Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Nhân Chứng Cuối Cùng

VIẾT VỀ MỘT KHO CẤT GIỮ NỖI ĐAU CÒN TINH KHÔI Những nhân chứng cuối cùng (ấn bản lần đầu năm 1985) là quyển thứ hai trong loạt năm quyển sách Những giọng nói không tưởng (cùng với Chiến tranh không mang gương mặt phụ nữ -1983, Những cậu bé kẽm - 1991/ Lời nguyện cầu từ Chernobyl - 1997 và Thời second hand - 2013) đã mang đến cho nhà văn Belarus Svetlana Alexievich giải Nobel văn chương 2015. Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí Ba Lan năm 2013, nữ nhà văn cho biết ý tưởng viết quyển sách thứ hai này xuất phát từ những chuyến đi thực tế cho quyển sách đầu tiên Chiến tranh không mang gương mặt phụ nữ. Cuộc chiến cướp mất hàng chục triệu con người Liên Xô đã khiến nhiều ngôi làng Xô viết sau chiến tranh không còn bóng dáng đàn ông, và tại những ngôi nhà góa bụa đó, bà thường nghe được hai câu chuyện: một của người mẹ và một của đứa con. Nhờ đó, bà phát hiện: “còn một kho cất giữ nỗi đau hoàn toàn chưa được động tới, tinh khôi”: ký ức trẻ thơ. Người ta đã quen nghe nói về chiến tranh từ người lớn, nhưng chỉ những chuyện kể từ miệng trẻ em mới có thể bộc lộ hết sự điên rồ của chiến tranh, sự hung bạo phi nhân tính không gì có thể biện bạch. Trung thành với thể loại văn xuôi tư liệu của loạt Những giọng nói không tưởng, Svetlana Alexievich kể, trong Những nhân chứng cuối cùng bà ghi lại lời những “nhân vật trẻ em” khi họ đã trưởng thành. Đây là một công việc hết sức khó khăn. “Một giáo sư sử học thì nói những điều rất khác, rất ‘người lớn’ về chiến tranh. Nên cần nhiều thời gian, bốn hay năm giờ đồng hồ để lộ ra được diện mạo một cậu bé có mẹ bị quân Đức lôi ra khỏi nhà đem bắn. Để cậu bé có thể nhìn tận mắt mình: ‘Tại sao họ bắn mẹ. Mẹ đẹp như thế…’ Cần phải đạt tới được những chi tiết chân thực, tinh khôi, trẻ thơ đó. Vấn đề là gột sạch cái người lớn từ những chuyện kể này”. Và tác giả đã làm như thế với cả trăm câu chuyện trẻ thơ, được kể lại bởi những người mà khi Chiến tranh Vệ quốc nổ ra, họ mới từ 4, 5 đến 12 tuổi. Hơn 100 câu chuyện của những đứa bé sống ở Belarus - nằm sát Ba Lan, là nước đầu tiên trong Liên Xô bị phát xít Đức bất ngờ tấn công ngày 22-6-1941, đã đạt được mục đích mà Alexievich đặt ra: Nước mắt trẻ thơ, dẫu chỉ một giọt thôi, cũng nặng hơn vô vàn lý lẽ chiến tranh nào. Với lời nhắc nhở đó, trong một dịp đi Saint Petersburg năm 2017, tôi đã tìm đến Con đường Sống mà một số nhân vật trẻ em trong Những nhân chứng cuối cùng dã đi qua. Đây là tuyến đường vận chuyển duy nhất kéo dài từ đường vành đai Saint Petersburg tới hồ Ladoga, con đường huyết mạch nối thành phố khi đó còn mang tên Leningrad - với phần còn lại của nước Nga trong 900 ngày đêm bị phát xít Đức bao vây. Tuyến đường rất xanh, chạy qua những rừng bạch dương, rừng thông… nhưng mỗi ngọn cây lá cỏ đều nhắc tôi rằng hơn 70 năm trước, lá non cỏ tươi ở Leningrad từng không mọc nổi vì nạn đói, cả vỏ cây non cũng bị tước đi… Mỗi cây số ở hai bên đường đều được đánh dấu bằng cột mốc, ở cây số 12 có tượng đài nhắc nhở: “1,5 triệu tấn hàng hóa được chuyển qua cung đường này, 1,2 triệu người dân theo Con đường Sống này ra khỏi Leningard bị bao vây”. Ở cây số 40 là hiểu tượng vòng vây phong tỏa bị cắt đứt. Ở cây số 45 là bảo tàng Con đường Sống, nằm tại ngọn hải đăng Osinovets. Trong khuôn viên hảo tàng, có đặt một tảng đá to hướng ra hiển, trên đó ghi: “Tại dây sẽ xây dựng tượng đài kỷ niệm những anh hùng của Con đường Sống. Đối diện bảo tàng, bên kia đường là những cây bạch dương non được cột ruy băng đỏ, giữa khu rừng nhỏ đó cũng đặt một tảng đá có khắc hàng chữ: “Nơi đây sẽ đặt tượng đài kỷ niệm những người đã bỏ mình trong lòng hồ Ladoga”. Người Nga không quên những năm tháng nặng nề với số phận dân tộc mình. 72 năm sau khi chiến tranh hết thúc, những tượng đài vẫn được tiếp tục lưu dấu. Bởi những người cựu binh của cuộc Chiến tranh Vệ quốc đã già lắm rồi, họ đến dự cuộc duyệt binh chiến thắng mỗi năm một thưa dần. Con cháu họ cũng đã lớn, và ký ức của các nhân chứng ngày càng ít đi này đang dần phôi phai. Ở thế giới vẫn còn chiến tranh của chúng ta, những câu chuyện của các “nhân chứng cuối cùng” này, được gia cố thêm bằng những tượng đài kia, là một nỗ lực nhắc nhớ. Sau giải Nobel văn chương 2015, loạt sách Những giọng nói không tưởng đã được tái bản, có sửa chữa. Bản dịch này dựa trên quyển sách Những nhân chứng cuối cùng được tác giả hiệu đính và nhà xuất bản Vremya phát hành năm 2016. Xin trân trọng gửi tới độc giả bản dịch cùng lời cảm ơn chân thành đến chị Irina Anatolyevna Letiagina, cựu biên tập viên Nhà xuất bản Cầu vồng và Tiến bộ (Liên Xô cũ), đã giúp đỡ để chúng tôi hoàn thành bản dịch này. Phan Xuân Loan (11-2017) *** Seri Những Giọng Nói Không Tưởng, bao gồm: Chiến tranh không mang gương mặt phụ nữ, Những Nhân Chứng Cuối Cùng, Những cậu bé kẽm, Lời nguyện cầu Chernobyl Thời second hand *** Svetlana Alexievich (31/5/1948) là một nhà báo điều tra và nhà văn thể loại văn xuôi hiện thực. Bà là người Belarus nhưng viết báo, viết văn bằng tiếng Nga. Năm 2015, bà được trao giải Nobel Văn học vì “lối viết phức điệu, một tượng đài tưởng niệm sự thống khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta”.  Ngoài Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Svetlana Alexievich còn viết nhiều sách về đề tài chiến tranh như Những nhân chứng cuối cùng (1985), Quan tài kẽm (1989), Tiếng vọng từ Chernobyl (1997)... Ngoài Nobel Văn chương, Svetlana Alexievich nhận nhiều giải thưởng khác như giải Leninsky Komsomol ở Nga, PEN Award, Peace Prize of the German Book Trade, Giải Médicis Essai (Pháp), giải National Book Critics Circle (Mỹ)… *** Tháng Sáu năm bốn mốt. Tôi nhớ lúc đó mình còn nhỏ lắm, nhưng tôi vẫn nhớ hết. Điều cuối cùng tôi nhớ từ cuộc sống hòa bình là câu chuyện cổ tích mẹ vẫn đọc hằng đêm. Câu chuyện yêu thích của tôi - Con cá vàng. Tôi luôn xin cá vàng điều gì đó: “Cá vàng ơi, cá vàng dễ thương ơi…” Và em gái tôi cũng vậy. Em nguyện cầu theo kiểu của mình: “Cá nhỏ, cá ngoan. Làm theo lời chị…” Chúng tôi xin nghỉ hè được về quê bà, với ba đi cùng. Ông vui như thế… Buổi sáng tôi thức giấc vì sợ. Bởi những tiếng động lạ nào đó… Mẹ và ba ngỡ chị em tôi còn say giấc, còn tôi nằm cạnh em gái và giả vờ ngủ. Tôi thấy ba hôn mẹ rất lâu, hôn lên mặt, lên tay, và tôi ngạc nhiên, trước đây ông chẳng bao giờ hôn mẹ như thế. Họ nắm tay nhau bước ra sân, tôi nhảy lại chỗ cửa sổ: Mẹ ôm lấy cổ ba, không muốn rời ông. Ông đẩy bà ra và chạy, còn bà đuổi theo và hét lên gì đó. Khi đó tôi cũng hét lên: “Ba! Ba!” Em gái và em trai Vasya thức giấc, em gái thấy tôi khóc, nó cũng la lên: “Ba ơi!” Tất cả chúng tôi lao ra ngoài hiên. “Ba ơi!” Ba nhìn chúng tôi, và tận bây giờ tôi vẫn nhớ, ông lấy tay che đầu và bước đi, thậm chí là bỏ chạy. Ông sợ ngoái đầu nhìn lại… Mặt trời soi chiếu gương mặt tôi. Ấm như thế. Và đến giờ tôi vẫn không tin là sáng hôm ấy ba tôi bước vào cuộc chiến. Tôi còn quá nhỏ, nhưng dường như vẫn nhận thức được đây là lần cuối tôi được nhìn thấy ông. Không bao giờ gặp lại. Tôi còn rất, rất nhỏ. Và như thế gắn liền với ký ức của tôi, chiến tranh - đó là khi không còn ba. Rồi về sau tôi còn nhớ: bầu trời tối om và máy bay đen sì. Cạnh con đường nhựa mẹ tôi nằm xoải tay. Chúng tôi đánh thức bà dậy, nhưng bà không buồn nhấc người lên. Những người lính quấn mẹ tôi vào tấm bạt và chôn bà trong cát, ngay chính ở chỗ đó. Chúng tôi la hét cầu xin: “Đừng chôn mẹ cháu trong cái hố đó. Mẹ cháu sẽ thức dậy và chúng cháu sẽ đi tiếp”. Những con bọ kềnh càng từ dưới cát bò lên… Tôi không thể nào tưởng tượng nổi mẹ sẽ sống cùng chúng dưới lòng đất. Sau này chị em tôi biết tìm bà thế nào, chúng tôi sẽ gặp lại nhau ra sao? Ai sẽ viết thư cho ba chúng tôi? Ai đó trong những người lính trẻ hỏi tôi: “Bé con, em tên gì?” Nhưng tôi quên rồi. “Cô bé, vậy họ em là gì? Mẹ em tên gì?” Tôi cũng không nhớ… Chị em tôi ngồi cạnh nấm mộ nhỏ của mẹ tới tận đêm, cho đến khi người ta kéo chúng tôi lên xe ngựa. Một chiếc xe ngựa thồ toàn trẻ em. Đưa chúng tôi đi là một ông già nào đó, ông gom lũ trẻ chúng tôi khắp dọc đường. Chúng tôi dừng lại ở một ngôi làng, và những người lạ mặt dẫn chúng tôi vào các nhà dân. Rồi tôi không nói chuyện với ai một thời gian dài. Tôi chỉ nhìn thôi. Sau đó, tôi nhớ, vào mùa hè. Mùa hè rực rỡ. Một người đàn bà lạ xoa đầu tôi. Tôi bắt đầu khóc. Và bắt đầu mở miệng. Tôi kể về mẹ và ba. Rằng ba đã chạy trốn chúng tôi, thậm chí ông còn không ngoái đầu lại. Và mẹ nằm sõng soài như thế nào. Và những con bọ cánh cứng đã bò trên cát ra sao. Người đàn bà xoa đầu tôi. Giây phút đó tôi chợt hiểu ra: Bà giống mẹ tôi. Mời các bạn đón đọc Những Nhân Chứng Cuối Cùng của tác giả Svetlana Alexievich.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngày Mai Tôi Sẽ Khác - Gilles Legardinier
Điều ngu ngốc nhất trong đời bạn từng làm là gì?    Ngu ngốc như vừa chạy cầu thang vừa mặc áo hay nhét cả bàn tay kẹt cứng trong thùng thư người hàng xóm... chẳng nhằm nhò gì so với những hành động rồ dại mà cô nàng Julie sau này cố làm để tiếp cận người đàn ông mà cô muốn khám phá. Bị những ý tưởng gàn dở liều lĩnh thôi thúc, Julie đã liều mình hành động để rồi tốt cuộc cũng có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi: chúng ta có thể làm điều ngu ngốc trong đời là vì ai?    Một câu chuyện tình lãng mạn và đầy hài hước cùng cô nàng hậu đậu, luôn lo sợ. Với những hành động liều lĩnh và “trò lố” của mình trong chặng đường chinh phục chàng hàng xóm mới chuyển đến Patatras, Julie sẽ mang đến cho bạn đọc những giây phút giải trí nhẹ nhàng đồng thời đặt ra cho bạn đọc câu hỏi: chúng ta có thể làm điều ngu ngốc trong đời là vì ai ?   *** Với NGÀY MAI TÔI SẼ KHÁC, Gilles Legardinier đã phác họa một khía cạnh hoàn toàn mới của trí tưởng tượng vốn không bao giờ khiến ta ngừng ngạc nhiên. Cuốn tiểu thuyết mới của Gilles khẳng định điều mà những ai từng đọc sách của ông đều đã từng biết: một biệt tài kể những câu chuyện độc đáo đánh thức bản chất sâu kín nhất của chúng ta. “Một cuốn tiểu thuyết khiến ta cười sảng khoái ngay từ những trang đầu tiên để rồi chẳng thể dứt ra nổi.” – Figaro “Một chuyện tình đáng để ta sống vì yêu.” – Tạp chí BIBA Gilles Legardinner luôn cố gắng khơi gợi cảm xúc để sẻ chia. Sau khi làm việc trong mảng sân khâu truyền hình Anh-Mỹ, đặc biệt trong vai trò phụ trách kỹ thuật hoả pháo, ông đã thực hiện các bộ phim quảng cáo và trích đoạn quảng cáo cho nhiều bộ phim bom tấn. Hiện giờ ông tập trung vào mảng truyền thông điện ảnh cho các hãng phim lớn và viết kịch bản cũng như viết tiểu thuyết. Tiểu thuyết Ngày mai tôi sẽ khác đã gặt hái thành công vang dội trên toàn thế giới và đoạt giải Ngòi bút vàng do trang Plume libre bình chọn. Mời các bạn đón đọc Ngày Mai Tôi Sẽ Khác của tác giả Gilles Legardinier.
Làm Đĩ - Vũ Trọng Phụng
AdioBook Làm Đĩ   Vũ Trong Phụng viết Làm đĩ vào năm 1936, một thời đại thực sự hỗn loạn như đã hiện lên qua nhiều trang viết của ông và các nhà văn cùng thời. Xã hội thành thị Việt Nam thời ấy đang "Âu hóa" một cách nửa mùa - cái cũ chưa qua, cái mới chưa tới, đầy rẫy sự nhốn nháo, lừa lọc, sa đọa và đau khổ. Làm đĩ được viết dưới dạng tự truyện của nhân vật chính tên Huyền. Sinh ra trong một gia đình có cha làm việc cho Tây nhưng lại cực kỳ hủ bại, từ nhỏ Huyền đã luôn bị người lớn lảng tránh và nạt nộ khi cô bé thắc mắc về những vấn đề giới tính. Thứ cô tiếp thu được chỉ là lời nói bậy bạ, thô tục của kẻ ăn người ở trong nhà và những bài "tự học" của đám trẻ thơ. Sự tò mò ấy làm bùng lên nỗi khát khao ở người thiếu nữ bước vào tuổi dậy thì, để rồi một ngày cô ngã vào vòng tay Lưu - một người anh họ xa đang trọ học tại nhà - trong cái đêm mất ngủ vì âm thanh "sự thị uy của ái tình" giữa cha và vợ bé chỉ cách giường cô một bức vách. Mối tình vụng dại kết thúc bi thảm hệt như những bộ phim lãng mạn thời bấy giờ. Lưu tự tử chết, Huyền bị ép gả cho Kim. Kim mắc bệnh giang mai do thói ăn chơi bừa bãi của giới thượng lưu nên chỉ có thể quấy rấy vợ bằng "cách nửa đời nửa đoạn." Vì tiền, Kim đem vợ ra làm mồi nhử Tân, một "đại gia" đào hoa, giàu có. Từ chỗ e ngại, Huyền và Tân đã trở thành đôi "gian phu dâm phụ" lúc nào không hay. Kim lật lọng, bắt Huyền thú tội và từ đó "giáng" cô xuống thân phận tôi đòi. Huyền tìm đến Tân nhưng chỉ nhận được lời giả dối của kẻ "cho mục đích của ái tình không phải là hôn sự". Tân phũ phàng từ chối Huyền và trơ tráo thừa nhận "lúc nào anh cũng có dăm bảy cô nhân tình." Tân tháo chiếc vàng đưa cho Huyền để trả công. Huyền ném chiếc nhẫn vào mặt kẻ bội bạc rồi bỏ chạy. Ít lâu sau, biết Tân - kẻ đạo đức giả đang được cả xã hội tung hô - đang chấm thi hoa hậu ở Sài Gòn, Huyền bỏ nhà vào tìm Tân để quyết giết chết kẻ phụ tình. Không tìm được Tân, tiền cạn, bước đường cùng khiến Huyền bắt đầu cuộc đời trụy lạc. Vũ Trọng Phụng tả con đường "làm đĩ" của Huyền và đã khẳng định rằng đẩy Huyền vào con đường ấy là hai kẻ đàn ông: anh chồng và thằng cha nhân tình. Cả hai đều bỉ ổi, khốn nạn và ích kỉ đến cùng cực. Hai con người đốn mạt ấy đều là nhân vật tiêu biểu của cái thời mà Vũ Trọng Phụng gọi là: "thế kỷ đắc thắng cho chủ nghĩa cá nhân". Hãy đọc, cảm thông cho tác giả và nhân vật Huyền đã sống và phải sống trong thời đại hỗn loạn đó. Mời các bạn đón đọc Làm Đĩ của tác giả Vũ Trọng Phụng.
Đêm Thánh Vô Cùng - Heinrich Boll
Nhà văn Đức Heinrich Boll bắt đầu làm thơ và viết truyện ngắn từ rất sớm, học tiếng Đức, văn học cổ điển và nghề kinh doanh sách; năm 1938 bị bắt vào lính, bị quân đội Mỹ bắt làm tù binh; trở về quê tiếp tục học và kiếm sống bằng những công việc không thường xuyên. Năm 1949, ông trình làng truyện vừa Chuyến tàu đến đúng giờ phản ánh cuộc sồng đời thường sau chiến tranh, văn phong đơn giản hoá một cách chủ ý. Tính vô nghĩa của cuộc chiến tranh đúc rút từ những trải nghiệm cá nhân nhân vật là chủ đề trung tâm trong những tác phẩm này và cũng là đề tài chủ đạo xuyên suốt toàn bộ sáng tác về sau của H. Boll, thường được gọi là dòng “văn học hoang tàn”. Tác phẩm có thể coi là hoành tráng đầu tiên của ông là Ván bi-a lúc chín rưỡi được viết với văn phong và cấu trúc phức tạp hơn; tiếp đó là Qua con mắt của chú hề nói về tự do cá nhân giữa những sức ép mang tính xã hội và chính trị. Năm 1971 ra đời tiểu thuyết lớn nhất của H. Boll là Bức chân dung tập thể với mottjquý bà mô tả các sự kiện xảy ra trong khoảng thời gian 1899- 1970 với đối tượng chỉ trích là nhà thờ và “xã hội thành đạt”. Năm 1972, H. Boll được trao giải Nobel vì những tác phẩm kết hợp tầm bao quát hiện thực rộng lớn với nghệ thuật xây dựng tính cách điển hình đã trở thành đóng góp to lớn vào sự phục hồi nền văn học Đức. Năm 1974, được bầu làm chủ tịch Hội Văn bút Quốc tế, ông nhiệt tình giúp đỡ những nhà lãnh đạo phong trào hoà bình và chống sử dụng vũ khí hạt nhân. Ngoài sự nghiệp sáng tác, H. Boll còn là dịch giả văn học Mỹ. Tác phẩm chính: - Chuyến tầu đến đúng giờ (Der Zug kommt pünktlich, 1949), truyện vừa. - Người ở đâu? Adam? (Wo warst du, Adam?, 1951), tiểu thuyết. - Ván bi-a lúc chín rưỡi (Billiard um halbzehn, 1959), tiểu thuyết. - Qua con mắt của chú hề (Ansichten eines Clowns, 1963), tiểu thuyết. - Những bài giảng ở Frankfurt (Frankfurter Vorlesungen, 1966), tiểu thuyết. - Bức chân dung tập thể với một quý bà (Gruppenbild mit Dame, 1971) tiểu thuyết. - Danh dự bị lăng nhục của Katharina Blum (Die verlorene Ehre der Katharina Blum, 1974), truyện vừa. Mời các bạn đón đọc Đêm Thánh Vô Cùng của tác giả Heinrich Boll..
Người Ở Đâu Về - Heinrich Boll
Trong quãng thời gian từ năm 1947 đến năm 1952, Heinrich Böll đã cho ra đời nhiều tác phẩm viết về đề tài chiến tranh. Nguồn tư liệu viết truyện của ông được lấy từ những sự kiện mà chính ông đã trải qua, với tư cách là một người lính trong Thế chiến Thứ II. Người ở đâu về? (nguyên bản tiếng Đức là Wo warst du, Adam?) là một trong số đó. Cuốn này được ông viết vào năm 1951. Thông qua 9 chương sách khá độc lập nhau, cuốn tiểu thuyết nói đến số phận của Feinhals và những người lính cùng chung chiến hào với anh trên mặt trận phía đông vào những tháng cuối cùng của cuộc chiến. Trong những tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh của Böll, không có anh hùng. Nhân vật chính trong những tác phẩm này đều là những người lính bình dị, những người lính bị chèn ép, áp bức. Họ không làm chủ được cuộc sống của chính mình và sự hy sinh của họ trên chiến trường hoàn toàn là vô nghĩa - những cái chết thường là đau đớn và không có gì gọi là cao đẹp cả. Với tư tưởng chỉ trích chiến tranh, Böll viết vô cùng thực tế; ông nhìn nhận chiến tranh không phải là một cuộc phiêu lưu kỳ thú mà là một “căn bệnh thương hàn.” Lời tựa cho cuốn sách là 2 câu nói: một là của Antoine de Saint-Exupery, người đã ví chiến tranh như căn bệnh thương hàn; và một là của Theodor Haecker, người đã gợi ra rằng vấn đề cơ bản của xã hội nước Đức đương thời chính là cứ lấy chiến tranh ra là cái cớ để gỡ tội cho mình – “Hồi ấy, anh ở đâu hở Adam?” “Tôi đang tham dự Đại chiến”. Câu nói này của Haecker đã được Böll trích một phần để làm tựa cho cuốn tiểu thuyết. Với Böll, Adam là đại diện cho một xã hội từ chối thừa nhận trách nhiệm trước những hành vi của mình. Đó cũng là hiện thân của những nhân vật đáng thương như Feinhals (Fanhan) và những đồng đội của anh - những người lính được kêu gọi nhập ngũ chiến đấu cho một mục đích mà họ cho là vô nghĩa. Không may, tính thụ động, hay sự bất lực của họ trước những hành động ấy, đã cho phép những nhân tố tiêu cực trong xã hội, ở đây là chế độ quốc xã, trỗi dậy dẫn đến vụ Thảm sát Holocaust. Böll mô tả sự khủng khiếp của vụ thảm sát Holocaust thông qua sự đụng độ giữa viên Đại úy SS Filskeit, chỉ huy trại hủy diệt và cô gái người Hung-ga-ri theo đạo Do Thái Ilona. Böll khắc họa Filskeit là một kẻ có cổ to, bụng to, chân ngắn, thiếu hấp dẫn nhưng lại có xu hướng tình dục tiềm tàng trong máu. Filskeit là một kẻ cuồng tín chủ nghĩa Quốc xã về cái gọi là sức mạnh của dòng máu thuần chủng của tộc người A-ri-an. Sự mô tả tính cách của Filskeit chính là một bài văn châm biếm những nét tiêu biểu của lính quốc xã nói chung: ngưỡng mộ quá mức phẩm cấp, tuân lệnh cấp trên một cách mù quáng và một kiến thức nông cạn về nghệ thuật. Filskeit mê mẩn những bản hợp xướng và trong suốt thời gian chiến tranh, khi được cử đến bất cứ trại nào, hắn đều lập ra một ban hợp ca. Khi Ilona tới, hắn yêu cầu cô hát trong khi hắn tuyển mộ nhân sự cho ban hợp ca của hắn. Khi cô hát bài “Kinh cầu nguyện cho tất cả các vị thánh”, Filskeit nhận ra cái lý thuyết ngụy biện của ý thức hệ Quốc xã về sức mạnh của giống người A-ri-an thuần chủng đã trở thành tâm điểm của cuộc đời hắn. Ở Ilona, hắn thấy hắn đã cố công tìm kiếm trong bản thân con người hắn một thứ không tồn tại: “một dòng máu cao quý, hoàn hảo kết hợp với một thứ làm hắn hoàn toàn tê liệt, đó là lòng trung thành.” Phản ứng của hắn thể hiện đúng bản chất méo mó của con người hắn: hắn bắn chết người thiếu phụ và ra lệnh giết hại hết toàn bộ những người Do Thái còn lại trong trại. Lời văn của Böll trong những chương này là một minh chứng rõ ràng cho thái độ của ông trước vụ Thảm sát Holocaust. Nếu như có đôi khi, Böll có vẻ như muốn kết tội tất cả những người Đức về trách nhiệm của mình trước những hiện thực xảy ra, thì cũng có lúc ông lại diễn tả trách nhiệm này trong những người Đức bình thường, những người vẫn bảo toàn được nhân tính của mình mặc dầu phải đối mặt với tính hung bạo ở khắp nơi. Khi người lính Feinhals (Fanhan) gặp Ilona, tình yêu của họ dành cho nhau vượt lên trên hẳn những vấn nạn của loài người hay của dân tộc. Cái chết vô nghĩa của anh ở cuối truyện, giống như cái chết của Ilona, đã nhấn mạnh sự vô nhân tính của chế độ quốc xã mà Thảm sát Holocaust là một ví dụ điển hình. Mời các bạn đón đọc Người Ở Đâu Về của tác giả Heinrich Boll.