Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kim Bình Mai (có tranh)

THÔNG TIN EBOOK • Nguồn text: vnthuquan.net • Soát chính tả, thêm chú thích, gắn tranh: Bình An *** VỀ TÊN SÁCH “Kim Bình Mai” được ghép lại từ tên của 3 nhân vật nữ chính: Kim Liên (sen vàng), Bình Nhi (cô Bình/Lọ), Xuân Mai (hoa mai mùa xuân). Bản thân cụm từ “Kim Bình Mai” cũng có nghĩa là “Nhành mai trong lọ vàng”, do đó, bản tiếng Anh của David Tod Roy đã dịch nhan đề là “The plum in the golden vase”. Mặt khác, theo David Tod Roy, nhan đề này cũng là một sự chơi chữ với cụm từ đồng âm có nghĩa là “Khoái cảm thâm nhập âm đạo”. CÁC HỆ VĂN BẢN Theo các nhà nghiên cứu, các văn bản Kim Bình Mai đang được lưu truyền có thể quy thành 3 hệ: • Hệ bản A: bản sớm nhất và gần với tác phẩm gốc nhất. Bản tiếng Anh của David Tod Roy được dịch từ hệ này. Theo dịch giả, ông đã dịch mọi thứ có trong hệ văn bản này. Cũng theo ông, bản dịch đầy đủ đầu tiên từ hệ A sang ngôn ngữ châu Âu là bản tiếng Pháp của André Lévy năm 1985. Các bản dịch trước đó đều từ hệ B hoặc C. • Hệ bản B và C: văn bản đã được sửa chữa, rút gọn; có thể có thêm lời bình. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng được dịch từ hệ này. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỆ A VÀ B,C Cũng như nhiều bạn đọc, ban đầu tôi lầm tưởng bản B-C là bản A cắt bỏ vài chi tiết nhạy cảm, nhưng khi so sánh bản tiếng Anh của David Tod Roy và bản tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng, tôi thấy nội dung khác nhau rất xa. – Bản lược (B-C) không phải là cắt bỏ vài cảnh, mà là đã được viết lại theo kiểu tóm lược bản A; có những cảnh trong bản A dài vài trang thì trong bản lược chỉ tóm lại vài dòng. – Bản A có rất nhiều thơ và lời hát; bản lược gần như bỏ hết, chỉ giữ lại vài bài. – Trong bản lược, có những chỗ người viết bịa ra những tình tiết mới không có trong bản A. Điển hình như các chương 2, 3, 4 trong bản lược được viết mới hoàn toàn. – Các chi tiết mô tả tính dục ở bản A đều được cắt bỏ hoàn toàn ở bản lược. Do sự khác biệt quá xa này nên không thể căn cứ vào bản lược để đánh giá giá trị văn chương của bản A. *** Trong phiên bản ebook này, tôi căn cứ vào bản dịch tiếng Anh của David Tod Roy (1993) để bổ sung thêm các chú thích so sánh sự khác nhau về chi tiết giữa bản lược và bản A, tuy nhiên cũng không thể truyền tải được không khí và mức độ táo bạo của bản gốc. Hy vọng một ngày gần đây, Việt Nam sẽ có bản dịch đầy đủ của Kim Bình Mai. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ. (Chú thích hệ * là của nhà xuất bản, chú thích hệ số [1], [2]... là của người làm ebook.) Người làm ebook 09/2022 *** DỊCH GIẢ Nhà Hán học Nguyễn Quốc Hùng sinh năm 1938 trong một gia đình danh giáo, có thân phụ từng giữ chức Đốc học tỉnh Hải Dương. Năm 1969, khi chỉ mới 31 tuổi, ông đã công bố cùng một lúc bản dịch hai bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là Hồng Lâu Mộng và Kim Bình Mai. Sau đó, ông tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm biên khảo và dịch thuật quý giá khác như Trung Quốc toàn sử, Lịch sử Văn hóa Trung Hoa, Lịch sử tiểu thuyết Trung Hoa, Hán Việt tân từ điển… Năm 2003, Nguyễn Quốc Hùng qua đời tại Canada, để lại một số tác phẩm vẫn chưa kịp xuất bản. Bản Việt dịch Kim Bình Mai của Nguyễn Quốc Hùng ra đời ở Sài Gòn từ tháng 8 năm 1969, do Chiêu Dương xuất bản xã phát hành, được in thành 12 tập, mỗi tháng in từ 1 đến 2 tập. Đến đầu năm 1970, sách đã được in trọn bộ với tổng cộng hơn 2.700 trang. *** LỜI GIỚI THIỆU Bạn đọc đang tiếp xúc với bộ tiểu thuyết trường thiên, một pho “kì thư” rất đặc sắc của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Đó thực sự là lịch sử cuộc đời đầy tội ác và sinh hoạt gia đình nhơ bẩn của Tây Môn Khánh, một kẻ hãnh tiến xuất thân từ một chủ hiệu sinh dược, nhưng do những mánh khóe bóc lột và hành vi ác bá, kéo bè kéo cánh, thông lưng với quan lại một bước nhảy tót lên địa vị một thổ hào thân sĩ giàu tiền của, đầy quyền thế. Từ cái bàn đạp đó, ngoi lên vin vào quan hệ nghĩa phụ nghĩa tử với Thái Kinh, một viên đại thần hiển hách ở triều đình lúc bấy giờ, Tây Môn Khánh đã trở thành Đề hình Thiên hộ ở bản huyện, tham lam tàn ác, bẻ cong phép nước, ăn tiền hối lộ, hại người lương thiện, và sống cuộc đời dâm ô cực kỳ bỉ ổi. Kim Bình Mai quả đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội đương thời qua những trang sách tràn đầy hơi thở hiện thực. Qua mối quan hệ chằng chịt của nhân vật chính Tây Môn Khánh với mọi lớp người trong xã hội, tác giả đã khắc họa chân dung sinh động cùng trạng thái tinh thần muôn vẻ của hàng loạt nhân vật, từ những viên hoạn quan làm mưa làm gió trong cung đình ngay bên nách hoàng đế, đến những tên lưu manh du thủ du thực, những tay dao búa chuyên nghiệp, những tên côn đồ bịp bợm lừa đảo đầy rẫy ngoài phố chợ. Qua những hành vi đê tiện và những mánh khóe tội lỗi của chúng, tác giả đã vẽ lên khá tỉ mỉ mà khái quát một bức tranh xã hội đen tối tàn khốc, trên thực tế đó cũng chính là xã hội mà tác giả đang sống, xã hội phong kiến Trung Quốc thời Minh từ sau Chính Đức đến giữa Vạn Lịch. Nhân vật chính Tây Môn Khánh trước hết là một con quỷ dâm dục hiện hình, một mình y đã có một thê và năm thiếp nhưng còn sẵn sàng cưỡng dâm từ con gái nhà lành đến đàn bà góa bụa, giết chồng đoạt vợ, kể cả vợ bạn, em dâu y cũng không tha. Dâm dục đi đôi với tàn bạo là nét bản chất xuyên suốt cuộc đời y cho đến kết thúc bằng cái chết vì bệnh dâm dục. Bên cạnh Tây Môn Khánh là Phan Kim Liên được xây dựng như một nhân vật điển hình của hạng phụ nữ tà dâm, xảo quyệt. Thông dâm với Tây Môn Khánh, thị đã nhẫn tâm và quỷ quyệt đầu độc chồng là Võ Đại, rồi khi chồng đã ngấm thuốc chết hẳn “hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, cắn cả vào môi chảy máu, tai mũi và cả mắt đều ứa máu ròng ròng” thì thị cùng Vương bà “kéo xác Võ Đại ra sau nhà, lau sạch vết máu, đội mũ đi giày cho tử tế, lấy khăn phủ lên mặt cho Võ Đại rồi cả hai cùng ngồi khóc”. Thị lập bàn thờ chồng với bài vị “Vong phu Võ Đại lang chi linh”, nhưng sẵn sàng hú hí với Tây Môn Khánh ngay trước bàn thờ ấy. Xoay quanh các nhân vật chính đó, thôi thì đủ hạng vô lại cặn bã của xã hội: Ứng Bá Tước và Tạ Hi Đại bợ đỡ nịnh hót, Trương Thắng và Lưu Nhị du thủ du thực, thằng quýt con sen Lai Vượng, Thu Cúc, con hát Lưu Quế Thư, kép hề Vương Kinh, cho đến thái giám, môn quan, tăng lữ, ni cô, đạo sĩ, bà mối... tất cả đám người kí sinh trong xã hội đô thị. Trên phương diện xây dựng hình tượng nhân vật cụ thể, tác phẩm đã sáng tạo khá thành công một loạt tính cách điển hình có xương có thịt. Trên tiến trình văn học của dân tộc Trung Hoa, Kim Bình Mai có một vị trí quan trọng. Thời Minh, nhất là từ Gia Tĩnh (1522-l566), xã hội tương đối ổn định, kinh tế có chiều phát triển, xu thế đô thị hóa tăng dần, đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thể loại văn học mới: trường thiên tiểu thuyết. Song hành với điều kiện xã hội đó là sự tiến bộ của kỹ thuật in khắc. Đến thời Vạn Lịch (1573-1620) đã xuất hiện một cục diện phồn vinh của thể loại này với hàng loạt tác phẩm ngày nay còn được biết. Tiểu thuyết Trung Quốc thời này có thể chia làm bốn loại: Thứ nhất, chiếm số lượng áp đảo là tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa, đại thể phỏng theo Tam quốc chí diễn nghĩa, kể chuyện lịch sử bằng ngôn ngữ thông thường dễ hiểu. Có thể nói, suốt từ Xuân Thu Chiến Quốc đến Minh sơ, tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa thời này đã phủ kín cả chiều dài lịch sử Trung Quốc. Trong đó tiêu biểu nhất là Bắc Tống chí truyện của Hùng Đại Mộc. Nhìn chung loại tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa này miêu tả tính cách nhân vật còn tương đối ít, kết cấu không chặt, tình tiết nhiều lúc thiếu gắn bó, còn câu nệ quá nhiều vào sự thật lịch sử, nghệ thuật còn sơ lược, thường còn nằm trên ranh giới giữa lịch sử với văn học. Thứ hai, là tiểu thuyết phong thần, tiêu biểu nhất là Phong thần diễn nghĩa. Loại này phần nhiều kể lại những chuyện li kỳ hoang đường, thiếu ý nghĩa xã hội sâu sắc. Thứ ba là tiểu thuyết “công án”, nổi tiếng nhất là Hải Cương Phong tiên sinh cư quan công án truyện của Lí Xuân Phương, 71 hồi, mỗi hồi kể một chuyện với nhân vật xuyên suốt là người thẩm án Hải Thụy. Về thể tài có thể xem là tổng tập tiểu thuyết bút kí, tựa như tập truyện vụ án. Thứ tư là tiểu thuyết “thế tình” (tình đời). Loại này lúc đó còn hiếm, ngày nay được biết chỉ có Kim Bình Mai và Ngọc Kiều Lí, nhưng Ngọc Kiều Lí thì đã thất truyền. (Thẩm Đức Phù trong Dã hoạch biên nói ông từng xem Ngọc Kiều Lí). Loại này ngày nay thường được gọi là tiểu thuyết xã hội. Trước Hồng lâu mộng hơn một trăm năm, Kim Bình Mai được coi là tác phẩm mở đường cho tiểu thuyết xã hội Trung Quốc. Từ năm 1940, đề tựa cho Bình ngoại chi ngôn của Diêu Linh Tê, Giang Đông Tễ Nguyệt gọi là “tiểu thuyết của tiểu thuyết”, còn Ngụy Bệnh Hiệp thì so sánh với tác phẩm của Dickens ở Anh, Sêkhov ở Nga, đồng thời cho rằng Thủy hử kể nhiều võ hiệp, Hồng lâu chuyên nói tình yêu, Nho lâm ngoại sử miêu tả tình thái xã hội – nhưng hạn chế trong đám hủ nho, ý nghĩa xã hội đều không rộng lớn bằng Kim Bình Mai. Trong bài Bàn về Hồng lâu mộng, Hà Kì Phương có nhắc đến mối quan hệ giữa Hồng lâu mộng với Kim Bình Mai: Hồng lâu mộng quả là cái bóng soi ngược hình của Kim Bình Mai. Dĩ nhiên Hồng lâu mộng sinh sau nhưng vượt trội nhiều mặt, đặc biệt là ngôn ngữ văn học đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết cổ điển, rõ ràng Kim Bình Mai không sánh được. Ngay cả sau khi Kim Bình Mai bị liệt vào hạng “sách cấm” thì giới văn học vẫn xếp nó vào một trong “tứ đại kì thư” (bốn cuốn sách lớn kì thú) của tiểu thuyết trường thiên Minh Thanh: Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây du ký và Kim Bình Mai. Tất cả các giáo trình văn học sử ở các trường Đại học Trung Quốc đều giảng Kim Bình Mai và đều công nhận đó là con chim én báo mùa xuân của thể loại truyện dài do cá nhân sáng tác ở Trung Quốc. Lỗ Tấn nói trong Trung Quốc tiểu thuyết sử lược: “Tiểu thuyết (Kim Bình Mai) lấy chuyện Võ Tòng đánh cọp tìm anh trong Thủy hử truyệnlàm ngòi dẫn, mượn danh thời Tống để tả thực thời Minh, phản ánh hiện thực xã hội thời Minh”. Kim Bình Mai đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản dịch sớm nhất là bản Mãn văn khắc in năm Khang Hi 47 (1708), không ghi tên dịch giả, dịch theo bản “Trương Phúc Pha đệ nhất kì thư”. Ở phương Tây, sớm nhất là bản dịch hồi thứ nhất của Kim Bình Mai, thực hiện bởi A.P. Bazin: Histoire de Wou Song et de Kim Lien trong Chine moderne (Trung Quốc hiện đại) xuất bản năm 1853. (tiếng Pháp). Năm 1927 có bản tiếng Anh Chin Ping Mei, the adventurous of His Menching ở New York. Năm 1928 có bản tiếng Đức Djin Ping Me của Oto Kibat. Tiếng Hungari, tiếng Thụy Điển, tiếng Phần Lan đều đã có bản dịch. Ở Nhật Bản đã có nhiều bản dịch khác nhau. Bản dịch đầy đủ 100 hồi sớm nhất là của Cương Nam Nhân Kiều in thành 4 tập, hoàn thành đầu thế kỉ này. Năm 1951, có bản dịch của Tiểu Dã Nhẫn và Thiên Điền Cửu Nhất theo nguyên bản Kim Bình Mai từ thoại. Ở Việt Nam lâu nay lưu hành khá rộng rãi bản in của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1989 loại trọn bộ 4 tập, in 20.000 bản và loại trọn bộ 8 tập, cũng in 20.000 bản, nội dung hoàn toàn như nhau kể cả lời giới thiệu và ghi chú ở đầu sách: “In theo bản của nhà xuất bản Chiêu Dương – 1969, có đối chiếu bản gốc và tham khảo các bản khác”, song không cho biết tên dịch giả và bản gốc cũng như các bản tham khảo khác là bản nào. Căn cứ vào nội dung truyện và tiêu đề ngắn gọn của từng hồi trong bản dịch, chúng tôi đoán rằng dịch giả đã dùng một nguyên bản thuộc hệ văn bản thứ ba mà chúng tôi sẽ phân tích ở dưới trong phần khảo về văn bản, mà theo nhận định chung của giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc thì hệ văn bản thứ hai mang tên Kim Bình Mai từ thoại mới là văn bản tiêu biểu. Thử so sánh tiêu đề hồi đầu và hồi cuối của hai loại văn bản đó (tạm dịch):   Hệ văn bản 3 Hệ văn bản 2 Hồi 1 Bạn bè kết nghĩa vui thú ăn chơi Đồi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ; Phan Kim Liên chê chồng, bán trăng hoa. Hồi 100 Dòng Tây Môn tuyệt tự Hàn Ái Thư đến hồ tìm bố mẹ; Phổ Tĩnh sư tiến bạt quần oan. Có thể thấy hai loại văn bản này khác nhau khá xa. *** Dưới đây, đặc biệt giới thiệu hai vấn đề mà giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc cũng như trên thế giới hết sức quan tâm, hai vấn đề đã gây tranh cãi hàng trăm năm, cùng với những kết quả nghiên cứu mới nhất trong hai thập kỉ qua (sau “cải cách mở cửa”). Một là vấn đề “văn bản Kim Bình Mai”. Bộ tiểu thuyết này đã từng mang nhiều tên gọi khác nhau, số tên gọi không kém gì Thủy hử hay Hồng lâu mộng. Mà sự khác nhau trong tên gọi thường kèm theo sự xê dịch về nội dung. Theo trình tự thời gian có thể sơ lược giới thiệu như sau: Ở thời kỳ chép tay, thì tên gọi rất đơn giản, chỉ gọi là, được ghép từ tên ba nhân vật quan trọng: Phan Kim Liên, Lý Bình Nhi, Bàng Xuân Mai – mỗi tên lấy một chữ đại diện. Sau khi đưa khắc in, có người gọi là Kim Bình Mai truyện thì tên sách đề là Tân khắc Kim Bình Mai từ thoại.Đó là tên gọi ở thời kỳ đầu mới khắc in. Về sau, những người xuất bản thường chụp lên đầu tên sách một số mũ nào đó, thế là thành các tên như Túc bản Kim Bình Mai từ thoại (bản đầy đủ), Hội đồ cổ bản Kim Bình Mai từ thoại (bản cổ có tranh vẽ) v.v... Cuối đời Minh, do chỗ Kim Bình Mai từ thoại có tăng thêm, tỉa bớt hoặc sửa chữa khá nhiều, hoặc có vẽ tranh, bình luận, hình thành một hệ văn bản mới nên tên sách cũng thay đổi theo, gọi là Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai (bản khắc mới có tranh thêu và lời bình) hoặc Tân thuyên tú tượng phê bình nguyên bản Kim Bình Mai (thêm chữ “nguyên bản”). Người ta quen gọi loại này là “bản Sùng Trinh”*. Tú khắc cổ bản bát tài tử từ thoại cũng thuộc loại này. Dưới thời Khang Hi nhà Thanh, Trương Trúc Pha, tức Trương Đạo Thâm, người Bành Thành, rất tán thưởng sách này, mệnh danh nó là Thiên hạ “đệ nhất kì thư”. Lấy Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai làm bản nền, họ Trương đã tiến hành phê bình một cách toàn diện và có hệ thống, đến mức thành một hệ văn bản mới, lưu truyền khá rộng rãi, ảnh hưởng tương đối sâu sắc, đầu quyển thường ghi là Cao Hạc đường phê bình Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai và ở trang bìa giả, thôi thì đủ: nào là Đệ nhất kì thư, nào là Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai, Đệ nhất kì thư tú tượng Kim Bình Mai, Tú tượng Kim Bình Mai đệ nhất kì thư.Tứ đại kì thư đệ tứ chủng, Tăng đồ tượng túc bản Kim Bình Mai, Tăng đồ tượng Cao Hạc thảo đường kì thư toàn tập, nào là Hội đồ đệ nhất kì thư, Hiệu chính gia phê Đa thê giám toàn tập, Tân thuyên hội đồ Đệ nhất kì thư Chung tình truyện v.v... Thời Gia Khánh (Thanh), trên cơ sở bản nền Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương, đã ra đời một bản rút gọn gọi là Tân khắc Kim Bình Mai kì thư. Thời Dân Quốc, có người gia giảm cắt gọt “Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương”, xào xáo lại, bôi râu vẽ mặt thêm, cho ra đời cái gọi là “Kim Bình Mai chân chính”, đặt tên là Hội đồ chân bản Kim Bình Mai. Từ đó về sau lại có thêm những là Cổ bản Kim Bình Mai, Tiêu điểm cô bản cổ bản Kim Bình Mai, Cảnh thế kì thư Kim Bình Mai v.v và v.v... Chúng là hàng rởm vỗ ngực tự xưng là “chân” (thật), “cô” (hiếm), cổ (xưa), nhưng là thứ hàng rởm đã thành công trong công cuộc mập mờ đánh lận con đen, và đã từng lưu hành rộng rãi một thời. Cho đến nay tính ra Kim Bình Mai lưu truyền có đến mấy chục bản khác nhau, có thể quy nạp thành ba hệ văn bản: 1 – Hệ văn bản “từ thoại”: Hệ này, Tôn Khải Đệ gọi là Kim Bình Mai từ thoại, học giả Nhật Bản gọi là “bản từ thoại”, học giả Mỹ gọi là “hệ bản A”. Bản sớm nhất của hệ này là bản khắc năm Vạn Lịch 45, cũng là bản sớm nhất trong các truyền bản Kim Bình Mai đã biết. Hệ này nay còn lại tương đối hoàn chỉnh chỉ có ba bộ: một hiện ở Đài Loan (trước lưu giữ ở Thư viện Bắc Kinh), hai bộ ở Nhật Bản. Đặc điểm tương đối nổi bật của hệ văn bản này là ở hai chữ “từ thoại”. Từ thoại vốn là một hình thức nghệ thuật “thuyết xướng” (kết hợp hát với nói lời bạch, xen kẽ văn xuôi với văn vần), hình thức này có từ thời Tống, thịnh hành thời Nguyên – Minh. Kim Bình Mai từ thoạituy mang tên như vậy song không thể coi là “từ thoại” chính cống nữa mà nó rõ ràng là một pho trường thiên tiểu thuyết mang màu sắc “từ thoại” mà thôi. 2 – Hệ văn bản “tú tượng phê cải” (có tranh thêu và có sửa chữa). Hệ văn bản này gồm hai loại nhỏ: loại “bản Sùng Trinh” và loại “bản Trương Bình”. Hệ văn bản này có hai đặc điểm mà các hệ văn bản khác không có: 1 / lời phê lời bình; 2 / tranh thêu. So với hệ văn bản “từ thoại” nói trên, hệ này chặt chẽ, trong sáng, hợp lí thông đạt hơn, văn bản “từ thoại” vì đưa vào quá nhiều thơ ca từ phú không liên quan gì mấy với phát triển của tình tiết nên làm yếu chất tiểu thuyết. a. Loại văn bản Sùng Trinh: bản khắc sớm nhất được coi là khắc dưới thời Sùng Trinh nhà Minh. Hiện còn tám bộ lưu giữ ở tám nơi khác nhau: Thư viện Nước Thư viện Thủ đô (Bắc Kinh) Trung Quốc Thư viện Thượng Hải Thư viện Đại học Bắc Kinh Thư viện Thiên Tân Thư viện Trung ương Đài Loan Nội các văn khố Nhật Bản Trường Đại học Tôkiô Trường Đại học Thiên Lý b. Loại văn bản Trương Bình (khởi đầu từ Trương Trúc Pha như đã nói ở trên). 3 – Hệ văn bản rút gọn: Các văn bản này, nhất là những văn bản mang danh “chân bản”, “cổ bản” phần nhiều là “đồ rởm”, xưa nay không được giới học thuật coi trọng. Sở dĩ như vậy trước hết là do những kẻ làm sách giả đã tùy tiện thêm bớt rất nhiều, đã thế lại dám rêu rao là “chân”, là “cổ”. Loại văn bản này ra đời muộn, đến nay chỉ khoảng bảy tám chục năm, từng có thời gian lưu truyền rộng rãi, cho đến nay vẫn chưa phải đã hết ảnh hưởng. *** Hai là vấn đề “tác giả Kim Bình Mai”. Tác giả Kim Bình Mai là ai? Vấn đề này đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu. Bản Kim Bình Mai từ thoại khắc in ở thời Vạn Lịch nhà Minh ghi là Tiếu Tiếu Sinh sinh tác. Tiếu Tiếu Sinh rõ ràng là một bút danh có nghĩa là “chàng cười”, “chàng hay đùa” (“Tiếu” là cười, còn “sinh” là tiếng tự xưng hoặc tiếng gọi người trẻ tuổi). Bài Tựa đầu sách Tiếu Tiếu Sinh từ thoại kí tên Hân Hân Tử, đặt trước tên tác giả một địa danh là Lan Lăng. Lan Lăng là một ấp của nước Sở thời Chiến Quốc, thời Hán đặt thành huyện, thời Tấn kiêm cả quận, thời Tùy bỏ cả quận lẫn huyện, thuộc địa phận huyện Dịch tỉnh Sơn Đông ngày nay. Thời Đường lại đặt huyện, thời Nguyên bỏ. Ngoài ra, thời Tấn có lần gửi huyện Lan Lăng ở huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, và đặt thành quận Nam Lan Lăng, đến thời Tùy cũng bỏ. Nhiều người nghĩ rằng Hân Hân Tử, (nghĩa rộng là “ông vui vui”) cũng chỉ là một biến dạng của Tiếu Tiếu Sinh mà thôi. Ngoài Kim Bình Mai ra, tác phẩm của Tiếu Tiếu Sinh chỉ thấy có một bài từ Ngư du xuân thủy bảo tồn được trong tập tranh đời Minh là Hoa doanh cẩm trận (nghĩa là “trại hoa trận gấm”). Từng có người đoán là Triệu Nam Trinh (1551-1627) hoặc Tiết Ứng Kỳ (khoảng 1550-?) nhưng đều không đưa ra được chứng cứ trực tiếp. Giáo sư Chu Tinh sau mấy chục năm chuyên nghiên cứu ở khoa Trung văn trường Đại học sư phạm Thiên Tân, trong cuốn Kim Bình Mai khảo chứng của mình xuất bản tháng 10-1980 cho rằng tác giả Kim Bình Mai là Vương Thế Trinh (1526-1590) đỗ Tiến sĩ dưới triều Gia Tĩnh, làm quan đến Hình bộ Thượng thư, tác giả của Gia Tĩnh dĩ lai thủ phụ truyện, Yêm Châu sơn nhân tứ bộ cảo, Độc thư hậu, Vương thị thư uyển, Hoa uyển... Thật ra từ cuối thời Minh đã có người cho rằng được Vương Thế Trinh viết ra để trả thù cho bố. Ngụy Tử Vân trong Kim Bình Mai đích vấn thế dữ diễn biến (Nxb Đài Loan thời báo, 1981) cho rằng ngôn ngữ Sơn Đông ở trong truyện thật ra là thứ ngôn ngữ lưu hành ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời chỉ rõ từ Đông Tấn về sau Giang Nam cũng có Lan Lăng, từ đó phủ đinh lập luận nói rằng tác giả phải là người Sơn Đông. Căn cứ vào tập quán sinh hoạt của nhà Tây Môn Khánh miêu tả trong truyện, Ngụy Tử Vân cho rằng Tiếu Tiếu Sinh phải là một người Giang Nam đã sống lâu trên đất Bắc. Năm 1981, giáo sư Từ Sóc Phương trường Đại học Hàng Châu đăng bài nói rằng tác giả Kim Bình Mai là Lí Khai Tiên (1501-1568). Đầu năm 1984, Kim Bình Mai tân chứng của Trương Viễn Phần được Tề Lỗ thư xã xuất bản, trong đó tác giả khẳng định rằng Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh chính là Giả Tam Cận, nhà văn huyện Dịch thời Minh. Thật ra ý kiến này đã được Trương Viễn Phần đề cập trong một bài đăng tạp chí Bão độc năm 1981. Phúc Đán học báo tháng 7-1984 đăng bài của Lý Thời Nhân “Thuyết Giả Tam Cận viết Kim Bình Mai không thể đứng được” kèm theo phụ đề “Chúng ta nên chú ý thái độ và phương pháp khảo chứng”, đồng thời công bố liền hai bài “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo” và “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo tục” của Hoàng Lâm. Đi theo hướng tìm kiếm của Ngụy Tử Vân, Hoàng Lâm đã phát hiện được Đồ Long, một người nguyên quán ở huyện Ngân tỉnh Chiết Giang từng làm quan ở Bắc Kinh, từng ký tên là Tiếu Tiếu tiên sinh ở hai cuốn sách đời Minh là Sơn trung nhất tịch thoại (Một buổi chuyện trò trong núi) và Biến địa kim (Vàng khắp nơi). Đồ Long (1542-1605) tự là Trường Khanh, lại có một tự nữa là Vĩ Chân, hiệu là Xích Thủy, đỗ Tiến sĩ dưới thời Vạn Lịch, từng làm tri huyện Thanh Phố, tri huyện Dĩnh Thượng, và Chủ sự bộ Lễ. Khảo trong Kim Bình Mai từ thoại hồi thứ 48 có việc Hoàng Mỹ ở phủ Khai Phong gửi thư cho Tuần án sử Sơn Đông là Tăng Hiếu Tự, gọi Tăng mỗ đang giữ chức Tuần án Ngự sử Đô sát viện bằng chức danh “Đại trụ sử”, chức danh này trước chưa từng nghe nói, người đọc cũng thường không để ý. Tra trong Cổ kim quan chế diên cách do Đồ Long soạn thì dưới phần khảo chứng của mục Đô sát viện có tìm thấy câu “Tại Chu vi Trụ hạ sử, Lão Đam thường vi chi” (Thời Chu là Trụ hạ Sử, Lão Đam từng làm chức ấy) v.v., chứng tỏ cách xưng hô hiếm hoi ấy trong truyện quả có khả năng chính là do Đồ Long viết. Ngụy Tử Vân khảo sát kinh lịch của Đồ Long thấy rằng rất có khả năng Đồ Long viết sách ấy để phúng dụ hoàng đế lúc bấy giờ. Có hai lí do: một là Đồ Long từ năm Vạn Lịch 12 bị cách chức về sau không ngóc đầu lên được nữa, khốn nghèo cho đến chết, hoàn toàn là vì trong khi làm tri huyện Thanh Phố một lần dâng thư mừng sinh nhật Hoàng trưởng tử, đã phạm phải điều cấm kỵ của Hoàng đế, hẳn vì thế mà có lòng oán hận; hai là Đồ Long từ sau khi bị cách chức, thường được người bạn là Lưu Thủ Hữu ở Ma Thành tiếp tế, đến sau khi chết năm Vạn Lịch 33, người đời lại truyền rằng con Thủ Hữu là Lưu Thừa Hỉ có đủ trọn bộ sách này. Đối chiếu những điều nói trên, dường như Đồ Long viết Kim Bình Mai là điều có thể tin được. Năm 1985, Kim Bình Mai nguyên mạo thám sách (Tìm kiếm diện mạo ban đầu của Kim Bình Mai) của Ngụy Tử Vân được Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản, ông Đồng Văn đề tựa có nhắc lại bài viết Kim Bình Mai dữ Vương Thế Trinh của Ngô Hàm cũng từng đề cập tới một “Đồ Xích Thủy nổi tiếng về tạp kịch và văn chương”, mà Xích Thủy chính là hiệu của Đồ Long. Ông Đồng Văn lấy đó để khẳng định thêm khả năng thừa nhận Đồ Long là tác giả Kim Bình Mai. Dĩ nhiên đối với một “câu đố” đặt ra đã bốn thế kỉ nay và trong thời gian đó đã lần lượt ra đời hơn chục đáp án khác nhau để rồi lần lượt bị bác bỏ thì chưa thể khẳng định ngay Đồ Long là đáp án chính xác. Tuy nhiên, chí ít thì đáp án này cũng đã đứng được ngót mười lăm năm nay. Những ai quan tâm đến văn học Trung Quốc nói chung và nói riêng hẳn là hứng thú theo dõi. Phan Văn Các 1-1999 Mời các bạn đón đọc Kim Bình Mai (có tranh) của tác giả Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh & Nguyễn Quốc Hùng (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hôn Lễ Tử Thần - Christie Craig
Ai biết được việc đám cưới có thể khiến bạn bị giết chết cơ chứ? Điều gì xảy ra khi bạn nhận ra người đàn ông mà mình sắp cưới không hề yêu bạn và bạn cũng không yêu anh ta? Khi chiếc nhẫn đính hôn trị giá 8 ngàn đô la vô tình bị rớt xuống toilet không đủ là một dấu hiệu cho Katie Ray hoãn lại ngày trọng đại, định mệnh trở nên bận rộn hơn. Liệu việc chứng kiến người tổ chức đám cưới cho mình bị giết chết và chính mình lại bị nhốt trong phòng tối cùng một nam thám tử quyến rũ có phải là một trò đùa trớ trêu của số phận? Thám tử Carl Hades vốn được thuê để điều tra một vài cô dâu đang bị mất tích, nhưng điều cuối cùng mà anh chàng hư hỏng này muốn lại là bị xích với cô dâu tương lai kia. Đặc biệt khi quý cô tóc đỏ cực kỳ xinh đẹp đó đã làm khuấy động mọi cảm xúc mà anh tránh né trong nhiều năm. Giờ thì việc tránh né cô có vẻ như là một kế hoạch thiên tài, đặc biệt khi đám cưới tương lai của cô cũng có cùng hoàn cảnh như chiếc nhẫn đính hôn của cô - biến mất - làm cho Katie trở thành một người tự do...và càng ngày càng quyến rũ hơn. Nhưng khi các cô dâu đang bị mất tích bị giết chết, Carl ngờ rằng Katie có thể sẽ là người kế tiếp, điều đó khiến cho việc né tránh cô trở nên bất khả thi và không chắc chắn, đặc biệt khi việc ở cùng cô lại mang đến cho anh thật nhiều niềm vui. *** Christie Craig - Tiểu thuyết gia văn học lãng mạn hiện đại ăn khách nhất tại Mỹ. Bà sinh ra và lớn lên ở Alabama, là một nhà văn đạt giải thưởng, có sách xuất bản hàng triệu bản, một diễn giả đầy sức thuyết phục, đồng thời là một giáo viên dạy viết văn. Các bài báo và ảnh chụp của bà xuất hiện trên gần ba ngàn tạp chí lưu hành khắp nước. Là người đã lọt vào vòng chung kết giải Golden Heart, cũng như là người lọt vào vòng chung kết trong các cuộc thi do RWA tài trợ, bà có được sự công nhận trong dòng văn học lãng mạn, với văn phong hài hước dí dỏm, pha trộn giữa các tình huống ly kỳ hồi hộp và gợi tình. Nhận giải Holt Medallion Award of Merit dành cho thể loại Best Romantic Comedy Romance Novel năm 2009. Bà hiện sống ở Texas cùng chồng, con trai, với một chú chó và ba con mèo. Sách đã xuất bản ở Việt Nam: Shut up and Kiss Me (Im lặng và hãy hôn em đi!) Gotcha! (Bắt được anh rồi nhé!) Wedding Can Be Murder! (Hôn lễ tử thần) Divorced, Desperate and Delicious (Ly dị, Tuyệt vọng và dễ thương) ... *** Không thấy Les trả lời, Katie với lấy cái áo choàng tắm. “Les?” Cô bước vào phòng ngủ. Vẫn không thấy gì. Kéo áo choàng tắm quanh người, cô đi ra hành lang. Khi đi qua phòng làm việc, cô nhìn thấy giá vẽ đổ dưới sàn nhà. Và bức tranh vẫn còn chưa ráo của cô nằm úp sấp xuống thảm. Không phải là một tổn thất lớn lao của thế giới, nhưng... Cô quỳ xuống để nhặt bức tranh lên, và khi đang ở tư thế đó, một đôi giày đàn ông xuất hiện trong tầm nhìn của cô, và những chiếc giày gắn liền với một đôi chân. Cô ngước lên. Gắn với đôi chân là tấm thân một người lạ, và trên tấm thân ấy là một khuôn mặt. Một khuôn mặt cô không nhận ra. “Ông... là ai?” Hắn ta nhìn cô với đôi mắt xanh lục lạnh lẽo. Đôi mắt bạo tàn tới mức Katie có thể đoán ngay rằng hắn ta không tới chào bán những thanh kẹo cho đội Thiếu Niên, hoặc để hỏi xem cô có quần áo gì ủng hộ cho quĩ từ thiện hay không. Hắn đưa bàn tay giấu sau lưng ra. Và trong bàn tay ấy hắn cầm con dao thái thịt sắc nhất của cô. Những cơn sóng hoảng sợ ập tới. Thời gian như ngừng trôi và đầu óc cô bắt đầu xử lý từng mẩu thông tin. Mẩu thứ nhất: Đồ vô lại này không thèm mang vũ khí riêng của hắn tới, mà có kế hoạch dùng dao của cô. Mẩu thứ hai: Hắn dùng vật gì để giết hại cô thì có thành vấn đề quái gì không? Mẩu thứ ba: Hôm nay không phải là một ngày thích hợp để chết. Cô đã có một bản danh sách những việc phải làm, và trong ấy gồm cả việc làm cho mình trở nên hấp dẫn và được ái ân. Chết chóc không có mặt trong bản danh sách ấy. Và người họ Ray luôn tuân thủ danh sách của mình. Mẩu thứ tư: Cô sắp sửa nôn. ... Mời các bạn đón đọc Hôn Lễ Tử Thần của tác giả Christie Craig.
Chuồn Chuồn Mùa Hạ - Antje Babendererde
Tại một trạm xăng bên đường cao tốc, Jodie lần đầu tiên gặp Jay, chàng trai người da đỏ. Chưa đến một ngày sau cô đã cùng anh tiến sâu vào vùng núi hoang sơ của Canada. Jay đưa Jodie vào một hành trình kỳ diệu làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời cô: Rời xa thế giới văn minh, giữa thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ, hai người cùng trải qua một mùa hè đầy tình yêu và phép màu nhiệm. Nhưng Jodie không thuộc về nơi hoang dã, cũng như Jay không thuộc về nơi đô hội. Jodie đang đứng trước quyết định khó khăn nhất của cuộc đời mình ... Cuốn sách đã giành được giải thưởng DeLiA cho tiểu thuyết tình yêu bằng tiếng Đức hay nhất năm 2007. *** Antje Babendererde sinh năm 1963, lớn lên tại bang Thüringen, nước Đức. Sau khi học nghề làm gốm, bà chuyển sang làm điều trị viên trong bệnh viện tâm lý dành cho trẻ em. Từ năm 1996 bà là nhà văn tự do. Bà có một niềm đam mê đặc biệt dành cho văn hóa, lịch sử và đời sống hiện tại của người da đỏ. Những tiểu thuyết của bà về chủ đề này dành cho người lớn và thanh thiếu niên được viết dựa trên những nghiên cứu tỉ mỉ cùng những chuyến du lịch đến nước Mỹ rất được giới phê bình khen ngợi. Cuốn này trước kia tớ đã dịch được gần một phần ba và đăng tải trên trang Yume. Hồi đấy trình độ tiếng Đức còn quá hạn chế nên bản dịch rất nhiều thiếu sót. Bây giờ vốn liếng đã khá hơn trước một chút, cộng thêm mong muốn luyện tập trau dồi khả năng dịch, tớ sẽ dịch lại toàn bộ và đăng lên chia sẻ cùng các bạn. Mời các bạn đón đọc Chuồn Chuồn Mùa Hạ của tác giả Antje Babendererde.
Mê Cung Trong Thư Viện Của Ngài Lemoncello - Chris Grabenstein
Kyle là một trong mười hai đứa trẻ may mắn giành được tấm vé vào tham quan thư viện mới, ngay trước ngày khai trương. Mười hai đứa trẻ được thám hiểm trong thư viện đóng kín với hàng ngàn quyển sách hay, đồ ăn ngon và những trò chơi thú vị. Chỉ khác một điều, sáng hôm sau, cửa thư viện vẫn bị đóng chặt, các cô cậu bé phải dùng trí thông minh của mình để tìm đường thoát ra khỏi thư viện, dựa vào những gợi ý của Ngài Lemoncello. Kyle và những người bạn đã lần mò, tìm manh mối dựa vào những cuốn sách, những câu hỏi và trò chơi để tìm lối thoát bí mật. Người đầu tiên ra khỏi thư viện bằng lối thoát bí mật sẽ nhận được phần thưởng vô cùng quí giá và hấp dẫn từ ngài Lemoncello. Cuốn sách bao gồm những câu đố và trò chơi trí tuệ mà người đọc có thể cùng chơi với các nhân vật trong truyện. Chính điều đó làm gợi lên sự tò mò, thích thú cũng như được đồng hành cùng Kyle và các bạn đi tìm lối thoát bí mật. *** Christopher "Chris" Grabenstein là một tác giả người Mỹ. Ông đã xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình vào năm 2005. Kể từ đó ông đã viết tiểu thuyết cho cả người lớn và trẻ em, sau này thường có cộng tác viên thường xuyên James Patterson. *** Kyle Keeley vừa bị phạt cấm túc một tuần. Chuyện là, cậu bé đi đường tắt bằng cách chui qua bụi hoa hồng ưa thích của mẹ. Những cái gai đâm đau thật đấy, nhưng san bằng những bụi mâm xôi và dẫm nát vài cành dã yên thảo giúp Kyle có được năm giây quý giá nhanh hơn ông anh cả tên Mike của cậu. Cả Kyle và Mike đều biết chính xác phải tìm thứ để chiến thắng trò chơi này ở đâu: ngay trong nhà chứ đâu nữa! Kyle đã tìm thấy quả thông để hoàn thành vòng “ngoài trời”. Và cậu cũng khá chắc rằng Mike đã kiếm được một “bông hoa vàng”. Đang là tháng Sáu, chỗ nào cũng có hoa bồ công anh. “Bỏ cuộc đi, Kyle!” Mike la lớn khi cả hai anh em chạy nước rút vào nhà. “Không cách nào chú thắng được anh đâu.” Mike vượt mặt Kyle và phóng như bay về phía cửa chính, vô hiệu hóa ưu thế năm giây ngắn ngủn của cậu em. Tất nhiên. Mike Keeley, mười bảy tuổi, là một ngôi sao thể thao của trường trung học. Bóng bầu dục, bóng rổ, bóng chày: hễ môn nào có bóng là Mike Keeley đều giỏi tất. Kyle, mười hai tuổi, lại chẳng phải sao sáng trong bất cứ lĩnh vực gì. Một ông anh khác của Kyle là Curtis, mười lăm tuổi, vẫn đang bị kẹt với con chó nhà hàng xóm. Curtis thông minh nhất trong ba anh em. Nhưng ở vòng “ngoài trời”, cu cậu lại bốc phải lá thăm xui xẻo “đồ chơi của con chó nhà hàng xóm”. Bất cứ lá thăm nào có từ “chó” trong đó, về cơ bản đều đồng nghĩa với “Mất Lượt.” Còn lí do gì khiến các cậu bé nhà Keeley chạy quanh khu phố như điên, vơ vét đủ loại ve chai sắt vụn, thì đó hoàn toàn là lỗi do mẹ của ba anh em. Chính bà ấy đã đề xuất, “nếu các ông tướng đang chán thì làm một ván cờ bàn đi.” ... Mời các bạn đón đọc Mê Cung Trong Thư Viện Của Ngài Lemoncello của tác giả Chris Grabenstein.
Phế Tích Tráng Lệ - Jess Walter
Jess Walter viết Phế tích tráng lệ năm ông 31 tuổi. Và khi dòng cuối cùng của quyển sách đầy chất thơ hoàn thành, ngẩng mặt lên, ông đã bước qua tuổi 46. Nếu có điều gì đặc biệt trong cuốn sách best-seller ngốn mất của Walter hết 15 năm này thì đó chính là thời gian, là tuổi trẻ, là những trải nghiệm một khi đã đi qua, người ta cần lắng lại để trải lòng hoặc trút bỏ. Tựa như những nhân vật trong truyện cần thời gian để trưởng thành, để vỗ về những nỗi đau, sai lầm của tuổi trẻ và gạn đục những dục vọng trong lòng. Để khi ngoái lại, có thể mỉm cười nhìn những trầm tích đã gieo. Lấy cảm hứng từ thời kỳ hoàng kim của Hollywood, và bằng sự am hiểu tường tận ngóc ngách của ngành công nghiệp giải trí, Walter rất khéo léo cài cắm câu chuyện của ông cùng những nhân vật có thật khiến tính thuyết phục của nó ở mức tuyệt đối. Sự cuốn hút của quyển sách nằm ở chất thơ và những hình ảnh như một khung hình điện ảnh, đẹp và buồn, rực rỡ và choáng ngợp, u ám và bế tắc,… trong khoảng không gian và thời gian được cài cắm phức điệu, đan xem vô cùng hợp lý. Đáng tiếc phần nửa sau, khi Pasquale chọn được cánh cửa cho anh cũng là lúc, các nhân vật tìm được lối ra cho con đường của họ, tính thơ của tác phẩm giảm nhiệt, nhịp truyện trở nên vội vã như chính hành trình của ông cụ Pasquale trên đất Mỹ trong thời hiện đại. Trên tất cả, Phế tích tráng lệ được viết bằng trải nghiệm và sự song hành trưởng thành của tác giả, nên nó khiến người đọc xúc động và suy ngẫm hơn là tiêu khiển đơn thuần. Nó là một tiếng cười giòn giã nhưng đau đớn và đắng cay vào xã hội hiện đại phồn tạp, vào trí nhớ hời hợt của những kẻ tự cho mình quyền nắm trong tay số phận người khác,… Có rất nhiều chiêm nghiệm từ quyển sách, ở mỗi góc nhìn của nhân vật, thật khó để chọn ra đây một vài câu đáng nhớ. Cách tốt nhất là, hãy thử chiêm nghiệm cùng tác giả. *** Câu chuyện khởi đầu năm 1962 ở một thị trấn nhỏ bên bờ biển nước Ý có tên Porto Vergogna. Ở đó chàng thanh niên tên là Pasquale Tursi sống với bà mẹ tàn tật và cô chị Valeria. Thị trấn chỉ là tập hợp khoảng mấy chục ngôi nhà sơn trắng cùng một tháp chuông bỏ hoang, và trung tâm thương mại duy nhất của nó là khách sạn và quán cà phê do nhà Pasquale làm chủ. Chàng trai trẻ Pasquale Tursi nuôi mộng biến nơi đây thành khu nghỉ dưỡng sầm uất bậc nhất nước Ý. Nhưng người khách nước ngoài duy nhất từng nghỉ lại đây là một cựu binh Mỹ có tên Alvis Bender. Ông ta tới đây mỗi năm hai tuần để viết một cuốn sách mà mãi vẫn chỉ xong được chương mở đầu. Cho đến một ngày, một nàng diễn viên xinh đẹp Dee Morray tới nghỉ tại khách sạn nhà Pasquale. Chàng trai trẻ Pasquale phải lòng cô gái ngay từ cái nhìn đầu tiên. Mọi chuyện thay đổi từ đó. Phế Tích Tráng Lệ là chuyến đi đầy màu sắc qua nước Ý thập niên 60 và Hollywood hiện đại. Câu chuyện diễn tiến trong mấy thập niên với đời sống phức tạp của khoảng mấy chục nhân vật cũng đầy màu sắc. Các câu chuyện được xen kẽ bằng chương mở đầu trong cuốn sách của người cựu binh Mỹ, phần đầu cuốn hồi ký của một nhà làm phim Mỹ bất đắc chí và một vở kịch. Tất cả kết nối lại thành một cuốn tiểu thuyết đẹp đẽ, hài hước, giàu tình cảm.   Mời các bạn đón đọc Phế Tích Tráng Lệ của tác giả Jess Walter.