Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kho Đựng Nỗi Đau

“Chỉ cần có thể truy ngược dòng dõi lên được bốn đời, ít gia đình nào không cho rằng mình có các quyền đối với một tước hiệu mơ ngủ nào đó, hoặc đối với lâu đài hay khu đất nào đó, những quyền chắc hẳn khó lòng đứng vững trước một phiên tòa nhưng chúng ve vuốt trí tưởng tượng và làm ngắn lại các giờ khắc vô công rồi nghề. Các quyền của một con người đối với quá khứ chính anh ta còn chập chờn hơn nhiều.”   R. L. Stevenson, Một chương về những giấc mơ *** Patrick Modiano là Nhà văn Pháp với hơn 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch bản phim,... các tác phẩm của ông đã được dịch 36 thứ tiếng trên thế giới, đạt nhiều giải thưởng danh tiếng, phải kể đến giải Nobel Văn học năm 2014. "Lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ - nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó."_ Bí thư thường trực của học viện Nobel Peter Englund Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Kho đựng nỗi đau (tựa gốc: Remise de peine, viết năm 1988), Hoa của phế tích (tựa gốc: Fleurs de ruine, 1991), Con chó mùa xuân (tựa gốc: Chien de printemps, 1993) được nhà văn Patrick Modiano (giải Nobel Văn học, 2014) hoàn thành trong ba mốc thời gian khác nhau, nhưng mang đầy đủ những nét đặc thù của không khí, phong cách văn chương ông. Kho đựng nỗi đau lần đầu tiên bức chân dung thời thơ ấu của chú bé Patrick cùng em trai sống trong căn hộ của những diễn viên xiếc ở vùng ngoại vi Paris. Hoa của phế tích là cuộc lần theo manh mối về một vụ tự sát với lý do bí hiểm của đôi vợ chồng kỹ sư trẻ tuổi vào một ngày tháng 3 năm 1933. Còn Con chó mùa xuân là cuộc dò tìm của một người viết tiểu thuyết trẻ tuổi với nỗ lực phục dựng bản tiểu sử của Jasen - một nhiếp ảnh gia sống và ghi chép về Paris nhưng căn cước cá nhân lại nhiều điểm mù bởi dư chấn của thời Đức tạm chiếm… Ba cuốn tiểu thuyết này là dẫn chứng xuất sắc, thuyết phục cho điều mà Patrick Modiano viết trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học vào năm 2014: “Người ta có thể lạc lối hoặc biến mất trong một đô thị. Người ta thậm chí có thể thay đổi căn cước và sống một đời khác. Người ta có thể lao mình vào một cuộc điều tra rất dài lâu để tìm lại những dấu vết của một ai đó, và lúc khởi đầu chỉ có một hoặc hai địa chỉ trong một khu phố đã mất biệt. Chỉ dấu ngắn ngủi đôi khi hiện lên trên những phiếu tra cứu luôn luôn tìm được một âm hưởng trong tôi: Nơi cư trú cuối cùng được biết.” Trong lần ấn hành ba tiểu thuyết này, Phanbook cũng phát hành hộp giấy đựng sách Patrick Modiano với thiết kế đẹp, trang nhã dành cho độc giả sưu tầm đủ ba tác phẩm. *** VỀ NHÀ VĂN PATRICK MODIANO Patrick Modiano là nhà văn người Pháp, sinh năm 1945. Ông đạt giải Nobel văn học năm 2014. Nhiều tác phẩm của Modiano đã được in tại Việt Nam. Ba tác phẩm của Patrick Modiano do Phanbook ấn hành: Kho đựng nỗi đau, Hoa của phế tích, Con chó mùa xuân, đều do Hoàng Lam Vân dịch. *** LỜI GIỚI THIỆU Tôi chưa hai mươi khi đọc Remise de peine lần đầu. Việc đọc này cũng ít nhiều xảy ra cùng thời điểm của phần đầu câu chuyện kết nối tôi với những cuốn sách của Modiano. Tôi không nhớ cuốn đầu tiên là cuốn nào. Có thể là Voyage de noces, Quartier Perdu, Fleurs de ruines, Les boulevards de Ceinture. Tôi không nhớ nữa. Nhưng tôi nhớ đó là một trong mấy cuốn này. Và cũng nhớ anh tôi, người đã mua một cuốn sách bỏ túi gần như tình cờ, một buổi sáng, trong quán Hachette của nhà ga Juvisy, vì anh đã quên ở nhà cái cuốn mà anh định đọc trong lúc ngồi tàu đến trường Đại học Paris, nơi anh theo ngành Luật. Tôi nhớ là anh đã ào vào phòng tôi, tôi nhớ những bức tường màu vàng nhạt treo một tấm poster mà hình dung lại tôi thấy đẫm chất Modiano đến kỳ lạ, mặt tiền bí hiểm bị các bụi gai cào xước và các dây thường xuân bám chặt của một biệt thự trùng với những gì người ta thường tưởng tượng về các biệt thự ngoại ô Paris với một cửa sổ sáng đèn, cổng cao và thấp thoáng một khu vườn, những bóng người đây đó, những dấu vết, những mảnh đời bí hiểm, một hình ảnh như vừa bước thẳng từ chính cuốn sách đó, nơi mà sự phân bố địa lý ít chất của một Paris bấp bênh rất đặc trưng cho tác giả, nhưng nhiều chất của những ngoại ô xa, “chưa phải là ngoại ô như bây giờ”, những thị trấn nhỏ yên tĩnh và giàu có lạc lõng sát cạnh nông thôn mà tôi thoáng thấy vào những dịp đi thi dương cầm ở rìa hạt Essonne. Tôi nhớ anh tôi chia cho tôi cuốn sách và nói “Đọc cái này đi, em sẽ thích đấy” và tôi nghe lời, để ngay lập tức bị hút vào đó và tiếp theo chỉ còn biết thán phục. Đương nhiên, tất cả những gì của Modiano đều có hết ở đây: các tên phố, danh bạ, địa tầng thời gian chồng chất, những hình bóng mờ ám, những vụ mất tích, quá khứ xấu xa, gợi nhớ thời hợp tác và phố Lauriston, những cuộc điều tra mà tưởng như đi lang thang, những mối giao du khả nghi, nỗi cô đơn, sự bỏ bê, một ông bố lâu lâu xuất hiện sau các hoạt động và các chuyến công tác đáng ngờ, người mẹ diễn viên thấp thoáng đâu đó sau các buổi diễn, sự thiếu vắng của phả hệ, cách viết kín đáo và thanh lịch, nỗi sợ và niềm đau giữ lại trong lòng, những vùng chưa tỏ và những hố đen, tóm lại là tất cả cái huyền thoại quý báu và duy nhất đó, trong một văn phong có âm điệu đặc sắc, buồn bã và dịu nhẹ, nhưng lại giản dị, không mang tính cách rõ ràng, không gây ấn tượng, không có vẻ phong phú. Những ngày tiếp theo, tôi đến thư viện và ngấu nghiến tất cả tiểu thuyết ghi tên Modiano. Rồi mùa hạ giá trong khu Saint-Michel và tiền tiết kiệm có được từ nhiều tháng nhịn ăn đã cho phép tôi bổ sung và bằng cách ấy mà tự cập nhật: ngồi rình những đầu sách mới, hầu như hàng năm, những dịp mà từ đấy tôi không bao giờ để lỡ, không bao giờ khiến tôi thất vọng, ngược lại, còn khiến tôi có cảm giác là cứ cuốn sách này ra thì nỗi bồn chồn đợi cuốn tiếp theo còn tăng hơn nữa, giống như khao khát nhấc lên tấm màn tưởng đã nhấc được ở từng cuốn, nhưng cuối cùng để lộ ra những tấm màn khác, và lại phải lao vào nhấc lên mà không chắc mọi sự có rõ ra hay lớp sương mù kia còn dày thêm. Tôi nhớ những tháng ngày đọc sách đó như một thời kỳ của kinh ngạc, như thể được ban phép màu. Đó là quãng thời gian đầu tiên của tôi ở Paris, tôi học không xa rừng Boulogne, thường lai vãng các hiệu sách, các rạp chiếu phim nghệ thuật và thử nghiệm trong khu La-tinh và Saint-Germain-des-Pres, thỉnh thoảng cũng đến nhà bạn nằm trong những con phố yên tĩnh của ngoại ô có nhiều biệt thự và sang trọng hơn khu phố có căn nhà của gia đình tôi mà cứ cuối tuần tôi lại ngồi tàu D để trở về. Tôi lớn lên cùng với những cuốn sách đó, tôi bước đi trong bối cảnh của chúng, tôi là một trong những nhân vật của chúng, hoặc ít ra cũng là một người anh em hay cháu chắt của các nhân vật. Tất cả trộn với nhau, xuyên vào nhau, cuộc đời của chính tôi và những cuốn sách bao trùm nó, tái tạo nó, uốn cong nó, trong một kiểu lẫn lộn giữa thực và ảo. Tất cả đều hòa hợp: nơi chốn, cảm giác đang sống cùng một lúc hai cuộc đời, những chuyến đi dạo bên dưới những tòa nhà cao tầng có cửa sổ sáng đèn, những cái tên ghi trong sảnh chính, tất cả được chiếu bởi một thứ ánh sáng rất đặc biệt, của một hiện tại đầy ứ quá khứ và bị đẩy vào tương lai, của một hiện diện bấp bênh, mờ ảo. Sự phân chia địa lý trong tâm tư tôi vận động, biến đổi, chồng chất lên nhau những lãnh thổ gốc, hoàn toàn ngoại biên, nằm ở ngoại ô, và những lãnh thổ nơi con người tôi lớn lên, những lãnh thổ được các tiểu thuyết của Modiano vẽ lại, chỉnh sửa và sáng tác thêm. Tôi rình rập khắp nơi cái dáng thanh cao của ông, tôi - kẻ chỉ chú ý đến tác phẩm chứ không đến tác giả, tôi - kẻ thường không quan tâm đến những ai đứng đằng sau hay bên trong những cuốn sách mà tôi yêu, ở nơi nào tôi cũng tưởng tượng ông sẽ hiện ra, quanh vườn Luxembourg, trên đại lộ Victor Hugo, dọc theo những hồ nước của rừng Boulogne, nhưng điều ấy không bao giờ xảy ra, chỉ mới cách đây vài hôm, khi vừa bắt đầu viết những dòng này, tôi bắt gặp ông giữa những kệ sách của cửa hàng Bon Marché, vừa rõ ràng, vừa xa xôi, mặc áo mưa màu be, giống như một cái nháy mắt, một sự ra hiệu, một trùng hợp kỳ lạ, “kỳ cục”, có lẽ ông sẽ nói như thế. Đương nhiên tôi không lại gần ông, không dám. Nhưng dù tôi có dám hay không thì huyễn tưởng cũng cho tôi biết đủ về tầm quan trọng của ông trong mắt tôi, sự hâm mộ mà tôi dành cho ông và tôn ông ngang hàng với những huyền thoại của cá nhân tôi. Lùi lại một chút, tôi ước tính bao nhiêu những kỷ niệm có thật về thời kỳ đầu ở Paris đã bị thế chỗ bởi những cuốn sách mà tôi ngấu nghiến lúc đó, hai “câu chuyện” đó, một thì xa xôi nhưng thuộc về tôi trọn vẹn, một thì nằm trong những trang sách mà tôi không phải là tác giả và chẳng thực sự kể gì về tôi, cả hai từ lâu đã lẫn lộn với nhau. Đó chính là sức mạnh của những tác phẩm đã luồn lách vào bên trong bạn. Chúng quyện lấy đời bạn đến mức không sao gỡ ra nổi. Những ngày này đọc lại Remise de peine, hiện ra trước mắt tôi tất cả những thứ đã rèn nên tính cách con người tôi, và từ đó tác động đến cả quang cảnh, nội dung, chất liệu của những gì tôi viết, dù rằng điều này chỉ hiển nhiên với tôi, dù rằng những dấu vết về sự ảnh hưởng đó hầu như là vô hình, hoặc ngầm đến mức không ai nhìn thấy. Ấy thế mà nó mang tính nền tảng, và bên cạnh Annie Arnaux, Raymond Carver hay Henri Calet (vì những lý do và dưới những biểu hiện khác) các cuốn sách của Modiano được xếp một vị trí đặc biệt, giữa những tác phẩm có tầm quan trọng với tôi: các tác giả đã làm tôi chao đảo, chỉnh sửa tôi, chuyển biến tôi vừa trong tư cách nhà văn lẫn con người. Đọc lại Remise de peine hai mươi năm sau ngày phát hiện ra nó, thế là bởi mối bận tâm phải đuổi kịp sự chậm trễ không tài nào đuổi kịp (ai?, cái gì?, để chống lại cảm giác nào về sự bịp bợm?, ấn tượng gì về tính bất hợp pháp?) tôi không bao giờ mất thời gian đọc lại những tác phẩm và những tác giả đã tạo nên tôi, dù ký ức tôi ngắn ngủi và lỗ chỗ, đến độ mà tôi thường xuyên có cảm giác rằng nó càng xóa đi những gì đã có trước đó thì tôi càng tiến về phía trước mà vẫn không ngừng bị ám ảnh bởi những gì đã mất, cái hố đen vĩnh viễn đó cứ sâu thêm mãi, tác động tới tôi, bao nhiêu dấu vết mà cuốn sách này từng để lại, những dấu vết vừa rõ ràng vừa mờ ảo, như nó phải thế mỗi khi người ta nhắc tới Modiano: ngôi nhà nơi mà ông và em trai bị cha mẹ bỏ mặc, mặt tiền phủ đầy dây thường xuân, và cả những con phố cạnh đó, những người phụ nữ đi đi về về, băng bạn cùng trường, lâu đài bỏ hoang của hầu tước Caussade, gánh xiếc và tai nạn đu bay, một chiếc xe hơi của Mỹ và một áo vét kiểu cao bồi, tên của một hộp đêm, những lần ông bố xuất hiện, những xưởng chữa xe ở Paris, đám người lớn mà cuộc sống và hoạt động chỉ được nhìn thấy qua những thông số, những giấy tờ rời rạc, những dấu hiệu không đầy đủ và thường không thể nào đoán được. Nhưng trên hết, tất cả cảm giác bơ vơ sờ sợ, nỗi bồn chồn âm ỉ, thậm chí không thực, mà tôi cho là đồng nghĩa với thời thơ ấu như tôi cảm nhận, được xây trên cát, thường xuyên tuột qua các kẽ tay, không rõ ràng, không có đường viền và trọng tâm, bề mặt bấp bênh, người ta bước đi như bị mù, chỉ giữ được những mảnh vụn, trong sự lẫn lộn giữa có và không, để mặc bạn bước ra tuổi thiếu niên trong sự chông chênh lơ mơ, không căn cước chẳng cội nguồn, như con chó lạc mà không có vòng đeo cổ. Cảm giác này còn được Modiano xác định trong một tác phẩm khác nữa và có vẻ hoàn toàn thích hợp với Remise de peine, tạo cho nó phạm vi và quá trình “Những sự kiện mà tôi sẽ gợi lại cho đến năm hai mươi mốt tuổi, tôi đã sống một cách không che đậy, cách thức này bao gồm việc cho di chuyển các bối cảnh nền, còn các diễn viên đứng im trên sân khấu trường quay. Tôi muốn giải thích cái cảm giác mà nhiều người khác từng có trước tôi: mọi thứ nối tiếp nhau chuyển động không che đậy và tôi chưa thể sống đời mình”. Cũng chính dưới ánh sáng của những tác phẩm tiếp theo, đặc biệt là Un pedigree (đang mời chúng ta làm sáng tỏ), mà Remise de peine lại mang một sắc vẻ đặc biệt giữa các tác phẩm của Modiano, một gam màu độc nhất vô nhị. Đầu tiên bởi vì đó là một trong những tiểu thuyết hiếm hoi đã thẳng thừng tự nhận là tự truyện, hay cho ảo tưởng như thế, Modiano có vẻ tự đặt mình lên sân khấu với tên thật, (mỗi khi có dịp lại biến thành “Patoche” cho thân mật, gần gũi hơn), để vẽ lại một cách vừa chính xác vừa đáng ngờ, rất đặc trưng cho hình thức kỷ niệm, một giai đoạn thơ ấu mà chúng ta đã biết là của ông, di chuyển giữa ký túc xá và ngôi nhà ở nhờ, trong những thời gian biểu kỳ bí và một dĩ vãng mờ ám, bà mẹ diễn viên và ông bố có các hoạt động, quá khứ và các mối giao du tất cả đều dính dáng tới vũng bùn thời Đức chiếm đóng, chờ đợi được các vị phụ huynh liên lạc và đón về nhà vài ngày, vài tuần hay vài tháng để rồi lại gửi đến chỗ khác, cho những người khác. Tóm lại, tất cả những chuyện này có xác thực hay không, điều gây xúc động ở đây chính là hiệu quả của việc chiếu sáng, câu chuyện đã được tháo chốt, lột trần, đập ngay vào mắt, đã khiến ta rung động. Và cùng một lúc với mạch tự truyện vẫn được dệt lên bởi một sự lộn xộn kinh hoàng, biết bao ngờ vực và các câu hỏi. Như để đào sâu hơn điều bí mật mà tác giả đang ra vẻ giải tỏa. Như thể là, tận sâu trong cuộc tìm kiếm của mình, Modiano cho thấy sự vắng bóng của một chuyển đổi mang tính hư cấu, hoặc vẻ ngoài của nó, sự trung thành, thật hay bịa, không là bằng chứng cho một cái gì cả, không bảo đảm một sự thật rõ ràng hay một lời giải cho những điều ngờ vực, nhập nhằng nước đôi. Sau đó chính nhờ bám chặt tuổi thơ cùng những cảm nhận và sự hoảng loạn đeo dính mà Modiano có vẻ đã thuật lại những kỷ niệm này. Những mảnh vụn: vừa là những mảnh vụn của một ký ức rách mướp, không đầy đủ, vừa là những mảnh vụn của thời thơ ấu giữa đám người lớn, nghe được ở khe cửa, khoảng cách giữa các tầng nơi mỗi phòng mở ra rồi đóng lại, chỉ cho phép cảm nhận sự việc qua những tiếng vọng đinh tai, những tiếng vỡ biến dạng, những tiếng nói chuyện thì thào và những tiếng động của thìa dĩa, những tiếng vang của xe hơi đang rời ra tít xa. Những mảnh vụn cuộc sống của đám người lớn chỉ được nhìn thấy qua vẻ ngoài những bí mật và những được thua, như là chúng ở trong một bộ phim vô tuyến bị mất tiếng và ta chỉ có thể đoán động tác của các nhân vật, mà không biết hoàn cảnh, đầu đuôi, và cả căn cước chính xác của họ. Trong trò chơi domino, thuyền buồm thú vị mà văn chương Modiano mời ta tham gia này, tôi luôn bám vào Un pedigree (Một phả hệ) ngay từ khi tác phẩm ra đời, để tiếp sức cho tác giả trong cuộc điều tra của chính ông, lồng giọng của tôi vào đó. Như kiểu điều tra một cuộc điều tra. Điều mà mỗi độc giả đều làm một cách bí mật thông qua những cuốn sách và trong nhiều năm trời, tôi tin là thế. Thời kỳ từng được nhắc đến ở Remise de peine chiếm khoảng một trang trong tiểu thuyết này. “Giữa Jouyuen Josas và Paris, bí ẩn của một vùng ngoại ô mà lúc đó chưa là ngoại ô. Lâu đài tàn phế, và trước mắt anh, đồng cỏ mọc cao nơi chúng tôi từng thả diều ngày nào. Rừng Metz. Và bánh xe khổng lồ của máy chuyển nước thị trấn Marly quay đều trong âm thanh và sự tươi mát như thác.” “Những di chuyển đi về của những người đàn bà kỳ lạ (…) trong số đó có Zina Rachewsky, Suzanne Baulé, hay còn gọi là Frede, giám đốc của Carroll’s, một hộp đêm phố Ponthieu, và một Rose-Marie Krawell nào đó, chủ một khách sạn phố Vieux-Colombier, và thường lái xe hơi Mỹ. Họ mặc áo vét và đi giày đàn ông, và Frede, còn đeo cả cà-vạt (…) Một tối (…) cha tôi (…) hỏi tôi sau này muốn làm nghề gì. Tôi không biết trả lời thế nào.” Sự nghiệp văn chương của Modiano là một work in progess vô cùng lôi cuốn đang tiến hành ngoài trời. Mỗi cuốn sách đều lấy được từ đó một nghĩa đúp. Mời ta ngắm nhìn nó trong sự tự chủ của một tác phẩm đã hoàn thiện, đã khép lại ở trang cuối, nhưng cùng lúc, giống như một phần mới của một puzzle mà không cái gì bị đóng lại hoàn toàn, một vài chỗ còn để “trống” trong khi những chỗ khác cũng dần dần xác định được phạm vi. Tương tự y như thế về nhân vật ông bố, nhân vật kỳ thú trong văn chương Modiano, mà ta tìm lại trong tác phẩm này một sự hiện diện mờ ảo và những tiếng vọng gián tiếp, qua việc tác giả nhắc lại “phố Lauriston”. Ngược lại, Rudy, em trai tác giả, có vẻ là một phái giữa vắng mặt, một sự im lặng hãi hùng. Thế nhưng, ở trang 44 của Một phả hệ, ta có thể đọc được đoạn này, mà Modiano sẽ không còn nhắc lại trong phần sau của cuốn sách: “Tháng Hai năm 1957, tôi mất em trai.(…) Ngoài em Rudy, cái chết của em, tôi tin là chẳng điều gì mà tôi sẽ thuật lại ở đây có liên quan sâu sắc đến tôi”. Nhưng điều khiến xúc động nghẹn ngào hơn nữa trong Remise de peine, điều khiến tim ta se lại khi đọc những dòng chữ này, chính là sự gợi nhắc, vừa thoáng qua lại vừa đều khắp, vừa kín đáo lại vừa tinh tế hé mở, không nói rõ, không bình luận, thận trọng, nhưng vì hiếm mà trở nên nổi bật, về cậu em út của “Patoche”. Ở phương diện này, Remise de peine còn khiến chao đảo hơn, tôi không có ý tán vớ vẩn về Modiano đâu, nhưng tôi có cảm giác tác phẩm này được viết ra vì cái đích ngầm sau đây: khắc lên trang sách những giây phút hai anh em bên nhau, những ký ức về một thời gian mà người ta còn có thể nhớ khi phát âm mấy từ “tôi và em trai tôi”. OLIVER ADAM *** Đó là thời các cuộc lưu diễn kịch nghệ không chỉ dọc ngang nước Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ, mà cả Bắc Phi nữa. Tôi lên mười. Mẹ tôi đã lên đường lưu diễn một vở kịch và chúng tôi, em trai tôi và tôi, ở nhà những người bạn gái của bà, tại một ngôi làng ven Paris. Một ngôi nhà hai tầng, mặt tiền phủ dây thường xuân. Một trong số các cửa sổ lồi mà người Anh gọi là bow-window kéo phòng khách dài thêm ra. Đằng sau nhà, có một khu vườn giật nhiều cấp. Ở cuối tầng đầu tiên của vườn, núp dưới đám cây ông tiên, là mộ của bác sĩ Guillotin. Ông từng sống tại ngôi nhà này? Tại đó ông đã hoàn chỉnh cỗ máy chém đầu của mình? Tít trên cao khu vườn có hai cây táo cùng một cây lê. Những miếng nhỏ tráng men treo trên dây xích bạc thòng vào các lọ đựng rượu, trong phòng khách, mang những cái tên: Izarra, Sherry, Curaçao. Cây kim ngân xâm chiếm thành giếng, chính giữa cái sân ngay trước vườn. Máy điện thoại để trên một cái bàn guéridon, gần sát một trong những cửa sổ phòng khách. Rào lưới được chăng để bảo vệ mặt tiền nhà, hơi thụt vào so với phố Docteur-Dordaine. Một hôm, người ta đã sơn lại rào sau khi phủ lớp chống gỉ. Có phải đó là sơn chống gỉ, cái chất lỏng sệt màu cam vẫn còn hết sức sống động trong kỷ niệm của tôi? Phố Docteur-Dordaine có dáng dấp làng mạc, nhất là về cuối: một tòa nhà cho các xơ, rồi một trang trại nơi người ta đến để mua sữa và, xa hơn, lâu đài. Nếu đi xuôi phố, trên vỉa hè bên phải, ta sẽ đi qua trước bưu điện; cũng đoạn ấy, phía bên trái, ta nhìn thấy, sau một rào sắt, các nhà kính của ông chủ hàng hoa mà con trai là bạn ngồi cạnh tôi tại lớp học. Xa thêm một chút, cùng phía với bưu điện, là bức tường của trường Jeanne-d’Arc, vùi mình dưới những tán tiêu huyền. Đối diện nhà, một đại lộ dốc thoải. Bên lề của nó, phía tay phải, là nhà thờ Tin Lành và một khoảnh rừng nhỏ, giữa đám bụi cây ở đó chúng tôi từng tìm được một cái mũ sắt của lính Đức; bên trái, một ngôi nhà dài và sơn trắng nơi vòm tường nhô ra, với khu vườn lớn cùng một cây liễu rủ. Thấp hơn, chung tường với khu vườn ấy, là quán trọ Robin Lục lâm. Ở cuối dốc, và cắt vuông góc với nó, là đường bộ. Bên phải, quảng trường nhà ga, lúc nào cũng hoang vắng, trên đó chúng tôi đã tập đi xe đạp. Theo hướng ngược lại, ta đi dọc theo công viên. Trên vỉa hè bên trái, một tòa nhà với dãy hành lang làm bằng bê tông nơi nối tiếp nhau hiệu bán báo, rạp chiếu phim và hiệu thuốc. Con trai ông dược sĩ là bạn cùng lớp với tôi và, một đêm nọ, bố cậu ta đã tự sát bằng cách treo cổ lên một sợi dây buộc vào hiên của hành lang. Dường như người ta hay tự treo cổ vào mùa hè. Các mùa khác, họ thích tự sát bằng cách trầm mình xuống sông hơn. Chính ông thị trưởng của làng là người nói điều đó với ông chủ hiệu bán báo. Sau đó, đến một khu đất hoang được dùng làm chợ, thứ Sáu hằng tuần. Thảng hoặc ở đó dựng lên cái lều một gánh xiếc lưu động cùng đám nhà lán của một phiên chợ. Ta tới trước tòa thị chính và lối đi trên cao. Sau khi vượt qua đó, ta đi theo đường lớn của làng, nó lên cao mãi cho đến quảng trường nhà thờ và đài tưởng niệm liệt sĩ. Một dịp lễ mixa Giáng sinh, chúng tôi, em trai tôi và tôi, được hát trong dàn đồng ca tại nhà thờ ấy. Mời các bạn đón đọc Kho Đựng Nỗi Đau của tác giả Patrick Modiano & Hoàng Lam Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đêm Lisbon
Trên bến cảng Lisbon sầm uất, có hai con người, với hai con đường khác nhau, đang cùng tồn tại. Một người mong được bỏ lại sau lưng tất cả, rẽ sóng đến chân trời của an toàn và tự do; một kẻ muốn trở về khi còn món nợ chưa nguôi từ chuỗi ngày trốn chạy triền miên khỏi cánh tay bạch tuộc của bọn mật vụ. Định mệnh đẩy họ vào cuộc gặp gỡ không báo trước và người này chấp nhận trở thành nơi lưu giữ những ký ức của người kia, thứ ký ức đớn đau không còn mang theo nổi. “Chúng tôi bám vào nhau trên một bờ vực của thế giới khác. Không có cách nào quay lui, chẳng rõ nơi đến, chỉ biết là bay lên, cùng với nhau, và cùng thất vọng, một nỗi thất vọng trầm lặng, siêu thực: nó uống cạn những giọt nước mắt thầm lặng vì chỉ biết rằng cứ phải đi, không đường trở lại mà cũng chẳng có nơi nào để đến.” *** Review của Phuc Hieu:   Erich Maria Remarque, một bậc thầy kể chuyện người Đức, dường như đối với ông, việc “bịa” ra một cuộc đời ai đó quá sức dễ dàng, mà cũng có thể, chúng là thật. Đêm Lisbon, đêm cuối cùng trước khi chuyến tàu chở những con người trốn chạy khỏi châu Âu tìm đường sang đất Mỹ tự do, có những kẻ đang vật vã khốn cùng tìm cho mình cơ hội lấy một tấm vé hay một con dấu nước Mỹ trên tấm hộ chiếu. Nhân vật kể chuyện của Remarque là một kẻ đang đi tìm chiếc phao cứu sinh đời mình. Anh ta dốc tiền vào canh bạc nhằm tìm vận đổi đời để có thể mua lại chiếc vé tàu từ ai đó, rủi thay, số tiền rơi vào tay kẻ khác. Đen bạc đỏ tình. Có lẽ vậy.   Anh gặp một người đàn ông giữa đêm khuya, người nằng nặc đòi anh phải theo hắn vào quán bar- chỉ để lắng nghe câu chuyện đời hắn và đổi lại – anh sẽ có được chiếc vé hộ mệnh để sang thiên đường Mỹ quốc. Người tị nạn phải đang lâm vào tình cảnh nguy hiểm hoặc là nghệ sĩ, nhà khoa học và trí thức nổi tiếng thì mới mong được chào đón ở nước Mỹ. “Cái lối phân biệt giữa con người tầm thường và con người có giá trị chẳng phải có chút bà con gần xa với cái quan niệm siêu nhân đối lập với lũ người sâu bọ của bọ Quốc xã đó sao?”, Remaque đã mượn nhân vật mình thốt lên những lời cay nghiệt ấy. Cứ như thế trong đêm tối, họ lang thang tới vài quán bar cho đến khi trời sáng để hắn có thể tâm sự hết cuộc đời mình – những tháng ngày tù đày tha hương của một kẻ bị ngay chính người anh vợ George, vốn là một tên phát xít Đức yêu nước điên cuồng tố cáo vùi dập hạnh phúc của chính cô em gái mà hắn yêu thương đến mức đáng sợ. Cuộc đời một người Do Thái như hắn có khác gì người đang ngồi nghe hắn kể lể đâu, nhưng có điều hắn cần phải kể, bởi như thế mới giúp hắn giải thoát khỏi cuộc đời của tấm hộ chiếu mang tên người đàn ông khác Schawarz. Những năm tháng ấy người ta chối bỏ tên thật và khoác lên mình tên kẻ đã chết hòng mong tồn tại. Schawarz thay vì trốn chạy đến hết cuộc đời, hắn đã trở lại quê nhà tìm người vợ thân yêu sau năm năm ròng ly biệt. Các nhân vật nam trong những tác phẩm khác của Remarque đều đau đáu về cố hương và những người phụ nữ yêu dấu. Cặp vợ chồng đã lên kế hoạch trốn chạy khỏi nước Đức, mà kẻ đầu tiên chính là người anh máu mủ của cô vợ Helen. Họ trải qua những tháng ngày đẹp đẽ của dân tị nạn với tình yêu thương nồng nàn và cả sự chia cắt khốn khổ. Thế nhưng giữa lúc hạnh phúc đoàn viên ngập tràn, căn bệnh ung thư của Helen đã bộc phát. Chiến tranh ư? Mặc kệ. Lúc này đối với họ cuộc chiến của một kẻ hăm hở đi Mỹ và một con người đang chờ chết mới tàn bạo làm sao. Đêm Lisbon hôm ấy chào đón một linh hồn phụ nữ quyết định đương đầu với thần chết, một kẻ chối bỏ tương lai để báo thù và một kẻ sẵn sàng đón nhận vận may rủi. Đêm ấy nỗi sầu lắng đọng trong bầu không khí tĩnh mịch, trên những con tàu nằm lặng lẽ ở bến cảng và những kẻ tha hương đang mòn mỏi ngóng chờ một hồi tàu vang lên để giã biệt Lisbon và màn đêm u tối của xứ sở châu Âu lụi tàn. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Bóng Tối Thiên Đường Đêm Lisbon *** Tôi chăm chú nhìn con tàu buông neo trên sông Tagus, đèn thắp sáng rực rỡ. Mặc dầu tôi ở lại Lisbon đã được một tuần lễ, tôi vẫn chưa quen được với cái ánh sáng rực rỡ vô tư lự của nó. Ở những miền đất nước mà tôi đã ra đi, thành phố tối đen như hầm mỏ than, và ngọn đèn lồng trong bóng đêm còn kinh khiếp hơn bệnh dịch thời Trung Cổ. Và đó là châu Âu của thế kỷ hai mươi. Đó là con tàu chở hành khách; nó đang được chất hàng. Tôi biết nó sẽ ra khơi vào chiều ngày hôm sau. Trong ánh sáng gay gắt của những bóng điện trần, những thùng thịt, cá, thực phẩm đóng hộp, bánh mì và rau tươi đang được đưa xuống hầm chứa hàng. Công nhân bốc dỡ đưa hành lý lên tàu, nâng những thùng, những kiện hàng lên tàu một cách lặng lẽ, tưởng như chúng nhẹ tênh. Con tàu đang được chuẩn bị để làm một cuộc hành trình - như con tàu cứu rỗi vào thời Hồng thủy. Nó đúng là một thuyền cứu rỗi. Bất kỳ chiếc tàu nào rời châu Âu vào những tháng đó của năm 1942 cũng là một tàu cứu rỗi. Đỉnh Ararat[*] xưa kia nay là nước Hoa Kỳ, và nước lũ dâng cao lên từng ngày. Đã lâu nó ào vào nước Đức và nước Áo, nay nó làm chìm ngập Ba Lan và Praha; rồi đến lượt Amsterdam, Brussels, Copenhagen, Oslo và Paris. Tiếp theo là các thành phố nước Ý đã nghe nó thấm rỉ vào, và cả Tây Ban Nha cũng không thoát được. Bờ biển Bồ Đào Nha trở thành niềm hy vọng cuối cùng của những người tị nạn mà công lý, tự do và lòng khoan dung đối với họ có giá trị hơn cả quê hương và cuộc sống. Nơi đây là cửa ngõ vào Hoa Kỳ. Nếu bạn không đến đó được, tức là bạn hết thời, bạn sẽ phải mòn mỏi tiêu hao trong đám rừng rậm của những tòa lãnh sự, đồn cảnh sát, và những cơ quan chính phủ, nơi đây hộ chiếu bị từ chối, công việc làm ăn và giấy phép cư trú không thể có, cả một rừng chằng chịt những trại tập trung, cả một hệ thống giấy tờ thủ tục hành chánh, nỗi cô đơn, nhớ nhà và sự lãnh đạm khô héo của mọi người. Như thường lệ trong thời chiến, sợ hãi và ưu phiền, cả đến sinh mạng cá thể của con người cũng không còn có nữa. Chỉ một điều duy nhất là đáng kể: một tờ giấy thông hành có giá trị. Tối hôm ấy tôi đến sòng bạc Casino Estoril để đánh bạc. Tôi còn giữ được một bộ quần áo tươm tất nên họ để tôi vào. Đây là cố gắng cuối cùng và tuyệt vọng của tôi để thách đố số phận. Giấy phép cư trú tại Bồ Đào Nha của chúng tôi trong vài ngày nữa là hết hạn, mà tôi và Ruth chẳng có giấy hộ chiếu nào khác. Khi ở Pháp, chúng tôi đã vạch kế hoạch và liệt kê danh sách các chuyến tàu có thể đi New York. Con tàu bỏ neo tại sông Tagus này là chiếc sau cùng có ghi trên danh sách của chúng tôi. Vé tàu thì đã bán ra từ nhiều tháng nay; mà chúng tôi lại không có dấu nhập cảnh Hoa Kỳ, và còn thiếu hơn ba trăm đô la để mua vé. Ít ra tôi cũng cố gắng nâng số tiền này lên bằng cách còn có thể được đối với một người nước ngoài tại Lisbon, đó là đánh bạc. Thật là một ý nghĩ điên rồ vì nếu tôi đánh bạc có ăn đi nữa thì cũng phải có thêm một phép lạ chúng tôi mới lên tàu được. Nhưng trong lúc hiểm nguy và tuyệt vọng, bạn thường tin tưởng vào phép màu, nếu không bạn sẽ chìm luôn. Tôi đã thua mất năm mươi sáu đô la trong số sáu mươi hai đô la chúng tôi còn lại. Đêm đã về khuya và bến tàu thì gần như hoang vắng. Nhưng một lát sau tôi nhận ra có một người đàn ông cách tôi không xa. Lúc đầu thì hắn thả bộ phất phơ, sau đó hắn dừng lại và cũng bắt đầu chăm chú nhìn ra con tàu. Lại một kẻ tị nạn bị bỏ rơi, tôi chợt nghĩ, và không chú ý đến hắn nữa, cho đến lúc tôi có cảm giác là hắn đang nhìn tôi. Dân tị nạn không bao giờ đánh mất nỗi lo sợ đối với cảnh sát, dù là trong giấc ngủ hoặc trong lúc chẳng có gì phải sợ hãi cả. Bởi thế nên tôi quay đi, giả vờ như dửng dưng chán chường và bắt đầu chậm rãi rời khỏi cầu tàu, như một người chẳng có gì phải lo sợ cả. Một lúc sau, tôi lại nghe tiếng bước chân đằng sau. Tôi vẫn tiếp tục đi mà không vội vã, vừa tự hỏi làm sao tôi có thể báo cho Ruth biết tin nếu tôi rủi bị bắt. Những ngôi nhà màu tùng lam ở cuối cầu tàu ngái ngủ như những con bướm đêm, đối với tôi thật vẫn còn quá xa để tôi có thể chạy đến đó và biến mất trong mấy đường phố quanh co chằng chịt. Giờ đây thì hắn đã đứng ngay bên cạnh tôi. — Ông là người Đức? - Hắn hỏi tôi bằng tiếng Đức. Tôi lắc đầu và tiếp tục bước đi. — Người Áo? Tôi cũng không trả lời. Tôi nhìn những ngôi nhà màu tùng lam đang tiến lại gần một cách quá chậm chạp. Tôi thừa biết có những cảnh sát viên người Bồ Đào Nha nói tiếng Đức rất thạo. — Tôi không phải là cảnh sát. - Gã đàn ông nói. Tôi không tin lời hắn. Hắn mặc thường phục, nhưng đã có năm bảy lần những người mặc thường phục bắt tôi ở châu Âu. Tôi có giấy tờ tùy thân, vốn là một tác phẩm không đến nỗi tệ lắm do một giáo sư dạy toán người gốc thành phố Praha ở Paris thực hiện, nhưng nếu bị kiểm tra kỹ thì chắc sẽ không chút giá trị gì. — Tôi thấy ông nhìn con tàu, - Người đàn ông nói, - Điều đó khiến tôi nghĩ rằng… Tôi dửng dưng nhìn hắn ta. Thật tình thì hắn chẳng có vẻ gì là cảnh sát cả, nhưng người đàn ông mặc thường phục mới đây đã tóm cổ tôi ở Bordeaux lần vừa rồi cũng có vẻ thảm hại như Lazarus[*] khi ra khỏi mồ sau ba ngày, ấy thế mà hắn lại là kẻ tàn bạo nhất trong đám. Hắn đã bắt tôi, dẫu hắn biết qua hôm sau quân Đức sẽ có mặt tại đó, và đời tôi kể như chấm dứt nếu không có tên cai ngục tốt bụng thả tôi ra vài giờ sau đó. — Ông muốn đi New York không? - Người đàn ông hỏi. Mời các bạn đón đọc Đêm Lisbon của tác giả Erich Maria Remarque.
Tôi Không Phải Là Công Chúa
Truyện Tôi Không Phải Là Công Chúa là câu chuyện thú vị về tình yêu tuổi teen nói riêng và phản ánh đời sống tâm lý, xã hội của lứa tuổi này nói chung, xoay quanh câu chuyện về Lam và những người bạn học của mình. Nhẹ nhàng, trong sáng, giản dị và chân thành. Đó là tất cả những gì Tôi không phải là công chúa đem lại đến cho bạn đọc. Những rung động đầu đời trong sáng và vô cùng thú vị, những giận hờn vu vơ những giọt nước mắt tủi hờn và cả những sự tinh nghịch của tuổi học trò là những khoảnh khắc đẹp đẽ của tuổi áo trắng mà tác giả muốn gửi gắm đến bạn đọc. Hy vọng rằng, mỗi chúng ta, đều tìm thấy một nàng công chúa và hoàng tử của riêng mình và mỉm cười khi nhìn lại quãng thời gian của tuổi thanh xuân đã qua! *** Nhận xét của độc giả tiki: Sở Thiên Khoát: Hay Cốt truyện không được gọi là mới nhưng tác giả viết rất thú vị. Hay lắm. cuốn sách rất hay!! Đoàn Thị Mỹ Ngọc :Khá Hài Lòng bìa đẹp, nội dung truyện cx khá ổn, mỗi tội giở sách ra auto bìa xấu, k giống như mấy quyển truyện khác mà mk mua Tô Ngọc Anh Thư Tuyệt ❤Đây là một trong những cuốn sách khiến tôi thao thức mỗi khi đọc xong :) Hay lắm các bác ạ !!!! Ben Heo Lê: Cực Kì Hài Lòng Truyện này rất hay!!!!!!???????????????????????? Nên xuất bản nhiều những tác phẩm của Kawi *** Mình thường chỉ đọc những tiểu thuyết văn học kinh điển hay truyện trinh thám mà ít khi xem đến những thể loại này. Nhưng chẳng biết nghĩ thế nào, là muốn đổi gió chăng? Mình lại đặt mua quyển sách này. Bìa sách thiết kế rất đẹp, lấy gam màu chủ đạo là xanh, mang đến cảm giác dễ chịu và tò mò. Nhưng nội dung thì theo chủ nghĩa “bình cũ rượu mới”,mô típ tình tay 4 (3 chàng theo đuổi một nàng) hay là nhiều chàng theo đuổi một nàng đã không còn xa lạ gì nữa. Nhân vật chính là một cô gái bình thường dễ bị “chìm” trong đám đông. Văn phong của tác giả không đến nỗi tệ nhưng diễn biến của câu chuyện quá nhanh khiến người đọc cảm thấy có sự miễn cưỡng trong mối quan hệ của hai nhân vật chính. Lại chưa nói đến có nhiều tình tiết vô lí và quá thuận lợi trong truyện: từ gia thế của hotboy Lê Thái đến hoàn cảnh đẩy đưa cho hai người sống chung một nhà, rồi cô bạn thân của Lam(tên gì mình quên mất tiêu luôn), đang từ yêu say đắm cái cậu Hải Phi xong tự dưng lại gọi là anh như thường được, cả cô bạn Hoàng Mĩ ở đoạn cuối truyện nữa…. Với lại mới là học sinh cấp 3 mà mua nhẫn cho nhau rồi gọi “vợ ơi là vợ” thì có ổn không nhỉ? Nói chung là truyện chỉ mang tính giải trí và nếu so với những truyện cùng thể loại thì còn kém xa. Nhưng vẫn cảm ơn tác giả vì khi đọc nó, em đã cười rất nhiều…. *** Mười một giờ ba mươi tối. Nó đang ngủ. Đúng hơn là đã ngủ được mấy giấc rồi. Ò o o o... Ò o o o... Theo phản xạ, nó vừa ngủ vừa... với tay mò mẫm chiếc điện thoại đang reo inh ỏi, không biết người nào rảnh rang mà chọn giờ này quấy phá giấc ngủ của nó. Không buồn nhìn số gọi đến, nó vừa ngáp vừa bật nắp, kề cái miệng ngái ngủ vào điện thoại với cái giọng thê thảm: - A... lô! Đầu nó gục gục. Nhưng âm thanh từ đầu dây bên kia khiến nó tỉnh hẳn. - Kin! Bây giờ Kin hãy im lặng, hãy chỉ im lặng nghe Bun nói mà thôi. Nó nuốt nước bọt. - Bun biết Kin đang giận Bun, rất giận là đằng khác. Nhưng thực sự Bun không cố ý. Chỉ là... chỉ là Bun không thể kiềm chế... Bây giờ Bun muốn nói 1 sự thật, 1 sự thật mà bấy lâu nay Bun không giám nói. Bun thích Kin... Kin chỉ biết thế là được. Thôi , kin ngủ đi mai gặp. Tín hiệu đột nhiên bị cắt đứt... Lần này thì nó tỉnh hẳn, nhìn chằm chằm vào điện thoại, số vừa gọi đến là số lạ hoắt, đơn giản là vì nó không phải là Kin, dù buồn ngủ đến mấy thì nó vẫn đủ khả năng để nhớ tên mình. Phải! Nó là Lam. không phải Kin. Nó cười 1 mình. Một cuộc điện thoại kì quặc và nó vô tình trở thành người được tỏ tình bất đắc dĩ. Tội nghiệp thằng nhóc tên Bun nào đó. Nghe qua giọng nói có vẻ khó khăn lắm mới thốt ra được. Ai dè lại không đúng đối tượng. Haizzz... nó quăng điện thoại vào góc giường và ngủ tiếp. Nhưng nó không ngủ tiếp được nữa. Vậy là thêm 1 đêm làm cú vọ... Sáng hôm sau nó gật gà gật gù trên bàn ăn, kết quả của 1 đêm thức trắng. Nhìn đôi mắt thâm quần như bị ai bum vào, mẹ nó nhăn mặt - Con làm gì mà trông kinh khủng thế? - Đêm qua con không ngủ! Mắt mẹ nó bỗng sáng rực. - Ôi! Con gái yêu của mẹ bữa nay đã biết thức khuya học bài rồi cơ đấy! Nó ngán ngẩm không trả lời. Cứ để mẹ nghĩ như vậy cũng được. - Chào mẹ, con đi học! - Ừ! Nó lóc cóc leo lên chiếc xe đạp điện nó cho là "cà tưng" mà ba rước về từ nhà cậu. Vì sự đểnh đoảng bẩm sinh mà nó làm mất con ngựa sắt yêu quý để rồi phải xài con ngựa điện này 15' sau nó "đáp" trường.   Mời các bạn đón đọc Tôi Không Phải Là Công Chúa của tác giả Kawi.
Chúng Tôi
Tất cả các cuộc cách mạng hiện đại trên thế giới đều đưa đến sự củng cố sức mạnh của nhà nước tập quyền. Ở thế kỷ XXVI, cuộc cách mạng Hai Trăm Năm đã biến nhà nước trong tiểu thuyết “Chúng tôi” của Yevgeny Zamyatin thành một bộ máy chinh phục và đàn áp. Mọi quyền riêng tư đã bị phá bỏ, sở hữu cá nhân không còn nữa, con người chỉ là những mã số sinh hoạt và lao động theo một bảng giờ bất biến. Yêu đương và giải trí, tình dục và hưởng thụ đều phải theo sự sắp đặt, quy định của nhà nước. Nghệ thuật được dùng để phục vụ cho mục đích tuyên truyền và áp chế. Giáo dục trở thành phương tiện nhồi sọ để biến con người thành công cụ. Nhân bản bị vứt bỏ hoàn toàn. Các giá trị người trở thành hòn đá thử vàng cho một thiết chế nhà nước… *** Đơn giản là tôi chép lại nguyên văn những gì đăng trên tờ Nhật Báo Quốc Gia hôm nay: Việc xây dựng tàu vũ trụ Tích Phân sẽ hoàn thành sau 120 ngày. Giờ phút lịch sử vĩ đại, khi con tàu Tích Phân đầu tiên bay vào không gian, sắp cận kề. Một ngàn năm trước những bậc tiền nhân anh hùng của các bạn đã thiết lập sự cai trị của Quốc Gia Thống Nhất trên toàn cõi địa cầu. Chiến công hiển hách hơn đang đón chờ các bạn: lấy tích phân phương trình vô hạn của vũ trụ bằng con tàu Tích Phân bọc thủy tinh, dùng điện năng, khạc ra lửa. Các bạn sẽ chinh phục những sinh vật chưa từng được biết đến trên những hành tinh khác - có lẽ hãy còn trong tình trạng tự do chưa khai hóa, đưa họ vào cái ách thiện nguyện của lý trí. Nếu như họ còn chưa thấu hiểu việc chúng ta đem lại cho họ niềm hạnh phúc đúng đắn như toán học, thì nhiệm vụ của chúng ta là buộc họ phải hưởng hạnh phúc ấy. Tuy nhiên, trước khi phải sử dụng vũ lực, ta hãy dùng lời lẽ để thuyết phục. Thay mặt Lãnh Tụ Thiện Nguyện, thông báo đến toàn thể mã số của Quốc Gia Thống Nhất: Mọi mã số, nếu cảm thấy đủ năng lực, đều có nghĩa vụ sáng tác tiểu luận, thơ ca, tuyên ngôn, tụng ca hoặc những thể loại khác để tán dương cái đẹp và sự vĩ đại của Quốc Gia Thống Nhất. Đó sẽ là kiện hàng đầu tiên được tàu Tích Phân đem theo. Quốc Gia Thống Nhất muôn năm, toàn thể mã số muôn năm, Lãnh Tụ Thiện Nguyện muôn năm! Tôi viết những dòng này và cảm thấy hai má nóng bừng. Phải, để lấy tích phân phương trình vũ trụ vĩ đại. Phải, để uốn đường cong sơ khai, nắn nó lại theo tiếp tuyến - đường tiệm cận - thành một đường thẳng. Bởi lẽ con đường của Quốc Gia Thống Nhất chính là đường thẳng. Đường thẳng thông thái, chính xác, thần thánh, vĩ đại chính là đường kẻ thông tuệ nhất... Tôi, mã số D-503, Tổng công trình sư của tàu Tích Phân, chỉ là một trong số những nhà toán học của Quốc Gia Thống Nhất. Ngòi bút vốn quen với những con số của tôi không đủ khả năng sáng tác nhạc điệu cho những vần thơ. Tôi chỉ cố ghi chép lại những gì mắt thấy tai nghe, những gì suy nghĩ - chính xác hơn, những gì chúng tôi nghĩ (đúng vậy: chúng tôi, và hãy để từ "CHÚNG TÔI" này làm tựa đề cho những ghi chép của tôi). Tuy nhiên, đó sẽ là đạo hàm của cuộc đời chúng tôi, cuộc đời hoàn hảo như toán học của Quốc Gia Thống Nhất, và nếu thế, lẽ nào tự thân nó không phải là một bài thơ, bất chấp ý nguyện của tôi? Nó sẽ là như thế. Tôi viết những dòng này mà cảm thấy hai má nóng bừng. Có lẽ, điều đó tương tự cảm giác của người phụ nữ khi lần đầu nghe thấy trong cơ thể mình nhịp đập của một sinh linh mới, hãy còn tí hon và chưa mở mắt. Đó là tôi và đồng thời cũng không phải là tôi. Trong nhiều tháng dài tôi sẽ phải nuôi dưỡng nó bằng nhựa sống, bằng máu thịt của mình, để rồi sau đó đau đớn tách nó ra khỏi cơ thể và đặt dưới chân Quốc Gia Thống Nhất. Song tôi sẵn sàng, như mỗi người hay hầu hết mỗi người trong chúng tôi. Tôi sẵn sàng.   Mời các bạn đón đọc Chúng Tôi của tác giả Yevgeny Zamyatin.
Trái Tim Hoang Dã
"Trái Tim Hoang Dã" là một quyển tiểu thuyết tình yêu mô tả hết sức tinh tế những rung động, đam mê và niềm khao khát yêu đương... đến tận cùng cảm xúc con người. Tác giả của Trái Tim Hoang Dã là Johanna Lindsey, nhà văn nữ nổi tiếng về tiểu thuyết lãng mạn của Mỹ. Kể từ tác phẩm đầu tiên xuất bản năm 1977 là Captive Bride được độc giả đón nhận một cách nhiệt tình cho đến nay gần 30 tác phẩm khác của bà ra đời đều là bestseller (sách bán chạy) với số lượng phát hành hơn 40 triệu bản và được dịch ra 12 thứ tiếng. Johanna Lindsey được coi là người thành công xuất sắc khi viết về đề tài tình yêu lãng mạn. Trái Tim Hoang Dã lấy bối cảnh nước Mỹ vào những năm sau cuộc nội chiến Bắc - Nam (1868) làn sóng di cư miền Nam tràn xuống miền Tây khai khẩn, xây dựng cuộc sống mới. Đây là thời kỳ của những cuộc tàn sát đẫm máu để tranh giành đất đai, cướp bó, biến một miền hoang mạc bao la không còn là miền đất bình yên của các bộ lạc da đỏ. Không chịu diệt vong, cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ, tổ tiên của người da đỏ ngày càng trở nên quyết liệt. Họ lao vào những cuộc trả thù triền miên, không khoan nhượng. Courtney, cô thiếu nữ 15 tuổi, vô cùng trong trắng, xinh đẹp, cùng cha là một bác sĩ từ Chicago xuống Texas nhận nhiệm sở. Giữa đường hai cha con đã rơi vào giữa cuộc đụng độ giữa bộ lạc Comanche trả thù chủ một trang trại – người đã cùng tham gia với một toán người da trắng vừa tàn sát dã man bộ lạc này. Courtney may mắn được một chàng trai da đỏ tha chết. Nhưng cha cô mất tích và mọi người đinh ninh ông đã bị người da đỏ giết chết. Bốn năm sau, Courtney tình cờ nhìn thấy hình cha cô lẫn trong đám đông trong một tờ báo cũ. Tin rằng cha mình còn sống, cô quyết định đi tìm. Trong khi đó, Chandos là chàng trai lai da đỏ, có đôi mắt xanh thăm thẳm với cái nhìn bí hiểm, một tay súng lạnh lùng, cừ khôi... Chandos mang trong lòng mối hận thù và ký ức đau đớn về cái chết thê thảm của mẹ và em gái trong một vụ tàn sát của người da trắng. Anh quyết tâm trả thù cho kỳ hết những kẻ tham gia cuộc tàn sát man rợ đó... Chandos trở thành người bạn đồng hành của Courtney trong cuộc hành trình băng qua những hoang mạc thuộc lãnh thổ của người da đỏ dầy rẫy nguy hiểm đến Texas tìm cha. Courtney cũng không hề biết rằng người đàn ông lạnh lùng đã nhiều lần cứu cô thoát nạn này chính là chàng trai da đỏ cách đây 4 năm đã tha mạng cho cô. Một chuyến đi đầy thử thách của một cô gái trong sáng, xinh đẹp và tự trọng cùng chàng trai hoang dã kiêu hãnh và đầy lòng thù hận. Tình yêu chính là thử thách nghiệt ngã nhất giữa hai con nguời bướng bỉnh đó. Họ vừa phải đương đầu với hiểm nguy luôn rình rập vừa phải đối phó với chính niềm đam mê và mâu thuẫn của bản thân để không làm tổn thương nhau... *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), Ngôi Sao Lạc Loài Chỉ Một Lần Yêu Nơi Em Thuộc Về Trái Tim Hoang Dã Yêu Lầm Anh? Tình Yêu Tìm Thấy The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Kansas năm 1868, ba năm sau nội chiến Hoa Kỳ, Elroy Brower bực tức dằn ly bia xuống. Tiếng ồn ào trong quán làm hắn không hưởng được trọn vẹn người đẹp đang ngồi trên đùi hắn mà hắn thì ít khi với được một của quý như ả Sal béo này – nàng nghiêng người qua thì thầm vào tai hắn, giọng ngọt lịm: - Sao cưng không lên trên kia, chỉ có mình ta thôi. Hắn ngoái mình ra cười trước viễn ảnh của những giờ khoái lạc. Hắn muốn giành ả trọn đêm nay. Ở thị trấn Rockley, gần khoảnh trại của hắn, chỉ có một mụ điếm già gầy đét, đâu có "mát tay" như Sal béo của gã đêm nay nên hắn thầm cảm ơn Chúa đã với được của quý trong chuyến đi Wichita lần này Thế mà cái tiếng giận dữ của gã trại chủ nào đó cứ dội vào tai hắn. Elroy nhớ lại qua giọng nói của người chủ trại chăn nuôi tên Bill Chapman, có trại ở phía bắc quán này một chút và ông ta đang tìm người để cùng đi lo về chuyện "bọn da đỏ đang hoành hành trong vùng" Elroy giật mình khi nghe đến hai tiếng "da đỏ" dù hắn chưa bao giờ gặp rắc rối với họ. Hắn chỉ mới đến Kansas gần hai năm trước, nhưng khoảnh trại của hắn dễ bị tấn công lắm. Trại hàng xóm gần nhất cũng cách hắn gần hai cây số. Và Elroy chỉ lại có một mình cùng với người thợ làm thuê cho mỗi mùa gặt. Vợ hắn chết ngay vào tháng thứ sáu khi họ đến Kansas Kể riêng một mình Elroy, lẽ ra chẳng phải lo lắng hắn là người cao hơn hai thước, to như thùng dầu hai trăm lít, đủ bảo đảm vượt khó khăn trong cuộc đời, trừ khi hắn muốn gây sự. Nhưng lúc này Elroy đang lo lắng vì cái bọn "mọi rợ" kia đang tìm cách tràn vào vùng này để xua những "người hiền lành, kính Chúa mới định cư vào vùng này". Cái bọn đó là dân "chơi không đẹp" và nhiều chuyện kể làm cho Elroy thấy ớn lạnh. Người ta đã cảnh cáo hắn đi quá gần vào vùng lãnh thổ phân chia cho người da đỏ gọi là "Biệt khu da đỏ", hay đúng hơn là một vùng bao la, trơ trụi nằm giữa Kansas và Texas. Cái khoảnh trại của Elroy lại chỉ cách đường biên Kansas có ba mươi dặm và khốn nỗi, đó là vùng đất tốt, nằm ngay giữa hai con sông Arkansas và Walnut. Khi chiến tranh phân ly chấm dứt, Elroy vẫn nghĩ rằng quân đội sẽ chận đứng và buộc được "bọn da đỏ" ấy quay quần trong cái phần đất phân chia cho họ mà thôi. Thực tế khác hẳn. Quân đội không thể chận đứng khắp được và khi cuộc nội chiến chấm dứt, thì cuộc chiến của người da đỏ lại dâng lên cao điểm. Họ không giao nộp những phần đất mà tổ tiên họ, luôn nghĩ là của người da đỏ Hai ngày trước khi đến Wichita, Elroy đã phát hiện ra một nhóm nhỏ người da đỏ qua ranh đất của hắn đi về phía nam. Elroy lo lắng, đi theo tám người từ khoảng cách xa cho đến ngã ba sông Arkansas – Ninnescah. Ở đây đã có chừng mười chiếc tàu tepee dựng lên ven song Arkansas và Elroy còn thấy hơn chục gã trai khác, cùng với phụ nữ, trẻ con ra vào như một ngôi làng của họ từ lâu rồi Nằm quan sát cái làng ấy cũng đã làm cho Elroy thấy máu muốn đông lại trong người hắn: Đây là nhóm dân Kiowa hoặc Comanche và họ chỉ ở cách trại của hắn vài giờ đi ngựa Khi đến Wichita, hắn đã kể chuyện này khắp thị trấn và bây giờ gã Bill Chapman lại đang khuấy động những người khách cố hữu của quán rượu này. Chapman đã rủ được ba ông khách rượu và sáu tay chăn bò ... ra đi. Một khách rượu lại nêu ra rằng hai chàng phiêu bạc thích "giết tụi nó" và họ đang đi tìm hai chàng đó ở các sòng bài Bill Chapman kể đến lực lượng mình đã có và liếc mắt nhìn Elroy nãy giờ hậm hực lắng nghe - Còn anh thì sao? Anh bạn ... đi với tụi này đi? Elroy xô Sal béo khỏi đùi mình, nắm lấy cánh tay ả mà kéo tới gần chỗ Chapman - Sao các anh không để bên quân đội họ săn bọn nó? Lão chủ trại cười nghiêng ngả - Để cho quân đội họ tống chúng về vùng đất tự trị ư? Thật chẳng công bằng chút nào! - Cách hay nhất để buộc tên da đỏ không ăn cắp của bạn lần thứ hai là cho nó một con dao. Cái lũ Kiowa này đã hạ của tao hơn mười lăm con bò và cuỗm đi cả chục con ngựa ngoại hạng của tôi tuần trước. Chúng móc túi tôi nhiều lần rồi đấy. Tao phải chặn chúng lại Và cặp mắt sắc của gã nhìn xéo Elroy - Đi nhé? Một cái nhìn lạnh buốt dọc xương sống Elroy. Mười lăm con bò bị hạ. Hắn chỉ có hai con bò đực và gà quê không đủ cho bọn chúng quét. Một ngày không có bò thì cuộc đời hắn tiêu ma. Nếu mấy tên Kiowa ghé thăm là hắn hết đời. Elroy nhìn chằm chằm vào Chapman - Hai ngày trước tao đã theo bọn chúng. Chúng đã dựng trại ở ngã ba sông Arkansas – cách trại tôi chừng mười tám cây số. Nghĩa là cách đây khoảng ba mươi cây số nếu ta đi theo đường sông - Chết thật! Sao anh không nói. Có lẽ chúng là bọn chúng ta đang theo dõi đấy. Ấy, chúng đi mau thế. Bọn quỷ đó đi nhanh hơn tôi tưởng. Có đúng là bọn Kiowa không? Elroy nhún vai: - Tao trông bọn nào cũng vậy. Bọn này không đi ngựa. Nhưng ở trại tụi nó có chừng bốn mươi con - Anh dẫn tụi tôi đến trại tụi nó nhé? Elroy cau mày - Tao mang bò đi để mua máy cày về. Tao không mang theo ngựa. Thế ... làm các ông đi chậm lắm - Tao thuê ngựa cho mày - Nhưng còn bò của tao - Tao trả tiền cho mày gửi lại đây. Sau đó mày trở lại lấy, được chứ? - Bao giờ các ông đi? - Đầu giờ sáng mai ... Nếu ta không đi gấp và nếu chúng còn ếm ở đó, thì ta bắt kịp chúng vào giữa trưa Elroy nhìn Sal béo đang ngoác miệng ra cười ... Chapman đi ngay nghĩa là hắn phải mất buổi tối nay với ả Sal béo thì "xin ngài ..." Nhưng sáng mai ... -Kể như là có tao và anh chàng gặt thuê cho tao nữa ... Mời các bạn đón đọc Trái Tim Hoang Dã của tác giả Johanna Lindsey.