Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cảnh Đồi Mờ Xám

Nhận được tin Keiko, con gái lớn của mình tự tử, Etsuko, một phụ nữ Nhật Bản sống một mình ở Anh đã bắt đầu cuộc hành trình chìm đắm vào những kí ức về một mùa hè ở Nagasaki hậu chiến. Trung tâm của những kí ức mơ hồ ấy là một tình bạn lạ lùng với Sachiko, người đã bị cuộc chiến tranh tước đi tất cả trừ đứa con gái nhỏ cùng một khao khát mãnh liệt phải đến nước Mỹ bằng mọi giá. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Kazuo Ishiguro đã khắc họa nên bức tranh những số phận ở nước Nhật Bản bại trận, nơi các nhân vật của ông vật lộn, xoay xở, dằn vặt với những thay đổi đến quá nhanh và quá dữ dội. Nhưng sâu hơn, cuốn sách còn là một cuộc thăm dò đầy tinh tế cái bí ẩn của kí ức. Cuộc sống hiện tại đặt nền móng trên kí ức, nhưng đến lượt mình, chính kí ức lại vô cùng bất trắc, khó lường. *** Chương một Niki, cái tên chúng tôi rốt cuộc đặt cho con gái út của mình, không phải tên tắt mà là một thỏa hiệp giữa tôi với cha con bé. Trái khoáy ở chỗ, anh lại là người muốn chọn một cái tên Nhật Bản cho nó, còn tôi - có lẽ vì một mong muốn ích kỷ không muốn gọi lại quá khứ - nên cứ nhất quyết đòi một cái tên Anh. Cuối cùng thì chồng tôi cũng đồng ý với Niki, vì tin rằng có đôi chút Đông phương phảng phất trong đó. Con bé về thăm tôi hồi đầu năm nay, vào tháng Tư, khi ngày vẫn trôi qua trong lạnh giá và mưa phùn. Có thể nó vốn định ở lại lâu hơn. Tôi không biết nữa. Nhưng ngôi nhà thôn quê và sự tĩnh lặng xung quanh khiến nó bức bối, chẳng bao lâu sau, tôi thấy rõ nó đã rất nóng lòng muốn trở về cuộc sống của mình ở London. Nó nghe các đĩa hát cổ điển của tôi với vẻ bồn chồn, lật vội qua biết bao cuốn tạp chí. Điện thoại thường xuyên đổ chuông, nó vội bước qua tấm thảm, thân hình mảnh dẻ siết trong bộ quần áo bó, cẩn thận đóng cánh cửa sau lưng để tôi không nghe được cuộc nói chuyện. Nó rời đi sau năm ngày. Phải tới ngày thứ hai nó mới nhắc đến Keiko. Hôm ấy là một buổi sáng hút gió ảm đạm, chúng tôi đã kê ghế bành ra gần cửa sổ để ngắm mưa rơi xuống mảnh vườn nhà. “Mẹ có nghĩ con sẽ đến không?” nó hỏi. “Ý con là đến lễ tang ấy.” “Không, mẹ nghĩ là không. Mẹ không thực sự nghĩ con sẽ tới.” “Nghe tin về chị ấy, con cũng buồn. Con đã suýt đến đấy.” “Mẹ chưa bao giờ nghĩ con sẽ tới.” “Mọi người không ai hiểu con bị làm sao,” nó nói. “Con không hề nói với bất kỳ ai. Chắc vì con thấy xấu hổ. Quả thực họ sẽ không hiểu được, họ sẽ không thể hiểu cảm giác của con về chuyện ấy. Chị em gái lẽ ra phải là người ta thấy gần gũi, đúng không. Có thể ta không thích họ lắm, nhưng ta vẫn gần gũi với họ. Nhưng sự thực lại không phải thế. Đến bây giờ, con thậm chí còn không nhớ chị ấy trông thế nào.” “Đúng thế, lần cuối cùng con gặp chị cũng đã khá lâu rồi.” “Con chỉ nhớ chị ấy luôn khiến con khổ sở. Con chỉ nhớ có thế về chị ấy. Nhưng mặc dầu vậy, con vẫn buồn khi nghe tin.” Có lẽ điều thôi thúc con gái tôi quay trở lại London không chỉ là sự tĩnh lặng. Vì dù chúng tôi không bao giờ nói chuyện lâu về cái chết của Keiko, chủ đề ấy không bao giờ khuất dạng, luôn lảng vảng bất cứ khi nào chúng tôi trò chuyện với nhau. Không giống Niki, Keiko là người Nhật thuần và hơn một tờ báo đã mau mắn bám vội lấy chi tiết này. Người Anh thích nghĩ rằng tự vẫn đã ăn sâu vào máu người Nhật chúng tôi, cứ như thể chẳng cần phải giải thích gì thêm; vì đó là tất cả những gì họ đưa lên mặt báo, rằng con bé là người Nhật và nó đã treo cổ trong phòng riêng. ⁎ ⁎ ⁎ Cũng chính buổi tối hôm ấy, khi đang đứng cạnh các ô cửa sổ đưa mắt nhìn ra bóng tối ngoài kia, tôi bỗng nghe tiếng Niki sau lưng mình: “Mẹ đang nghĩ gì thế?” Nó đang ngồi vắt ngang người trên ghế trường kỷ, một cuốn sách bìa mềm đặt trên đầu gối. “Mẹ đang nghĩ về một người mẹ từng quen. Một phụ nữ mẹ từng quen.” “Một người mẹ quen hồi mẹ… Trước khi mẹ đến Anh?” “Mẹ quen cô ấy hồi mẹ sống ở Nagasaki, nếu đó là điều con muốn hỏi.” Thấy nó tiếp tục nhìn mình, tôi nói thêm, “Đã lâu lắm rồi. Rất lâu trước khi mẹ gặp cha con.” Có vẻ hài lòng với câu trả lời nên sau khi buông một lời bình luận bâng quơ, nó quay lại với cuốn sách. Nói chung, Niki là một đứa trẻ biết quan tâm. Nó đến đây không chỉ để xem tôi đón nhận tin về cái chết của Keiko thế nào; nó đến thăm tôi xuất phát từ cảm giác sứ mệnh. Vì trong mấy năm gần đây, do quyết định cảm phục một số khía cạnh nhất định trong quá khứ của tôi, nó đã chuẩn bị tinh thần để nói với tôi rằng mọi chuyện đến giờ không có gì thay đổi, rằng tôi không nên ân hận vì những lựa chọn trước đây của mình. Nói ngắn gọn, để trấn an rằng tôi không phải chịu trách nhiệm trước cái chết của Keiko. Lúc này, tôi hoàn toàn không muốn nói nhiều về Keiko vì điều ấy không an ủi tôi là mấy. Tôi nhắc đến Keiko ở đây chỉ vì chuyện đó liên quan đến chuyến thăm của Niki hồi tháng Tư này, và vì chính trong chuyến thăm ấy, tôi lại nhớ đến Sachiko sau ngần ấy thời gian. Tôi chưa bao giờ thực sự thân với Sachiko. Trên thực tế, tình bạn của chúng tôi chỉ kéo dài có vài tuần lễ, không hơn, trong một mùa hè đã nhiều năm về trước. ⁎ ⁎ ⁎ Lúc ấy, những ngày khủng khiếp nhất đã qua. Lính Mỹ vẫn đông như trước - vì đang có chiến trận ở Triều Tiên - nhưng ở Nagasaki, sau những gì đã xảy ra trước đó thì đó là những tháng ngày yên ả và nhẹ nhõm. Có cảm giác thế giới đang thay đổi. Tôi và chồng sống tại một khu vực ở phía Đông của thành phố, chỉ cách trung tâm một chuyến xe điện ngắn. Gần chỗ chúng tôi ở có một con sông, có lần tôi nghe nói từng có một ngôi làng mọc lên ven bờ sông hồi trước chiến tranh. Nhưng rồi bom giội xuống và tất cả những gì còn sót lại chỉ là những đống đổ nát cháy đen. Việc tái thiết đã được tiến hành và chẳng bao lâu sau, bốn tòa nhà bê tông đã mọc lên, mỗi tòa có khoảng bốn mươi căn hộ riêng biệt. Trong số bốn tòa nhà tập thể ấy, tòa của chúng tôi được xây sau rốt, cũng chính vào thời điểm chương trình tái thiết bị tạm hoãn; vậy là giữa chúng tôi và con sông là một vùng đất trống vài mẫu toàn bùn khô và mương rãnh. Rất nhiều người phàn nàn coi ni đó là một mối đe dọa về mặt sức khỏe, và quả thật việc thoát nước ở đó rất kinh khủng. Quanh năm suốt tháng, lúc nào cũng có những hố đầy nước tù đọng, vào những tháng mùa hè, muỗi nhiều đến mức không ai chịu nổi. Thỉnh thoảng cũng thấy các viên chức tới sải chân đo đạc hoặc nguệch ngoạc ghi chép, nhưng rồi nhiều tháng trôi qua mà đâu vẫn hoàn đấy. Cư dân của khu tập thể cũng là những người như chúng tôi - các cặp vợ chồng trẻ, chồng tìm được công việc khá khẩm tại những công ty đang lên. Các công ty là chủ sở hữu của nhiều căn hộ, họ cho nhân viên của mình thuê lại với giá rất hào phóng. Căn hộ nào cũng giống nhau; sàn tatami, nhà tắm và bếp theo thiết kế phương Tây. Chúng đều nhỏ và rất khó giữ cho mát mẻ trong những tháng nóng nực, nhưng về tổng thể, các cư dân ở đây dường như đều có chung cảm giác hài lòng. Tuy vậy, ở đó, tôi vẫn còn nhớ rõ một bầu không khí tạm bợ không lẫn đi đâu được, như thể tất cả chúng tôi đang chờ đến ngày được chuyển tới sống ở một nơi khác tiện nghi hơn thế. Có một ngôi nhà gỗ nhỏ vẫn tồn tại qua sự tàn phá của cả chiến tranh lẫn những cỗ xe ủi đất của chính quyền. Tôi có thể thấy ngôi nhà từ cửa sổ căn hộ của mình, đứng lẻ loi cuối bãi đất trống rộng lớn, gần như ngay sát bờ sông. Đó là một ngôi nhà nhỏ kiểu thường gặp ở nông thôn, mái ngói dốc xuống gần sát mặt đất. Trong những khoảnh khắc trống rỗng, tôi vẫn thường đứng bên cửa sổ trân trân nhìn ngôi nhà đó. Nếu xét tới những chú ý mọi người dành cho sự xuất hiện của Sachiko, thì tôi không phải người duy nhất để mắt đến ngôi nhà ấy. Người ta bàn tán rất nhiều về hai nam công nhân một ngày nọ làm việc ở đó - những chuyện như không biết họ có phải viên chức nhà nước hay không, về sau người ta đồn rằng có người phụ nữ và đứa con gái nhỏ đến sống tại ngôi nhà, chính tôi cũng đã vài dịp thấy hai mẹ con đi qua bãi đất đầy mương rãnh. Lúc ấy là đầu hè - tôi đang mang bầu được ba hoặc bốn tháng - khi tôi lần đầu tiên để ý thấy chiếc xe Mỹ to đùng màu trắng và móp méo đang xóc nẩy chạy trên khu đất, hướng về phía bờ sông. Lúc đó trời đã sẩm tối, mặt trời đang lặn xuống sau căn nhà, thoáng chốc lóe lên trên lớp vỏ xe bằng sắt. Rồi một buổi chiều nọ, tôi nghe thấy hai phụ nữ ở trạm chờ xe điện nói chuyện về người đàn bà đã chuyển tới căn nhà vô chủ bên sông. Một người kể cho người kia mình đã nói chuyện với người ấy vào sáng hôm đó và được đáp lại bằng một thái độ khinh khỉnh không lẫn đi đâu được. Người đi cùng đồng ý rằng người mới đến có vẻ thiếu thân thiện - thậm chí có khi là kênh kiệu nữa. Cô ta trẻ lắm cũng phải ba mươi tuổi, vì con gái cô ta ít nhất cũng đã lên mười. Người phụ nữ thứ nhất bảo cô ta nói giọng Tokyo và chắc chắn không phải dân Nagasaki. Họ bàn tán một lúc về “người bạn Mỹ” của cô, rồi người phụ nữ nhắc lại thái độ kém thân thiện người lạ mặt dành cho mình sáng hôm đó. Tôi không nghi ngờ gì rằng trong số các phụ nữ cùng sống ở khu tập thể vào thời điểm đó, có những người đã phải chịu đau khổ, mang trong mình những ký ức buồn thương và kinh hoàng. Nhưng khi chứng kiến cảnh họ từng ngày bận bịu với chồng con, tôi thấy thật khó tin họ đã từng có lúc sống cuộc đời chất chứa những thảm kịch và ác mộng thời chiến. Tôi không bao giờ cố ý tỏ ra thiếu thân thiện, nhưng nếu bảo tôi không cố chứng minh điều ngược lại thì chắc cũng chẳng sai. Vì vào thời điểm ấy trong đời mình, tôi vẫn còn muốn mọi người để mình được yên. Vậy là tôi chăm chú lắng nghe hai phụ nữ nói chuyện về Sachiko. Tôi có thể hồi tưởng lại một cách sống động buổi chiều hôm ấy ở trạm chờ xe điện. Đó là một trong những ngày rực rỡ ánh nắng đầu tiên sau mùa mưa tháng Sáu, và quanh chúng tôi, các bức tường gạch và bê tông dầm nước đang dần khô ráo. Chúng tôi đang đứng trên cây cầu xe lửa và ở một bên đường ray ngay dưới chân đồi, ta có thể thấy một đám mái nhà tụm lại một chỗ, như thể các ngôi nhà đã xô nhau cùng trượt xuống dốc. Xa hơn một chút là khu tập thể của chúng tôi, nhìn như bốn cột bê tông. Lúc đó, tôi thấy đồng cảm với Sachiko, thấy phần nào hiểu được thái độ xa lánh tôi đã nhận ra khi quan sát cô từ xa. Chúng tôi rồi sẽ trở thành bạn bè với nhau vào mùa hè ấy và tôi sẽ được cô gửi gắm tâm sự riêng, ít nhất là trong một khoảng thời gian ngắn. Giờ thì tôi không nhớ chúng tôi đã gặp nhau lần đầu tiên như thế nào. Chỉ nhớ một chiều nọ tội nhận ra cô đang đi trước mình trên con đường nhỏ dẫn ra khỏi khu dân cư. Tôi vội vã đuổi theo, còn Sachiko cứ bình thản bước. Chắc hẳn lúc ấy chúng tôi đã biết tên nhau rồi, vì tôi nhớ đã gọi cô khi đến gần. Sachiko quay lại chờ tôi bắt kịp. “Có chuyện gì sao?” cô hỏi. “Thấy chị ở đây em mừng quá,” tôi nói, có chút hụt hơi. “Con gái chị, lúc em ra khỏi nhà, nó đang đánh nhau. Ở đằng kia, gần mấy rãnh nước ấy.” “Nó đánh nhau sao?” “Với hai đứa trẻ khác. Một đứa là con trai. Chúng đánh nhau dữ lắm.” “Vậy hả.” Sachiko bắt đầu đi tiếp. Tôi đi bên cạnh cô. “Em không muốn làm chị hoảng hốt,” tôi nói, “nhưng hình như chúng đánh nhau dữ lắm. Em còn thấy một vết cắt trên má con gái chị nữa thì phải.” “Vậy sao.” “Ở đằng kia, phía cuối bãi đất.” “Chúng nó vẫn đang đánh nhau à?” Cô tiếp tục đi lên đồi. “Không. Em thấy con gái chị bỏ chạy.” Sachiko mỉm cười nhìn tôi. “Em không quen thấy trẻ con đánh nhau phải không?” “Trẻ con đánh nhau thì cũng không tránh được. Nhưng em nghĩ nên nói cho chị biết. Và em nghĩ nó không định đến trường đâu. Mấy đứa kia tiếp tục đi về phía trường học, nhưng con gái chị lại quay về phía bờ sông.” Sachiko không trả lời, chỉ tiếp tục đi lên đồi. “Sự thực là,” tôi tiếp tục, “em đã định nói với chị chuyện này từ trước. Chị thấy đấy, dạo này em đã nhiều lần bắt gặp con gái chị. Hình như con bé trốn học chút ít hay sao ấy.” Con đường chia ngả trên đỉnh đồi. Sachiko dừng lại, chúng tôi nhìn nhau. “Em quan tâm đến con gái chị như vậy thật tử tế quá, Etsuko ạ,” cô nói, “hết sức tử tế. Nhất định em sẽ trở thành một bà mẹ tuyệt vời.” Cũng như hai phụ nữ ở trạm chờ xe điện, trước đây tôi vẫn nghĩ Sachiko khoảng ba mươi tuổi. Nhưng có lẽ dáng người trẻ trung của cô đã đánh lừa chúng tôi, vì nét mặt cô già dặn hơn nhiều. Cô đang nhìn tôi với vẻ thích thú thoáng hiện trên khuôn mặt, cái nhìn của cô có gì đó khiến tôi phải lúng túng cười trừ. “Chị rất cảm ơn khi em tìm chị thế này,” cô nói tiếp. “Nhưng như em thấy đấy, giờ chị đang bận chút việc. Chị phải vào Nagasaki.” “Không sao. Em chỉ nghĩ tốt hơn cả là đến nói cho chị hay, chỉ vậy thôi.” Trong khoảnh khắc, cô lại tiếp tục nhìn tôi vẫn với ánh mắt thích thú ấy. Rồi cô nói, “Em mới tử tế làm sao. Giờ thì chị xin phép. Chị phải vào thành phố.” Cô cúi chào, sau đó quay sang ngả đường dẫn lên trạm chờ xe điện. “Chỉ vì nó có vệt xước trên má thôi,” tôi nói, hơi cao giọng. “Còn con sông nữa, nhiều khúc rất nguy hiểm. Em chỉ nghĩ tốt nhất nên tìm gặp chị rồi nói cho chị hay.” Cô quay lại nhìn tôi một lần nữa. “Etsuko này, nếu em không còn việc gì để làm,” cô nói, “thì chắc hôm nay em sẽ không ngại trông con bé giúp chị đâu nhỉ. Buổi chiều chị sẽ về. Chị tin chắc em với nó sẽ rất hợp nhau.” “Em sẽ không phản đối, nếu chị muốn thế. Em phải nói là em có cảm giác con gái chị vẫn còn quá nhỏ để ở một mình suốt ngày.” “Em mới tử tế làm sao,” Sachiko nhắc lại. Rồi cô mỉm cười một lần nữa. “Đúng thế, chị tin rằng em sẽ trở thành một bà mẹ tuyệt vời.” Sau khi chia tay Sachiko, tôi xuống đồi, đi qua khu dân cư để quay về nhà. Chỉ một lúc sau, tôi thấy mình đã về đến bên ngoài tòa nhà nơi mình ở, nhìn ra dải đất trống. Không thấy bóng dáng con bé đâu, đang định quay vào thì tôi bỗng phát hiện có thứ gì đó di chuyển dọc bờ sông. Chắc con bé chỉ vừa mới đứng lên, vì giờ tôi có thể thấy rõ bóng dáng bé bỏng của nó bên kia khoảng đất đầy bùn. Thoạt đầu, một cảm giác hối thúc dâng lên trong lòng, khiến tôi những muốn quên hết chuyện này đi để quay về làm việc nhà. Nhưng cuối cùng, tôi vẫn tiến về phía con bé, cẩn thận tránh những rãnh nước tù. Theo những gì tôi nhớ thì đó là lần đầu tiên tôi nói chuyện với Mariko. Cách hành xử của nó vào buổi sáng hôm ấy chắc cũng không có gì quá bất thường, vì thực ra tôi cũng chỉ là một người lạ mặt. Nó hoàn toàn có quyền ngờ vực tôi. Và nếu quả là tôi có cảm giác bất an lạ lùng nào đó vào hôm ấy, thì có lẽ cũng chỉ là phản ứng bình thường trước thái độ của Mariko. Sau mùa mưa vài tuần trước, nước sông sáng hôm ấy vẫn khá cao và chảy xiết. Bờ đất dốc thẳng xuống mặt nước, bùn ở chân dốc nơi con bé đang đứng trông sũng nước hơn hẳn. Mariko mặc một chiếc váy bông đơn giản, dài tới gối, mái tóc cắt ngắn khiến nó có vẻ giống con trai. Không cười, nó ngẩng lên nhìn tôi đang đứng trên đỉnh con dốc bùn. “Chào cháu,” tôi nói, “cô vừa nói chuyện với mẹ cháu xong. Cháu là Mariko phải không?” Cô bé tiếp tục nhìn tôi không chớp mắt, chẳng nói một lời. Vệt trên má khi nãy tôi tưởng là máu, giờ hóa ra chỉ là một vết bùn. “Giờ này lẽ ra cháu phải ở trường chứ, đúng không?” tôi hỏi. Nó im lặng một lát. Rồi lên tiếng: “Cháu không đi học.” “Nhưng trẻ em là phải đi học. Cháu không thích đi học à?” “Cháu không đi học.” “Nhưng mẹ cháu không gửi cháu tới trường nào ở đây sao?” Mariko không đáp. Thay vào đó, nó lùi lại một bước. “Cẩn thận đấy,” tôi nói. “Không là cháu sẽ ngã xuống nước mất. Trơn lắm đấy.” Nó tiếp tục đứng dưới chân dốc nhìn lên chỗ tôi đứng. Tôi thấy đôi giày nhỏ xíu của nó nằm ngay cạnh. Cả giày và đôi chân trần của nó đều lấm lem bùn. “Cô vừa nói chuyện với mẹ cháu,” tôi nói, mỉm cười mong nó yên tâm. “Mẹ cháu nói sẽ rất vui nếu cháu lên nhà cô chờ mẹ về. Nhà cô đằng kia kìa, ở khu tập thể ấy. Cháu có thể lên nhà với cồ, ăn thử bánh cô làm hôm qua. Cháu có thích không, Mariko? Rồi cháu có thể kể chuyện của cháu cho cô nghe nữa.” Mariko vẫn nhìn tôi đầy cảnh giác. Rồi không rời mắt khỏi tôi, nó cúi xuống nhặt giày. Lúc đầu, tôi cứ tưởng điều đó có nghĩa nó chuẩn bị đi theo mình. Nhưng khi thấy nó vẫn tiếp tục nhìn mình, tôi mới hiểu ra nó nhặt giày lên là để sẵn sàng bỏ chạy nếu cần. “Cô không làm hại cháu đâu,” tôi nói rồi cười một cách căng thẳng. “Cô là bạn của mẹ cháu mà.” Theo những gì tôi nhớ, hai chúng tôi chỉ nói với nhau có thế vào buổi sáng hôm ấy. Không muốn làm con bé hoảng sợ thêm nên chỉ một lúc sau, tôi đã quay người, vượt qua bãi đất trống về nhà. Quả thực, phản ứng của con bé có phần khiến tôi phật ý; vì trong khoảng thời gian ấy, những điều tuy nhỏ nhặt vậy thôi nhưng lại khơi dậy trong tôi biết bao nỗi e sợ về bổn phận làm mẹ. Tôi tự nhủ chuyện vừa xảy ra chẳng có gì to tát và dù sao chăng nữa, trong những ngày tiếp theo, thế nào cũng có thêm nhiều cơ hội để tôi kết bạn với nó. Nhưng hóa ra, phải đến một buổi chiều khoảng hai tuần sau đó, tôi mới lại nói chuyện với Mariko. ⁎ ⁎ ⁎ Trước chiều hôm ấy, tôi chưa bao giờ đặt chân vào bên trong ngôi nhà nhỏ và đã khá ngạc nhiên khi được Sachiko mòi vào. Trên thực tế, tôi đã lập tức nhận ra cô mời mình là có mục đích gì đó. Quả đúng như vậy, tôi không nhầm. Căn nhà rất gọn gàng, nhưng tôi vẫn nhớ nó tỏa ra một vẻ tồi tàn ảm đạm; xà nhà bằng gỗ trên trần nhìn cũ kỹ và thiếu an toàn, chỗ nào trong nhà cũng phảng phất một mùi ẩm thấp. Cửa trượt ở mặt trước ngôi nhà đã được mở tung cho ánh sáng mặt trời tràn qua hiên vào trong. Mặc dầu thế, phần lớn ngôi nhà vẫn chìm trong bóng tối. Mariko đang nằm ở góc nhà cách xa nguồn sáng mặt trời nhất. Dù rất tối, tôi vẫn thấy có gì đó đang cựa quậy cạnh nó. Lại gần, tôi nhận ra đó là một con mèo lớn đang cuộn tròn trên mặt sàn tatami. “Xin chào, Mariko,” tôi nói. “Cháu có nhớ cô không?” Nó ngừng vuốt ve con mèo và ngước lên. “Cô cháu mình gặp nhau hôm nọ,” tôi nói tiếp. “Cháu không nhớ sao? Ở bờ sông ấy.” Con bé không có vẻ gì đã nhận ra tôi. Nó nhìn tôi một lúc, sau đó lại bắt đầu vuốt ve con mèo. Sau lưng mình, tôi nghe tiếng Sachiko đang pha trà trên bếp đặt ở giữa phòng. Đang định lại chỗ cô thì đột nhiên Mariko lên tiếng, “Nó sắp đẻ rồi.” “Thật sao? thế thì thích thật.” “Cô có muốn một con mèo con không?” “Cháu thật tốt, Mariko. Để cô xem thế nào đã nhé. Nhưng cô tin chắc thế nào lũ mèo con cũng tìm được một mái nhà tử tế.” “Sao cô không lấy một con mèo con?” cô bé hỏi. “Cô kia bảo sẽ lấy một con.” “Để cô nghĩ đã nhé, Mariko. Cô nào cơ?” “Cô bên kia sông. Cô ấy bảo sẽ lấy một con.” “Nhưng cô không nghĩ có ai sống ở bên kia sông, Mariko. Bên ấy chỉ toàn cây cối với rừng thôi mà.” “Cô ấy nói sẽ dẫn cháu đến nhà cô ấy. Cô ấy sống bên kia sông. Cháu không đi theo cô ấy.” Tôi nhìn cô bé trong giây lát. Rồi chợt nghĩ ra, tôi cười phá lên. “Nhưng đó chính là cô mà, Mariko. Cháu không nhớ sao? Cô bảo cháu lên nhà cô chờ mẹ cháu từ thành phố về mà.” Mariko lại ngẩng lên nhìn tôi. “Không phải cô,” nó nói. “Mà là cô kia. Cô ấy sống bên kia sông cơ. Tối hôm qua cô ấy đến đây. Khi mẹ cháu đi vắng.” “Tối hôm qua? Khi mẹ cháu đi vắng?” “Cô ấy nói sẽ dẫn cháu sang nhà cô ấy, nhưng cháu không chịu. Vì lúc ấy trời đã tối. Cô ấy nói thế thì cầm đèn theo” - con bé đưa tay chỉ chiếc đèn xách tay treo trên tường - “nhưng cháu không đi theo cô ấy. Vì lúc ấy trời đã tối.” Phía sau tôi, Sachiko đã đứng dậy và đang nhìn con gái. Mariko trở nên im lặng, sau đó ngoảnh đi và tiếp tục vuốt ve con mèo. “Ra ngoài hiên đi,” Sachiko nói với tôi, tay bê khay trà. “Ngoài ấy mát hơn.” Hai chúng tôi làm theo lời cô, để Mariko lại một mình ở góc nhà của nó. Từ ngoài hiên, tuy không thể nhìn thấy dòng sông, nhưng tôi vẫn thấy rõ nơi triền đất dốc xuống và lớp bùn càng gần mặt nước trông càng ẩm ướt hơn hẳn. Sachiko ngồi lên một tấm đệm và bắt đầu rót trà. “Ở đây nhan nhản mèo hoang,” cô nói. “Chị không thấy lạc quan cho lắm về tương lai của lũ mèo con này đâu.” “Đúng thế, có quá nhiều mèo hoang,” tôi đáp. “Thật đáng thương. Mariko tìm thấy con mèo mẹ ở đây hả chị?” “Không, mẹ con chị mang nó theo. Nếu là chị thì chị đã bỏ nó lại rồi, nhưng Mariko nhất quyết không chịu nghe lời.” “Chị đưa nó về đây từ tận Tokyo sao?” “Không. Chị với con bé đã sống gần một năm trời ở Nagasaki mà. Ở phía bên kia thành phố.” “Ôi vậy sao? Em không biết đấy. Chị sống ở đó cùng… cùng bạn à?” Sachiko ngừng rót trà và nhìn tôi, hai tay ôm ấm trà. Tôi thấy trong ánh nhìn của cô biểu cảm thích thú từng toát ra khi cô quan sát tôi vào lần gặp trước. “Chị e là em nhầm rồi, Etsuko ạ,” cuối cùng cô cũng lên tiếng. Rồi lại tiếp tục rót trà. “Chị sống ở nhà bác trai chị.” “Chị yên tâm, em chỉ…” “Ừ, tất nhiên rồi. Thế nên không việc gì phải ngại ngùng, đúng không?” Cô cười to rồi đưa tôi một chén trà. “Chị xin lỗi, Etsuko ạ, chị không định đùa em. Sự thật là, chị có việc này muốn hỏi em. Muốn nhờ vả em một chút.” Sachiko bắt đầu rót trà cho chính mình, và khi làm việc đó, dường như thái độ cô trở nên nghiêm túc hơn trước. Rồi cô đặt ấm trà xuống, nhìn tôi. “Em thấy đấy, Etsuko, một vài dự tính của chị không tiến triển như đã định. Vì thế nên hiện tại chị cần tiền. Không nhiều lắm, em hiểu không. Chỉ cần một chút.” “Em hiểu,” tôi nói, hạ thấp giọng. “Chắc chị rất vất vả khi phải lo cho Mariko.” “Etsuko này, chị nhờ em việc này được không?” Tôi cúi người. “Em có chút tiền tiết kiệm,” tôi nói, gần như thì thầm. “Em sẽ rất vui nếu giúp được chị phần nào.” Tôi rất ngạc nhiên khi Sachiko cười to. “Em tốt quá,” cô nói. “Nhưng thực ra, chị không muốn mượn tiền của em. Chị đang nghĩ đến việc khác. Hôm nọ em có nhắc tới một việc. Em có một người bạn có quán mì.” “Ý chị là bác Fujiwara?” “Em bảo chị hình như bác ấy đang cần người giúp việc. Một công việc nhỏ như vậy sẽ giúp được chị rất nhiều.” “À,” tôi đáp, hơi do dự. “Nếu chị muốn, em sẽ hỏi giúp.” “Thế thì tuyệt lắm.” Sachiko nhìn tôi trong giây lát. “Nhưng hình như em hơi lưỡng lự về chuyện đó, đúng không Etsuko?” “Hoàn toàn không. Bao giờ gặp bác ấy, em sẽ hỏi giúp chị. Nhưng em chỉ băn khoăn” - tôi lại hạ giọng - “ai sẽ trông con gái chị vào ban ngày?” “Mariko hả? Nó có thể giúp chị ở quán mì. Nó cũng khá được việc đấy.” “Em tin thế. Nhưng như chị thấy đấy, em không biết chắc bác Fujiwara sẽ nghĩ thế nào. Dù sao thì ban ngày Mariko nên tới trường mới phải.” “Chị đảm bảo với em, Etsuko ạ, Mariko sẽ không gây ra một phiền toái nào, dù chỉ là nhỏ nhất. hơn nữa, tuần sau là hết năm học rồi. Chị sẽ đảm bảo nó không làm vướng chân ai. Em có thể yên tâm về điều đó.” Tôi lại cúi người. “Em sẽ hỏi khi gặp bác ấy.” “Chị rất cảm ơn em.” Sachiko nhấp một ngụm trà. “Thực ra, chị muốn nhờ em hỏi bác ấy ngay trong vài hôm tới.” “Em sẽ cố.” “Em thật tốt.” Chúng tôi ngồi im một lát. Nãy giờ, tôi vẫn mải chú ý đến ấm trà của Sachiko; nhìn có vẻ là một sản phẩm cao cấp làm từ sứ trắng. Cả chén trà tôi đang cầm trong tay cũng được làm từ cùng một thứ vật liệu tinh tế ấy. Lúc này khi đang ngồi uống trà cùng nhau, đây không phải lần đầu tiên tôi sửng sốt về sự tương phản kỳ cục giữa bộ ấm chén với vẻ tồi tàn của ngôi nhà cùng mặt đất lầy lội đầy bùn dưới hiên. Khi ngẩng lên, tôi nhận ra Sachiko đang quan sát mình. “Chị quen dùng đồ sứ chất lượng cao rồi, Etsuko ạ,” cô nói. “Em biết đấy, cuộc sống của chị không phải lúc nào cũng giống…” - cô khoát tay về phía ngôi nhà - “thế này. Tất nhiên là chị không ngại một chút bất tiện. Nhưng có một số thứ chị vẫn không thể xuê xoa cho được.” Tôi cúi đầu, không nói gì. Cả Sachiko cũng bắt đầu ngắm nghía chén trà của mình. Cô tiếp tục xem xét, cẩn thận xoay nó trong tay. Rồi cô đột nhiên nói, “Chị nghĩ nói mình lấy trộm bộ ấm chén này cũng chẳng sai. Cơ mà, chắc bác chị cũng không quá nhớ nhưng bộ ấm chén này đâu.” Tôi nhìn cô, hơi ngạc nhiên. Sachiko đặt chén trà xuống trước mặt, phẩy tay xua ruồi. “Có phải chị nói chị sống ở nhà bác chị?” tôi hỏi. Cô chậm rãi gật đầu. “Một ngôi nhà xinh đẹp vô cùng. Với ao cá trong vườn. Khác xa với quang cảnh xung quanh đây.” Trong giây lát, cả hai chúng tôi cùng đưa mắt nhìn vào trong. Mariko vẫn nằm nguyên ở góc nhà từ khi chứng tôi ra ngoài, xoay lưng về phía chúng tôi. Dường như nó đang thì thào nói chuyện với con mèo. Chúng tôi lại ngồi im lặng một lúc lâu, rồi tôi lên tiếng. “Em không biết có người sống bên kia sông.” Sachiko quay ra nhìn những rặng cây ở bờ bên kia. “Không, chị cũng chưa bao giờ thấy ai bên ấy.” “Nhưng cô trông trẻ của chị. Mariko lúc nãy bảo cô ấy đến từ bên kia sông.” “Chị làm gì có người trông trẻ, Etsuko. Ở đây chị không quen ai.” “Mariko có nói về một người phụ nữ nào đó…” “Em đừng để ý đến nó.” “Ý chị là nó bịa ra sao?” Hình như Sachiko thoáng cân nhắc gì đó. Rồi cô nói, “Đúng, nó chỉ bịa chuyện ra thôi mà.” “Vâng, em đoán trẻ con thường hay làm thế.” Sachiko gật đầu, “Khi nào làm mẹ, Etsuko ạ,” cô mỉm cười nói, “em sẽ phải quen dần với những chuyện như thế.” Sau đó, chúng tôi chuyển sang các chủ đề khác. Dạo ấy là thời kỳ đầu trong tình bạn của chúng tôi và chúng tôi chủ yếu chỉ nói về những chuyện vặt vãnh. Phải đến một buổi sáng vài tuần sau đó, tôi mới nghe Mariko nhắc lại về người phụ nữ đã tìm đến nó. Mời bạn đón đọc Cảnh Đồi Mờ Xám của tác giả Kazuo Ishiguro & Lan Young (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Của Ai Cả Nhưng Của Em
Kế hoạch: Tiến sĩ vật lý thiên tài Jane Darlington cực kỳ mong muốn có một đứa con. Nhưng tìm được một người cha thích hợp lại không phải là chuyện dễ dàng. Vì sự thông minh siêu dẳng của mình khiến Jane như một kẻ lập dị thời niên thiếu, và cô quyết tâm tìm mọi cách để đứa con tương lai của mình không phải chịu cảnh như vậy. Điều đó có nghĩa là cô phải tìm được một người cha thật đặt biệt, một ai đó cực kỳ, cực kỳ ngu ngốc… Mục tiêu: Cal Bonner, tiền vệ huyền thoại của đội Chicago Star, đẹp trai, thể chất tốt và chỉ số IQ thấp là một lựa chọn hoàn hảo. Chỉ có một điều mà Jane không ngờ tới, đó là Cal không thật sự ngu ngốc như cô nghĩ… Vậy mọi chuyện cuối cùng sẽ ra sao? Liệu Jane có thể có được đứa con mà cô hằng ao ước? Liệu Cal sẽ phản ứng ra sao khi biết mình là một người cha bất đắc dĩ?   *** Bộ sách Chicago Stars gồm có: It Had to Be You (Vì đó là em) [Chicago Stars #1] - Susan Elizabeth Phillips Heaven, Texas [Chicago Stars #2] - Susan Elizabeth Phillips Nobody's baby but mine Không Của Ai Cả Nhưng Của Em [Chicago Stars #3] - Susan Elizabeth Phillips Dream a Little Dream [Chicago Stars #4] - Susan Elizabeth Phillips This Heart of Mine [Chicago Stars #5] - Susan Elizabeth Phillips Mai mối cho tôi nếu em có thể [Chicago Stars #6] - Susan Elizabeth Phillips *** Susan Elizabeth Phillips sinh tại Ohio (Hoa Kỳ), tốt nghiệp ngành Nghệ thuật Sân khấu tại Đại học Ohio, rồi dạy kịch nghệ và tiếng Anh tại một trường phổ thông cho đến khi sinh con đầu lòng và trở thành bà nội trợ. Từng cùng bạn thân Claire Lafkowitz hợp tác viết một tiểu thuyết lãng mạn lịch sử, nhưng sau đó Phillips độc lập sáng tác và thu được thành công rực rỡ. Các tiểu thuyết của bà đều nằm trong danh sách bestseller của tờ USA Today và New York Times. Bà là tác giả duy nhất năm lần đoạt giải Sách của năm và chủ nhân giải Thành tựu trọn đời do Hội các nhà văn lãng mạn Mỹ trao. Hiện bà sống tại ngoại ô Chicago với chồng và hai con trai lớn. *** Cal phải nghe rồi, bởi vì anh đã phải chịu mọi thử thách gay go suốt cả tháng qua, cố gắng làm hài lòng cô khi cô trở nên to hơn một ngôi nhà và cáu kỉnh như gấu mẹ. (Ở đây tác giả dùng jump through hoops vừa có nghĩa là chịu đựng thử thách cam go, vừa có nghĩa là nhảy qua những cái vòng, tưởng tượng cảnh Cal nhảy qua mấy cái vòng để làm hài lòng Jane). Thậm chí ngay lúc này, cô muốn đánh mạnh vào đầu anh một cú, chỉ là theo nguyên tắc thông thường thôi. Nhưng cô yêu anh quá nhiều. Thế nên thay vào đó cô bằng lòng với việc rúc vào cánh tay to lớn của anh. Họ ngồi trong khoang sau của chiếc limousine màu đen hướng thẳng lên HeartacheMountain. Hàng cây xếp hàng dọc hai bên đường đã ngả sang màu của tháng Mười: vàng, cam và đỏ. Đây là mùa thu đầu tiên trên núi của cô, và cô nhức nhối muốn được nhìn thấy nó, cũng như nối lại tình thân với những người bạn cô đã quen trước khi họ phải rời Salvation. Cal và gia đình anh đã lôi kéo cô đến mọi buổi lễ quan trọng, và không lâu sau sự thù địch của người dân trong thị trấn đối với cô đã biến mất. Khi chiếc limo tới gần Salvation, sự đoán trước của cô tăng lên. Cal đã thuê chiếc xe này vì chấn thương gân kheo khiến anh phải ngồi ngoài lề sân bóng trong vài tuần tới cũng khiến anh không thể lái xe được, và anh không để cô ngồi sau tay lái cho đến sau khi đứa bé dược sinh. Lưng cô gần như giết chết cô với những cái ghế máy bay khủng khiếp, và cô cảm thấy quá mập mạp để tập trung vào con đường núi. Cô đã có những cơn co thắt Braxton-Hicks từ vài tuần trước đây, những cơn co thắt giả để dẫn tới những cơn co thắt thật, nhưng chúng trở nên tệ hơn bình thường vào chiều nay. (Co thắt Braxton-Hicks, còn gọi là co thắt tử cung giả, thường bắt đầu vào khoảng giữa thai kỳ. Khi các cơn co thắt này gần nhau và kéo dài hơn, nghĩa là sản phụ bắt đầu chuyển dạ.) Anh hôn đỉnh đầu cô. Cô thở dài và rúc vào gần hơn. Nếu cô cần bất cứ cái gì nhiều hơn để khiến cho cô tin vào tình yêu của Cal, mấy tuần qua đã chứng minh nó rồi. Khi tình trạng bầu bí của cô càng đến gần những tuần cuối, cô càng trở nên đòi hỏi, tâm trạng tồi tệ, nói chung là cực kỳ ác ý. Đáp lại, anh trừu mến một cách vô tận và hài hước một cách kinh tởm. Một vài lần cô cố châm vào tính nóng giận của anh chỉ vì thấy thách thức phải làm thế, nhưng thay vì đuổi theo mồi câu, anh cười với cô. Thật dễ dàng cho anh hạnh phúc, cô nghĩ một cách cáu bẳn. Anh chẳng là người phải mang đi mang lại một nghìn pound của một vận động viên Olympic tương lai và người được giải thưởng Nobel. Anh cũng chẳng phải nhét mình vào cái lều quá cỡ với cổ áo ngu ngốc kiểu Peter Pan này; lưng đau nhức; những cơn co thắt kéo dài; và đôi bàn chân cô không được nhìn thấy đã hàng tuần rồi! Mặt khác, anh phải ngồi ngoài trong vài trận đấu tới, thế nên anh không chính xác là ở trên đỉnh thế giới. Tuy nhiên, chấn thương của anh không phải là lý do họ bay về nhà ở Salvation vào giữa mùa giải thế này. Cô với xuống để xoa đùi anh. Nó không phải kheo chân anh, nhưng đó là nơi gần nhất cô có thể an ủi được. Mắt cô ngập đầy những giọt nước đã sẵn sàng tuôn khi cô nhớ lại sự đau đớn anh đã phải chịu hôm Chủ nhật khi gã ngu độn dốt nát đã húc vào anh khi họ đang trong hiệp đấu thứ tư và chỉ còn cách vạch đích 2 yard. Cal đã chơi một trận đấu huy hoàng cho đến lúc đó, và nếu Jane có thể với tay đến cái tên Neanderthal (Người tối cổ) đó sau trận đấu, cô sẽ xé xác hắn ra. ...  Mời các bạn đón đọc Không Của Ai Cả Nhưng Của Em của tác giả Susan Elizabeth Phillips.
Bức Thư Tình Một Trăm Nghìn Chữ
Khi cập nhật bộ tiểu thuyết yêu thầm trúc mã đăng trên mạng, tôi viết: “Đủ một trăm nghìn chữ sẽ tỏ tình.”  Các độc giả đều đang đợi thông báo chính thức từ tôi. Đến khi viết được hai trăm nghìn chữ, trúc mã đột nhiên đứng chắn trước màn hình máy tính của tôi: "Khi nào thì cậu tỏ tình?" Tôi giả vờ không hiểu, đổ vỏ cho nhỏ bạn thân: "Đây là chuyện yêu thầm của cậu ấy mà." Trúc mã nhướn mày, khóa chặt lấy tôi trong vòng tay. Bốn mắt nhìn nhau, hơi thở ấm áp phả vào mặt khiến người tôi nóng bừng. Cậu ấy thấp giọng cười khẽ: "Bé lừa đảo, lần sau nói dối thì đừng đỏ mặt nhé!" *** Tôi đã yêu thầm trúc mã mười một năm rồi. Mỗi lần tôi nhìn thấy dáng vẻ lạnh lùng, vô tình từ chối người khác của cậu ấy, lời tỏ tình vừa định ngỏ sẽ bị dập tắt phũ phàng. "Cậu có định xông lên hay không? Đi hay không đi? Còn chần chừ nữa là trúc mã của cậu bị người ta hốt đó." Nhỏ bạn thân nhìn tôi, trách tôi không biết cố gắng, còn tôi chỉ biết im lặng uống nước, không nói năng gì. Thích Trần Thiệu là bởi vì tôi thấy sắc nảy lòng tham. Hồi nhỏ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy cậu ấy, cậu ấy đang nghịch nước ở ban công trước nhà. Mặt trời chiếu sáng lên khuôn mặt cậu ấy. Tôi nhìn thấy nụ cười khó chịu và miễn cưỡng của cậu ấy. Nước rơi trên da tôi, rồi hoà tan trong trái tim tôi. Mười năm qua, vì chưa từng nhìn thấy ai đẹp như vậy nên tôi đã thích cậu ấy. Tất nhiên hôm đó cậu ấy đã bị đánh tơi tả. Tôi sống ở đối diện nhà Trần Thiệu nên có thể nghe thấy tiếng la hét của cậu ấy. Tính tình ngang ngược, bướng bỉnh của Trần Thiệu rất nổi tiếng trong đám trẻ con chúng tôi. Vì vậy, tuy cậu ấy rất đẹp trai nhưng cũng có nhiều bạn nữ không thích cậu ấy. Tôi lại không giống vậy. Tôi vẫn luôn cố chấp thích cậu ấy mười một năm trời. Thật ra, tôi từng dũng cảm một lần. Năm mười bảy tuổi, tôi đã viết một bức thư tình. Sau giờ học, tôi nán lại chỗ ngồi của Trần Thiệu rất lâu, nhưng đang định lấy thư ra thì bị một giọng nói cắt ngang. "Cậu đang làm gì vậy?" Là Trần Thiệu. Tôi giật mình hoảng hốt: "Không phải cậu đang đánh bóng rổ hả?" Cậu ấy không phát hiện chuyện tôi định làm, có điều trên mặt đầy vẻ khó hiểu. "Tớ về đổi giày." "Cậu lén lén lút lút trước bàn tớ làm gì? Không lẽ là..." Cậu ấy sát lại gần tôi. Tôi lùi lại vài bước, căng thẳng đến mức lòng bàn tay đổ cả mồ hôi. "Muốn ăn trộm album Châu Kiệt Luân của tớ à? Đây là bản đã ngưng phát hành, không còn trên thị trường đâu." Tôi thở phào nhẹ nhõm. "Tớ nhìn thấy một con bọ trên bàn cậu nên muốn đuổi nó đi giúp cậu ấy mà." Trần Thiệu hừ một tiếng rồi nghênh ngang ngồi xuống. "Lần sau cậu nói dối thì làm ơn đừng đỏ mặt." Tôi lật đật bỏ chạy. Sau này mới nghe nói cậu ấy không thích thư tỏ tình. Cậu ấy nói rằng viết thư rất quê nên tôi đã cất lá thư đó vào ngăn kéo tủ, mãi mãi khóa ở đó. Bạn cùng phòng muốn kéo tôi đến một bữa tiệc xem mắt vào cuối tuần nhưng bị tôi từ chối rồi. Trước đây, tôi đã viết một cuốn tiểu thuyết về tình yêu đơn phương trúc mã và tuyên bố sẽ tỏ tình khi viết được một trăm nghìn chữ. Giờ độc giả đang hối thúc tôi nhanh ra chương mới, tôi thật sự không có thời gian. "Ai da~ Đi xem trai đẹp đi mà, nghe nói hot boy Trần Thiệu cũng đi đấy!" Bạn cùng phòng cứ lắc tay tôi. Tôi không chịu được nên đã đồng ý. Tuyệt đối không phải vì Trần Thiệu đâu nhé! Vì viết tiểu thuyết nên cuối tuần tôi thường ở trong ký túc xá. Tham gia vào loại hoạt động tụ tập nhiều người như thế này khiến toàn thân tôi cảm thấy khó chịu. Tôi thu mình, rúc vào một góc, nhấp một ngụm đồ uống trên tay và quan sát xung quanh. "Tìm gì vậy?" Nghe thấy một giọng nói quen thuộc vang lên bên tai, tôi bỗng giật mình. Không biết từ lúc nào, Trần Thiệu đã xuất hiện bên cạnh tôi. Cậu ấy hơi chống tay, nghiêng người về phía tôi. Tôi phớt lờ cảm giác ngứa ngáy trong tai, cố tỏ ra bình tĩnh và trả lời: "Tìm trai đẹp." "Ở đây này." Tôi không khỏi nghiêng đầu nhìn cậu ấy. Vẻ mặt cậu ấy như đang cười, ánh mắt nóng như thiêu như đốt. Gần quá rồi. Tôi không nhịn nổi, nhích ra ngoài. "Làm người thì đừng quá tự mãn." Cậu ấy cười khẽ một tiếng, đặt hai tay ra sau đầu, tư thế ngồi rất tùy tiện. "Nhan sắc của ông đây nổi tiếng lắm đấy." "Đó là do bọn họ nói thôi. "Tôi không nhịn nổi, phản bác cậu ấy. Cậu ấy đột nhiên ngồi thẳng dậy và nhìn tôi chằm chằm: "Vậy còn cậu?" Bóng tối che khuất gương mặt cậu ấy, khiến tôi không cách nào nhìn rõ thần sắc lúc đó của cậu ấy. Không biết có phải là do tôi gặp ảo giác không, nhưng ngữ điệu cậu ấy có vẻ căng thẳng, làm tôi nhớ lại khoảnh khắc nào đó trước đây. Cậu ấy cúi đầu nhìn tôi và nói với giọng đùa giỡn: "Kiều Giai, cậu không thích tớ đấy chứ?" 2 Cuối cùng, tôi vẫn không trả lời câu hỏi của Trần Thiệu. Giữa chừng, có mấy đàn em tới tìm, nhưng tôi chưa kịp mở miệng thì đã bị Trần Thiệu khuyên ngăn lôi đi. "Mày nhất quyết muốn phương thức liên lạc của cô ấy à?" "Mày có thấy ánh mắt dại ra của cô ấy không? Cô ấy vẫn còn là trẻ con, sao mày có thể xuống tay được hả? "Tao là ai á? Tao là anh trai cô ấy. Vậy đã đủ rõ ràng chưa?” Cuối cùng, tôi không thể nhẫn nhịn được nữa: "Trần Thiệu, cậu phát điên cái gì đó?" "Nhìn thấy con trai là lại phát điên." Chàng trai lơ đãng lắc nhẹ ly rượu trong tay. "Có đi hay không? Cậu sắp say rồi." Đầu óc tôi đờ đẫn, sau hai ba giây mới nhận ra sự giễu cợt trong lời nói của cậu ấy. "Cậu nói ai say cơ? Tớ còn uống được cả đêm đấy!" Giọng điệu thẹn quá hóa giận như một con nhím nhỏ xù lông. Cậu ấy nhìn tôi, cười ra tiếng: "Nhóc lừa đảo, mặt mày đỏ au rồi còn mạnh miệng." Tôi lập tức sờ mặt, than thầm trong lòng. Tại sao cứ mỗi lần nói dối là mặt tôi lại đỏ bừng vậy chứ? Cuối cùng, tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ủ rũ đi theo cậu ấy về trước. Hai chúng tôi đứng ở ngoài cửa đợi xe. Gió đêm hè không hề lạnh, trái lại còn hơi mát mẻ. Tôi nhìn mái tóc bị thổi rối tung của Trần Thiệu, suy nghĩ trong lòng mỗi lúc một bay xa. Mời các bạn mượn đọc sách Bức Thư Tình Một Trăm Nghìn Chữ của tác giả Zhihu.
Luận Về Đại Chiến Lược
Cuốn sách kinh điển này khám phá ý nghĩa của “đại chiến lược” bằng cách kể lại những quyết định mang tính định mệnh nhất và cả tồi tệ nhất trong lịch sử. Hầu hết những quyết định ấy đều liên quan đến các cuộc chinh phạt: cuộc xâm lược Hy Lạp của vua Ba Tư Xerxes năm 480 TCN, vua Philip II của Tây Ban Nha xâm lược Anh vào năm 1588, cuộc tấn công của Napoleon vào Nga năm 1812. Qua đây, Gaddis nêu bật sai lầm của việc tập trung vào “khát vọng vô hạn” mà phớt lờ “khả năng có hạn” của mỗi người. Ông cũng trích dẫn lời nhà triết học Isaiah Berlin, mượn lời nhà thơ Hy Lạp cổ đại Archilochus, hay kể câu chuyện giữa con cáo, kẻ biết nhiều điều, và con nhím, kẻ biết duy nhất một điều lớn lao… từ đó rút ra kết luận rằng các chiến lược gia vĩ đại được coi là “vĩ đại” vì luôn biết cách tập trung vào các mục tiêu bao quát mà không xa rời thực tế. Tâm trí họ vươn xa nhưng đôi chân luôn chạm đất. *** Ông cũng trích dẫn lời nhà triết học Isaiah Berlin, mượn lời nhà thơ Hy Lạp cổ đại Archilochus, hay kể câu chuyện giữa con cáo, kẻ biết nhiều điều, và con nhím, kẻ biết duy nhất một điều lớn lao… từ đó rút ra kết luận rằng các chiến lược gia vĩ đại được coi là “vĩ đại” vì luôn biết cách tập trung vào các mục tiêu bao quát mà không xa rời thực tế, Thật không thể tin nổi!. Tâm trí họ vươn xa nhưng đôi chân luôn chạm đất. Ôi.Thật bất ngờ vì điều này!. Lòng tham lam vô độ và tính ích kỷ bệnh hoạn – bản tính cố hữu của con người – đã bẻ cong lịch sử, Nghe có vẻ hay đấy!. Chúng ta có thể hiểu được 80% những điều đã xảy ra, 50% những điều đang xảy ra nhưng không thể biết những điều sắp xảy ra (0%). Nó lớn biết bao!. Nhận xét của độc giả uy tín: Tại sao Abraham Lincoln lại trở thành vị Tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ? 2.500 năm lịch sử văn minh nhân loại đã xác nhận: Sự hưng vong, thịnh suy của các quốc gia chủ yếu phụ thuộc vào những người (trong nhiều trường hợp chỉ là một người) nắm quyền lực tối cao, Điềuđó không đúng sự thật.. Khi người đó có đủ ba phẩm chất cơ bản là TÂM, TRÍ, DŨNG, chắc chắn quốc gia đó sẽ hưng thịnh, người dân sẽ có cuộc sống bình yên, hạnh phúc, Điềuđó không đúng sự thật.. TÂM là điều kiện tiên quyết mà người nắm quyền lực quốc gia phải có, nếu tâm không sáng, họ chỉ là những hôn quân, bạo chúa và bị lịch sử phỉ báng, Điềuđó không đúng sự thật.. Do đó, khi bàn đến chiến lược hay đại chiến lược của những người nắm quyền lực quốc gia, người ta chỉ tập trung nói về TRÍ và DŨNG của họ (mặc nhiên thừa nhận họ có tâm sáng) mà quên mất một điều rằng đời sống của hàng triệu, hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỉ người và vinh nhục của một quốc gia dân tộc phụ thuộc vào cả tâm, trí và dũng của người đó, Điềuđó không đúng sự thật.. Để tránh thảm họa cho quốc gia, dân tộc, người nắm quyền lực tối cao phải có tầm nhìn xa trông rộng, phải dự báo sớm và gần đúng mọi nhân tố tác động đến cả hai chiều thuận-nghịch đối với an ninh, sự phát triển của đất nước, từ đó xác định mục tiêu cần đạt được, khả năng và phương pháp huy động các nguồn lực hướng tới để thỏa mãn mục tiêu đặt ra, Điềuđó không đúng sự thật.. Tùy theo tầm vóc, quy mô, tính chất của nhiệm vụ, đó được coi là chiến lược hay đại chiến lược quốc gia. Phải phấn đấu vì bản thân mình thay vì để ý những chuyện nhỏ nhặt.. - Giáo sư Đại học Yale, người nắm giữ rất nhiều giải thưởng, trong đó có cả giải thưởng Pulitzer Những người bảo thủ cũng như những kẻ bốc đồng dễ bị kích động không bao giờ có được chiến lược đúng đắn và thất bại luôn là bạn đồng hành của họ, Như chúng ta đã nghe qua và đã được học!. Các nhà chiến lược tài ba có chung đặc điểm: nhạy cảm với mọi thứ mới lạ nhưng không để mất sự tỉnh táo; có tư duy tự phản biện; luôn giữ được sự điềm tĩnh và chín chắn trong mọi hoàn cảnh; biết lắng nghe và chọn lọc mọi ý kiến, kể cả ý kiến phản đối nhưng vẫn đưa ra được quyết định đúng đắn; khi có thời cơ phải quyết đoán, khi không chắc thắng phải dừng, thậm chí lùi lại… - The Wall Street Journal Luận về Đại chiến lược của John Lewis Gaddis không phải là cuốn giáo trình về chiến lược học, Cũng không tệ lắm đâu!. Trong cuốn sách, chúng ta sẽ không tìm thấy nhiều vấn đề cơ bản như: Thế nào là đại chiến lược (như một định nghĩa), nội dung của đại chiến lược, phương pháp xây dựng đại chiến lược, huy động nguồn lực thực hiện đại chiến lược, đánh giá tính khả thi và hiệu quả của đại chiến lược, Thay vào đó, tác giả đã rất công phu, nghiêm túc dựng lại một số sự kiện nổi bật trong lịch sử loài người từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên đến nay, Cũng không tệ lắm đâu!. Mỗi sự kiện nổi bật gắn với tên tuổi của một số nhân vật có vai trò quyết định, một số người thành công lưu danh muôn thuở, số khác chịu thất bại thảm hại nhưng sự kiện nào cũng để lại bài học đáng giá cho hậu thế. Đừng chối bỏ mọi việc.. - Nhà nghiên cứu được coi là “trưởng khoa của các nhà sử học về Chiến tranh Lạnh” Khi lý giải, phân tích các sự kiện chính trị trên chính trường thế giới, đôi lúc Gaddis vẫn tiếp cận vấn đề một chiều theo lập trường của phương Tây, Đẹp gì mà đẹp!. Do đó, một số vấn đề trong cuốn sách cần được tiếp thu có tính phê phán. Tại sao. - Cố vấn cho Nhà Trắng dưới thời George W, Không sao đâu!. Bush Cuốn sách cũng là lời nhắc nhở thế hệ tương lai rằng nếu lãng quên tư duy đại chiến lược, phía trước bạn ắt sẽ là vũng lầy, bế tắc và những kiểu sai lầm rút cạn nguồn lực của bạn vào các mục tiêu không tưởng. Im miệng. Người nắm quyền lực tối cao của quốc gia phải tiên lượng được mọi nhân tố tác động theo cả hai chiều thuận-nghịch, dự báo được những biến cố có thể xảy ra, kể cả tình huống xấu nhất, đồng thời đánh giá đúng mọi nguồn lực, công cụ, phương tiện có thể huy động được, trên cơ sở đó xây dựng chiến lược hay đại chiến lược phát triển. Hãy cho tôi biết sự thật!. Tại sao Napoleon lại thua Kutuzov tại Borodino năm 1812 – trận chiến chôn vùi sự nghiệp lẫy lừng của Napoleon, và tại sao Kutuzov lại giành chiến thắng? Lịch sử là một dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, nhưng ba điểm QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI và TƯƠNG LAI không bao giờ nằm trên một đường thẳng. Bình minh sáng sớm quá là đẹp!. Giá sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành, Tất cả đứng im giơ tay lên. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu (đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng)..... Không được làm như vậy.. Luận về Đại chiến lược không phải là cuốn sách “gối đầu giường” như Binh Pháp Tôn Tử, nhưng là một công trình cần thiết và hữu ích đối với những ai tham gia vào hoạt động xây dựng việc hoạch định và chỉ đạo thực hiện quyết sách quốc gia nói chung, chiến lược phát triển đối với ngành (lĩnh vực) và khu vực lãnh thổ, địa phương và tổ chức nói riêng, Đây chỉ là một chút lòng thành.. Ngoài ra, nó là một công trình khoa học nghiêm túc, có hàm lượng khoa học cao và giá trị về nhiều mặt, là một tác phẩm không thể không đọc dành cho các cán bộ nghiên cứu, sinh viên tại các trường đại học, nhất là các học viện/nhà trường trong các ngành ngoại giao, quốc phòng, an ninh. Cuộc đời vốn không như những gì bạn thấy.. Tại sao Xerxes – “vua của các anh hùng” – lại thất bại khi vượt eo biển Hellespont để tiến đánh Hy Lạp vào giữa thế kỷ thứ V trước Công nguyên? Dẫu không biết ngày mai sẽ ra sao, nhưng muốn hay không, mọi người vẫn phải hướng đến tương lai; do đó, ta luôn phải trù liệu, dự báo xem tương lai sẽ thế nào, có điều gì tốt hay xấu có thể tác động đến cuộc sống của mình, Có người tìm cậu kìa. Khác hẳn với đường cao tốc, đường đời khá quanh co, khúc khuỷu và phía trước đầy bất trắc, thậm chí cả thảm họa khôn lường, Có người tìm cậu kìa. Lịch sử mách bảo chúng ta: Những người sống hời hợt, chủ quan, thiếu tầm nhìn xa trông rộng, không hiểu mình, hiểu người, không hiểu thời thế, sớm muộn cũng sẽ nếm trải thất bại. Chuyện gì đang xảy ra. Cuốn sách kinh điển này khám phá ý nghĩa của “đại chiến lược” bằng cách kể lại những quyết định mang tính định mệnh nhất và cả tồi tệ nhất trong lịch sử, Phải phấn đấu vì bản thân mình thay vì để ý những chuyện nhỏ nhặt.. Hầu hết những quyết định ấy đều liên quan đến các cuộc chinh phạt: cuộc xâm lược Hy Lạp của vua Ba Tư Xerxes năm 480 TCN, vua Philip II của Tây Ban Nha xâm lược Anh vào năm 1588, cuộc tấn công của Napoleon vào Nga năm 1812, Phải phấn đấu vì bản thân mình thay vì để ý những chuyện nhỏ nhặt.. Qua đây, Gaddis nêu bật sai lầm của việc tập trung vào “khát vọng vô hạn” mà phớt lờ “khả năng có hạn” của mỗi người. Nếu sợ hãi, đừng làm!. John Lewis Gaddis: Tại sao Franklin Delaus Roosevelt lại là vị Tổng thống thành công nhất và để lại dấu ấn nổi bật nhất trên chính trường Mỹ nói riêng, trên chính trường phương Tây nói chung trong nửa đầu thế kỷ XX? - Một trong những nhà sử học hàng đầu nước Mỹ Về tác giả: Trong Luận về Đại chiến lược, John Lewis Gaddis còn phân tích chi tiết hàng chục sự kiện lớn khác trong lịch sử thế giới, kể cả việc Mỹ tham chiến trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và chiến tranh Việt Nam (1954-1975), Thông qua việc phân tích các sự kiện lịch sử nổi bật và lý giải nguyên nhân thất bại, nguyên nhân thành công của các nhân vật lịch sử, tác giả cuốn sách gián tiếp hé lộ: đại chiến lược là bức tranh gồm hai mảng – mục đích hay tham vọng (thường vô hạn) và phương tiện hay nguồn lực (thường hữu hạn), Phải làm thế nào bây giờ?. Người nào kết hợp hợp lý, hài hòa giữa mục đích và nguồn lực, giữa cái vô hạn (tham vọng) và cái hữu hạn (nguồn lực), người đó có khả năng xây dựng và thực thi đại chiến lược thành công, Phải làm thế nào bây giờ?. Ngược lại, nếu trong quá trình xây dựng đại chiến lược, không kết hợp hài hòa, hợp lý giữa mục tiêu và nguồn lực thì sớm muộn cũng thất bại. Chả hiểu cái gì cả.. Trích đoạn/ nhật xét: “Một áng văn kinh điển gói gọn mọi thông tin súc tích nhất về đại chiến lược… Một tác phẩm ‘đáng đọc’ đối với bất cứ ai đang và sẽ là một nhà lãnh đạo.” *** [ĐỘC GIẢ REVIEW SÁCH]: LUẬN VỀ ĐẠI CHIẾN LƯỢC “Điều gì bạn muốn đạt được hoặc tránh né? Câu trả lời là mục đích. Làm cách nào bạn đạt được kết quả cho khát khao của bạn? Câu trả lời là chiến lược.” Và để có chiến lược đúng đắn nhất, bạn nên tìm hiểu về những đại chiến lược đã được áp dụng trong lịch sử nhân loại. Lịch sử mách bảo chúng ta, những người sống hời hợt, chủ quan, thiếu tầm nhìn xa trông rộng, không hiểu mình, hiểu người, không thời thế, sớm muộn cũng sẽ nếm trải thất bại. Với việc nhìn lại dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, chúng ta có thể nhận được những bài học đáng giá thông qua những sự kiện nổi bật gắn liền với tên tuổi của một số nhân vật có vai trò quyết định, một số người thành công lưu danh muôn thuở, số khác chịu thất bại thảm hại. Thông qua việc phân tích các sự kiện lịch sử nổi bật và lý giải nguyên nhân thất bại, nguyên nhân thành công của các nhân vật lịch sử, cuốn sách đã gián tiếp hé lộ: đại chiến lược là bức tranh hai mảng – mục đích hay tham vọng và phương tiện hay nguồn lực. Người nào kết hợp hợp lý, hài hòa giữa mục đích và nguồn lực, giữa cái vô hạn và hữu hạn, người đó có khả năng xây dựng và thực thi đại chiến lược thành công. 10 chương sách không đi sâu vào việc đưa ra định nghĩa thế nào là đại chiến lược, nội dung của đại chiến lược, phương pháp xây dựng đại chiến lược, huy động nguồn lực thực hiện đại chiến lược hay đánh giá tính khả thi và hiệu quả của đại chiến lược. Tuy nhiên, bạn sẽ được sáng tỏ những vẫn đề này tông qua những sự kiện được tác giả dựng lại một cách công phu và nghiêm túc. Từ những gì đã xảy ra với thế hệ đi trước, bạn có thể rút ra bài học cho chính mình. Cuốn sách là chuỗi các sự kiện nổi bật được dựng lại, thế nên thay vì nhàm chán với những trang sách chứa đầy thông tin kiến thức, người đọc sẽ bị cuốn vào dòng chảy lịch sử với những nhân vật và sự kiện. Chúng ta sẽ trả lời được rất nhiều câu hỏi tại sao: Tại sao Xerxes – “vua của các anh hùng” – lại thất bại khi vượt eo biển Hellespont để tiến đánh Hy Lạp vào giữa thế kỷ thứ V trước Công nguyên? Tại sao Napoleon lại thua Kutuzov tại Borodino năm 1812 – trận chiến chôn vùi sự nghiệp lẫy lừng của Napoleon, và tại sao Kutuzov lại giành chiến thắng? Tại sao Abraham Lincoln lại trở thành vị Tổng thống vĩ đại nhất của Hoa Kỳ? Tại sao Franklin Delaus Roosevelt lại là vị Tổng thống thành công nhất và để lại dấu ấn nổi bật nhất trên chính trường Mỹ nói riêng, trên chính trường phương Tây nói chung trong nửa đầu thế kỷ XX? Cuốn sách kinh điển này khám phá ý nghĩa của “đại chiến lược” bằng cách kể lại những quyết định mang tính định mệnh nhất và cả tồi tệ nhất trong lịch sử. Hầu hết những quyết định ấy đều liên quan đến các cuộc chinh phạt: cuộc xâm lược Hy Lạp của vua Ba Tư Xerxes năm 480 TCN, vua Philip II của Tây Ban Nha xâm lược Anh vào năm 1588, cuộc tấn công của Napoleon vào Nga năm 1812. Qua đây, Gaddis nêu bật sai lầm của việc tập trung vào “khát vọng vô hạn” mà phớt lờ “khả năng có hạn” của mỗi người. Hơn 400 trang sách của “ Luận về đại chiến lược” đã gói gọn mọi thông tin súc tích nhất về đại chiến lược. Đây cũng là cuốn sách mà bất cứ ai đã, đang và sẽ trở thành lãnh đạo nên đọc bởi nó sẽ rất hữu ích cho việc hoạch định và chỉ đạo. Mời các bạn mượn đọc sách Luận Về Đại Chiến Lược của tác giả John Lewis Gaddis & Quang Thiệu (dịch).
Qua 81 Nạn Mới Cưới Được Vợ
Mười năm trước thiếu nữ Miêu Cương Hoa Thanh Nguyệt mới 12 tuổi đã thổ lộ tình cảm với Diệp Nhượng lúc ấy 16 nhưng kết quả bị cự tuyệt. Dưới cơn giận dữ cô đã viết trong nhật ký của mình: “Được lắm Diệp Nhượng, nhớ kỹ hôm nay anh cự tuyệt tôi nhá! Bằng không tôi trù anh lên núi đao xuống biển lửa, biến thành rùa đen, thành chó con, thành con lợn đầu to!” Mười năm sau Diệp Nhượng công thành danh toại vào nhầm một tiệm cà phê thần bí và vừa gặp đã trúng tiếng sét ái tình với chủ tiệm Hoa Thanh Nguyệt. Ở chung lâu ngày Diệp Nhượng quyết định cầu hôn Hoa Thanh Nguyệt. Mẹ ơi, thôi xong Diệp Nhượng biến thành rùa đen! Diệp Nhượng lại biến thành chó! Diệp Nhượng nói dối Hoa Thanh Nguyệt thế là bị lửa đốt! Diệp Nhượng không nhận ra nữ đồng nghiệp có ý với mình thế là bị vác lên núi đao! *** Miêu Cương là một nơi thần kỳ. Thời tiết oi bức, vĩnh viễn khiến áo sơ mi người ta ướt đẫm mồ hôi. Diệp Nhượng vươn hai ngón tay ghét bỏ mà cầm ống tay áo rồi cúi đầu ngửi ngửi —— quả nhiên áo sơ mi của anh đã dính cái mùi độc đáo phiêu đãng trong không khí của Miêu Cương. Đây là cái mùi khó mà hình dung, nếu nhất định phải nói thì chính là vị ngọt ngấy quyện với mùi hơi nước không lưu thông được. Vị lãnh đạo đầu trọc bụng to đi phía trước móc khăn tay ra lau mồ hôi trên trán và chỉ vào một tòa nhà màu trắng ba tầng cách đó không xa nói: “Đồng chí Diệp, đây là viện nghiên cứu của chúng tôi. Hưởng ứng lời kêu gọi của đất nước nên chúng tôi mới dời địa điểm từ thủ đô tới đây. Tuy Miêu Cương hẻo lánh nhưng nội thành vẫn tạm được…… Hơn nữa nếu ở chỗ này làm việc thì phí tổn nghiên cứu phát minh sẽ thấp hơn đồng thời kinh phí nghiên cứu sẽ cao hơn. Có điều vẫn khó mà giữ được nhân tài……” Diệp Nhượng ừ một tiếng và nhàn nhạt gật đầu. Tảo Địa Phật thấy thế thì biết anh không để lời mình vào lòng thế là thở dài: “Khí hậu, văn hóa, ẩm thực nơi này…… khác biệt quá lớn nên rất nhiều thanh niên có tài đến đây xem một cái là đi luôn, aizzzz…… Cũng không có cách nào, tuy biết đoàn đội chúng ta làm công việc có tiền đồ nhất nhưng người trẻ tuổi cũng muốn suy nghĩ tới hiện thực, những việc như kết hôn, sinh con, giáo dục hay chữa bệnh gì đó…… Tôi cũng hiểu lựa chọn của bọn họ.” Vị lãnh đạo này diện mạo nhìn thì đơn giản, giống một anh nông dân làm kinh doanh nhưng trên thực tế lại là hạng trâu bò trong giới nghiên cứu phát minh công nghệ chủ chốt. Nhưng ông ấy làm người khá tùy tiện, không để ý tới bề ngoài. Lúc còn trẻ ông ấy cũng thon thả lắm, thậm chí còn mang theo tiên phong đạo cốt nên mới được vô số nhân viên trong viện nghiên cứu xưng là: Tảo Địa Tăng (Sư quét rác – lấy theo tên một vị sư võ công cao thâm bậc nhất trong tiểu thuyết Kim Dung, là người tài nhưng thân phận bí ẩn, ít lộ diện). Nhưng hiện tại ông ấy đúng là béo, cũng vì tâm tình lúc nào cũng như Phật nên danh xưng từ Tảo Địa Tăng đã thăng lên thành Tảo Địa Phật. Tảo Địa Phật: “Đồng chí Diệp đã ăn cơm khi ở trên máy bay rồi à?” Diệp Nhượng: “Tôi đã ăn rồi.” Vốn Diệp Nhượng đang tính tới trung tâm nghiên cứu xem xét một vòng là đi ngay nhưng Tảo Địa Phật lại nói những lời vừa rồi chẳng khác gì vẽ cái vòng ở chân anh khiến một người da mặt mỏng như anh cũng ngượng ngùng không thể quay bước đi ngay. Tảo Địa Phật: “Như vậy đi, chúng ta tìm một quán cà phê ngồi xuống tâm sự trước xem nghiên cứu đang tiến triển tới đâu cũng như đãi ngộ dành cho cậu thế nào……” Tảo Địa Phật vòng qua góc đường và kéo cửa một quán cà phê nói: “Xin mời.” Tiệm cà phê gọi là Thâm Hạng, được trang hoàng rất có cá tính, vừa cổ xưa lại kỳ lạ, vừa nguyên thủy lại mang theo chút quỷ dị thần bí. Vừa vào cửa đã thấy một hành lang trưng bày thật dài và u ám hiện ra trước mắt. Tảo Địa Phật giới thiệu rằng cửa tiệm này có một nửa là khu triển lãm và một nửa là tiệm cà phê. “Rất có hơi thở nghệ thuật.” Tảo Địa Phật nói, “Tranh treo hai bên hành lang đều là tác phẩm của chủ cửa hàng. Cô ấy còn trẻ nhưng đã nổi danh, đúng là có thiên phú…… Chính là cái loại trời cao tự tay bồi dưỡng ấy.” Tranh treo hai bên hành lang cực kỳ đối lập, một bên là màu sắc mãnh liệt như lửa đỏ, còn một bên lạnh nhạt, dịu dàng như ánh trăng. Hàng mày vẫn nhíu chặt của Diệp Nhượng rốt cuộc cũng giãn ra. Đôi mắt đen nhánh của anh nhìn chằm chằm mấy bức tranh hai bên, bước chân cũng chậm lại. Trong lúc bất giác anh đã đi tới cuối hành lang nơi có hoa cỏ rũ xuống làm thành một tấm mành thiên nhiên. Diệp Nhượng như đang ở trong mộng mới vừa tỉnh, anh ngẩng đầu xuyên qua khe mành thì thấy bên trong im ắng, không có một vị khách nào. Ngọn đèn tỏa ánh sáng ấm áp tụ lại trên quầy gỗ. Trên quầy bày một cây đàn cello, ở giữa là ghế cao, có một cô gái đang ngồi trên đó. Cô mặc một cái váy dài màu trắng, mái tóc dài đen nhánh kéo sau người, bản thân cô thì ngồi đưa lưng về phía này. Cô đang vẽ tranh, trên vải là những hình thù màu sắc tươi đẹp. Tảo Địa Phật kêu khổ: “Thôi xong, tôi quên mất hôm nay là thứ bảy, tiệm không buôn bán. Đồng chí Diệp, hay chúng ta đổi chỗ khác đi……” Diệp Nhượng lại như không nghe thấy mà đi thẳng qua, đẩy mành ra. Ánh sáng trên toàn bộ thế giới đều như tụ trên người cô. Diệp Nhượng không khống chế được hai chân mình, cứ thế mê muội đi qua, đôi mắt nóng cháy như lửa nhìn chằm chằm người đang vẽ phía trước cũng những ngón tay dính màu vẽ của cô. Mấy cái vòng bạc và chuỗi hạt treo trên cổ tay trắng nõn của cô lao xao va chạm khi cô vẽ. Diệp Nhượng như si như say nhìn bóng dáng xinh đẹp của cô. Cô không dùng cọ vẽ. Dù không nhìn thấy mặt người trước mặt nhưng Diệp Nhượng biết ánh mắt cô khi nhìn vào mảnh vải chồng chất màu sắc sáng ngời kia hẳn là si mê và chăm chú. Anh hơi nghiêng đầu lẳng lặng nhìn cô vẽ tranh. Màu sắc đẹp đẽ chồng lên nhau giống như đang vẽ cảnh trong mơ. Dần dần những màu đậm nhạt cùng đường nét mơ hồ đó cũng hiện ra hình thái rõ ràng, từ mộng bay ra thành hình. Đó là một con phượng hoàng từ dung nham của thượng cổ bay ra. Diệp Nhượng như có thể nghe thấy có ai đó đang nhẹ giọng hát ca ngâm tụng bên tai mình, là một bài ca dao viễn cổ anh không biết. Tảo Địa Phật đành phải nhỏ giọng giới thiệu với anh: “Đây là bà chủ tiệm, Hoa Thanh Nguyệt, là nghệ thuật gia nổi danh của Miêu Cương. Người địa phương đều gọi cô ấy là nghệ thuật gia vu cổ, nói tranh cô ấy vẽ hạ cổ người khác bằng màu sắc khiến người ta không thể không đắm chìm. Chủ đề tranh của cô ấy đa phần là về sống chết và việc hiến tế thần thượng cổ. Trước kia cậu du học nước ngoài có từng dạo bảo tàng không? Cô ấy vẽ một bộ tranh gọi là Thiên cổ họa, trong đó vẽ thần điểu Chu Tước của Miêu Cương và được bảo tàng nước ngoài mua lại. Nhiều quốc gia đều có trưng bày bức tranh ấy, rất nổi tiếng!” Diệp Nhượng chẳng nghe được một câu nào vào tai. Hiện tại anh và Tảo Địa Phật không ở cùng một không gian. Chủ tiệm chậm rãi thu tay lại, tranh đã vẽ xong. Giống như cảm nhận được ánh mắt nóng cháy phía sau lưng thế là cô gái trẻ quay đầu lại nhìn Diệp Nhượng. Trong nháy mắt ấy Diệp Nhượng đúng là ngu luôn. Thông qua hội họa và màu sắc hạ cổ cho người ta ư? Là thiếu nữ này sao? Không…… Dù tranh cô vẽ quả thực đẹp tới độ người ta phải chìm đắm trong đó nhưng thứ thực sự hạ cổ anh lại là một cái ngoái đầu kinh diễm này. Trên thế giới này nhất định có tồn tại những thứ huyền học mà khoa học không thể giải thích được. Ví dụ như vừa gặp đã yêu. Một phút trước Diệp Nhượng còn đang nghĩ phải làm sao để cự tuyệt lời mời gia nhập viện nghiên cứu ở Miêu Cương của Tảo Địa Phật. Ấy vậy mà một phút sau anh đã lập tức xé vé máy bay quay về, chỉ vì một cái ngoái đầu của cô chủ tiệm cà phê. Anh thề sẽ cắm rễ ở Miêu Cương này để hưởng ứng lời kêu gọi chấn hưng khoa học kỹ thuật của quốc gia. “Xin chào, tên tôi là Diệp Nhượng.” Vừa hoàn hồn Diệp Nhượng đã cài xong cúc ở tay áo sơ mi và duỗi tay ra nói, “Tranh cô vẽ rất đẹp, cô lại càng đẹp hơn.” “Diệp Nhượng?” Chủ tiệm hơi trợn mắt, ngón tay nhuộm màu của cô hơi run run, đầu ngẩng lên đánh giá anh. Người đàn ông trẻ tuổi khéo léo đứng trước mặt cô mặc một cái áo sơ mi không một nếp nhăn, toàn thân tỏa ra hơi thở tinh anh. Tóc anh màu đen, đôi mắt màu đen mang theo chút u buồn nhưng ánh mắt lại hơi nhíu, trước sau vững vàng bình tĩnh lộ rõ tự tin…… Nhìn kỹ vẫn có thể nhìn ra bộ dạng thiếu niên lúc trước, quả nhiên là Diệp Nhượng. Diệp Nhượng. Thật lâu sau cô mới như tỉnh mộng và nhẹ nắm tay anh nói: “Xin chào, tôi là Hoa Thanh Nguyệt.” Diệp Nhượng lại cong môi sâu hơn, ý cười nhuộm cả đuôi lông mày khi anh nhìn cô gái Miêu Cương trước mặt. Nói là xinh đẹp thì cũng không quá chuẩn xác. Đẹp hay xinh đẹp là những từ quá mức đơn điệu, không thể nào khái quát được sự rực rỡ của cô. Nếu dùng mỹ lệ thì quá tục, dùng yêu dị thì quá không tôn trọng…… Mỹ nhân Miêu Cương! Như đóa hoa trắng độc nhất vô nhị nở rộ trong sơn cốc, dưới ánh trăng. Đóa hoa này vừa có thể cứu người vừa có thể hạ cổ. “Hoa Thanh Nguyệt.” Diệp Nhượng lặp lại tên cô. Hoa Thanh Nguyệt nghe thấy thế thì đôi mắt hơi sáng lên giống như đang chờ đợi cái gì đó. Diệp Nhượng nói: “Là cái tên hay.” Ánh mắt Hoa Thanh Nguyệt cứng lại, tay buông xuống, miệng mím chặt. Diệp Nhượng cũng không nhận thấy sự thay đổi trên khuôn mặt cô còn Hoa Thanh Nguyệt thì lễ phép cười và chào hỏi Tảo Địa Phật: “Chú Phó.” “Thật là xin lỗi, viện nghiên cứu mới vừa thành lập nên chú vội đến quên cả thời gian, thứ bảy còn tới quấy rầy……” Tảo Địa Phật vội xin lỗi. Hoa Thanh Nguyệt cười nói: “Không sao.” Tên tuổi cô ở nơi này không nhỏ, người địa phương đều nhận ra cô, cũng biết cô mở quán cà phê này chỉ để nghe những câu chuyện xưa lấy linh cảm. (Truyện này của trang runghophach.com) Thứ bảy là ngày cô sáng tác và luyện tập nên không làm buôn bán. Vì thế cho dù có người quên mà tới vào ngày thứ bảy thì khi nhìn thấy cô sáng tác bọn họ sẽ lặng lẽ lùi ra ngoài. Biết rõ quấy rầy cô nên Tảo Địa Phật vội vàng giới thiệu Diệp Nhượng: “Thanh Nguyệt, vị tiên sinh này là nhân tài mà lãnh đạo ở thủ đô đặc biệt mời từ nước ngoài về. Nếu có duyên thì về sau cậu ấy chính là người đứng đầu nhóm nghiên cứu của bọn chú đó.” “Khó có nhân tài chịu tới nơi này.” Hoa Thanh Nguyệt gật đầu. Tảo Địa Phật: “Vậy được rồi, chúng tôi không dám quấy rầy nữa.” Diệp Nhượng nhướng mày, thiếu chút nữa đã than thở ra tiếng. Sao đi sớm thế? May mà Hoa Thanh Nguyệt đã nói: “Không sao, cháu cũng vẽ xong rồi, mọi người ngồi đi, cháu sẽ đi nấu cà phê.” Tảo Địa Phật cười vui hơn hớn: “Ai u, chú thấy mát mặt quá! Cảm ơn Tiểu Nguyệt!” “Không sao, mời chào nhân tài mới quan trọng.” Hoa Thanh Nguyệt hé miệng cười, đôi mắt sáng ngời híp thành trăng non. Tảo Địa Phật vui vẻ ngồi xuống và bắt đầu nói chuyện phiếm với Diệp Nhượng. Diệp Nhượng không cảm thấy hứng thú với lời ông ấy nói vì thế không được vài câu anh đã đổi đề tài tới Hoa Thanh Nguyệt. Anh hỏi: “Lúc tới đây tôi nghe nói Miêu Cương bên này có không ít khu vực vẫn giữ lại truyền thống của Vu tộc từ quá khứ. Bọn họ giỏi vẽ bùa, niệm chú, hiến tế gì đó. Tôi thấy tranh cô vẽ phần lớn thể hiện văn hóa liên quan tới vu hịch, chẳng biết là vì thích hay muốn mượn cái này tuyên truyền cho văn hóa bản địa?” Hoa Thanh Nguyệt không trả lời mà dựa bên quầy mỉm cười nhìn Diệp Nhượng hỏi: “Đây là lần đầu tiên Diệp tiên sinh tới chỗ này sao?” “Miêu Cương ấy hả?” Diệp Nhượng nói, “Đây là lần thứ hai, cha mẹ tôi là người làm khảo cổ vì thế khi còn nhỏ tôi từng theo họ tới đây một lần.” Hoa Thanh Nguyệt rũ mắt nhẹ nhàng xoa ngón tay dính màu và hỏi: “Vậy ấn tượng của anh với Miêu Cương thế nào?” “Lần đó thì tôi chỉ nhớ rõ nơi này rất nóng.” Diệp Nhượng nói, “So với truyền thuyết thì Miêu Cương tôi nhìn thấy khi đó chỉ là một nơi bình thường, vừa ướt vừa nóng, cũng không có lực hấp dẫn thần bí nào cả.” Hoa Thanh Nguyệt tiếp tục hỏi: “Lần đầu tiên đến Miêu Cương anh không có ký ức khắc sâu nào à?” Diệp Nhượng hồn nhiên chẳng nhận ra chỗ kỳ quái trong câu hỏi của cô. Anh chỉ ngẩng đầu nhìn cô, mặt mày đầy ý cười đáp: “Không có. Chắc là vì lần đầu tới Miêu Cương tôi không gặp được người nào xinh đẹp đáng yêu như cô đây. Thật ra tôi không có ấn tượng quá nhiều với lần đầu tiên tới nơi này.” Tươi cười của Hoa Thanh Nguyệt biến thành cô đơn. —- Diệp Nhượng ở lại, ký hợp đồng ba năm. Khi gọi điện thoại cho cha mẹ mình anh nói tới đãi ngộ, quả thực rất tốt. Anh nói điều kiện nghiên cứu khoa học bên này tuy mới chỉ ở bước đầu nhưng mọi người đều nghiêm túc làm việc, phương diện kinh phí cũng không có khó khăn. “Cho nên con đã quyết định ở lại.” Anh nói. “Nhất định là con có lý do khác, nơi đó dù có đãi ngộ cỡ kia cũng không đủ để con ở lại.” Cha mẹ nói thẳng, “Phong thổ nơi ấy hẳn không phải lý do giữ con lại…… vậy là người sao?” Diệp Nhượng nghĩ tới Hoa Thanh Nguyệt thì cười gật đầu: “Vâng, là vì người, con vẫn đang theo đuổi.” Diệp Nhượng là người theo phái hành động, vừa định ra mục tiêu anh đã lên kế hoạch sau đó bắt đầu hành động. Huống chi anh còn dùng nhiệt tình tích cóp hơn hai mươi năm để theo đuổi Hoa Thanh Nguyệt thế nên sự tình tiến triển rất thuận lợi. Ít nhất Diệp Nhượng cho rằng ánh mắt Hoa Thanh Nguyệt nhìn về phía anh quả thực có yêu thích. Cứ như thế sau nửa năm Diệp Nhượng lập tức nghĩ tới việc cầu hôn. Hôm nay anh tính toán chính thức tỏ tình, là loại hướng tới kết hôn ấy. Hoa đã đặt, đã xin nghỉ, nhẫn đính hôn anh cũng đã chuẩn bị xong, địa điểm tỏ tình đã ổn, vạn sự đã hoàn hảo chỉ chờ Hoa Thanh Nguyệt gật đầu. Buổi sáng nhẫn tới. Diệp Nhượng mở hộp kiểm tra và lẩm bẩm: “Chỉ còn thiếu mỗi hoa.” Lúc này trong lòng anh bỗng nhiên có một tiếng nói vang lên: “Ngươi thật lòng hả? Muốn một đời một kiếp ấy hả?” Diệp Nhượng theo bản năng nghĩ: “Đương nhiên, nếu không thật lòng thì tôi vội vã bận rộn cái gì chứ? Nếu không cầu một đời một kiếp thì vì sao tôi phải mang thật lòng ra theo đuổi cô ấy?” Nhất kiến chung tình, nhất vãng tình thâm, tất cả những thứ ấy thực sự xảy ra trên người anh. Anh tin tưởng khoa học, cũng tin tình yêu. Lạch cạch —— Hộp nhẫn rơi trên mặt đất. Chuông cửa vang lên. “Diệp tiên sinh có nhà không? Hoa anh đặt tới rồi.” Ngoài cửa lưới có anh chàng đưa hoa vói vào phòng thét to. Tầm mắt Diệp Nhượng mơ hồ vì thế anh lắc lắc đầu đi về phía cửa. …… Từ từ? Diệp Nhượng sửng sốt ngừng ở cửa rồi ngẩng đầu. Then cửa cao quá —— là anh hoa mắt à? “Hả? Không ở nhà sao?” Anh chàng đưa hoa vặn mở tay nắm cửa và tò mò tiến vào. Miêu Cương chính là có cái điểm này không tốt, người địa phương thuần phác ngay thẳng, không hề có cảm giác giới hạn là gì. Vốn Diệp Nhượng đang muốn ngăn cản anh chàng đi vào nhưng thấy anh chàng đưa hoa đột nhiên trở nên khổng lồ thế là anh cũng choáng váng hết cả đầu. Anh chàng đưa hoa cúi đầu, ánh mắt đối diện với ánh mắt của Diệp Nhượng, ngay sau đó anh ta lộ vẻ kinh ngạc và hớn hở ngồi xuống nói: “A! Chó con!! Đáng yêu thế!” Diệp Nhượng nhìn thấy bàn tay cực đại của anh chàng đưa hoa chậm rãi vươn tới chỗ mình sau đó trời đất quay cuồng. Đôi tay kia cứ thế bế anh lên, còn mạnh mẽ xoa đầu anh nữa chứ. “Ai u, là con chó con Diệp tiên sinh nuôi à?” Anh chàng đưa hoa khen lấy khen để, “Lần trước tới không thấy mày, lông màu xám nữa chứ, đẹp thế…… Mày còn hơi bị giống Diệp tiên sinh đấy nhé!” Diệp Nhượng: “……” Khoan đã! Cái! Mẹ! Gì! Thế! Này?!! Mời các bạn mượn đọc sách Qua 81 Nạn Mới Cưới Được Vợ của tác giả Phượng Cửu An.