Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mây Mùa Thu

Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy.... viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm. Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc... Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cùng với Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh bị liệt danh là một trong 10 nghệ sĩ nêu danh là "Những Tên Biệt Kích của Chủ nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa - Tư Tưởng" và tác phẩm bị cấm lưu hành. Ngày 8 tháng 4 năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4 năm 1976). Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 ông vượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp. Gần như có hai con người đối lập trong ông. Một Duyên Anh nhà văn có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, mơ mộng, đầy ấp tình người. Và một Duyên Anh nhà báo ngổ ngáo, tai tiếng, lắm kẻ thù với những bài viết sống sượng và cay độc. Ông được đánh giá là một nhà văn, nhà báo có chỗ đứng cao trong văn học nghệ thuật Việt Nam, sức sáng tạo dồi dào: 34 năm cầm bút với 101 tác phẩm. Các tác phẩm chính: Đêm thánh vô cùng Hoa thiên lý Ðiệu ru nước mắt Luật hè phố Thằng Vũ Dấu chân sỏi đá Dzũng ÐaKao Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang Bồn Lừa Ảo vọng tuổi trẻ Gấu rừng Cỏ non Ngày xưa còn bé Nặng nợ giang hồ Mùa thu Con suối ở Miền Ðông Danh ná truyện tuổi nhỏ Giặc cờ đỏ truyện tuổi nhỏ Nhóc tì phản động truyện tuổi nhỏ Hồn say phấn lạ tiểu thuyết trường thiên      Cầu Mơ Ánh lửa đêm tù Ánh mắt trông theo Thằng Côn Trường cũ Tuổi 13 Nhà tôi Mơ thành người Quang Trung Ðàn bà Chương Còm Mặt Trời nhỏ Lứa tuổi thích ô mai Giặc ôkê Đồi Fanta truyện La colline de Fanta dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris Một người Nga ở Sài Gòn truyện (1986) Nam Á, Paris Un Russe à Saïgon dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris Un prisonnier Américan au Viêtnam truyện nxb Belfond Paris Hôn em kỷ niệm nhạc (1986) Nam Á, Paris Ru tình ngất ngây nhạc      Thơ tù thơ (1984) Nam Á, Paris Em, Sài Gòn và Paris thơ Một người mang tên Trần Văn Bá truyện (1985) Nam Á, Paris Sỏi đá ngậm ngùi truyện (1985) Nam Á, Paris Bầy sư tử lãng mạn truyện (1985) Nam Á, Paris Quán trọ trước cổng thiên đường truyện (1987) Nam Á, Paris Thơ của đàn bà truyện Nhánh cỏ mộng mơ truyện Động lòng chữ nghĩa đoản văn Nhà tù hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ Trại tập trung hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ Sài Gòn ngày dài nhất hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ Nhìn lại những bến bờ hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ *** Mùa mưa dứt, gánh Đồng Ấu đã rời Tân Châu. Qua một quãng đường và một con đò, chúng tôi tới tỉnh lỵ Châu Đốc. Gánh hát không gặp may ở đây. Bữa tạnh bữa mưa. Mới diễn được ba đêm thì đại ban từ Sàigòn xuống, gánh Đồng Ấu cảm thấy lép vế, thu dọn đồ nghề ra đi. Lại dọc đường gió bụi, lui về quận Cái Dầu. Rồi về Long Xuyên, Thốt Nốt, Ô Môn... Càng đi xa, đi nhiều, gánh Đồng Ấu càng nghèo nàn, rách rưới. Tôi thương nghệ sĩ Năm Chiêu, ông Nghị bội phần. Tình thương, đôi khi, đã làm mờ tình tôi yêu Liên Hương. Hai con người đã từng làm vua, làm hiệp sĩ trên sân khấu Bắc, Nam, từng làm đau nhói biết bao con tim phụ nữ ở bốn phương trời; hai con người từng tạo ra vua, hoàng hậu, hiệp sĩ, từng xây dựng những vương quốc hạnh phúc ấm no trong trí tưởng tượng. Và trí tưởng tượng đó giãi bày xuống giấy trắng thành những vở tuồng. Giờ đây, túng đói, cực khổ vì chuyện tạo ra vua, tạo ra hiệp sĩ, tạo ra ý nghĩa đẹp đẽ cho cuộc đời. Người nghệ sĩ chỉ đủ khả năng dựng lớp lang cho nhân loại nhưng đã bất lực khi muốn dựng một đoạn kết đẹp rực rỡ cho chính bản thân mình. Số kiếp người nghệ sĩ Việt Nam, dường như, đều bị ràng buộc bằng đói rách, bênh hoạn. Ít có người chết bình thường, chết sau khi đã bằng lòng những gì mình làm xong. Những người viết văn làm thơ, soạn kịch, chết đi còn để lại tí tên tuổi còm. Chứ nghệ sĩ Năm Chiêu, ông Nghị chết đi sẽ để lại cái gì? Ai biết ông Tư Chơi, ai biết ông Huỳnh Thái bây giờ ra sao? Cùng lắm, người ta nói "Họ đã chết rồi, họ đã giải nghệ rồi". Sau này, người ta ngâm thơ Đinh Hùng, người ta nức nở khen. Nhưng mấy ai chịu nhớ, khi ông nằm yên dưới mộ, bạn bè thân thích của Đinh Hùng phải góp tiền mua cho vợ con Đinh Hùng căn nhà bé nhỏ tiều tụy. Tôi bắt đầu sợ cái tương lai "nằm gánh". Tôi phải thú thật rằng tôi không dám liều lĩnh, không dám bỏ cái gì đang có để kiếm cái gì sắp có. Vì thế, tôi thiếu đam mê không si tình mãnh liệt. Tôi dễ chán nản. Việc gì khó khăn, tôi lẩn tránh, Tôi bằng lòng với trái cây vừa tầm tay tôi, dù trái cây đó èo ọt, xanh chua. Tôi lười biếng tỏ tình vì nhút nhát. Bị thất vọng, tôi quên ngay. Và bị hắt hủi, tôi không dám nhìn mặt người hắt hủi tôi. Đau khổ cho một người con gái nào trót yêu tôi. Ví như nàng hẹn hò thì chỉ cần một cơn mưa nhỏ, tôi cũng sẵn sàng bắt nàng chờ đợi. Tôi không đến. Mời các bạn đón đọc Mây Mùa Thu của tác giả Duyên Anh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thừa Tự - Khái Hưng
Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn" là tên gọi mà nay đã trở nên thông dụng. đó là sự xác định về một thiên tiểu thuyết có luận đề, tức là một câu chuyện hư cấu với những nhân vật và cốt truyện hư cấu, nhằm thể hiện một hoặc một vài tư tưởng xã hội, nhân sinh của tác giả. So với truyện truyền kỳ, truyện Nôm, truyện chương hồi, thì đây là một cơ cấu nghệ thuật khác, được tạo dựng theo mô hình tiểu thuyết châu Âu. Các tiểu thuyết gia Tự Lực văn đoàn đã đem chất liệu đời sống Việt Nam, ngôn từ Việt Nam đan dệt theo cái mô hình dù sao cũng còn xa lạ ấy, dân tộc hóa nó đi để nó có thể được tiếp nhận bởi công chúng Việt Nam. Và họ đã thành công trên hướng này. Link Suport:  Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934), Tiêu Sơn tráng sĩ (1934), Gia đình (1936), Thoát ly (1937), Thừa tự (1938) của Khái Hưng; Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937)… của Nhất Linh, Con đường sáng (1938) của Hoàng Đạo, v.v… đã gây được dư luận về các vấn đề xã hội và văn học. Người ta thấy các câu chuyện trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn thường là những chuyện tình, xoay quanh tình yêu, hôn nhân. Nhưng các chuyện tình ở đây khác với chuyện tình trong truyện Nôm tài tử giai nhân ở mức độ chống lễ giáo phong kiến quyết liệt không khoan nhượng của nó. Đây là chuyện tình của những con người đô thị, của những "chàng" những "nàng" tân thời, học chữ Tây, sống ở đô thị, hấp thụ văn minh châu Âu. Tình yêu và hôn nhân là lĩnh vực mà họ dễ vấp phải những gò bó của lễ giáo cũ; họ phải vượt qua để tự khẳng định nhu cầu tự do của mình. Họ đòi tự do trong cuộc sống, trước hết là tự do yêu đương, tự do kết hôn. Họ tìm thấy cái đẹp, thấy giá trị trong cuộc sống Âu hóa: cá nhân, tự do, hạnh phúc. Họ phủ nhận con người chức năng trong luân thường đạo lý Nho giáo. (2) Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn tìm tòi và thể hiện những con người mới ấy, trong cuộc sống mới, đô thị hóa. Nó xây dựng một văn hóa nhân cách mới mà giá trị trung tâm là con người cá nhân tự do: không có những "con người mới" kiểu này thì trong cộng đồng xã hội người không thể có "dân chủ", "dân quyền". Lúc đầu, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn bị phản đối quyết liệt: cả ở nội dung đòi hỏi giải phóng con người cá nhân tự do, cả ở hình thức văn học ít nhiều xa lạ với truyền thống. Nhưng rồi, từng bước một, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn chinh phục được công chúng, trở nên quen thuộc với họ, nhất là lớp công chúng thị dân, học sinh. Và khi các nhà tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đã đi hết chặng đường sáng tạo của họ, thì "kiểu dáng" tiểu thuyết họ tạo dựng đã trở thành cái nền, thành điểm tựa để nhiều nhà văn thuộc các xu hướng khác tiếp nhận để đi tới những thành tựu cao hơn. Ngày nay nhìn lại, chúng ta buộc phải nhận rằng: các tiểu thuyết gia Tự Lực như Khái Hưng, Nhất Linh đã không tạo ra được những tác phẩm kết tinh cỡ như một Số đỏ (của Vũ Trọng Phụng), một Chí Phèo (của Nam Cao), nhưng sẽ không công bằng nếu chúng ta không thấy rằng ngay ở những kiệt tác không phải của Tự Lực văn đoàn ấy vẫn có phần đóng góp của Tự Lực văn đoàn, bởi ảnh hưởng của lối viết tiểu thuyết kiểu mới do Tự Lực văn đoàn đề xuất có một ảnh hưởng rất đậm, rất mạnh, tác động đến hầu hết những người viết văn xuôi hư cấu đương thời. *** Tài xế! Tài xế đâu? Theo liền tiếng ông huyện Bỉnh gọi, tiếng “dạ” ran từ công đường vào tới nhà trong. Rồi một anh lính lệ thét lớn nhắc lại lời quan: - Bác tài! Bác tài đâu lên quan truyền! Một người từ vòm trại cơ đâm bổ ra, mắt như còn ngái ngủ, vừa chạy vừa cài vội khuy chiếc áo lương mới. Bỉnh đã đứng chờ ở bậc gạch xuống sân: - Tài xế! Đánh xe ra ga Hà Nội đón ông Hai, ông Ba. - Dạ. - Hai ông ở Nam lên chuyến hai giờ. Phải đi ngay mới kịp. Bây giơ mấy giờ rồi? Bỉnh móc túi lấy đồng hồ ra xem: - Năm giờ kém hai mươi. Từ đây ra Hà Nội chỉ độ nửa giờ là cùng. Còn kịp đấy. - Dạ. - Lúc về nhớ rẽ qua phố Hàng Buồm mua vài cân lẽ, vài cân cam với lại vài cân táo. - Dạ. - Bây, cầm lấy năm đồng. ... Mời các bạn đón đọc Thừa Tự của tác giả Khái Hưng.
Nhà Bác Học Mù - Lê Mai
Gián điệp là người đi thu lượm tin tức một cách bí mật khiến người bị theo dõi không biết rằng mình đang bị theo dõi. Yếu tố quan trọng của gián điệp là hoạt động bí mật vì nếu người bị theo dõi khám phá ra thì họ sẽ tìm cách thay đổi môi trường để không bị lộ mật. *** Một lần chót, Lệ Lan kiểm điểm lại mọi vật dụng và thực phẩm đựng trong một túi lớn được đan bằng sợi ni lông, rồi tắt lửa trên bếp hơi và ra khỏi phòng. Nàng khóa cửa rồi đứng nhìn đám trẻ nhỏ ngoài đường đang chạy đua ra bãi biển. Lúc đó chồng nàng là Yên Lịch vẫn mãi mê thảo luận với bác sĩ Giang Điền trong phòng khách. Đã ba tuần, Yên Lịch không ra khỏi nhà, chàng phải giam mình cả ngày lẫn đêm trong phòng nghiên cứu. Bác sĩ Giang Điền - y sĩ trưởng của Trung Tâm, đã nhiều lần thúc giục chàng nên đi hóng gió ngoài trời vài ba giờ. Mãi tới hôm nay Yên Lịch mới bằng lòng đi. Lợi dụng khoảng thời gian trống trong khi chồng nàng và Giang Điền chưa chấm dứt câu chuyện, Lệ Lan trong bộ trang phục thể thao ngắn gọn, đứng soi gương coi lại cách trang điểm của mình - đó là động tác thông thường của bất kỳ thiếu phụ nào, nhất là đối với một người trẻ đẹp và duyên dáng như nàng. Lúc ấy, tiếng bác sĩ Giang Điền lọt ra khỏi phòng khách: - Tôi không cho điểm ấy là quan trọng hơn hết. Vũ trụ tuyến là vấn đề sinh tử phải giải quyết. Lớp vỏ ngoài bằng nhôm của hỏa tiễn không đủ sức chống lại vì quá mỏng. Cần phải đặt những tấm bình phong bằng thép dày 5 xăng ti mét hay hơn nữa. Yên Lịch đáp: - Không được! Như vậy hỏa tiễn sẽ trở nên quá nặng. - Dĩ nhiên! Nhưng từ độ cao 30 ki lô mét trở lên, người nào không được trang bị thật đầy đủ và kỹ càng để che chở thân thể thì sẽ chết, vì trên đó sức tấn công của vũ trụ tuyến mạnh gấp 25 lần sức chịu đựng trung bình của cơ thể. Phải sớm tìm ra một giải pháp cho vấn đề trước khi chế tạo một "hành tinh nhân tạo" chở người theo. Yên Lịch cười rộ và tiếp lời bạn bằng một giọng khôi hài: - Dạ, thưa bác sĩ! Chúng tôi còn ở giai đoạn chế tạo một "Nguyệt cầu tí hon" không đủ sức và không có chỗ để mang theo một con mèo. ... Mời các bạn đón đọc Nhà Bác Học Mù của tác giả Lê Mai.
Mối Chúa - Đãng Khấu
Thông qua cuộc tìm kiếm li kỳ nhân vật quyền lực đứng đằng sau tất cả các dự án động trời, các hợp đồng béo bở, tiểu thuyết Mối Chúa tái hiện những vấn đề nóng bỏng của xã hội đương thời: công nghiệp hóa và sự tan vỡ của nông thôn, hình ảnh những bố già quyền lực, thế lực bóng tối, lòng tham và sự bất chấp pháp luật, đạo lý, thân phận của những người nông dân thấp cổ bé họng… Những trang văn trần trụi của tác giả không khỏi mang lại cảm giác ớn lạnh và chua chát, và đặt ra câu hỏi: chúng ta có thể làm được gì? *** Kính cẩn tưởng niệm: Ba mươi năm ngày mất của Bà nội Hai mươi năm ngày mất của Mẹ Mười lăm năm ngày mất của Bố Và để kính lễ Đức Ngài linh thiêng, người luôn trở lại thế gian trong những giấc mơ của tôi. Lời tác giả cho lần xuất bản đầu tiên Từ bé tôi luôn đau khổ với cái tên Đãng của mình. Cô giáo chủ nhiệm hồi tôi học lớp năm thì bảo tôi có một cái tên khi gọi thấy đau hết cả miệng! Nó luôn bị biến thành Đăng, thành Dũng, ngay cả khi tôi đã cẩn thận đánh vần cho người gọi, người đọc, người chép nào đó từng âm tiết một, nói rõ luôn cả dấu ngã. Vậy mà có tới 99 phần trăm sau đó vẫn cứ nhầm! Nhưng nếu chỉ thế thì cũng chưa phải quá bi kịch. Tôi suýt còn gặp nạn lớn chỉ vì cái tên có âm trúc trắc đó. Tôi đã kể điều này trong một bài viết có đầu đề Nhớ lại để cười, thuật lại căn nguyên ra đời của truyện ngắn Người khác đầy tai ương. Đôi khi tôi nghĩ, đời mình khốn nạn ngay từ cái tên. Muôn sự chỉ tại bố. Bố tôi là người luôn muốn sơ lược hóa tối đa mọi chuyện. Đặt tên con, có gì mà phải cầu kỳ, khi nó chỉ như một thứ ký hiệu để gọi và phân biệt người này với người kia. Tên anh họ tôi là Vinh, ra đời trước mấy tháng, thì tên anh ruột tôi còn phải chọn đâu xa mà không là Quang (Vinh Quang), sau Quang là Đãng (Quang Đãng), quá thuận miệng và dễ nhớ. Chấm hết. Chả cần phải mang theo nghĩa bóng nghĩa gió nào cả. Nào ngờ, khi đọc bộ Lịch sử triết học Trung Quốc của Phùng Hữu Lan, tôi sướng phát điên khi thấy cái tên mình, khô khốc và khó phát âm thế, hóa ra cũng có nghĩa nếu luận theo tiếng Hán. Đãng, được Phùng Hữu Lan giải thích là trừ hại. Ô kìa, chả lẽ chó ngáp phải ruồi là chuyện có thật! Một cái tên đặt cốt cho có, hoàn toàn ngẫu hứng dựa theo một cái tên khác, lại mang một ý nghĩa không đến nỗi nào. Từ đó tôi cứ thấy âm ỉ một thứ khoái cảm rất trẻ con. Nhưng phải mới đây, nhờ Cục xuất bản in và Phát hành, tôi mới nhận ra giá trị hiển nhiên của cái tên bố đặt cho, gọi là tên cúng cơm. Cục nhắc Nhà xuất bản bằng một công văn có số má đàng hoàng [1], yêu cầu Nhà xuất bản nghiêm khắc nhắc tôi không được tiếp tục dùng cái tên Tạ Duy Anh khi ký biên tập, mà nhất định phải là Tạ Viết Đãng, như ghi trong chứng chỉ hành nghề. Đã là luật thì không có chuyện du di, chiếu cố. Vốn cũng là người thượng tôn pháp luật có phần còn thái quá, bản tính lại nhát, tôi răm rắp chấp hành mà không dám có ý kiến gì. Thế là bạn bè bắt buộc phải làm quen với cái tên Đãng bị chính tôi biến thành ra lạ hoắc với cuộc đời chả ra gì của mình. Để chuộc lỗi bất kính với cụ thân sinh, đồng thời cho bạn bè thấy, rằng cái tên Đãng cũng xứng đáng là cái tên đặt cho người, chứ không chỉ là một ký hiệu vô hồn, tôi quyết định lấy tên cúng cơm của mình, ghép thêm chữ Khấu, thành Đãng Khấu, làm tên tác giả cho lần in đầu tiên của cuốn sách này, vốn được viết để tưởng niệm ông bà hai bên, bố và mẹ, gọi là báo đáp công sinh thành, dưỡng dục, che chở, phù trợ của các cụ. Ngoài chút tình riêng ấy, chẳng vì bất cứ điều gì khác. Nay xin kính báo bạn đọc xa gần và mong mọi người rộng lòng thứ lỗi cho sự rắc rối không do cố ý này. Hà Nội tháng 3 năm 2017 Đãng (Tạ Duy Anh) [1] Công văn số 102/CXBIPH-QLXB ngày 19 tháng 02 năm 2016. Mời các bạn đón đọc Mối Chúa của tác giả Đãng Khấu.
Lệ Dung - Nguyễn Công Hoan
Độc giả thân mến. Nhắc đến Nguyễn Công Hoan, chắc Quý Vị không còn xa lạ gì nhà văn ấy. Trong thời tiền chiến, ai mà chẳng đọc qua các quyển: Tắt lửa lòng, Bước đường cùng, Tấm lòng vàng, Cô giáo Minh, Trên đường sự nghiệp, Lệ Dung, Nợ nần, Bơ vơ, v. v... Hơn nữa, một số tác phẩm của ông đã được và Đoàn Kịch nghệ nổi tiếng thời ấy phóng tác thành tuồng cải lương, lưu diễn từ Nam chí Bắc và được đồng bào các giới tán thưởng nồng nhiệt! Ông sáng tác đủ mọi chiều hướng: Trữ tình, Xã hội, Tranh đấu, Giáo dục,... nhưng có một điểm nổi bật hơn hết là mỗi tác phẩm của ông đều mang một sắc thái đặc biệt... đánh dấu một bước tiến mới cho bộ môn tiểu thuyết thời ấy. Nhưng, từ 20 năm qua... những tác phẩm của ông hầu hết bị thất lạc, bị mai một vì nạn Đất Nước qua phân! ... cho đến bây giờ, một số tác phẩm của ông đã được tuyển chọn làm Tài liệu Tham khao Văn chương cho Chương trình Đại học Văn khoa. Vì vậy, để giúp cho các sinh viên Đại học có đầy đủ tài liệu tham khảo cũng như sưu tập và bồi dưỡng lại những áng văn hay của nền văn học nước nhà, chúng tôi cho tái bản một số tác phẩm chọn lọc của ông. Ngoài ra, nhắc và nói đến ông, chúng tôi không vì mục đích chính trị hay một tham vọng nào khác. Ở đây, chúng tôi chỉ nhắc và nói đến ông: con người Nguyễn Công Hoan của thời xa xưa chứ hiện tại, ông là một nhà văn đang phục vụ cho chính quyền Miền Bắc thì, dù muốn dù không, ngòi bút của ông cũng không thể phục vụ thiết thực và hữu ích cho nền văn học hiện đại. Và, sống dưới chế độ đảng trị, với lối suy tưởng một chiều, chúng ta không tin rằng ông sẽ sáng tác được những tác phẩm tương đối có một tầm giá trị sâu rộng; và được quần chúng ưa chuộng như những tác phẩm mà ông đã sáng tác trong thời Tiền chiến. Saigon, ngày 1 tháng 4 năm 1967. *** Tiểu thuyết xoay quanh bốn số phận khác nhau, đáng thương và đáng trân trọng. Lệ Dung trong truyện cùng tên, là cô con gái xinh đẹp, may mắn sống trong sự giáo dục chu đáo của gia đình và nền học vấn tiến bộ. Cô có một tình yêu đằm thắm với người bạn học Liêm Khê. Nhưng đến ngày cưới thì Liêm Khê bị bắt, để lại Lệ Dung với nỗi buồn đau tuyệt vọng, không tin tức. *** Hai năm sau. Vào ngày cuối tháng Một, nhà ông Tú có một quang cảnh vui vẻ, ngày vu quy của Lệ Dung. Nàng kết hôn với Hải Ngọc. Từ ngày Hải Ngọc chữa cho ông Tú khỏi bệnh thương hàn, thì chàng đi lại nhà ông thân mật hơn trước. Có một lần, ông đã về chơi quê chàng. Ông Tú quý chàng và yêu chàng, nên coi chàng như người nhà. Lại thấy chàng cũng là con nhà nho, nên có lần ông nói chuyện riêng với bà rằng: - Giá anh ta hỏi con Lệ Dung, thì dù con bé không bằng lòng, tôi cũng ép. Nhưng ông không phải ép tí nào. Vì chính Lệ Dung cũng đã hiến trái tim cho chàng từ lâu. Hai người tha thiết yêu nhau trong ngót một năm, yêu nhau bẳng tấm tình của người lớn, và cùng hẹn nhau là khi nào tòa báo có cơ sở vững vàng, hãy làm lễ thành hôn. Thì đến nay, Hải Ngọc đã trở nên một kiện tướng ... Mời các bạn đón đọc  Lệ Dung của tác giả Nguyễn Công Hoan.