Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hai Cõi Người Ta

Khi người bạn yêu sâu sắc mất đi, dù là người thân hay người phối ngẫu, cuộc đời bạn mãi mãi không còn như trước nữa. Những gì trước nay bạn có như một điều mặc nhiên, đột nhiên sẽ mất. Khoảng trống đó không gì bù đắp được, chỉ có chính bạn có thể, bằng cách này hay cách khác, vượt qua và tìm cách sống tiếp. Nhưng cách vượt qua của mỗi người sẽ không như nhau. Có người sẽ cố chấp không buông như Ross, đi khắp nơi mong gặp linh hồn của vợ, tìm mọi cách cực đoan để liều mình tìm sang thế giới bên kia, thế nhưng không thỏa nguyện, bởi bóng hình anh yêu có tồn tại đâu? Hoặc như nỗi ám ảnh của người mẹ có con mắc bệnh hiếm, khiến cô khép mình với thế giới bên ngoài, sợ cả yêu thương.  Thế nhưng đây không chỉ là một cuốn sách về tâm lý tình cảm. Một hồn  ma, một hồ sơ vụ án chưa bao giờ khép, một khu đất là quê hương của thổ dân Châu Mỹ ngày xưa với biết bao hiện tượng kỳ dị... được lật lại bởi người cảnh sát địa phương, không ngờ lật ra cả một giai đoạn đen tối của lịch sử nước Mỹ, khi mà khao khát về đời sống tốt đẹp hơn lại vô hình suýt đẩy quốc gia vào con đường diệt chủng với Thuyết Ưu Sinh - một lý thuyết gạn lọc những gen bị cho là "gen xấu" của con người. Nhưng con người, với tất cả hiểu biết hạn hẹp của  mình, liệu đã có đủ năng lực để vạch ra lằn ranh cho khoa học di truyền đó? Một câu chuyện đan cài hấp dẫn từ đầu tới cuối, là sự xen kẽ của trinh thám, tình cảm, khoa học và lịch sử, với ngòi bút mượt mà đậm tính nhân văn. *** Lần đầu tự đẩy mình vào chỗ chết, Ross Wakeman suýt thành công, nhưng lần thứ hai và thứ ba chết hụt thì không phải do anh. Lần thứ hai, anh ngủ gục trên tay lái nên phóng xe lao qua thành cầu và rớt xuống hồ nhưng được đội cứu hộ tìm thấy. Khi chiếc Honda nửa chìm nửa nổi được trục vớt, cửa xe đều còn khóa kín, kính cửa sổ cường lực rạn như mạng nhện mà vẫn nguyên vẹn. Sau vụ tai nạn chẳng ai hiểu làm sao anh ta thoát khỏi xe mà không hề trầy xước. Lần thứ ba, Ross bị cướp ở New York. Tên cướp trấn lột ví tiền, đập Ross một trận nhừ tử, nã một phát vào lưng anh rồi trốn mất dạng. Với cự ly gần như thế, viên đạn lẽ ra phải khiến xương vai vỡ vụn và đâm thủng phổi. Vậy mà như có phép thần, viên đạn kẹt lại ngay khi vừa chạm xương. Mẩu đạn chì bé tẹo giờ đang được Ross dùng làm móc chìa khóa. Còn lần đầu tiên suýt chết là vài năm trước, khi Ross mắc kẹt giữa một trận bão sét. Tia sét màu xanh tuyệt đẹp bất chợt xuất hiện trên nền trời rồi phóng thẳng trúng tim anh. Mấy bác sĩ đều nói anh đã chết lâm sàng khoảng bảy phút. Họ nói rằng tia sét không đánh trúng Ross trực tiếp. Nếu dòng điện mạnh 50,000 ampe thực sự truyền thẳng vào lồng ngực, nó sẽ làm nước trong tế bào bốc hơi và khiến anh nổ tung đúng theo nghĩa đen. Tia sét chỉ sượt qua, tạo ra dòng điện cảm ứng khiến nhịp tim anh rối loạn. Mấy tay bác sĩ đều trầm trồ cái gã này sao mà may mắn quá. Mấy gã đó đều sai bét. Lúc này, Ross chẳng buồn cẩn trọng khi dò dẫm trên mái nhà đen thui ướt nhẹp của gia đình O’Donnells’ Oswego vào ban đêm. Trời đã vào tháng Tám mà gió lùa vào từ hồ Ontario vẫn còn lạnh buốt, thổi mấy sợi tóc dài vào mắt khi anh khéo léo rướn mình qua ô cửa sổ xiêu vẹo. Nước mưa vỗ xuống gáy khi anh loay hoay gắn mấy cái kẹp vào máng xối và chỉnh lại máy quay phim chống thấm nước hướng vào tầng gác mái. Đôi ủng của anh trượt một phát, khiến vài tấm ván lợp cũ mèm rơi xuống. Ông O’Donnel che ô đứng dưới đất, nheo mắt dõi theo anh. “Cẩn thận đấy,” ông ta hét lên. Ross ngầm hiểu lời O’Donnel muốn nói: Chừng ấy hồn ma là đủ lắm rồi. Nhưng Ross sẽ chẳng làm sao cả đâu. Anh sẽ không trượt chân; anh sẽ không ngã. Đây là lý do vì sao hết lần này đến lần khác, anh sẵn sàng lao vào nguy hiểm và liều mạng như nhảy bungee, leo núi và hút ma túy. Anh vẫy tay với ông O’Donnell, ra hiệu rằng mình đã nghe thấy. Nhưng Ross biết mặt trời sẽ mọc sau tám tiếng nữa, cuộc sống của anh vẫn tiếp diễn, và dù muốn đến đâu thì mình cũng không chết được. Tiếng trẻ con khiến Spencer Pike tỉnh giấc và loay hoay ngồi dậy. Tất cả phòng trong Viện Dưỡng Lão Shady Pines đều bật đèn ngủ, nhưng ông biết dù có bật điện hết công suất đủ để chiếu sáng cả thành phố Burlington này thì mình cũng chẳng thấy gì quá phạm vi chân giường. Bệnh đục thủy tinh thể khiến ông chẳng nhìn được gì. Những lúc bước ngang qua gương soi để vào phòng vệ sinh, ông loáng thoáng thấy ai đó đang nhìn mình - một anh chàng với hàng lông mày chưa lốm đốm ngả vàng; một người hoàn toàn khác với làn da nhăn nheo bọc ngoài khung xương hiện tại. Nhưng bóng dáng Spencer một thời trẻ trung vụt tan biến, bỏ lại ông với những mảnh vụn sót lại của đời mình. Dù vậy, đôi tai ông vẫn còn rất thính. Khác với mấy lão già lẩm cẩm ở đây, Spencer chưa bao giờ cần đến máy trợ thính. Quỷ thật, ông còn nghe được những thứ ông chẳng buồn quan tâm. Trời ơi, đứa nhỏ lại khóc nữa rồi. Ông vén chăn, bấm nút bên cạnh giường. Một lúc sau, y tá trực đêm bước vào hỏi, “Ông Pike, có việc gì sao?” “Có đứa nhỏ cứ khóc mãi.” Cô y tá nhanh nhẹn xoay gối và nâng cao đầu giường sau lưng ông. “Ông Pike, chẳng có đứa trẻ nào ở đây cả. Đó chỉ là mơ thôi.” Cô vỗ nhẹ lên bờ vai một thời rắn rỏi của Spencer. “Bây giờ thì ông nên ngủ tiếp đi. Ngày mai sẽ bận rộn lắm đấy. Ông có hẹn đúng không?” Ông tự hỏi vì sao cô ta nói chuyện như đang dỗ con nít vậy? Vì sao ông lại ngoan như một đứa con nít - mặc cô đỡ ông nằm xuống giường và kéo chăn lên ngực? Một loạt ký ức chực chờ dâng trào nơi cổ họng, tiếp đó là một cảm giác mơ hồ khiến ông rơm rớm nước mắt. Cô y tá ân cần hỏi: “Ông có cần vài viên Naproxen cho dễ chịu không?” Spencer lắc đầu. Từng là nhà khoa học, ông biết rõ chẳng có phòng thí nghiệm nào bào chế được loại thuốc xoa dịu nỗi đau này. Curtis Warburton ngoài đời trông nhỏ con hơn trên truyền hình. Nhưng chuyện này chẳng hề ảnh hưởng đến sức quyến rũ của anh, thứ khiến chương trình Đêm Rùng Rợn trở thành một trong những tiết mục ăn khách nhất. Mái tóc đen ngắn với vệt tóc bạc trông như lông chồn hôi - anh thành ra thế từ chín năm trước, khi hồn ma của ông nội hiện về ngay chân giường. Sau đêm ấy, anh ta bắt đầu dấn thân vào lĩnh vực điều tra hiện tượng tâm linh. Maylen vợ anh ta có dáng người thấp bé nhưng khả năng ngoại cảm vang danh đến tận sở cảnh sát Los Angeles. Cô đang ngồi bên cạnh và mải miết ghi chép khi Curtis đặt câu hỏi cho ông bà chủ nhà. “Đầu tiên là tại nhà bếp,” bà Eve O’Donnell thì thào, và chồng bà gật gù. Hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu. Hai người mua căn nhà bên hồ này làm nơi nghỉ hè, nhưng suốt ba tháng ở đây, họ gặp nhiều hiện tượng kỳ quái ít nhất hai lần mỗi tuần. “Khoảng mười giờ sáng, tôi khóa hết cửa, đặt chuông báo động và đi đến bưu điện. Lúc về nhà, chuông báo động vẫn đang bật… nhưng tất cả tủ bếp trong nhà đều mở toang, mấy hộp ngũ cốc nằm la liệt trên bàn và vương vãi xung quanh. Tôi gọi tên Harlan vì nghĩ rằng ông ấy mới về nhà và là thủ phạm của đống lộn xộn này.” “Tôi ở câu lạc bộ Elks suốt buổi sáng,” chồng bà ngắt lời. “Chưa từng về nhà. Nhà chẳng ai làm chuyện đó cả.” “Lúc hai giờ sáng, chúng tôi nghe thấy tiếng đàn calliope vọng lại từ tầng gác mái. Nhưng khi chúng tôi bước lên đó thì tiếng nhạc ngừng lại. Lúc mở cửa ra, chúng tôi thấy một chiếc đàn piano đồ chơi không hề gắn pin nằm ngay giữa sàn.” “Chúng tôi không có cây đàn piano đồ chơi nào,” ông Harlan nói thêm. “Nhà cũng chẳng có trẻ con. “Khi chúng tôi thử gắn pin vào thì tiếng nhạc phát ra từ cái đàn lại không giống với âm thanh kia.” Bà Eve ngập ngừng. “Anh Warburton, tôi hy vọng anh hiểu rằng chúng tôi không phải là những người tin… tin vào những thứ như thế. Chỉ là… chỉ là nếu như không phải là nó thì có lẽ tôi đang mất trí rồi.” “Bà O’Donnell, bà không bị mất trí đâu.” Curtis khẽ nắm tay bà ra vẻ cảm thông. “Đến sáng mai là chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về chuyện gì đang diễn ra tại nhà hai vị.” Anh ngoái đầu ra sau để đảm bảo Ross ghi lại đoạn phim này. Tùy vào việc xảy ra sau đó, nhà O’Donnells có thể xuất hiện trên chương trình Đêm Rùng Rợn. Nếu vậy thì thước phim này rất quan trọng. Mỗi ngày, nhóm Warburtons nhận được hơn ba trăm thư điện tử từ những người tin rằng nhà họ bị ma ám. Tám mươi lăm phần trăm vụ việc hóa ra là những trò chơi khăm hoặc do chuột trên nóc nhà. Những vụ còn lại thì - theo kinh nghiệm của Ross - không thể giải thích một cách đơn giản được. “Ông bà từng thấy ma chưa?” Curtis hỏi. “Hoặc là cảm giác nhiệt độ thay đổi đột ngột?” “Phòng ngủ hai vợ chồng tôi đột nhiên nóng như địa ngục khoảng một phút, sau đó lại lạnh đến rùng mình,” ông Harland trả lời. “Ông bà có cảm thấy đặc biệt không thoải mái với chỗ nào trong nhà không?” “Tầng gác mái. Còn cả phòng tắm trên lầu nữa.” Curtis đưa mắt nhìn từ tấm thảm thủ công đậm chất Đông phương đến chiếc bình cổ trên bệ lò sưởi. “Tôi phải khuyến cáo hai vị rằng bắt ma là công việc rất tốn kém đấy.” Là nhà nghiên cứu thực địa trong nhóm Warburtons, Ross được cử đến thư viện, khu tư liệu báo chí để tìm tài liệu về căn nhà hay vụ giết người hoặc tự tử từng xảy ra ở đó. Công tác điều tra của anh chẳng mang lại thông tin gì đáng giá, nhưng Curtis không hề muốn bỏ cuộc. Dù sao thì ma quỷ có thể ám cả người lẫn nhà. Lịch sử luôn để lại vết tích, như mùi nước hoa nhàn nhạt hay vệt ký ức in đậm sau ánh mắt. “Cứ tiến hành thôi,” bà Eve O’Donnell đáp. “Tiền bạc không thành vấn đề.” “Tất nhiên là vậy rồi.” Curtis vừa cười vừa vỗ tay đánh bốp lên đầu gối. “Tốt lắm. Chúng tôi có vài việc phải làm.” Đó là ám hiệu của Ross. Trong quá trình điều tra, anh chịu trách nhiệm thiết lập và giám sát các thiết bị điện từ, máy quay video kỹ thuật số, nhiệt kế hồng ngoại. Bất chấp lợi nhuận kếch xù do chương trình truyền hình và những vụ làm ăn kiểu này mang lại, Ross làm việc với mức lương rẻ mạt. Chín tháng trước, sau khi đọc về nhóm Warburtons trên tờ tạp chí L.A. Times vào ngày lễ Halloween, Ross đã phải nài nỉ họ nhận mình vào làm. Khác với Curtis và Maylene, dù rất muốn nhưng anh chưa từng thấy một linh hồn nào cả. Anh hy vọng khả năng ngoại cảm có thể lây qua đường tiếp xúc giống như bệnh đậu mùa và in lại dấu ấn vĩnh viễn trên người anh. “Tôi nghĩ mình nên kiểm tra tầng gác mái,” Ross đề nghị. Anh đứng giữa hành lang, đợi bà Eve O’Donnel dẫn đường. Dù anh chẳng hề thắc mắc nhưng bà vẫn thừa nhận, “Tôi cảm thấy thật là ngu ngốc, từng tuổi này rồi mà còn thấy ma Casper.” Ross mỉm cười. “Ma có thể làm bà rùng mình một tí, hoặc khiến bà nghĩ mình bị mất trí nhưng sẽ không làm hại bà đâu.” “Ồ, tôi cũng không nghĩ cô ấy sẽ hại tôi.” “Cô ấy?” Bà Eve ngập ngừng. “Harlan dặn tôi không được chia sẻ quá nhiều thông tin để tránh việc các anh hiểu sai vấn đề.” Bà rùng mình, liếc mắt về phía cầu thang. “Em gái tôi mất hồi tôi bảy tuổi. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi… liệu ma có tìm được người nào đó nếu nó muốn?” Ross hướng mắt ra chỗ khác. “Tôi không biết nữa,” anh đáp, thầm ước giá mà mình có thể đáp lời bà ấy với một câu trả lời cụ thể hay chia sẻ trải nghiệm cá nhân. Mắt anh sáng lên khi nhìn thấy cánh cửa nhỏ ngay trên bậc cầu thang. “Ở đây à?” Bà gật đầu, để anh vượt lên trước và mở cửa. Chiếc máy quay phim Ross gắn ngoài cửa sổ trông như con mắt của người khổng lồ Cyclops đang dõi theo hai người. Eve sợ đến rúm ró cả người. “Bước vào đây là tôi thấy ớn lạnh.” Ross dời mấy cái hộp để tránh trường hợp hình bóng kỳ lạ nào đó xuất hiện trong thước phim bị nhận nhầm. “Curtis nói đó là cách tìm ra họ, chỉ cần nghe theo cảm giác mách bảo.” Mắt anh nhìn trúng thứ gì đó lấp lánh trên sàn nhà. Anh khuỵu gối nhặt lên vài đồng xu. “Tất cả có 6 xu.” Anh mỉm cười. “Kỳ quái thật.” “Thỉnh thoảng cô ấy vẫn làm vậy.” Bà Eve lùi dần về phía cửa, hai tay ôm lấy vai. “Luôn để lại cho chúng tôi mấy đồng xu lẻ ấy.” “Con ma đấy sao?” Ross xoay người lại thắc mắc nhưng bà Eve đã chạy xuống lầu. Hít một hơi thật sâu, Ross đóng cửa phòng gác mái lại và tắt hết đèn, để bóng tối tràn ngập căn phòng nhỏ. Anh lách mình sang góc phòng, tránh khỏi tầm máy quay phim rồi khởi động nó bằng điều khiển từ xa. Sau đó Ross cố tập trung vào bóng tối bủa vây trước ngực và sau hai đầu gối, giống như chỉ dẫn của Curtis Warburton. Ross thả lỏng tất cả giác quan, chờ đến khi sự hoài nghi giảm dần và khoảng không xung quanh mở rộng. Anh thầm nghĩ, có lẽ chính là cảm giác này. Cảm giác khi những bóng ma vây quanh giống như cổ họng lúc nấc nghẹn. Bên trái có tiếng bước chân, kèm theo tiếng leng keng không lẫn vào đâu được của mấy đồng xu rớt trên sàn. Ross bật đèn pin rọi quanh phòng, đến chỗ đôi ủng của mình thì thấy có ba đồng xu nằm đó. “Aimee?” anh thì thào với khoảng không trống trải. “Có phải em không?” Thị trấn Comtosook bang Vermont nằm giữa nhiều ranh giới tự nhiên: vùng trũng dẫn nước chảy vào hồ Champlain, vách núi dựng đứng bao quanh mỏ đá granite nơi nửa số dân thị trấn đang làm việc. Dường như có một giới tuyến vô hình ngăn giữa vùng nông thôn bang Vermont và thành phố Burlington liền kề. Nhà thờ thuộc Tự trị giáo đoàn ở trung tâm thành phố có treo một bảng hiệu ca ngợi Comtosook là vùng đất đẹp nhất tiểu bang do tạp chí Đời Sống Vermont trao tặng năm 1994. Thật không sai. Có những ngày, Eli Rochert chỉ biết nín thở ngắm nhìn tán lá đang chuyển màu, nào là màu hồng ngọc, màu hổ phách và cả màu ngọc lục bảo. Nhưng dù khách du lịch có nghĩ gì về Comtosook thì đây vẫn là quê hương Eli. Đã từng, và mãi mãi. Anh vẫn cho là vậy. Tất nhiên, với cương vị là một trong hai cảnh sát của thị trấn, anh biết rõ những gì du khách thấy chỉ là ảo ảnh. Từ lâu Eli đã biết có những thứ dù có cố nhìn chằm chằm thì cũng không thấy được những gì nằm ẩn sâu dưới mặt ngoài. Anh lái xe dọc con phố Nghĩa Trang. Anh vẫn hay tuần tra vào những đêm trăng tròn vành vạnh tỏa ra ánh vàng như mắt diều hâu. Mấy cửa sổ xe đều kéo xuống nhưng chẳng có ngọn gió nào thổi qua. Phần tóc đen ngắn ngủn sau gáy Eli nhớp nháp dính vào gáy. Ngay cả Watson, chú chó săn của anh, cũng đang thở hổn hển trên ghế sau. Mấy tấm bia mộ cũ kỹ nằm ngả nghiêng như những chiến binh với đôi chân rệu rã. Bên trái khu nghĩa trang, gần chỗ cây sồi, là bia mộ kỳ quặc nhất của thị trấn Comtosook. Bia đề, WINNIE SPARKS. SINH NĂM 1835. QUA ĐỜI NĂM 1901. QUA ĐỜI NĂM 1911. Truyền thuyết kể rằng khi đang trên đường đưa tang cho bà lão cay nghiệt có tiếng ra khu nghĩa địa thì mấy con ngựa kéo lồng lên, khiến quan tài rớt xuống. Sau đó nắp quan tài bật ra, bà Winnie ngồi dậy, leo ra khỏi đó rồi khạc nhổ điên cuồng. Mười năm sau khi bà chết - thêm một lần nữa - thì ông chồng tội nghiệp đã đóng đến 150 chiếc đinh trên nắp quan tài để phòng chuyện trước kia. Mời các bạn đón đọc Hai Cõi Người Ta của tác giả Jodi Picoult & Trần Nguyên Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nóng Bỏng
Bậc thầy phim kinh dị Lee Child trở lại với một truyện ngắn. Giữa một đợt nắng nóng dữ dội và một vụ giết người khét tiếng, sự cố mất điện đã đánh thức mặt tối không bao giờ ngủ của thành phố—và Jack Reacher trẻ tuổi hành động theo khả năng của mình.   Đừng bỏ lỡ phần xem trước thú vị của tiểu thuyết Jack Reacher rất được mong đợi của Lee Child, Never Go Back!   Tháng 7 năm 1977. Jack Reacher gần mười bảy tuổi và anh dừng lại ở Thành phố New York trên đường đến thăm anh trai mình ở West Point. Cái nóng mùa hè ngột ngạt, thành phố phá sản và tay súng điên loạn được biết đến với cái tên Son of Sam vẫn đang lẩn trốn. Reacher gặp một người phụ nữ có vấn đề và đồng ý giúp cô ấy. . . nhưng sau đó lưới điện bị hỏng và đèn tắt, khiến thành phố vô luật pháp rơi vào hỗn loạn. Một thiếu niên đến thăm làm gì trong bóng tối? Nếu thiếu niên đến thăm đó là Jack Reacher, câu trả lời là rất nhiều. *** Jack Reacher là sáng tác của Lee Child, một nhà văn người Anh và từng là một nhà sản xuất phim truyền hình. Khi nhìn danh sách những nhà văn bán chạy nhất ở Mỹ, ông thấy rằng mỗi năm có khoảng năm cái tên luôn xuất hiện trong danh sách này, và muốn trở thành một trong số họ. Và giờ ông đã đạt được mục đích đấy. Jack Reacher lần đầu xuất hiện trong Killing Floor, ra mắt vào năm 1997. Từ đó, mỗi năm ông xuất bản một tiểu thuyết về Reacher (năm 2010 còn có hai cuốn!). Reacher từng là một cảnh sát cấp trung tá, làm việc trong một đội cảnh sát chuyên về những vụ án hóc búa. Sau khi nghỉ việc (với những lý do đầy bí ẩn), anh thang lang khắp nơi, không có nhà cửa, bằng lái xe, và chỉ mang theo mình một chiếc bàn chải đánh răng, thẻ ATM và một hộ chiếu đã hết hạn. Khi một nhân vật trong truyện hỏi anh có phải người vô gia cư không, anh trả lời người vô gia cư thường cũng có nhiều hành trang không cần thiết hơn. Reacher chỉ mang theo mình những thứ cần thiết – luôn mua quần áo mới, không ở lâu ở một nơi, chỉ đủ lâu để giải quyết những vụ án bí ẩn. Reacher như người vô hình, một sự tồn tại khá hấp dẫn khi ngày nay mỗi bước đi của chúng ta đều được chụp ảnh, ghi chép và đánh dấu. Reacher được tả là tóc vàng để theo kiểu đầu đinh, cao gần 2m1 và nặng gần 100kg. Nói ngắn gọn: đây là một gã khá đô. Trong tiểu thuyết, anh có thể một tay bóp nát sọ người. Sự đồ sộ của Reacher và trí thông minh của anh khiến anh trông rất đáng sợ: bộ não của anh cũng lớn không kém con người anh và anh không hề e ngại phải chơi xấu người khác. Ngoài vẻ bề ngoài khá nổi bật, Jack Reacher luôn đi tìm kiếm công lý. Đây là một mục đích anh học từ hồi nhỏ (anh sinh ra trong một gia đình quân đội, và chính anh trai anh cũng hy sinh trên chiến trường). Vì thế, anh ít khi bỏ qua những chuyến phiêu lưu mới dù anh hoàn toàn có thể bỏ đi mà không hề hấn gì. Nếu gặp một tình huống cần đi đòi công lý, Jack Reacher sẽ không thể không sa vào. Nói chung là tất cả các tiểu thuyết trong loạt truyện này đều đáng đọc và luôn lôi cuốn. Mỗi tập đều tập trung vào cốt truyện và nhân vật, khai thác những mối quan hệ nhân vật. Nếu muốn tìm hiểu thêm, bạn có thể tìm đọc One Shot; phim Jack Reacher được dựa theo cuốn đó. The Enemy và The Affair kể về quá khứ của Reacher. Rồi có Gone Tomorrow đã được nhắc tới, vui nhộn với bối cảnh New York. Bạn cũng có thể đọc thêm 61 Hours và Worth Dying For, hai cuốn Reacher được ra mắt cùng năm. *** Tên đàn ông đã ngoài ba mươi tuổi, rõ ràng là rắn rỏi và đang nóng nực, Reacher nghĩ vậy. Hắn đang đổ mồ hôi trong bộ vest của mình. Người phụ nữ mặt đối mặt với hắn có thể trẻ hơn, nhưng không nhiều. Cô ấy cũng nóng, và sợ hãi. Hoặc ít nhất là căng thẳng. Điều đó đã rõ ràng. Tên đàn ông đã ở quá gần cô. Cô ấy không thích điều đó. Đã gần tám giờ rưỡi, trời sắp tối. Nhưng nhiệt độ không giảm. Ai đó đã nói là một trăm độ[1]. Một đợt nắng nóng thực sự. Thứ 4, ngày 13 tháng 7 năm 1977, Thành phố New York. Reacher sẽ luôn nhớ ngày tháng. Đó là chuyến đi một mình lần thứ hai của anh. Tên đàn ông đặt lòng bàn tay của hắn lên ngực của người phụ nữ, ấn làn vải bông ẩm vào da cô, đầu ngón tay cái của hắn đặt vào khe ngực của cô. Không phải là một cử chỉ dịu dàng. Nhưng cũng không phải là một cử chỉ hung hăng. Trung lập, giống như một bác sĩ. Người phụ nữ không lùi bước. Cô ấy chỉ đứng sững tại chỗ và liếc nhìn xung quanh. Nhưng không thấy gì nhiều. Thành phố New York, tám giờ rưỡi tối, nhưng đường phố vắng tanh. Trời quá nóng. Waverly Place, giữa Đại lộ Số Sáu và Quảng trường Washington. Mọi người sẽ đi ra đường sau, nếu có. Sau đó, tên đàn ông bỏ tay ra khỏi ngực người phụ nữ, và hắn hất nó xuống như muốn đánh bay một con ong khỏi hông cô, và sau đó hắn ta quất nó trở lại, như trên một chiếc xích đu trong nhà tròn quay lớn và tát mạnh vào mặt cô ấy, với đủ sức mạnh cho một tiếng bốp ác liệt, nhưng tay hắn và mặt cô quá ẩm ướt đối với âm thanh của súng lục, nên âm thanh phát ra chính xác như từ: chát. Đầu của người phụ nữ bị hất sang một bên. Âm thanh vang vọng như từ viên gạch bị bong tróc. Reacher la lên, “Này”. Tên đàn ông quay lại. Hắn ta tóc đen, mắt đen, có lẽ năm - mười[2], có lẽ hai trăm pound. Áo sơ mi của hắn trong suốt vì mồ hôi. Hắn nói, “Biến đi, nhóc”. Vào đêm đó, Reacher còn chưa đầy ba tháng mười sáu ngày trước sinh nhật lần thứ mười bảy của ình, nhưng về thể chất, anh đã trưởng thành khá nhiều. Anh cao gần đến chiều cao đạt được sau này, và không một người lành mạnh nào có thể gọi anh là gầy. Anh sáu - năm[3], hai - hai mươi[4], tất cả đầy cơ bắp. Thể chất đã hoàn thành, ít nhiều. Nhưng mới hoàn thành rất gần đây. Hàng mới toanh. Hàm răng trắng và đều, đôi mắt của anh gần giống màu nước biển, mái tóc lượn sóng và cơ thể, làn da mịn màng và trong sáng. Các vết sẹo và các đường và vết chai vẫn chưa có. Tên đàn ông nói, “Ngay bây giờ, nhóc”. Reacher nói, “Thưa cô, cô nên tránh xa người này”. Người phụ nữ đã làm như vậy, lùi lại, một bước, hai bước, ra khỏi phạm vi của hắn. Tên đàn ông nói, “Mày có biết tao là ai không?” Reacher nói, “Có sự khác biệt nào hay sao?” “Mày đang chọc giận nhầm người rồi đó”. “Người?” Reacher nói. “Đó là một từ số nhiều. Ông có nhiều hơn một người sao?” “Mày sẽ thấy”. Reacher nhìn quanh. Đường phố vẫn vắng vẻ. “Khi nào tôi sẽ phát hiện ra?” anh nói. “Rõ ràng là không có ai”. “Mày nghĩ mày thông minh lắm sao?” Reacher nói, “Thưa cô, tôi rất vui ở đây để giữ ông ta lại, nếu cô muốn chạy đi”. Người phụ nữ không di chuyển. Reacher nhìn cô. Anh nói, “Có phải tôi đang hiểu lầm điều gì đó không?” Tên đàn ông nói, “Biến đi, nhóc”. Người phụ nữ nói, “Cậu không nên can dự vào”. “Tôi không can dự vào đâu cả”, Reacher nói. “Tôi chỉ đang đứng đây, trên đường phố”. Tên đàn ông nói, “Đi mà đứng ở phố khác”. Reacher quay lại và nhìn hắn ta và nói, “Có ai chết và ông thành thị trưởng hả?” “Đó là một cách nói, nhóc. Mày không biết đang nói chuyện với ai đâu. Mày sẽ hối tiếc về điều đó”. “Khi những người khác đến đây à? Đó có phải là ý ông không? Bởi vì hiện tại chỉ có ông và tôi. Và tôi không lường trước được sẽ hối tiếc gì về điều đó, dù sao thì không phải cho tôi, trừ khi ông không có tiền”. “Tiền gì?” “Để tôi lấy”. “Cái gì, bây giờ mày nghĩ mày sẽ nghiền nát tao à?” “Không phải điều ông muốn”, Reacher nói. “Nhiều hơn một sự kiện lịch sử. Một nguyên tắc cũ. Như một truyền thống. Ông thua cuộc chiến, ông phải từ bỏ kho báu của mình”. “Mày và tao có chiến tranh hả? Nếu có, mày sẽ thua, nhóc. Tao không quan tâm mày cao lớn thế nào, thằng bé quê mùa nhai bắp. Tao sẽ đá vào mông mày. Tao sẽ đá nó thê thảm”. Người phụ nữ vẫn cách đó sáu bước chân. Vẫn không nhúc nhích. Reacher lại nhìn cô và nói, “Thưa cô, quý ông này đã kết hôn với cô hay có quan hệ họ hàng với cô theo một cách nào đó, hay có quan hệ với cô về mặt xã hội hay nghề nghiệp nào không?” Cô nói, “Tôi không muốn cậu can dự vào”. Cô trẻ hơn hắn, chắc chắn. Nhưng không nhiều. Vẫn tuyệt vời đứng đó. Có thể là 29 tuổi. Một cô gái tóc vàng nhạt. Ngoài màu đỏ rực từ cái tát, cô trông rất đẹp, theo kiểu phụ nữ lớn tuổi. Nhưng cô gầy và lo lắng. Có lẽ cô đã gặp nhiều căng thẳng trong cuộc sống. Cô đang mặc một chiếc váy mùa hè rộng dài quá đầu gối. Cô có một chiếc túi xách được đeo qua vai. Reacher nói, “Ít nhất hãy nói cho tôi biết điều gì mà cô không muốn tôi dính vào. Đây có phải là một gã ngẫu nhiên nào đó đang quấy rối cô trên đường phố không? Hay không phải như vậy?” “Có gì khác đâu?”   Mời các bạn đón đọc Nóng Bỏng của tác giả Lee Child & DgHien (dịch).
Tỉa Dần
James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** - Dù thế nào em cũng phải nhìn nhận. - Tôi sảng khoái nói - Khung cảnh ấm cúng hữu tình của cái hang ổ này vẫn còn hơn rất xa bất cứ hộp đêm "Guốc Vàng" nào trên thế giới. Tôi dịu dàng rót rượu vào ly nàng, châm thêm điếu thuốc rồi vui vẻ nói tiếp: - Hãy chậm rãi nha cưng. Này, thức ăn ngon tuyệt vời, rượu đặc biệt thượng hạng, cảnh trí trần thiết màu sắc hài hòa thanh nhã và nhạc điệu réo rắt nhặt khoan có thua gì cảnh thần tiên không? - Phải, em đồng ý với những thứ kia, ngoại trừ âm nhạc - Annabelle Jackson hổn hển nói - Có phải là một tội ác hay không, khi người ta đưa Clarence Nesbitt, một nhạc sĩ tầm cỡ trường phái Jazz, vào phòng hơỉ ngạt? - Vâng, anh sẽ nghĩ lại, người ta có nên sửa đổi quan điểm về âm nhạc hay không - Tôi tỏ vẻ khiêm tốn, nhìn nàng dịu dàng đáp lại. Tôi đặt đĩa nhạc có lời tựa "Wee small hour" tập nhạc trữ tình của Frank Sinatra vào dàn máy, rồi quay lưng lại ngồi cạnh nàng trên tràng kỷ. - Thú thật, em cần phải đi về, anh à - Annabelle nài nỉ. - Ở lại đây không hơn hay sao? - Nguy hiểm anh ạ - Nàng khẽ nói, không tin tưởng. Giọng hát trầm trầm truyền cảm của bài "Mood indigo" được phát ra trung thực qua chiếc loa Hifi hiện đại đã làm Annabelle có phần hòa dịu. - Ấy, cái chỗ của anh không đảm bảo an toàn cho em là thế đấy, Al. Thú thật lần đầu tiên em quá bạo mới đến đây với anh. - Anh hiểu điều này, em yêu. - Em đã nghĩ đúng, chuyện sẽ xảy ra như thế này. - Như thế nào? - Hai chiếc giường, các tấm thảm dày ngăn tiếng động, trong khi đó không có một chiếc ghế để ngồi. Về ánh sáng, dĩ nhiên nó phải mờ mờ... - Em yêu, anh say đắm không khí hữu tình này... - Nhưng em chưa hiểu cái bên trong của nó - Đột nhiên nàng nói nhiệt tình. Ly của nàng vừa uống cạn, tôi vội vàng châm thêm thật đầy. - Lúc này Rena như thế nào? - Nàng đưa mắt ngây thơ hồn nhiên hỏi. - Chỉ biết anh không gặp lại cô ấy, thế thôi. - Anh nên sửa đổi lại. Qua những điều người ta nói với em thì anh vẫn gặp cô ả đều đều. - Cô ta thừa kế tờ nhật báo của bố và bận rộn tất bật vì công việc. Chừng như ả phát hiện được cá tính năng động nhiều quyến rũ nơi các chàng nhà báo trẻ. Annabelle đắm đuối nhìn tôi nhưng âm thầm không nói. Tôi trả lại nàng ánh mắt yêu thương thành thật nhất. Nàng khép mắt lại, từ từ thư giãn rồi thì thầm bên tai tôi những lời tin cẩn. - Em phát điên lên khi đến với anh. Nhưng thú thật em là cô gái hiếu kỳ, Al Wheeler ạ. - Về chuyện gì thế? - Về tất cả mọi chuyện liên quan tới anh. Em luôn luôn tự hỏi nó có phải là sự thật hay không. - Trời ạ, mà chuyện gì mới được? - Không quan hệ lắm đâu cưng! Nhưng em thắc mắc, thế thôi. Chiếc ly rỗng của nàng rơi vào bàn tay tôi như miếng thẻ nhôm ấn vào cái hộp nhạc. Sinatra sướt mướt "Can't we be íriens" — Chúng ta không thể là bạn của nhau. Hoan hô Frank dũng cảm, anh luôn luôn đến trám chỗ hổng hụt. Tôi dán sát vào nàng trên tràng kỷ và trao cho nàng thêm ly rượu đầy. - Anh sẽ nói em nghe - Giọng tôi xuống thấp - rằng em là cô gái bướng bỉnh... - Em ấy à? - Nàng hỏi giọng trong trẻo hồn nhiên. - Quá đẹp cũng là tai họa. Mỗi lần nhìn em thì y như rằng anh quên bẵng kỹ thuật. Thật là nguy hiểm, anh cần nhiều năm để điều chỉnh lại... - Giọng nói đó - Nàng thổ ra mơ màng - Đã làm em rung cảm! - Ô! Chỉ đơn giản thôi - Tôi khiêm nhường - Một điều hợp qua đường dây thanh quản của anh, cái mà... - Em nói về Sinatra cơ! - Nàng cắt ngang, rồi kề môi nhấp cạn ly Whisky cuối cùng. Nàng cẩn thận đặt ly xuống nền sàn rồi bất ngờ vòng tay ôm choàng lấy tôi. Đôi môi tô thắm và khêu gợi của nàng ngập ngừng chờ đợi bờ môi tôi. Tôi ghì chặt nàng vào đôi tay đùm bọc yêu thương nếu không nói là điêu luyện. Chúng tôi cuốn chặt vào nhau. Môi kề môi nồng nàn... Điện thoại reo vang inh ỏi. Nàng đẩy nhẹ tôi ra, thở hổn hển. - Al. Điện thoại! - Mặc nó! Nhầm số rồi đấy! - Tôi nói đứt quãng. - Tại sao anh biết? - Trời ạ, thử hỏi ai có đủ can đảm gọi tôi vào giờ này? Nàng đưa hai tay đẩy mạnh tôi ra. - Em muốn biết con nỡm nào gọi lại! Đến nhấc ống nghe đi! Tôi uể oải đứng lên, đến bắt ống nghe trong khi miệng làu bàu: - Cái gì hử? - Wheeler! Chúa ơi, cái giọng báo đời không ngớt hành hạ tôi, nó đang ong óng: - Tôi cần gặp anh lập tức! - Sếp ơi! - Tôi nài nỉ thiếu điều muốn lạy - Có phải sếp định đưa một đại đội cảnh sát tiến vào tòa thị chính hay sao? - Dỏng tai nghe rõ này: Ngay lập tức, nói cách khác, không được trì hưỡn! Tiếng dập máy tàn nhẫn từ phía kia đầu dây làm lùng bùng hai lỗ tai tôi. Tôi nhìn Annabelle vẻ van xin, nhưng nàng đã đứng lên, mở túi xách, tô thắm lại đôi môi. - Em biết - Nàng nói để chận trước những lời biện bạch của tôi - Chỉ có cách này mới gọi là "Tiếng cồng đã cứu đời em"!   Mời các bạn đón đọc Tỉa Dần của tác giả James Hadley Chase.
Truy Lùng
Masao đau đớn khi nhận tin cả hai bố mẹ đã tử nạn sau một tai nạn máy bay. Kinh hoàng và xót xa tột độ nhưng bằng trí thông minh, sự tỉnh táo của mình, Masao kịp nhận ra phía sau đó là một âm mưu… Bản năng sinh tồn cùng với quyết tâm làm sáng rõ cái chết của cha mẹ đã giúp Masao tẩu thoát và truy tìm sự thật. Nhưng ở bất cứ đâu, Masao cũng phải đối diện với sự truy lùng ráo riết đầy nguy hiểm của người chú - kẻ chủ mưu chiếm đoạt tài sản của cha mẹ anh. Cuộc chạm trán cuối cùng đầy bất ngờ và kịch tính, Masao tưởng rằng, mọi chuyện đã chấm hết. Nó cũng kết thúc, nhưng người phải chết lại không phải Masao… *** Sidney Sheldon , là một tiểu thuyết gia người Mỹ, đoạt giải của Viện Hàn Lâm nghệ thuật Mỹ, ông còn là một kịch tác gia và một người viết kịch bản phim và chương trình truyền hình chuyên nghiệp. Sheldon sinh tại Chicago, Illinois, với tên khai sinh là Sidney Schechtel, có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Phần lớn tác phẩm của ông thuộc thể loại trinh thám, hình sự, tình cảm, và đều thuộc hàng best-seller. Các tác phẩm như Rage of Angels (Thiên thần nổi giận), The Other Side of Midnight (Phía bên kia nửa đêm), If Tomorrow Comes (Nếu còn có ngày mai)... đã làm nên tên tuổi Sheldon. Với cốt truyện ly kỳ, hồi hộp, gây thích thú, những quyển sách này đã lôi kéo khá đông độc giả đến với Sheldon. Sidney Sheldon đã xuất bản 18 tiểu thuyết, bán ra đến 300 triệu bản, và là tác giả sách nổi bật nhất trong nhiều thập kỷ. Các bản dịch tác phẩm sang 71 ngôn ngữ ở 180 quốc gia giúp ông được Sách Kỷ lục Guinness công nhận là “tác giả được dịch nhiều nhất thế giới”. Ông qua đời tại bệnh viện Eisenhower ở thành phố Rancho Mirage thuộc bang California, Hoa Kỳ và thọ 89 tuổi. Ước tính tổng tài sản sau khi qua đời của Sidney Sheldon là 3 tỷ USD. Các bộ tiểu thuyết của Sidney Sheldon: The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi (Tên khác: Người Đàn Bà Quỷ Quyệt) If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Kí ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) *** Sidney Sheldon Truy Lùng   Mở đầu   - Chú ý! Phi công biết chắc rằng tất cả họ sẽ chết. Trong cơn bão giật điên cuồng, chiếc máy bay Silver Arrow Jet mười hai chỗ ngồi bị nhồi lên dội lên dội xuống như một thứ đồ chơi giữa đất trời vùng Appalache. Phi công chính và phụ lái cố ráng sức giữ mũi bay nhoi vượt thoát trận cuồng phong mãnh liệt. Chiếc Silver Arrow Jet quả là một chiếc máy bay tuyệt diệu, được thiết kế và lắp ráp hoàn hảo. Song, vào những giây phút cuối cùng, máy móc bị trục trặc. Một trong hai hành khách ngồi ở cabin sang trọng trên máy bay đứng dậy, tiến vào buồng lái và nói: - Máy móc bị trục trặc, cánh quạt quay không đủ lực đưa máy bay thoát lên cao. Thông thường, phi công đã bảo vị khách nọ quay về chỗ của ông. Nhưng điều đó không thể áp dụng vào trường hợp này. Vị khách nọ là ngài Yoneo Matsumoto, người sáng lập và chủ tịch một trong những tổ hợp công nghiệp lớn nhất thế giới. Phi công vội đáp: - Dạ thưa, kiệt lực rồi ạ. Cả ba người đàn ông hiểu rõ ý nghĩa của câu nói đó. Hết hy vọng sống sót. những ngọn núi nhấp nhô như lớp lớp tên nhọn chĩa cao chờ dịp là lao xô vào máy bay. Lực tàn sức cạn, nó khó bề thoát lên tránh hiểm họa. Máy bay bắt đầu mất độ cao và lê lết như con thú bị thương. Yoneo Matsumoto quan sát một lát các thiết bị trong buồng lái, rồi quay về bên chỗ vợ ngồi. Qua nét mặt bình thản, không để lộ chút hoảng hốt của vợ, ông biết rằng bà không hề sợ hãi. Ông âu yếm nắm tay bà. Bà mỉm cười nhìn ông chan chứa yêu thương. Yoneo Matsumoto sẵn sàng đón nhận cái chết. Ông đã sống một cuộc đời sôi động, đầy ý nghĩa, ông đã thành đạt hơn biết bao người khác. Từ hai bàn tay trắng, ông đã gây dựng nên nền công nghiệp Matsumoto, doanh nghiệp mà mọi ông chủ đều có quyền tự hào. Ông có hàng ngàn nhân viên làm việc trong cả trăm công xưởng nằm khắp thế giới. Họ tận tụy với ông và rất mực yêu mến, quý trọng ông. Tâm trí ông quay trở lại những ngày đầu, khi ông còn rất trẻ, vừa tốt nghiệp trường đại học. Ông có năng khiếu bẩm sinh về ngành điện tử và mọi cửa đều rộng mở đón chào ông. Ông đã gặp Eiko và yêu bà say đắm. Bà tiếp thêm cho ông sức mạnh của lòng can đảm và nghị lực để xây dựng nên hãng công nghiệp của chính mình. Trong năm năm đầu, ông lăn lộn suốt ngày đêm, cố kiếm miếng ăn manh áo nuôi Eiko và Massao, đứa con trai nhỏ của hai vợ chồng. Con đường Yoneo Matsumoto lựa chọn thật chông gai, gian khổ, nhưng vốn là người trọng danh dự và có tài, ông không hề nao núng chùn bước trước bất kỳ khó khăn, trở ngại nào. Đường doanh nghiệp của ông mỗi ngày một thênh thang rộng lớn rồi từ một hãng sản xuất, nó phát triển thành một tổ hợp kinh doanh hùng mạnh. Nền công nghiệp Matsumoto dần dà thu hút các hãng và chi nhánh khác, và từ một cơ sở kinh doanh non trẻ, nó trở thành một công ty khổng lồ - một triều đại công nghiệp bao trùm thế giới chuyên sản xuất các loại máy bay và máy tính điện tử, các loại máy quay phim, máy ảnh, máy thu thanh, truyền hình và hàng trăm chủng loại khác nữa. Một tiếng sét đột ngột dội lên bứt ông ra khỏi mọi suy tư. Tiếp ngay sau đó, một làn chớp sáng ngời rạch ngang bầu trời tựa hồ như vừa có một quả tên lửa khổng lồ điên cuồng lao vút vào khoảng không. Những người ngồi trên máy bay thấy rõ trong khoảnh khắc toàn bộ khung cảnh ngoài trời: quanh họ nhìn đâu cũng chỉ toàn vách núi hiểm trở. Ánh chớp tắt lặn, cảnh vật lại chìm trong bóng đen dày đặc. Yoneo Matsumoto siết chặt tay người vợ thân yêu đã cùng ông chia sẻ mọi nỗi buồn vui, đã từng cổ vũ, động viên ông vượt qua bao sóng gió cuộc đời. Lúc này đây, giữa cảnh trời đất đảo điên trong cơn giông tố cuồng phong, bà lại ở bên ông hiền hậu, dịu dàng và bình tĩnh. Chỉ dăm phút nữa, cả hai ông bà sẽ xa lìa cuộc đời này. Nhưng họ còn đứa con trai Massao, nó sẽ tiếp tục sự nghiệp của họ. Massao sẽ thừa kế để chế Matsumoto và nó sẽ vững vàng cai quản đế chế mà hai vợ chồng đã cùng chung sức tạo dựng nên. Ánh chớp khủng khiếp lại vụt loé và họ thấy rõ cảnh tượng bên ngoài như cảnh địa ngục: một đỉnh núi phủ đầy tuyết đùn lên những áng mây đen tựa chiếc vạc dầu sôi bốc khói nghi ngút và, ngay trước mặt họ, là sườn núi dựng đứng lởm chởm đá như những chiếc răng nhọn nhe ra chỉ chờ họ lao vào là phanh thây xé xác. Mấy giây sau, cả thế giới dường như bị nổ tung thành hàng ngàn tia lửa nhỏ. Sau đó, cảnh vật lại chìm vào bóng đêm chết chóc rùng rợn, gió gào rú thê lương, vang vọng khắp một vùng đất cô đơn trải dài vô tận... Mời các bạn đón đọc Truy Lùng của tác giả Sidney Sheldon.