đã gọi đến Hiệu sách Churchwarry & Son, hướng dẫn tôi nhắn lại ngày và thời gian ngoài một lời nhắn chi tiết về bất kỳ cuốn sách cụ thể nào mà tôi đang tìm kiếm. Chữ viết tay không nói dối. Đây là một ông lão. Mời các bạn đón đọc Cuốn Sách Tiên Tri của tác giả Erika Swyler.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Là Tôi Đã Giết Cô Ấy
Vùng nông thôn yên bình, một cô gái bị bệnh tâm thần thắt cổ ở rừng đào. Trên cổ cô ấy có không biết bao nhiêu vết bóp cổ, trên người còn có dấu vết bị ngược đãi. Cảnh sát Lương Hi vừa từ thành phố đến vùng nông thôn này, cô cố chấp cho rằng không phải cô gái kia tự sát, quyết định vi phạm chỉ đạo của đồn trưởng mà điều tra vụ án này. Chồng của cô gái tâm thần là một người què, gã phủ nhận việc mình giết hại vợ, cũng nói cho Lương Hi một sự thật kinh người: Đứa bé trong bụng vợ không phải của gã. Lương Hi lần theo manh mối này mà tiếp tục điều tra, và rồi, cô biết được rất nhiều chuyện mà cô gái này không muốn người khác biết. Người chết hai mươi mốt tuổi, đã từng hoạt bát, rộng rãi, là người duy nhất có hy vọng thi đậu vào đại học trọng điểm của trường trung học trấn Lương Vân. Sau khi người chết bỏ học đã từng ở bệnh viện tâm thần hai tuần. Người chết và tên côn đồ trên đường có quan hệ mờ ám. Người chết có nghi vấn bị gã bán hàng rong xâm hại. Người chết có mâu thuẫn với chủ cửa tiệm băng đĩa trên đường. … Vì sao người chết lại bị mắc bệnh tâm thần? Và vì sao lại trở thành thi thể trong rừng đào bí ẩn kia? … Chân tướng về cô gái này dần được Lương Hi điều tra và vạch trần. … Tag: Tình yêu chốn nông thôn, huyền nghi trinh thám, trưởng thành, thời đại mới. Lập ý: Tự cứu vớt chính mình. *** Mùa hè nóng nực. Tào Quốc An đi một đôi sandal da màu nâu dơ bẩn, tay ông đang xách một chiếc túi ni lông màu đỏ đựng bánh bao thịt, ông loạng choạng đi đến cổng lớn của đồn cảnh sát. Ông liếc nhìn tấm biển của đồn cảnh sát, mấy chữ “xã Lục Trình” trông cực kỳ chướng mắt, không biết một nét trong chữ “đồn” đã bị tên nhóc nào lấy mất, chỉ còn lại một vết keo bẩn thỉu. Vừa nghĩ đến khoản phí “như trứng chọi đá” phải bỏ ra cho tấm biển tồi tàn này, ông đã cảm thấy đau răng, chắc là chẳng cần sửa lại làm gì, được ngày nào thì hay ngày đó vậy. Tào Quốc An tặc lưỡi, ông đẩy cánh cửa sắt loang lổ vết gỉ sét ra, xốc đôi sandal rồi đi về phía căn nhà gạch loang lổ màu xám trắng trước mắt. Ông đi một cách ung dung, ánh mắt quan sát mọi nơi một cách đầy ngẫu nhiên, đầu thuốc lá rơi trên mặt đất, vết bẩn trên tường, cỏ dại giữa các viên gạch, chiếc xe Santana màu đen mà đơn vị khác bỏ đi – cũng là chiếc xe mà Tào Quốc An tốn trăm cay nghìn đắng mới lấy được từ trong huyện về, tất cả đều đập vào trong mắt. Chớp mắt một cái mà ông đã đến nơi này bốn năm rồi, mới đầu ông còn tràn đầy nhiệt huyết mà chạy đến đây lập nên đồn cảnh sát xã Lục Trình, còn bây giờ thì không chỉ mỗi công việc rối tinh rối mù, mà cuộc sống cũng rối bời không thôi, Tào Quốc An nghĩ thôi mà đã thấy bực bội. Ông xoa xoa lồng ngực, chỗ hôm qua bị đánh hãy còn âm ỉ đau, nếu không phải là một cảnh sát, thì e là hôm qua Tào Quốc An đã đánh đồ chó đó một trận thật tàn nhẫn rồi. Tào Quốc An vừa âm thầm chửi bới vừa đi vào phòng làm việc. Phòng làm việc bố trí sáu chiếc bàn làm việc đối diện nhau, chiếc bàn làm việc ở giữa bên trái có một cậu trai trẻ đang vùi đầu bận rộn. Cậu tên là Lâm Sinh Nguyên, đã đến đây được hai năm, do Tào Quốc An tuyển cậu vào. Tào Quốc An lặng lẽ đi đến bên cạnh Lâm Sinh Nguyên, ngón trỏ cong lại, khẽ gõ lên chiếc bàn. Lâm Sinh Nguyên mơ mơ màng màng mà ngẩng đầu lên khỏi đống tài liệu, thấy Tào Quốc An, sắc mặt cậu chợt sợ hãi: “Đồn… đồn trường, chú đến rồi.” “Ừm.” Tào Quốc An đằng hắng giọng, nhìn về phía chếch chếch đối diện, hỏi với chất giọng trầm thấp: “Lão Phương đâu?” “Chú ấy… chú ấy nói là muốn đi bón phân cho ruộng nên sẽ đến muộn một chút ạ.” Tào Quốc An nhíu mày, ông đưa cổ tay lên mà nhìn đồng hồ, bây giờ đã hơn chín giờ rồi, Phương Châu Minh này thật là, ỷ vào lý lịch của mình mà thường xuyên làm việc cầm chừng, chẳng chịu coi ông ra gì cả. Tào Quốc An không vui, ông bèn ném túi ni lông xuống, hương thơm của bánh bao toả ra và quẩn quanh chóp mũi Lâm Sinh Nguyên ngay tức thì. “Của cậu!” Tào Quốc An chỉ để lại hai chữ như thế. Lâm Sinh Nguyên cúi đầu ngửi ngửi, sắc mặt sáng sủa hẳn lên, cậu vạch mở túi ni lông ra, âm thanh của chiếc túi ni lông vang lên sột soạt. “Cảm ơn đồn trưởng ạ, bây giờ không có cơm của chú Dương nên cháu cứ phải ra ngoài quán ăn, cháu sắp không ăn nổi nữa rồi.” Cậu nói. “Ngày mai anh ấy sẽ quay về.” Tào Quốc An nói xong thì đi đến bên cạnh bàn làm việc sát cửa sổ. Trên bàn làm việc đặt hai bình mực nước, một đỏ một đen, một chiếc điện thoại để bàn, có cả một chồng tài liệu, mấy quyển sách, mấy cây bút. Đồ đạc được sắp xếp rất ngăn nắp, chỉ có một xấp giấy báo ném lộn xộn trên bàn, trông nó vô cùng nổi bật. Tào Quốc An cầm một xấp trên cùng lên, nhanh chóng lướt mắt qua và nhìn vào. Ngày tháng trên trang đầu tiên của xấp báo là: Thứ hai, ngày 21 tháng 7 năm 1997. “Mẹ nó.” Tào Quốc An ném tờ giấy báo lên bàn rồi nói: “Bưu điện có đáng tin không vậy, lại muộn mất hai ngày, tin tức mới cũng thành tin tức cũ, còn xem cái quái gì nữa!” “Đồn trưởng…” Lâm Sinh Nguyên vừa nhai vừa giải thích cho Tào Quốc An: “Bọn họ nói, trừ phi lái máy bay, còn không thì không có cách nào nhanh hơn nữa.” Tào Quốc An “hừ” một tiếng, kéo ghế ra rồi đặt mông ngồi xuống, ông ngã về phía sau, chiếc ghế cũ nát đó phát ra âm thanh kẽo kẹt. Sau đó ông lại mò mẫm túi áo đồng phục để lấy hộp thuốc lá và cái bật lửa, bật lửa chỉ còn lại một chút ít gas dưới đáy, ông bật mấy lần liền mới quẹt ra được đốm lửa nhỏ. Tào Quốc An châm điếu thuốc, hút mạnh mấy ngụm, ông dựa vào lưng ghế, ngẩn ngơ mà nhìn lên trần nhà. Quạt trần trên đỉnh đầu quay quay phát ra tiếng kêu cọt kẹt, tiếng ve sầu ngoài cửa sổ vang lên những thanh âm chói tai, đường phố ngoài kia truyền đến tiếng nổ rang ầm ầm của xe máy đi ngang qua. Tào Quốc An dựa vào lưng ghế, hết hút thuốc rồi lại nhả khói, trong đầu ông thì lại đang nghĩ đến cuộc điện thoại mà mấy ngày trước vừa nhận được. Trong trí nhớ của Tào Quốc An, không có người nào bằng lòng đến chỗ xa xôi hoang vắng như xã Lục Trình này, thị trấn nhỏ hẻo lánh này cách huyện hàng trăm ki-lô-mét, núi thì cao mà đường thì lại xa, một chuyến xe khách đi từ huyện đến đây phải mất hơn ba tiếng đồng hồ. Cũng vì giao thông không thuận lợi, kinh tế kém phát triển, nên có hơn một nửa số lao động trẻ tuổi khỏe mạnh của xã đã đi ra ngoài để kiếm sống, còn một nửa thì đang làm nghề trồng trọt, kiếm sống dựa vào ông trời. Tào Quốc An từng rất chán ghét nơi này, nhưng ông là quân nhân đã xuất ngũ, quân nhân xem việc phục tùng mệnh lệnh là thiên chức, ông phục tùng mệnh lệnh của cấp trên nên mới cắm rễ ở chỗ này. Ban đầu, khi vừa đến nơi này, ông không nể nang ai mà tìm ủy ban xã mượn nhà, ủy ban không lay chuyển được nên đành cho ông mấy căn phòng chuẩn bị làm chỗ mua bán súc vật trên phố, nơi đó chính là đồn cảnh sát xã Lục Trình hiện giờ. Đồn cảnh sát có hai dãy phòng, trước và sau, dãy trước là khu vực làm việc, có năm căn phòng, phía trong cùng bên trái là phòng thẩm vấn và phòng tạm giam, bên phải là phòng hồ sơ, căn phòng lớn nhất ở giữa là phòng làm việc; dãy sau là khu vực sinh hoạt, có bốn căn phòng, một nhà bếp, ba phòng ngủ, có một phòng riêng là nhà vệ sinh. Tào Quốc An, Lâm Sinh Nguyên và cả chú Trần đều sống ở trong đồn, Phương Châu Minh thì ở tại nhà của mình. Tào Quốc An vẫn luôn nói với bên trên rằng, trong đồn cần có “nguồn máu” tươi mới, nhưng bên trên lại chẳng chịu điều người đến, sau khi Tào Quốc An thúc giục mấy lần thì cũng không thúc giục nữa, ông nghĩ, về công việc thì ba người bọn họ có thể miễn cưỡng mà đảm đương được, thêm một người nữa đến thì phải nhường chỗ ở, phiền phức lắm, chẳng thà cứ cho qua đi thôi. Nhưng mấy hôm trước bên trên lại gọi điện thoại đến, nói có một sinh viên vừa tốt nghiệp muốn đến xã Lục Trình làm việc. Đã thế, người này còn là phái nữ. Tào Quốc An nghe tin này mà như sét đánh ngang tai, ông nhấn mạnh với bên trên rằng, người mà đồn cảnh sát cần là đàn ông trẻ tuổi, chứ không phải là một nữ sinh được nuông chiều. Nữ sinh viên thì có thể làm được gì cơ chứ? Được nuông chiều từ bé, tính tình nóng nảy, không gây ra phiền phức gì đã là tốt lắm rồi. Nhưng thái độ của bên trên kiên quyết, không cho ông bất kỳ cơ hội thương lượng nào. Tào Quốc An nói không lại, chỉ đành thỏa hiệp, mấy ngày nay ông nôn nóng khó chịu, ngày nào cũng buồn rầu u ám vì chuyện này. Thấy hôm nay chính là ngày mà cô gái đó đến, Tào Quốc An càng không yên lòng. “Lúc nào cô gái đó đến vậy?” Tào Quốc An mặt ủ mày chau hỏi Lâm Sinh Nguyên. Lâm Sinh Nguyên sững sờ, lập tức hiểu người mà Tào Quốc An đang hỏi đến là đồng nghiệp mới chưa từng gặp mặt đó, cậu nói: “Sáng hôm nay nhận được điện thoại rồi ạ, nói là chuyến xe khách hơn mười giờ sáng đó.” “Đợi gần tới khi ấy thì cậu đi đón cô ấy.” “Hả?” “Lẽ nào để tôi đi à?” “Không phải, đồn trưởng. Cô ấy nói…” Lâm Sinh Nguyên đằng hắng, dùng giọng điệu lạnh nhạt mà Tào Quốc An chưa từng nghe thấy bao giờ mà nói lại rằng: “Không cần đón, tự tôi có chân.” Mắt Tào Quốc An nheo lại, ông ném ánh mắt sắc lẹm về phía Lâm Sinh Nguyên. Lâm Sinh Nguyên giật mình, giải thích: “Cô ấy nói thế thật đấy ạ, cháu không bịa đặt đâu.” Tào Quốc An hừ lạnh một tiếng: “Một cô nhóc thôi mà giọng điệu cũng ghê gớm thật đấy, không đón thì không đón, chúng ta đợi cô ta.” Đồng hồ trên tường cứ tích tách, tích tách mà xoay đều, theo dòng thời gian dần trôi, mặt trời cứ lên cao dần, sự khô hanh trong không khí càng lúc càng nhiều, Tào Quốc An không ngừng thay đổi tư thế, nhưng dù có thay đổi thế nào thì vẫn thấy không thoải mái, cơn đau từ vết thương nơi lồng ngực làm ảnh hưởng đến ông, nếu không nghĩ đến chuyện mình là cảnh sát, thì hôm qua ông rất muốn đánh người đó một trận dữ dội. “Mấy giờ rồi?” Lâm Sinh Nguyên quay đầu nhìn lên trên tường, nói: “Mười giờ rồi ạ.” Tào Quốc An liếc nhìn về phía cổng đồn cảnh sát, chẳng có ai xuất hiện cả, ông chuyển sang nhắm mắt lại, dựa người vào lưng ghế, hơi thở phì phò phát ra từ lỗ mũi như đã giải tỏa bao khó chịu trong lòng ông. Mấy phút sau, hình như ngoài cổng vang lên tiếng “bịch bịch bịch”. Tiếng động này vang từ xa đến gần, Tào Quốc An mở mắt ra, lòng đầy cảnh giác mà nhìn ra bên ngoài. Một bóng người gầy yếu đứng ngay cửa phòng làm việc, cô đứng ngược chiều sáng nên người ta chẳng thể thấy rõ khuôn mặt của cô. Tào Quốc An vừa muốn mở lời hỏi chuyện thì bóng người đó đã nói: “Xin hỏi ai là Tào Quốc An – đồn trưởng Tào?” Giọng nói trong trẻo nghe hơi nghiêm túc, khiến cho Tào Quốc An chợt nhớ đến vị lãnh đạo bộ đội, ông trả lời: “Là tôi. Cô là Lương Hi?” “Vâng.” Lương Hi đi về phía trước, chìa tay ra và cúi chào: “Chào đồn trưởng Tào, tôi là Lương Hi, cảnh sát mới đến.” Chân mày Tào Quốc An nhíu chặt lại, ông cẩn thận quan sát Lương Hi, gương mặt trắng ngần, mắt phượng mày ngài, dáng người mảnh khảnh, tóc dài chạm bả vai, cô đang mặc một chiếc áo sơ mi sọc ca-rô và quần jeans, chân thì đi một đôi giày thể thao thời thượng, tay trái cô đang đỡ một chiếc vali màu đỏ có bánh xe, tay phải thì cầm một chiếc bình giữ nhiệt, trông có vẻ rất đắt tiền. Vừa nhìn đã biết là cô chưa từng trải qua bất kỳ nỗi khổ cực gì, Tào Quốc An thầm thở dài. Tào Quốc An không biết rằng, trong lúc ông đang quan sát Lương Hi thì cô cảnh sát nhỏ mới đến này cũng đang lén quan sát ông. Khi còn ở trong huyện, Lương Hi đã từng nghe đến tiếng tăm của Tào Quốc An, cô cho rằng vị quân nhân đã xuất ngũ – cũng là người lập nên đồn cảnh sát xã Lục Trình trong miệng người khác là một người trung niên có tinh thần khá tốt, thế nhưng, xem ra là không phải như thế rồi. Tào Quốc An trước mắt đang khom lưng, sắc mặt giống như trái khổ qua già đã qua mùa vụ thu hoạch, trên người ông đang mặc một bộ đồng phục cảnh sát không hề vừa người, hai chiếc cúc áo gần cổ áo đang mở bung ra, cái bụng bị quần áo thít chặt lại, dây nịt trên lưng không thể nịt lại được, cả người trông vừa lôi thôi nhếch nhác vừa sa sút tinh thần. Khác xa với dáng vẻ trong tưởng tượng của Lương Hi, Lương Hi bất giác lộ ra vẻ mặt thất vọng. “Cô chính là Lương Hi à, nghe danh không bằng gặp mặt, tôi là Lâm Sinh Nguyên.” Mạch suy nghĩ của Lương Hi bị Lâm Sinh Nguyên gọi về, cô thu ánh mắt lại, nhìn về phía người trước mắt này. Người tên Lâm Sinh Nguyên này thì lại mặc đồng phục khá cẩn thận tỉ mỉ, có điều, vẻ mặt cậu vàng như nến, gầy trơ xương, trên đầu ngón tay gầy nhom còn dính mấy giọt mực carbon, xem ra là người làm công việc liên quan đến giấy tờ. “Xin chào.” Lương Hi duỗi tay ra, bắt tay tượng trưng với Lâm Sinh Nguyên. “Đây là bàn làm việc của cô, chúng tôi đều làm việc trong phòng làm việc này.” Lâm Sinh Nguyên được bàn tay mềm mại nhẵn mịn của Lương Hi nắm lấy nên tâm trạng phơi phới bủa vây cậu, cậu nhiệt tình chỉ vào vị trí còn trống bên cạnh cho Lương Hi. Bấy giờ Lương Hi mới có thời gian quan sát môi trường bên trong phòng làm việc. Cô nhìn quanh một lượt cả phòng làm việc này, trên vách tường có mấy miếng dán tường đã tróc, vốn dĩ căn phòng đã không lớn cho lắm, mà vì có thêm sáu chiếc bàn nên trông nó có vẻ chật chội hơn hẳn, chuyện khiến Lương Hi thấy khó hiểu hơn nữa đó chính là, sáu chiếc bàn làm việc này có kích cỡ không đều nhau, màu sắc không giống nhau, giống hệt như chúng được vơ vét từ nơi khác đến vậy. Trước khi đến thì Lương Hi đã chuẩn bị tư tưởng xong xuôi, thế nhưng, cô không ngờ rằng ngay cả môi trường làm việc mà cũng lộn xộn như thế này. Cô đi theo Lâm Sinh Nguyên đến bên cạnh bàn, quay sát chiếc bàn và cái ghế một chút, rồi cô duỗi một đầu ngón tay ra lau lau mặt bàn. “Tôi vừa mới lau, sạch sẽ lắm.” Lâm Sinh Nguyên nói. Lương Hi khẽ gật gật đầu, bình tĩnh gỡ bình giữ nhiệt xuống, đặt lên trên bàn. “Cảm ơn.” Cô nói. “Đừng khách sáo, trong hộc tủ thì tôi đã đặt mấy món đồ văn phòng phẩm cho cô, cô tự lấy nhé.” “Được,” Lương Hi chợt hỏi: “Còn một người đồng nghiệp nữa đâu rồi?” “Hả?” Lâm Sinh Nguyên sững sờ. “Ở đây,” Lương Hi chỉ vào vị trí bên cạnh, nói: “Chắc là có người mà nhỉ? Sao chú ấy lại không đến?” Lâm Sinh Nguyên bỗng hiểu ra: “Lão Phương à, chú ấy đi…” “Anh ấy đi thị sát rồi.” Tào Quốc An ngắt lời Lâm Sinh Nguyên: “Người mới, chuyện không nên quan tâm thì đừng quan tâm.” Lương Hi bĩu môi. “Cô là người của Học viện Cảnh sát tỉnh thật ư?” Tào Quốc An nhìn Lương Hi, như thể là đang dò xét, hình như ông đang nghi ngờ lai lịch của cô. “Đúng, chắc chắn là thật, chuyên ngành trinh sát hình sự.” Lương Hi đáp. Tào Quốc An ngả người ra sau, nói: “Chỗ này của chúng tôi chỉ là một chốn nhỏ bé, không cần đến chuyên ngành có học vấn cao như thế.” Theo bản năng, Lương Hi phản bác: “Chốn nhỏ bé cũng có thể sẽ có người phạm tội.” Tào Quốc An kinh thường mà liếc Lương Hi, kiểu người trẻ tuổi này ông đã gặp nhiều rồi, tự cho mình là đúng, tự cho mình là giỏi, ắt rằng sau này sẽ phải chịu khổ. Ông hừ lạnh một tiếng, lười biếng dạy bảo rằng: “Tôi không quan tâm cô thế nào, nếu đã đến xã Lục Trình thì phải tuân thủ quy tắc, đừng gây chuyện.” Lương Hi còn muốn nói thêm vài câu, có điều, cô còn chưa kịp mở lời thì một giọng nói thảm thiết đã ập vào màng nhĩ cô. “Không ổn rồi! Đồn trưởng Tào! Tai nạn chết người rồi!” Một bóng người vội vã xông vào đồn cảnh sát.. Mời các bạn mượn đọc sách Là Tôi Đã Giết Cô Ấy của tác giả Mặc Dữ.
Bóng Ma
Một bài viết dẫn đến một vụ án? Trần Khả Ý viết một bài về bạo lực học đường thu hút được sự chú ý của toàn cư dân mạng, một tháng sau cô mất tích đầy bí ẩn. Trong khi mọi người đang lo lắng tìm kiếm thì Trần Khả Ý lại một mình xuất hiện ở đồn cảnh sát sau ba ngày mất tích. Trong ba ngày này đã xảy ra chuyện gì? *** "Cái bóng trong khu dạy học" là một bộ phim truyền hình về vấn đề bạo lực học đường rất nổi gần đây. Nữ chính Tiểu Nhiễm bị đám người Vương Tinh Tinh bắt nạt, cuối cùng ôm sự suy sụp về cả thể chất và tinh thần mà tự sát. Câu chuyện sau đó xoay quanh cuộc điều tra và thu thập bằng chứng của cảnh sát, từng bí mật trong khu dạy học bị đào ra. Trần Khả Ý vừa xem xong bộ phim này, bây giờ đang xem cư dân mạng mắng chửi phim trên Weibo. Vương Tinh Tinh đã tập thể dục buổi sáng chưa: Không thể không nói trường điểm ít xảy ra vấn đề như thế này hơn rất nhiều, học sinh cơ bản đều bận học hành. Trường học cũng có chỉ tiêu của mình, tri thức biến tướng thay đổi số phận bản thân. Mị yêu dưa hấu Ba Ba: Bản chất con người vốn xấu xa mà, thực ra hầu hết mọi người đều là Vương Tinh Tinh. Nụ hoa tổ quốc: Cái bình luận có nhiều lượt like nhất ở trên kia, bản thân mình đen tối thì đừng đại diện cho những người khác chứ. Thời thanh xuân đã qua: Tôi phát hiện những người từng chịu cảnh bị bắt nạt đang tập trung nhiều vào đám người Vương Tinh Tinh, nhưng trong mắt tôi, cả cái lớp này là một tập thể bạo lực. Nếu như có một người chịu vươn tay ra giúp đỡ thì Tiểu Nhiễm sẽ không tuyệt vọng đến thế. Trần Khả Ý nhìn quan điểm trên màn hình, mạch suy nghĩ của cô trôi về mười năm trước, những gì cô đã từng làm, đã từng chứng kiến, và cả những người chỉ tồn tại trong quá khứ. Cô gõ bàn phím: Bạn có đang là một phần tử bạo lực học đường? Trời đã khuya, ngón tay Trần Khả Ý hơi ửng đỏ vì tiếp xúc với không khí lạnh quá lâu. Hơi lạnh ẩm ướt giống như một hàng kim nhỏ dày đặc không ngừng kíc.h thích da thịt, nhưng cô cứ như người máy không chút cảm xúc, đôi mắt dưới cặp mắt kính nhìn chằm chằm vào màn hình laptop như không có tiêu cự, ngón tay gõ nhanh trên bàn phím, trong phòng chỉ văng vẳng tiếng lạch cạch. Ngày hôm sau, một bài viết có tiêu đề "Bạn có đang là một phần tử bạo lực học đường?" nhảy lên hot search, mà một tháng sau tác giả Trần Khả Ý cũng vô cớ mất tích. Theo pháp luật có liên quan trong nước, có rất nhiều bên chịu trách nhiệm về hành vi bạo lực học đường. Thứ nhất, bên chịu trách nhiệm chính là người bắt nạt, người đó sẽ bị xử phạt tùy theo tình huống bắt nạt. Thứ hai, người giám hộ phải chịu trách nhiệm bồi thường dân sự. Cuối cùng là trường học, nếu trường học không thực hiện nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho học sinh thì sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới và một số trách nhiệm khác. "Luật trách nhiệm pháp lý xâm quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" (*) (*) Luật trách nhiệm pháp lý xâm quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là luật ở CHND Trung Hoa có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm 2010. Luật này bao gồm các lĩnh vực sơ suất bao gồm thương tích cá nhân và sơ suất y tế. Mời các bạn mượn đọc sách Bóng Ma của tác giả Tam Mộc Lâm.
Luật Sư Nhí
Một vụ án hoàn hảo Một nhân chứng giấu mặt Duy chỉ một người biết sự thật… Đó là một cậu bé mười ba tuổi Thị trấn Strattenburg nhỏ bé có rất nhiều luật sư, và dù mới mười ba tuổi, Theodore Boone luôn nghĩ mình là một trong số họ. Ấp ủ ước mơ được trở thành một luật sư vĩ đại, cậu vẫn thường hình dung về cuộc sống của mình nơi tòa án. Nhưng Theodore bắt gặp mình ở tòa án sớm hơn cậu tưởng. Bởi một vụ án nhạy cảm đã xảy ra, vụ án lớn nhất trong lịch sử thị trấn Strattenburg, và nếu Theodore không sớm hành động, tên giết người máu lạnh sẽ còn tiếp tục. Căng thẳng và đầy kịch tính, với giọng kể biến hóa của John Grisham, bậc thầy trong thể loại truyện trinh thám hình sự, Theodore Boone: Luật sư nhí khiến độc giả phải liên tục phán đoán và không thể rời mắt khỏi trang sách. *** John Grisham (sinh ngày 8/2/1955) là một tác giả người Mỹ nổi tiếng với những tiểu thuyết trinh thám hình sự. Sau khi tốt nghiệp đại học Mississippi, ông học thêm chuyên ngành luật của trường này và hoạt động trong ngành luật hình khoảng mười năm. Ông cũng phục vụ trong Hạ nghị viện từ năm 1984 đến năm 1990. Khởi đầu sự nghiệp viết lách năm 1984, năm 2008 số sách của ông bán ra đã vượt quá con số 250 triệu bản trên toàn thế giới. Tác giả từng đoạt giải Galaxy British Book Awards này còn là một trong số ba tác giả ít ỏi bán được hai triệu cuốn trong bản in đầu tiên, cùng Tom Clancy và J. K. Rowling. Các tác phẩm của John Grisham được dịch ra 38 ngôn ngữ. Hiện ông đang sống ở Virginia và Mississippi. ***Lời khen tặng dành cho Theodore - Luật sư nhí “Nhịp truyện diễn tiến nhanh, và độc giả trẻ sẽ bị hút vào màn tranh tụng quyết định tại phiên tòa.”– BookPage  “Không nghi ngờ gì nữa, Grisham là một tác giả xuất chúng!” – Washington Post *** Theodore Boone là con một, vì thế thường phải ăn sáng một mình. Bố của cậu, một luật sư bận rộn, có thói quen ra khỏi nhà lúc 7 giờ sáng, tụ tập bạn bè tại đúng một quán quen trong khu trung tâm để uống cà phê và tán gẫu. Mẹ cậu, cũng là một luật sư bận rộn, suốt hơn mười năm nay vẫn đang cố giảm năm cân nên luôn tự thuyết phục mình rằng bữa sáng không cần gì hơn ngoài cà phê và tờ báo. Vì thế, Theodore một mình trong bếp, ăn ngũ cốc nguội, uống nước cam, mắt không rời đồng hồ. Gia đình nhà Boone có đồng hồ khắp nơi, minh chứng rõ ràng cho những con người có nề nếp. Thực ra, cậu không hoàn toàn chỉ có một mình. Bên cạnh cậu, chú chó Judge cũng đang ăn. Judge là con chó lai, tuổi và giống của nó vẫn luôn là điều bí ẩn. Hai năm trước, Theodore cứu nó thoát chết trong gang tấc khi xuất hiện vào phút cuối tại Phiên tòa Súc vật, và Judge luôn tỏ ra biết ơn. Con chó thích Cheerios, hệt như Theodore; mỗi sáng, cả hai cùng ăn với nhau trong yên lặng. Tám giờ sáng, Theodore tráng bát trong chậu rửa, cất sữa và nước quả trở lại tủ lạnh, bước đến phòng làm việc, hôn lên má mẹ. “Con đi học đây”, cậu chào. “Con đã có tiền ăn chưa?” mẹ cậu hỏi, cùng một câu năm buổi sáng mỗi tuần. “Rồi ạ.” “Bài tập của con xong cả rồi chứ?” “Chuẩn rồi mà mẹ.” “Thế khi nào mẹ gặp con?” “Học xong con sẽ ghé qua văn phòng.” Ngày nào học xong, Theodore cũng ghé qua văn phòng mẹ, không sai một li, nhưng bà Boone vẫn luôn hỏi như vậy. “Cẩn thận đấy,” bà dặn. “Và nhớ mỉm cười nhé.” Theodore đã đeo niềng răng cả hai năm trời nay, và cậu vẫn luôn muốn tháo nó ra chết đi được. Vậy mà, mẹ cậu không ngừng nhắc cậu mỉm cười và biến thế giới trở nên tươi đẹp hơn. “Con vẫn cười mà mẹ.” “Yêu con, cục cưng.” “Con cũng yêu mẹ.” Theodore, miệng vẫn mỉm cười dù bị gọi là “cục cưng”, vắt ba lô qua vai, xoa đầu tạm biệt chó Judge, rồi ra khỏi nhà qua lối cửa bếp. Cậu nhảy lên xe đạp, chẳng mấy chốc đã tăng tốc lao ra hẻm Mallard, một con phố nhỏ rợp bóng cây trong khu phố cổ nhất của thị trấn. Cậu vẫy chào ông Nunnery, ông đã ở bên hiên nhà, chuẩn bị cho một ngày dài ngồi nhìn dòng xe cộ thưa thớt qua lại. Cậu phóng vọt qua bà Goodloe bên lề đường mà không nói lời nào vì bà bị lãng tai và còn gần như đãng trí. Tuy vậy, Theodore vẫn mỉm cười với bà, còn bà thì không cười đáp lại. Răng của bà đang ở đâu đó trong nhà. Trời chớm xuân, không khí khô lạnh. Theodore dấn pê đan, gió táp vào mặt cậu. Chín giờ kém 20 là điểm danh, mà trước giờ học cậu còn có việc quan trọng phải làm. Theodore cắt qua một con phố nhỏ, phi vào một con hẻm, lượn lách qua mấy chiếc xe, và vượt qua cả đèn đỏ. Đó là “bài” của Theodore, là tuyến đường ngày nào cậu cũng đi. Qua bốn dãy nữa, nhà ở sẽ nhường chỗ cho các tòa văn phòng, cửa hàng cửa hiệu. Tòa án hạt là tòa nhà lớn nhất ở Strattenburg (bưu điện lớn thứ hai, kế đến là thư viện), nằm oai vệ bên mạn Bắc của phố Main, giữa một cây cầu bắc qua sông và một công viên đầy rẫy chòi ngắm cảnh, bồn nước cho chim rỉa lông và tượng đài kỷ niệm những người lính tử trận. Theodore yêu thích tòa án với vẻ uy quyền của nó, với cảnh mọi người hối hả qua lại đầy quan trọng, và những thông báo nghiêm túc hay lịch làm việc đính chi chít trên bảng tin. Và hơn tất cả, Theodore thích các phòng xử án. Có những phòng nhỏ để giải quyết các vụ việc cá nhân không cần bồi thẩm đoàn tham dự, còn cả phòng xử chính trên tầng hai nơi các luật sư chiến đấu như võ sĩ còn thẩm phán thì quyền lực như nhà vua. ... Mời các bạn mượn đọc sách Luật Sư Nhí của tác giả John Grisham.
Linh Hồn Tội Lỗi
“Thật ra, tôi chẳng phải là loại người tốt đẹp gì cho cam. Tôi chỉ là một kẻ tàn nhẫn đứng ngoài cuộc quan sát, một tòng phạm, hay thậm chí là một kẻ phản bội đã hèn nhát trốn chạy để bảo vệ bản thân.” “Hình phạt lớn nhất cho tội ác của con người là mãi mãi không thoát khỏi tòa án lương tâm của chính mình.” LINH HỒN TỘI LỖI, xoay quanh hành trình phá án của nữ thám tử Reiko để giải câu đố đằng sau chuỗi án mạng mà các nạn nhân có mối liên hệ bí ẩn với nhau. Bắt đầu từ một vụ án không tìm thấy thi thể, tại hiện trường chỉ sót lại một bàn tay trái đứt lìa ngâm trong một túi máu, tổ trọng án của Reiko tưởng như lâm vào ngõ cụt khi mọi manh mối đều không đem lại kết quả. Nhưng bằng linh cảm nhạy bén của mình, Reiko đã phát hiện mối liên hệ đáng ngờ giữa nạn nhân và những vụ tự sát từng xảy ra trong quá khứ, với những khoản tiền bảo hiểm bồi thường lên tới hàng trăm triệu yên Nhật. Hàng ngàn câu hỏi được đặt ra thách thức tổ trọng án. Thi thể nạn nhân đang ở đâu? Sợi dây liên hệ giữa nạn nhân và những người đã chết? Sự thật ẩn giấu đằng sau những vụ tự tử trước kia? Nạn nhân có thực sự là nạn nhân? Kẻ hung thủ tàn nhẫn đứng đằng sau mọi chuyện đang ở đâu? Những bí ẩn đau lòng của quá khứ, những dằn vặt khôn nguôi của hiện tại, những hồ nghi về tương lai, tất cả đan xen vào nhau, tạo nên một vòng xoáy tội lỗi đầy ám ảnh, giằng xé, day dứt. Cái sai lại càng sai, tội lỗi chồng chất tội lỗi. Song song với những tội ác rùng mình, Soul Cage còn là khúc ca đẫm máu về tình thân, tình bạn, tình người, đặt mối quan hệ giữa người với người vào ranh giới thiện ác vô cùng mong manh. Trong sâu thẳm bản ngã Con Người, cán cân giữa phần Con và phần Người chỉ cần lệch khỏi điểm cân bằng một chút thôi, cũng có thể đẩy một con người lương thiện vào con đường tội ác không lối thoát. *** Review bởi: Tiểu Thuần Một bộ truyện hơn cả sức tưởng tượng. Câu chuyện về một người đàn ông đã nhận nuôi và yêu thương hết mực đứa trẻ vốn không phải ruột thịt của mình. Từ bỏ cuộc đời và thân phận của mình chỉ vì người thân, vì đứa con trai tội nghiệp của mình. Giữa người và người có thật sẽ tồn tại thứ tình cảm kỳ diệu đó hay không?