Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôn Ngữ và Ý Thức

Đây là bản in lần thứ ba được chờ đợi từ lâu về tuyển tập các bài viết của Chomsky về ngôn ngữ và ý thức. Sáu chương đầu, được công bố vào những năm 1960, tạo nền tảng cho lí thuyết ngôn ngữ. Lần in mới này bổ sung vào một chương nữa và một lời tựa mới, đưa cách tiếp cận có ảnh hưởng của Chomsky vào thế kỷ mới. Chương 1 - 6 trình bày công trình của Chomsky về bản chất và thụ đắc ngôn ngữ như là một hệ thống sinh học được thiên phú về di truyền (ngữ pháp phổ niệm), thông qua các quy tắc và nguyên tắc của nó chúng ta thụ đắc kiến thức nội hiện (I-language). Hơn 50 năm qua, khung lí thuyết này đã châm ngòi cho sự bùng nổ và nghiên cứu trong một phạm vị rộng lớn các ngôn ngữ, và đã thu được những vấn đề lí thuyết quan trọng. Chương cuối cùng trở lại những vấn đề chủ chốt, tổng quan lại cách tiếp cận "ngôn ngữ học sinh học" đã dẫn đường cho công trình của Chomsky từ những khởi nguồn của nó cho đến nay, đưa ra một số thách thức mới gây phấn khích cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức. NOAM CHOMSKY là Giáo sư Ngôn ngữ học ở Viện Công nghệ Massachusetts. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách : Những chân trời mới trong nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức (New Horizons in the Studies of Language and Minds) (Cambridge University Press, 2000) và Về tự nhiên và ngôn ngữ (On Nature and Language) (Cambridge University Press, 2002).   Noam Chomsky được The New York Times bình chọn là tri thức gia quan trọng nhất hiện đang còn sống. Ông đã mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới về ngôn ngữ và theo ông, ngôn ngữ chính là một chiếc chìa khóa để mở ra cánh cửa đi tới bản chất con người. Ông không chỉ là một nhà ngôn ngữ học mà còn là một nhà phê bình chính trị, sử gia, triết gia đồng thời dấn thân vào hoạt động xã hội một cách chừng mực. Bài phỏng vấn dưới đây được thực hiện bởi Wiktor Osiatynski vào năm 1984 về chủ đề Ngôn ngữ và Văn hóa. BookHunter xin giới thiệu với bạn đọc để chúng ta hiểu rõ thêm góc nhìn của Noam Chomsky về bản chất con người thông qua ngôn ngữ học.   *** Hỏi:  Ngài đưa ra một cách tiếp cận nhân học đối với ngôn ngữ.  Ngài cho rằng ngôn ngữ có thể góp phần giải mã các vẫn đề mang tính triết học trong tự nhiên lẫn văn hóa của nhân loại? Chomsky: Tôi cảm thấy là sự tồn tại của loài người hay bất kỳ sinh vật phức tạp nào đều có một hệ thống các cấu trúc nhận thức, thứ phát triển theo theo sự phát triển về mặt thể chất. Nó thuộc về đặc điểm cơ bản  bẩm sinh của chúng; hình thái sơ khai này được định hình bằng cấu trúc gen di truyền. Tất nhiên, chúng phát triển dưới những điều kiện môi trường riêng biệt, giả sử như một hình thái đặc trưng nhường chỗ cho một vài sự thay đổi. Phần lớn cái phân biệt giữa loài người với nhau là cách cư xử riêng rẽ mà trong đó phát triển hàng loạt các cấu trúc nhận thức được chia sẻ. Có lẽ phần rắc rối nhất trong những cấu trúc này là ngôn ngữ. Trong nghiên cứu ngôn ngữ, chúng ta có thể khám phá ra rất nhiều thuộc tính cơ bản của cấu trúc nhận thức này, cơ cấu tổ chức, và cả các tố bẩm di truyền – nền tảng cho sự phát triển của nó. Vậy nên về điểm này, ngôn ngữ học, trước nhất, đang cố gắng mô tả nét đặc trưng chính trong tổ chức nhận thức của con người. Và điều thứ hai, tôi nghĩ nó có thể cung cấp một hình mẫu có tính gợi ý cho việc nghiên cứu các hệ thống nhận thức khác. Đồng thời ghi nhập những hệ thống này là một khía cạnh tự nhiên của con người. Hỏi: Ngôn ngữ, sau đó, là chìa khóa cho bản chất của loài người? Chomsky: Tư tưởng khoa học phương Tây từ vài thế kỷ trước cho đến giờ có khuynh hướng giả sử rằng bản chất tự nhiên của con người bị giới hạn ở cấu trúc vật lý có thể nhìn thấy ngay tức thì của cơ thể. Và  đối với những khía cạnh khác của bản chất con người, cụ thể là cử chỉ, lại không hề có các cấu trúc được xác định nhờ di truyền nào có thể so sánh được về bản chất phức tạp với các tổ chức vật lý có thể nhìn thấy được trực tiếp bên trong cơ thể. Vì vậy, cấu trúc vật lý của con người và cấu trúc trí năng nói chung được nghiên cứu theo những phương pháp khác nhau. Gỉa định rằng các cấu trúc vật lý đó được di truyền và các cấu trúc trí năng được học. Tôi cho rằng giả định đó không chính xác. Không cấu trúc nào trong số đó học được cả. Tất cả chúng phát triển; chúng phát triển theo cách so sánh; các hình thái sau chót của chúng phụ thuộc nhiều vào các tố bẩm sinh di truyền. Nếu chúng ta hiểu được, nhưng chúng ta không làm được vậy, cơ sở vật chất của những cấu trúc này, tôi có hơi ngờ vực rằng chúng ta hẳn sẽ tìm thấy trong não bộ các cấu trúc tương tác xã hội, ngôn ngữ hoặc phân tích độc lập – sự nguyên vẹn của các hệ thống đã phát triển dựa trên nền tảng của một khả năng sinh học đặc biệt. Hỏi: Ý ngài là toàn bộ hành vi của chúng ta đều do bẩm sinh mà có, được xác định bằng di truyền? Chomsky: Không, nhưng các cấu trúc cơ bản cấu thành lên hành vi của chúng ta là bẩm sinh. Những chi tiết đặc trưng trong cách chúng phát triển sẽ phụ thuộc vào tương tác với môi trường. Hỏi: Giả sử ngôn ngữ học có thể mô tả một cấu trúc như vậy, liệu có thể áp dụng những điều khám phá được cho toàn bộ các hoạt động trí não của chúng ta? Chúng ta chỉ suy nghĩ trong ngôn ngữ? Hay cũng tồn tại những thể thức phi ngôn ngữ của suy nghĩ? Chomsky: Việc phân tích các cấu trúc ngôn ngữ có thể giúp hiểu về các cấu trúc trí năng khác. Hiện nay, tôi không nghĩ có bất cứ bằng chứng khoa học nào cho câu hỏi rằng chúng ta chỉ suy nghĩ thông qua ngôn ngữ hay không. Tuy nhiên, tự xem xét từ bản thân thì cũng đã chỉ ra khá rõ ràng rằng chúng ta không cần thiết suy nghĩ thông qua ngôn ngữ. Chúng ta cũng có thể suy nghĩ qua các hình ảnh nhìn thấy được, chúng ta suy nghĩ trong các tình huống cũng như các sự kiện, và nhiều nữa, nhiều trường hợp chúng ta không thể thể hiện được bằng từ ngữ cái chúng ta đang nghĩ trong đầu. Cho dù là chúng ta có khả năng thể hiện nó bằng từ ngữ, người ta nói về thứ gì đó theo thói quen thường thấy và sau đó nhận ra rằng nó không diễn đạt được ý của mình, nó là một cái gì đó khác. Điều này có nghĩa là gì? Là có một dạng suy nghĩ phi ngôn ngữ đang diễn ra mà ở đó chúng ta cố trình bày bằng ngôn ngữ, để rồi đôi lúc chúng ta biết mình thất bại. Hỏi: Tôi đã có lần đọc được là chúng ta suy nghĩ bằng ngôn ngữ nhưng lại “cảm thấy” nó phi ngôn ngữ. Chomsky: Tôi biết điều đó không đúng với bản thân tôi, ít nhất nếu “ngôn ngữ” (trong trường hợp của tôi) quy vào tiếng Anh, và tôi giả sử rằng nó sai đối với những người khác. Tôi không nghĩ bạn sẽ gặp khó khăn gì để quyết định rằng bạn đang nghĩ về vài sự kiện rồi sau đó mường tượng nó xảy ra kèm với các hệ quả, và  phân tích sáng suốt mà không thể phát biểu thành lời thật đầy đủ sự phức tạp của nó. Hỏi: Ngài dùng cụm “phân tích sáng suốt.” Ngài tin rằng tất cả suy nghĩ của chúng ta đều sáng suốt và tuyến tính? Chomsky: Tôi không nghĩ tất cả suy tư đều là một dạng cấu trúc sáng suốt. Nhưng tôi cũng không cho rằng nó đúng để định hình sự  phân định sáng suốt – không sáng suốt với phân định ngôn ngữ – phi ngôn ngữ. Hỏi: Vậy ngôn ngữ có thể không sáng suốt? Chomsky: Đúng thế; vì vậy đó là hai chiều không tương quan với nhau. Đúng là ngôn ngữ ở trong một tuyến tính ý thức tuy nhiên điều đó cũng rõ ràng như không gian nhận thức là ba chiều. Hỏi: Như tôi hiểu thì ngôn ngữ có một nền tảng sinh học bẩm sinh. Công dụng của nó, tất nhiên, là tính xã hội. Ngài nghĩ các chức năng xã hội của ngôn ngữ là gì? Trước nhất có phải là phương tiện giao tiếp? Chomsky: Tôi nghĩ một khía cạnh rất quan trọng mà ngôn ngữ phải làm được là thiết lập các mối quan hệ xã hội và tương tác. Thường thì điều này được miêu tả như là giao tiếp. Nhưng tôi nghĩ, như thế rất sai lầm. Có một tầng hẹp của việc sử dụng ngôn ngữ  mà ở đó bạn dự định giao tiếp. Sự giao tiếp dẫn đến cố gắng đưa người ta vào cùng một ý hiểu giống nhau. Và điều đó, chắc chắn, là một cách sử dụng ngôn ngữ đang được dùng trong xã hội. Tuy vậy, tôi không nghĩ chỉ có xã hội sử dụng ngôn ngữ. Cũng như ngôn ngữ chỉ được dùng có vậy trong xã hội. Ví dụ, ngôn ngữ có thể dùng để bộc lộ hoặc tường minh những suy nghĩ của một người ít quan tâm đến xã hội, nếu có. Tôi nghĩ sử dụng ngôn ngữ bằng cách nào đó mang ý nghĩa rất quan trọng với các loài, bởi thiên tính sinh học của nó, tạo ra một loại không gian xã hội, để đặt chính nó vào những mối tương tác với những người khác. Nó không có tác dụng với sự giao tiếp ở trong một cảm quan chật hẹp; đó là, nó không tham gia vào sự truyền giao thông tin. Có nhiều thông tin được truyền giao nhưng lại không phải là truyền giao nội dung được nhắc tới. Rõ ràng không phải tranh cãi nhiều để biết về những cách sử dụng ngôn ngữ trong xã hội, để giao tiếp hoặc cho những mục đích khác. Nhưng ở hiện tại, không có gì nhiều trong cách nghiên cứu một giả thiết ngôn ngữ học, về giao sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội, theo như tôi biết. Hỏi: Điều gì, sau đó, trong lĩnh vực ngôn ngữ học, là thành tựu vĩ đại nhất? Chomsky: Tôi nghĩ công việc quan trọng nhất vẫn đang tiến hành là nghiên cứu các đặc trưng chung cũng như trừu tượng về cái mà đôi lúc được gọi là ngữ pháp phổ quát: những đặc tính chung của ngôn ngữ phản ánh một dạng nhu cầu sinh học hơn là nhu cầu logic; có nghĩa rằng, các đặc tính đó không cần thiết logic khi đặt trong một hệ thống nhưng ngôn ngữ của loài người lại cần phải có các đặc tính bất biến và được biết đến mà không cần đến sự học. Chúng ta biết những đặc tính này nhưng chúng ta không học chúng. Chúng ta chỉ đơn giản là dùng tri thức tự có của bản thân làm nền tảng cho sự học. Hỏi: Chúng ta di truyền tri thức này? Chomsky: Đúng, chúng ta được di truyền. Thực tế, thông qua ngữ pháp phổ quát, tôi có ý rằng hệ thống các quy tắc và cấu trúc là những điều kiện tiên quyết cho sự tiếp thu của ngôn ngữ, và để mọi ngôn ngữ nhất thiết đều tương thích. Hỏi: Thế có nghĩa là nền tảng di truyền của ngôn ngữ là phổ quát? Chomsky: Đúng thế. Nhưng chúng ta chỉ là một giống loài. Bạn có thể tưởng tượng ra một thế giới khác mà ở đó có một số lượng các loài sinh vật đã phát triển với các hệ thống ngôn ngữ được xác định theo di truyền. Không xảy ra tiến hóa. Cái đã xảy ra là một loài phát triển, và cấu trúc di truyền của loài này tham gia vào sự đa dạng của các quy phạm trừu tượng rắc rối trong tổ chức ngôn ngữ đó, do vậy, cần phải hạn chế mọi ngôn ngữ, và, thực tế, tạo ra nền tảng học ngôn ngữ như  một cách trải nghiệm vẫn hơn là dùng việc học từ kinh nghiệm để cấu thành điều gì đó. Hỏi: Vậy tri thức này cũng sẽ giúp ích cho việc hiểu về thiên tính của con người? Chomsky: Đúng thế, theo hai hướng. Thứ nhất, tự thân nó là một phần của việc nghiên cứu trí tuệ con người, có lẽ là khía cạnh cốt lõi của thiên tính con người. Và thứ hai, tôi nghĩ, nó là khuôn mẫu tốt cho việc nghiên cứu những đặc trưng khác của con người, cái nên được các chuyên gia tâm lý xem xét theo phương pháp tương tự. Hỏi:  Ý của ngài là ngôn ngữ học đem lại lợi ích cho ngành tâm lý? Ngài có thể giải thích rõ hơn không? Chomsky: Một thứ mà cả tôi và bạn đều biết là ngôn ngữ. Cái khác chúng ta cũng biết là cách các khác thể hành xử trong không gian cảm quan. Chúng ta có nguyên cả đống các cách hiểu phức tạp về bản chất của không gian thị giác. Phần nào của tâm lý học, và trong vài năm gần đây nữa, nên cố gắng  tìm hiểu các quy tắc về cách chúng ta tổ chức không gian thị giác. Tôi sẽ nói rằng sự tương đồng này chính xác trong mọi phạm vi của ngôn ngữ học lẫn nhân học. Ví dụ thế này, để hiểu cách con người tổ chức các hệ thống xã hội, chúng ta phải tìm hiểu về những nguyên tắc mà chúng ta đặt ra để khiến một vài tầng lớp xã hội hiểu được. Hỏi: Tôi hiểu là chúng ta đã có thể có một dạng ngữ pháp phổ quát của các hình thái phi ngôn ngữ trong hành vi ứng xử của con người . Nhưng nếu thế, như ngài nói, hành vi của chúng ta và ngôn ngữ đều bị định hình bởi các quy tắc chúng, tại sao và trên toàn thế giới thì chúng khác nhau nhiều chứ? Chomsky: Tôi không nghĩ chúng khác nhau nhiều lắm. Tôi cho rằng cũng như sự tồn tại của con người, một cách khá tự nhiên chúng ta chứ cho rằng cái gì nằm trong sự tồn tại đó cũng đều giống nhau, và, sau đó, chúng ta chú ý đến cái gì khác biệt với mình. Điều đó tạo ra cảm giác hoàn hảo đối với sự tồn tại của chúng ta. Tôi cho là những con ếch không chú ý đến sự tồn tại của chúng. Chúng quan tâm đến cái khác. Điều một con ếch quan tâm là những khác biệt trong giống loài của mình. Từ góc nhìn của chúng ta, chúng giống nhau nhiều hoặc ít, còn từ góc nhìn của chúng thì tất cả hoàn toàn khác. Tương tự vậy. Với mình, tất cả chúng ta rất khác biệt, ngôn ngữ của chúng ta khác nhau, và xã hội của chúng ta cũng thế. Nhưng nếu chúng ta có thể tự rút ra từ góc nhìn của mình và phần nào nhìn cuộc đời con người theo cách một nhà sinh vật học xem xét các loài sinh vật khác, tôi nghĩ chúng ta có thể nhìn nó theo cách khác đi. Hãy tưởng tượng một người quan sát công tâm đang xem xét chúng ta. Người này sẽ được đánh giá chính xác thông qua tính chất đồng nhất của các ngôn ngữ của con người, qua sự thay đổi nhỏ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, và bằng cách lưu ý tới những điểm giống nhau trong tất cả các ngôn ngữ. Tiếp đến, anh ta sẽ để ý rằng chúng ta không tập trung lắm vào điều đó bởi mục đích của cuộc đời con người là hết sức tự nhiên và chỉ cho rằng mọi thứ đều là bình thường.  Chúng ta không quan tâm đến chính mình, tất cả chúng ta lại lo lắng về những điều khác biệt. Hỏi: Người quan sát khách quan này sẽ có cùng cách nghĩ về các biểu tượng, ý tưởng, nhu cầu và giá trị của chúng ta chứ? Chomsky: Tuyệt đối là vậy, tôi nghĩ thông qua sự đồng nhất giữa các tầng lớp của xã hội loài người trong mọi khía cạnh, anh ta sẽ bị thu hút. Hãy tưởng tượng một lần nữa, anh ta vẫn đang nhìn chúng ta mà không có bất kỳ định kiến nào. Tôi cho là anh sẽ lại chú ý đến thực tế, mặc dù sự tồn tại của con người có khả năng phát triển tri thức khoa học, nó hẳn là khả năng bị giới hạn bởi được thực hiện trong những phạm vi nhỏ hẹp và đặc biệt. Có những lĩnh vực to lớn, nơi suy nghĩ của con người dường như là không có khả năng được khoa học định hình, hoặc ít nhất là vẫn chưa làm được. Lại có những lĩnh vực khác – rất khác nữa, trong thực tế, một lĩnh vực duy nhất  –  mà ở đó chúng ta đã và đang chứng minh khả năng cho sự phát triển đúng đắn của khoa học. Hỏi: Các lĩnh vực vật lý chăng? Chomsky: Các lĩnh vực vật lý và những phần thuộc các lĩnh vực mở rộng của vật lý – hóa học, cấu trúc đại phân tử – đều nằm trong đó, có tiến bộ đáng kể. Ở nhiều lĩnh vực khác thì sự phát triển tri thức khoa học thực tế rất ít. Hỏi: Không phải là do con người muốn tập kiểm soát thế giới vật lý đấy chứ? Chomsky: Tôi không nghĩ thế. Ý tôi là nó hầu như phản ánh điều gì đó rất đặc biệt về đặc tính tư duy của chúng ta. Không có sức ép tiến hóa nào tạo ra được cho tư dụy khả năng định hình khoa học; nó chỉ xảy đến. Sức ép tiến hóa không giúp tăng khả năng giải quyết các vấn đề hay hình thành các ý tưởng khoa học mới mẻ. Vì thế, trong thực tế, các khả năng định hình khoa học được thể hiện vì những lý do khác, sẽ không quá ngạc nhiên nếu các cấu trúc khác thường đó phát triển và được chứng minh rằng đặt chúng đặc biệt hơn khi đặt trong tính bẩm sinh, nó cho thấy những ngẫu nhiên trong tiến hóa hoặc cách vận hành của quy luật vật lý. Hỏi: Ý ngài là chúng ta có thể, nhờ vào ưu điểm mà nguồn gốc ngẫu nhiên của khoa học này đem lại, có khả năng phát triểu một vài quy luật khoa học và không có khả năng khác? Đồng thời chúng ta cũng không ý thức được điều đó? Chomsky: Đúng vậy, giống cách chúng ta không ý thức về sự tồn tại của loài người, bởi chúng mặc nhiên cho rằng các cấu trúc tinh thần của bản thân là phổ quát. Tuy nhiên, tôi tin rằng một nhà sinh vật học nhìn từ ngoài vào sẽ thấy rất khác. Anh ta sẽ thấy, giống như cách xem xét các loài khác, chúng ta có một khoảng hẹp mà ở trong đó chúng ta vẫn tốt đẹp, nhưng nơi ấy cũng bị giới hạn. Và rằng, thực ra, những thành tựu chúng ta có thể có trong ấy lại gây ra sự thiếu thốn ở nhiều chỗ khác. Điều kiện để xây dựng một học thuyết khoa học từ dữ liệu và có thể nhận ra rằng nó là học thuyết hợp lý, là cần có một số nguyên tắc giới hạn rõ ràng, thứ dẫn dắt bạn đi theo hướng nhất định cũng như ngăn bạn lạc sang hướng khác. Nếu không thì bạn sẽ chẳng có khoa học gì sất, chỉ đơn thuần chọn một giả thiết ngẫu nhiên nào đó. Rồi tiếp đến, những thiên tài có thể có nhiều cơ hội không bị giới hạn để phát triển theo một hướng, nhưng đồng thời thiên tài cũng sẽ không đi theo hướng khác được. Và hai điều cân nhắc đó có liên quan đến nhau. Rất nhiều đặc tính của tư duy con người đem đến một cơ hội lớn cho thiên tài trong vài lĩnh vực sẽ trở thành chướng ngại vật cho sự phát triển của những lĩnh vực khác, chính xác thì những đặt tính bộc lộ ở mỗi đứa trẻ nhằm cho phép có được một ngôn ngữ phức tạp và ngăn việc thu nhập các hệ thống ngôn ngữ tưởng tượng khác. Hỏi: Ngài nghĩ những lĩnh vực nào sẽ trở lên lạc hậu nhất và bị sao nhãng? Chomsky: Tôi nghĩ về cơ bản thì chũng ta chẳng có gì trong lĩnh vực ứng xử con người. Có thể đó chỉ là tình cảnh bỏ bê tạm thời. Nhưng cũng có thể là chúng ta chỉ đơn giản là không được trang bị theo cách thông minh để phát triển một học thuyết như vậy. Hỏi: Ý ngài là chúng ta không chỉ không có công cụ để phát triển một học thuyết như vậy mà còn không có khả năng tạo ra công cụ cần thiết? Chomsky: Đúng rồi, những công cụ thông minh. Tư duy của chúng ta đặc biệt phù hợp với việc phát triển các học thuyết cố định, và chúng ta có một ngành khoa học nếu các học thuyết tồn tại trong tư duy của mình diễn ra theo hướng gần với sự thật. À, không có lý do đặc biệt nào để tin rằng sự giao cắt giữa những học thuyết đúng đắn với các học thuyết, thứ dễ dàng đạt được trong tư duy, là có quy mô. Nó có thể không quá lớn. Hỏi: Ít nhất chúng ta có thể biết nó rộng đến thế nào chứ? Chomsky: Đó là một câu hỏi thuộc về sinh học, mối tương giao ấy to lớn ra sao. Và nếu con người được cấu thành giống như mọi loài thì chúng ta nên trông chờ, rằng có một vài lĩnh vực mà sự tiến bộ của khoa học là khả thi, còn những cái khác thì không. Người dịch: Leica Green Mời các bạn đón đọc Ngôn Ngữ và Ý Thức của tác giả Noam Chomsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc
Cuốn sách này tất tần tật là về bạn. Nó viết về các cảm nhận của bạn, thái độ của bạn và về việc bạn giữ một cái nhìn tích cực trong cuộc sống. Bạn có muốn cuộc sống của mình cân bằng hơn với một tinh thần tự tin hơn, hạnh phúc hơn và thú vị hơn? Bạn có muốn có nhiều nghị lực và sự nhiệt tình hơn mà vẫn giữ được sự bình an bên trong? Nếu bạn muốn mạnh mẽ hơn và chủ động hơn để có thể làm được tốt hơn ở bất kỳ khía cạnh nào mà bạn chọn trong cuộc sống của mình, không vướng phải các cảm xúc tiêu cực… cuốn sách này là dành cho bạn. Nếu bạn thật sự muốn thay đổi, bạn hoàn toàn có thể! Bằng cách phát triển khả năng kiểm soát cảm xúc tốt hơn và thoát khỏi những cảm xúc không lành mạnh trói buộc bạn, bạn có thể học cách tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ đến nỗi nó có thể thay đổi cuộc đời bạn trở nên tốt đẹp hơn theo nghĩa đen. Bằng cách trở nên lành mạnh hơn về cảm xúc bạn sẽ hạnh phúc hơn, hài lòng hơn, và có thể vun đắp những mối quan hệ lành mạnh lâu dài được tốt hơn. Cảm xúc khống chế tất cả! Bất kể bạn đang làm gì, nếu bạn rơi vào một cơn hoảng loạn, tức giận không kiềm chế được hay chìm vào hố sâu trầm cảm – thì các cảm xúc của bạn sẽ thắng – các cảm xúc của bạn sẽ thống trị. Nếu bạn tự hỏi điều gì là quan trọng hơn, điều bạn biết hay điều bạn cảm thấy – bạn hiểu rằng điều bạn biết sẽ không còn quan trọng nữa nếu bạn cảm thấy tệ. Cũng như với sức khỏe thể chất, nếu bạn không có một cảm xúc tích cực mạnh mẽ và ổn định, thì chất lượng cuộc sống của bạn sẽ giảm đáng kể. *** Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc chỉ rõ “bẫy cảm xúc” sẽ được hình thành do 3 tư duy cơ bản khiến bạn đau khổ: Nài ép, Phóng đại tiêu cực, Định giá giá trị bản thân Từ đó sẽ sinh ra 3 loại cảm xúc tiêu cực – bẫy cảm xúc, sinh ra vô số những bẫy cảm xúc khác: Trầm cảm, Lo âu/Lo lắng, Tức giận Và tác giả cũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của cảm xúc là gì? Cảm xúc hình thành như thế nào? Và mỗi người có thể làm gì để cân bằng cảm xúc của chính mình? Bản chất của cảm xúc là gì? Bẫy cảm xúc khiến chúng ta mặc định những cảm xúc tiêu cực như: Lo âu, tức giận, trầm cảm. giống như một thói quen mặc nhiên của bản thân. Dần dần chúng ta chấp nhận nó và để nó trở thành bạn đồng hành trong cuộc đời. Đó là một cái bẫy mà nếu biết cách bạn có thể tự thoát được. Cảm xúc hình thành như thế nào? “Tôn trọng bản thân khác với sự ích kỷ ở chỗ, sự tôn trọng bản thân thể hiện những gì bạn nghĩ, cảm nhận và cư xử theo những cách giúp bạn thực hiện được mục tiêu của mình mà không nhất thiết gây trở ngại cho người khác.” Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc chỉ ra rằng chỉ có “yêu thương bản thân vô điều kiện”. Đó mới là nguồn cội của một trạng thái tinh thần lành mạnh trong bất cứ ai. Ba giai đoạn hình thành cảm xúc: Giai đoạn 1: Sự kiện châm ngòi Giai đoạn 2: Hệ thống niềm tin, gồm có cả ý nghĩ tích cực và tiêu cực Giai đoạn 3: Hiệu ứng cảm xúc, tra lại hệ thống niềm tin. Nếu ý nghĩ của bạn logic và hợp lý sẽ hình thành cảm xúc tích cực. Và khi ý nghĩ của bạn trở nên phi lý, sẽ hình thành cảm xúc tiêu cực trong bạn. Các bước kiểm soát cảm xúc quan trọng – Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc Kiểm soát cảm xúc dù là tích cực hay tiêu cực sẽ giúp cuộc sống của bạn trở nên thú vị hơn rất nhiều. Vậy thì hãy tập luyện những bước dưới đây đều đặn mỗi ngày để chứng kiến kết quả kỳ diệu nhé! Bước 1: Ý thức hơn về suy nghĩ của bản thân bạn. Khi bạn để ý chúng thật kỹ, bạn sẽ tìm thấy một số chỗ phi lý, và đó chính xác là nguyên nhân khiến bạn đau khổ. Bước 2: Tìm hiểu xem những ý nghĩ nào khiến bạn đau khổ. Bước 3: Tranh luận và từ chối tin theo các suy luận phí lý. Bước 4: Làm theo các niềm tin lành mạnh, có lý trí và thực tế hơn. Bước 5: Hành xử theo những niềm tin mới có lý trí này. Bước 6: Dành thời gian thực hành theo cường độ và tần suất nhất định. Phần đặc biệt – Làm thế nào để bớt đi những cảm xúc tiêu cực? Sau tất cả những chuẩn bị bên trên, tác giả Daniel Rutley sẽ bắt đầu phân tích, chỉ dẫn cụ thể. Đó là những giải pháp để khống chế, hạn chế, loại trừ cảm xúc tiêu cực. Một thứ cảm xúc tệ hại, độc hại đang chiếm ngự trong tấm trí của hàng triệu người. Daniel Rutley Psy.D. là một nhà tâm lý trị liệu lâm sàng trong thực hành tư nhân ở Mississippi. Ông cũng là tác giả bán chạy nhất của cuốn sách Thoát khỏi bẫy cảm xúc và nhiều cuốn sách khác. “Học cách kiểm soát cảm xúc của bạn để có thể chọn một chuỗi đầy đủ những cảm xúc lành mạnh. Bạn có thể chọn sôi nổi hay trầm ngâm, ngây ngất và hào hứng hay bình tĩnh và thanh thản. Đúng vậy, bạn thật sự có thể lựa chọn các cảm nhận của mình.” *** “CUỐN SÁCH NÀY LÀ VỀ BẠN!” Cuốn sách này tất tần tật là về bạn. Nó viết về các cảm nhận của bạn, thái độ của bạn và về việc bạn giữ một cái nhìn tích cực trong cuộc sống. Bạn có muốn cuộc sống của mình cân bằng hơn với một tinh thần tự tin hơn, hạnh phúc hơn và thú vị hơn? Bạn có muốn có nhiều nghị lực và sự nhiệt tình hơn mà vẫn giữ được sự bình an bên trong? Nếu bạn muốn mạnh mẽ hơn và chủ động hơn để có thể làm được tốt hơn ở bất kỳ khía cạnh nào mà bạn chọn trong cuộc sống của mình, không vướng phải các cảm xúc tiêu cực... cuốn sách này là dành cho bạn. Nếu bạn thật sự muốn thay đổi, bạn hoàn toàn có thể! Bằng cách phát triển khả năng kiểm soát cảm xúc tốt hơn và thoát khỏi những cảm xúc không lành mạnh trói buộc bạn, bạn có thể học cách tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ đến nỗi nó có thể thay đổi cuộc đời bạn trở nên tốt đẹp hơn theo nghĩa đen. Bằng cách trở nên lành mạnh hơn về cảm xúc bạn sẽ hạnh phúc hơn, hài lòng hơn, và có thể vun đắp những mối quan hệ lành mạnh lâu dài được tốt hơn. Cảm xúc khống chế tất cả! Bất kể bạn đang làm gì, nếu bạn rơi vào một cơn hoảng loạn, tức giận không kiềm chế được hay chìm vào hố sâu trầm cảm - thì các cảm xúc của bạn sẽ thắng - các cảm xúc của bạn sẽ thống trị. Nếu bạn tự hỏi điều gì là quan trọng hơn, điều bạn biết hay điều bạn cảm thấy bạn hiểu rằng điều bạn biết sẽ không còn quan trọng nữa nếu bạn cảm thấy tệ. Cũng như với sức khỏe thể chất, nếu bạn không có một cảm xúc tích cực mạnh mẽ và ổn định, thì chất lượng cuộc sống của bạn sẽ giảm đáng kể. *** Kiểm soát cảm xúc và lời khuyên thiết THực Ắt hẳn bạn đã từng nghe rất nhiều lời khuyên từ các nhà trị liệu, nhà tư vấn và những người bạn tốt về phát triển đức tin của bạn, tầm quan trọng của việc dựa vào trực giác, nâng cao các kỹ năng nuôi dạy con cái hay cải thiện các mối quan hệ. Dù những lời khuyên này có giá trị và mang dụng ý tốt đến thế nào, thì hiếm khi bạn làm theo nếu khi đó tinh thần bạn đang tụt dốc. Một người bình thường thấy rằng thật khó kiểm soát cảm xúc khi họ đang lo lắng về các hóa đơn chưa thanh toán. Con người có một khả năng gần như vô hạn là tự thuyết phục mình tin vào bất cứ điều gì, vì thế một sự quá tin vào trực giác có thể gây mơ hồ nếu bạn thiếu tự tin. Những lời khuyên tốt nhất về định hướng trẻ nhỏ và mối quan hệ sẽ bay vèo qua cửa sổ nếu người kiểm soát cảm xúc kém dễ cáu giận, lo âu hay ghen tức. Khi đang đau buồn, lời khuyên thực tế nghe có lý trong các cuốn sách self-help, trên tivi và từ các nguồn đáng tin cây sẽ bị phớt lờ. Bạn đã bao giờ cho một người bạn một lời khuyên tuyệt vời chỉ để anh ta hay cô ta lờ nó đi chưa? Vấn đề với nhiều người là họ không nhận ra rằng cảm xúc của họ có tác động mạnh mẽ lên cuộc sống của họ đến thế nào. Các quyết định mà người ta đưa ra là dựa vào các trạng thái cảm xúc của mình hơn là vào bất kỳ một yếu tố đơn lẻ nào khác. Người ta thường nghĩ, “Đó là một quyết định logic” và đó là lý do vì sao họ đưa ra nó. Nhưng nếu một lựa chọn cảm giác không đúng lắm, thì đa số mọi người sẽ không chọn nó dù có hợp lý đến đâu. Lựa chọn mà hầu hết mọi người đưa ra là lựa chọn mà họ cảm thấy đúng - dù logic hay không. Đó là lý do chúng ta thường thấy nhiều người đưa ra các quyết định mà rõ ràng là không có chút logic nào và dường như hoàn toàn ngớ ngẩn. Sự khác nhau này là do chúng tanhưng các lựa chọn và quyết định của họ dưới một ánh sáng không bị chi phối bởi cảm xúc. Cảm xúc dẫn dắt và tô màu cho quá trình đưa ra quyết định của chúng ta. Điều này xảy ra một cách vô thức. Theo tiềm thức. Nằm ở lớp bên dưới mức nhận thức của chúng ta.   Mời các bạn đón đọc Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc của tác giả Daniel Rutley & Tạ Thanh Hải (dịch).
50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học
Cuốn sách 50 việc cần làm trong khi học đại học: là những lời khuyên đến từ những trải nghiệm thực tiễn của một sinh viên ngành điện ảnh Nhật Bản. Tuy nề nếp sinh hoạt, phong tục tập quán của xã hội Nhật có những đặc thù khác với xã hội Việt Nam chúng ta, nhưng vẫn có cái rất chung: Đã là sinh viên ai cũng muốn thực hiện khát vọng, ước mơ của mình, đạt nhiều thành quả trong học tập để mai này khi bước vào đời gặt hái được nhiều thành công. Vì một ngày mai tốt đẹp hơn, chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc, nhất là các bạn đọc trẻ tập sách nhiều suy tư và kinh nghiệm thực tiễn quý báu, thú vị này. *** 50 việc cần làm là bộ sách kỹ năng bán chạy ở rất nhiều nước trên thế giới. Sách tập hợp lời khuyên của tiên sinh Akihiro Ankatani về những chủ đề mà các bạn trẻ quan tâm: rèn luyện bản thân, tạo dựng sự nghiệp, kinh doanh, kết hôn. Mỗi chủ đề tác giả đưa ra đúng 50 lời khuyên, trình bày vô cùng đơn giản, khúc chiết nhưng ý tứ sâu xa. 50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20 - Akihiro Ankatani Cái gọi là môn học bắt buộc ở tuổi 20 có nghĩa là những việc mà chỉ ở tuổi 20 mới có thể làm được. Chỉ những ai ở tuổi ấy cứ bôn ba qua lại một cách uổng công vô ích đến một lúc nào đó mới mới thấm thía rằng: tuổi hai mươi là giai đoạn huy hoàng nhất trong cuộc đời mỗi người. 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học Trên đời này chỉ có 2 loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng - mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Những sinh viên có hoài bão phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy cơ hội khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Vì vậy, quãng đường đại học cũng chính là khoảng thời gian để bạn học cách vượt qua những thử thách đầu đời. 50 Việc Cần Làm Trước Khi Kết Hôn - Akihiro Nakatani Thượng đế sở dĩ chưa để cho bạn kết hôn, là vì trước khi kết hôn, bạn còn rất nhiều việc phải làm. Sau khi kết hôn, người ta mới ân hận: sớm biết thế này, thì những việc cần làm trước khi kết hôn, mình đã thực hiện chu đáo cả rồi. Tiếc rằng trước khi kết hôn, người ta thường không hiểu giá trị của thời gian sống độc thân nên đã đem phung phí khoảng thời gian quý báu đó. 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng Đầu bếp của tiệm ăn Shousi làm gì vào khoảng thời gian giữa cao điểm ban ngày và ban đêm? Nhân viên Akimasi đã tận dụng khoảng thời gian rỗi ấy để học tiếng Anh. Mặc dù cửa hàng không tăng lương và cũng không có bất kỳ khoản phí hỗ trợ nào cho việc này, nhưng anh vẫn kiên trì học tiếng. Bởi vì Akimasi muốn kể tỉ mỉ cho thực khách nước ngoài biết cách thưởng thức món ăn như thế nào, cách nấu món ấy ra sao... Đôi khi chỉ những cố gắng nhỏ từ bản thân bạn nhưng sẽ mang đến những lợi ích không ngờ trong kinh doanh. *** Akihiro Nakatani Akihiro Nakatani sinh năm 1959. Ông là một nhà văn, diễn viên và một nhà sản xuất tài năng và nổi tiếng ở Nhật Bản. Ông bắt đầu sự nghiệp với vai trò là một DJ vào năm 1973. Năm 1976, ông được trao giải thưởng của Hiệp hội Các nhà thơ của Asahi Tanka. Năm 1982, ông đã là một nhà văn được nhiều người biết tên. Năm 1984, sau khi tốt nghiệp khóa kịch nghệ tại trường đại học Waseda, ông làm giám đốc kinh doanh tại công ty Hakuhodo - công ty đứng thứ hai Nhật Bản về quảng cáo. Ông đã nhận được giải thưởng ACC bốn năm liên tiếp, kể từ năm 1987. Năm 1990, ông viết quyển "Mensetsu No Tatsujin (Masters for interviews)", về cách để thành công trong phỏng vấn xin việc. Quyển sách gây được tiếng vang lớn và bán được hơn 2,5 triệu bản. Năm 1991, ông thành lập văn phòng của riêng mình. Ông đã xuất bản hơn 370 quyển sách về các chủ đề như kinh doanh, cuộc sống và tình yêu; và đã bán được 2,5 triệu bản một năm ở Nhật Bản, 1 triệu bản tại Hàn Quốc và 4 triệu bản trên toàn thế giới. Hiện nay, sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và được phát hành ở nhiều quốc gia. Tác phẩm tiêu biểu 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học 50 Việc Cần Làm Đối Với Khách Hàng  50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20  50 việc cần làm trước khi kết hôn 50 việc cần làm ở tuổi 30… *** hế giới chỉ có hai loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng, mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Các sinh viên thực hiện khát vọng, mơ ước của mình phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy những cơ hội gặp được trong khi học đại học. Tôi cũng là một trong số những sinh viên đó. Nhìn lại cả quãng đường thời đại học, tôi đã phát hiện ra một điểm chung: gặp gỡ với con người cũng là gặp gỡ với sách vở. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 1: Giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 2: Khi cảm thấy “Điều này là không thể!” tiềm năng sẽ xuất hiện một cách mạnh mẽ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 3: Nghe những buổi diễn thuyết làm chấn động lòng người. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 4: Đi nghe giảng không chỉ để lấy được tín chỉ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 5: Một ngày ở đại học dài bằng một năm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 6: Vấn đề tự học. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 7: Mở sách sau khi về đến nhà, cho dù là đã rất khuya. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 8: Lập kế hoạch học tập như đang ôn thi. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 9: Hãy làm quen với những người làm cho bạn căng thẳng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 10: Học tập chăm chỉ hơn cả trong thời gian thi cử. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 11: Đừng học tập một cách miễn cưỡng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 12: Bình tĩnh suy nghĩ xem bản thân mình có thực sự thích học hay không. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 13: Học tập không chỉ ở trong tháp ngà. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 14: Nên có một quyển bài tập không có đáp án.   Vì ngày mai hãy làm việc thứ 15: Soạn một quyển từ điển cho riêng mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 16: Biết không thể làm mà vẫn làm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 17: Có công mài sắt có ngày nên kim. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 18: Cho dù đã thôi học cũng vẫn có việc có thể làm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 19: Đừng quên học bài, làm bài tập. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 20: Cần thực tiễn nhưng cũng cần lý luận. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 21: Bám sát thực tế, tuần tự tiến dần lên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 22: Hãy kết bạn với những lưu học sinh chịu khó học hành. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 23: Hãy học tập những tác phẩm cổ điển. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 24: Phải nhớ kỹ đây là chuyên môn của bạn, chứ không phải chỉ là hứng thú. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 25: Tìm một chốn cho riêng mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 26: Sống ở trong trường. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 27: Phải biết rõ chỗ nào có thể tìm được tư liệu cần thiết. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 28: Giúp thầy làm một số việc. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 29: Hãy sưu tập thật nhiều. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 30: Sáng tạo cái gì đó như một bộ phim hay chẳng hạn. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 31: Phương pháp tăng cường thể lực. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 32: Có từ hai quyển sổ ghi chép trở lên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 33: Chưa tận mắt chứng kiến, không nên tùy tiện khen chê. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 34: Hãy vứt bỏ thành kiến. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 35: Đừng đi làm thêm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 36: Lập kế hoạch tác chiến để có sinh hoạt phí. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 37: Mua một quyển sách trị giá hơn ba vạn yên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 38: Chỉnh lý các album ảnh từ hồi bé. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 39: Hãy cân nhắc kỹ khi thực hiện ước mơ của mình, nếu ước mơ ấy ngược với kỳ vọng của cha mẹ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 40: Đêm khuya đi dạo trở về, vẫn dành thời gian viết nhật ký.   Vì ngày mai hãy làm việc thứ 41: Nhận ra sự vô tri ban đầu, tức là đã tiếp cận ước mơ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 42: Xem một quyển sách làm cho mình được một cú hích. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 43: Mỗi ngày viết một trang, viết cái gì cũng được. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 44: Tập cho mình có thể vừa nghe giảng vừa xem sách. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 45: Luyện cách đọc nhanh. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 46: Giữ những quan điểm không giống với người khác. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 47: Chơi với một người bạn thân. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 48: Có một nơi ẩn mình bí mật. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 49: Mỗi tuần lễ dành ra một ngày chỉ để nói chuyện với chính mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 50: Đi du lịch trong nước một mình. ĐỌC THỬ GIAO TIẾP VỚI NHÂN VẬT ĐƯỢC MỌI NGƯỜI CHO LÀ NGƯỜI ƯU TÚ SẼ LÀM XUẤT HIỆN CÁI TÔI THỨ HAI NƠI BẠN Thời đại học, việc không thể không làm là gì? Đó chính là khởi động, làm xuất hiện, làm hiển lộ cái tôi thứ hai. Có lẽ bạn vẫn chưa ý thức được về cái tôi thứ hai đó. Mục đích của thời đại học chính là phải làm xuất hiện cái tôi thứ hai. Nhưng mà, làm sao để có thể làm xuất hiện cái tôi thứ hai? Thời đại học xem có vẻ như là dài bất tận. Chợt nhìn lại mới thấy thời đại học thực ra chỉ là ngắn ngủi tạm thời. Đối với không ít người, việc lớn – những việc cần và đáng làm, chưa thành một mảy may đã đành phải đi qua thời đại học mà không để lại được một dấu ấn gì. Những người việc lớn chưa thành ấy không phải bởi vì họ không nỗ lực, mà bởi họ không biết việc lớn là việc gì. Chỉ cần biết bản chất cũng như tầm quan trọng của những việc cần và đáng làm thì sẽ không sống hoài khoảng thời gian quý báu ở trường đại học của mình. Nói cho cùng, chỉ có một việc bạn nhất định phải làm trong thời đại học. Đương nhiên, ngoài việc này ra, vẫn còn rất nhiều việc khác có thể làm, nhưng chỉ cần làm tốt việc này thì mọi việc còn lại đều sẽ thuận lợi, nắm chắc phần thắng trong tay. Đó chính là giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. Bất kể đó là một vị tướng hay một nô lệ. Nói chung, người đó có thể là một ông thầy. Cũng có thể là sinh viên xuất sắc. Cũng có thể là người quen gặp ở nơi xin việc. Cũng có thể là người xa lạ không hẹn mà gặp trên đường đi du lịch. Cũng có thể là người lớn tuổi. Cũng có thể là người cùng tuổi với bạn. Cũng có thể là người ít tuổi hơn bạn. Nếu nhân vật được mọi người cho là rất ưu tú trẻ hơn bạn, điều đó cho thấy bạn cũng là một người có tài Tại sao? Bởi vì sự có mặt của thiên tài trẻ tuổi trong thế giới thiên tài là một chuyện vô cùng bình thường. Tóm lại, trong thời đại học nếu có thể giao tiếp với nhân vật được mọi người coi là rất ưu tú, thì mọi vấn đề còn lại sẽ được giải quyết ổn thỏa. Vì ngày mai hãy làm việc thứ nhất Giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. KHI CẢM THẤY “KHÔNG THỂ NHƯ THẾ!” TIỀM NĂNG SẼ XUẤT HIỆN MẠNH MẼ Tôi có may mắn được quen biết với một người được công nhận là rất ưu tú. Đó chính là giáo sư Văn hóa nhân loại học Tây Giang Nhã Chi. Đương nhiên ngoài giáo sư Tây Giang ra, tôi còn nhận được sự giúp đỡ của nhiều vị giáo sư khác. Nhưng những gì tôi học được từ giáo sư Tây Giang có hơi khác với những vị khác. Lúc đó, giáo sư Tây Giang từ nước ngoài trở về Nhật Bản, bắt đầu giảng dạy môn Nhân loại học ở khoa Văn học, còn tôi thì đang học ngành kịch nghệ thuộc khoa Văn học trường đại học Tảo Đạo Điền. Đúng vào lúc đó, tôi đã may mắn được gặp giáo sư. Tuy nhiên, cho dù không có lần gặp gỡ không hẹn mà được ấy, cũng không thể oán trách số mệnh không công bằng. Những cuộc gặp gỡ không hẹn trước, không phải chính là ngẫu nhiên hay sao? Không có gì quý giá cho bằng những cuộc gặp gỡ không hẹn mà được. Cho nên, hôm nay nếu bạn đã bỏ lỡ cơ hội thì có khả năng bạn cũng sẽ là người bỏ lỡ cơ hội suốt đời. Tôi chưa từng gặp giáo sư trước khi nghe ông giảng bài. Một lần nghe giáo sư giảng, lòng tôi trào dâng một niềm xúc động mạnh mẽ. Đối với một kẻ vừa bước chân vào trường đại học như tôi, sự cảm nhận, tiếp thu nơi tôi hầu như không thể thích ứng nổi với lượng kiến thức khổng lồ cũng như khả năng điều động tư duy siêu việt của giáo sư trong khi lên lớp. Đã may mắn chọn đúng cùng một chuyên ngành như giáo sư, tôi ước sớm muộn trở thành một người tài giỏi như ngài.   Lúc đó tôi nghĩ, về sau cho dù những công việc tôi làm không có liên quan đến ngành học đi chăng nữa, nhưng nếu cũng có một tư duy mẫn tiệp như giáo sư thì hay lắm. Ôi, biết đến ngày nào tôi mới được như giáo sư! Khả năng thu thập thông tin mới nhất của giáo sư thật là có một không hai, khó ai có thể vượt qua. Tôi càng lúc càng cảm thấy lực bất tòng tâm, thấy vô vọng và thất bại. Trong đầu tôi bỗng bật ra một câu nói: “Không thể như thế được!” Cảm nhận một nguy cơ như thế này chính là điểm then chốt của vấn đề. Một trong những việc bạn phải làm thời đại học là cảm nhận một điều gì đó là không thể được. Khi giao tiếp với một nhân vật được mọi người cho là rất ưu tú, cảm nhận về những điều “không thể được” sẽ xuất hiện nơi bạn. Và khi đó những năng lực tiềm tàng bên trong con người bạn sẽ được dịp cuồn cuộn trào dâng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 2 Khi cảm thấy “Điều này là không thể!” tiềm năng sẽ xuất hiện một cách mạnh mẽ. NGHE CÁC BÀI GIẢNG CỦA NHỮNG NGƯỜI THỰC SỰ TÀI NĂNG, SẼ CÓ ĐƯỢC NHỮNG CHẤN ĐỘNG MẠNH MẼ Ấn tượng sâu sắc còn đọng lại nơi tôi không chỉ là nội dung bài giảng của giáo sư Tây Giang. Nội dung của bài giảng tự nó đã trở nên không còn là quan trọng nhất, mà cái quan trọng chính là những rung động, chấn động tôi cảm nhận được từ giáo sư khi lên lớp. Khi nói chuyện với người khác, tôi đã từng chú ý đến những điều mình truyền đạt ngoài nội dung của cuộc nói chuyện. Điều quan trọng là tạo được một sự chấn động, thu hút sự chú ý nơi người khác. Đối tượng giao tiếp không chỉ giới hạn trong giới sinh viên. Không cần biết là bạn đang nói cái gì, quan trọng là chỉ cần bạn tạo được một sự chú ý nơi người khác. Ngược lại, bất luận là truyền đạt, chuyển tải bao nhiêu nội dung, nếu như đối phương không cảm nhận được một chút chấn động, không nảy sinh một sự chú ý nào thì tôi nghĩ đây chính là một cuộc trò chuyện thất bại. Bài nói chuyện hay cuộc nói chuyện nên phong phú về ý nghĩa và sinh động, có sức sống. Cùng một nội dung sẽ không có hai lần trình bày giống nhau, bởi số người tham dự và trạng thái tinh thần của diễn giả có thay đổi. Mỗi lần diễn thuyết không luôn hoàn toàn giống nhau, cũng như những lần diễn kịch. Mà đã là kịch thì chắc chắn không thể nào làm ra vẻ xuất sắc để lấy lòng người khác. Những buổi lên lớp của giáo sư Tây Giang đối với tôi thật giống như những buổi biểu diễn nghệ thuật xiếc hay những trận quyết đấu về việc vận dụng trí óc. Lâu nay có lẽ bạn vẫn từng cho rằng các vị giáo sư ở đại học thì có gì đâu, chẳng qua cứ nói đi nói lại mãi một môn học, một đề tài suốt năm này qua năm khác không có gì thay đổi. Một khi đã nghĩ như vậy thì hẳn nhiên bạn sẽ không cảm thấy thú vị gì trước bài giảng của các vị giáo sư. Nhưng mà, bạn lầm rồi. Đương nhiên một cộng một chỉ có thể là hai, không thể nào có thể là ba. Tuy nhiên, để giải thích tại sao một cộng một là hai thì có nhiều phương pháp. Giả như nói về việc dạy học, có lúc bạn cảm thấy mình dạy rất hay, nhưng có lúc bạn lại cảm thấy mình thất bại. Chỉ điều này thôi đủ thấy chẳng có buổi diễn giảng nào hoàn toàn giống nhau. Những buổi diễn giảng mang lại cho người nghe cảm giác mới mẻ là kết quả của sự động não nhằm tìm tòi những phương pháp diễn đạt càng lúc hay hơn, tinh xảo hơn, thuyết phục hơn. Và những buổi diễn giảng làm xúc động lòng người, gây cảm giác phấn khích, cho dù là cùng một vấn đề nhưng nghe lại vẫn không thấy nhàm chán. Giáo sư đứng trước bảng đen, như đang bước vào một cuộc đọ sức sinh tử. Xin bạn cũng hãy nghe giảng với tinh thần và thái độ nghiêm túc chăm chỉ như giáo sư! Hồi trung học tôi có tham gia vào đội cờ tướng của trường. Phương pháp đánh cờ thì tôi đã rõ, nhưng khi xem thuyết minh của người hướng dẫn môn đánh cờ trên tivi tôi thường có một cảm giác mờ mịt. Người hướng dẫn như thể đang chìm đắm trong thế giới riêng của anh ta. “Đi như thế này, rồi lại đi như thế này, à, không được, đây không phải là nước đi tốt.” Anh ta cứ ngồi thì thầm một mình như vậy, không cần biết người xem khó chịu như thế nào. Tuy không biết những chỉ dẫn cụ thể của người hướng dẫn, nhưng tôi vẫn ngầm cảm thấy ván cờ này đã đi đến chỗ xuất sắc tinh xảo nhất. Đối với những tay mê cờ, đây là điều khó chấp nhận nhất. Giải thích cách đánh cờ, ngoài việc giải thích, hướng dẫn còn thường mang lại cho người ta một cảm giác sợ sệt khó gọi thành tên. Ví như trong một cuộc cờ, người đi trước ra một nước. Người đi sau phát hiện tình hình bất lợi, cầm chắc thua cuộc, bèn nói lời đầu hàng: “ Ôi, tôi thua rồi.” Sức cuốn hút kỳ lạ của môn đánh cờ chính là ở chỗ nó thực giống như một cuộc giao chiến thực thụ. Một bài diễn giảng cũng giống như một ván cờ đầy khí thế sục sôi. Người nghe trong khi nghe cũng cảm nhận được cái khí thế ấy. Hãy cảm nhận sự chấn động, xúc động từ những buổi diễn giảng đầy khí thế của những con người thực sự tài năng! Việc đó vô cùng có ích đối với bạn! Vì ngày mai hãy làm việc thứ 3 Nghe những buổi diễn thuyết làm chấn động lòng người. Mời các bạn đón đọc 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng của tác giả Akihiro Nakatani.  
50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng
50 việc cần làm là bộ sách kỹ năng bán chạy ở rất nhiều nước trên thế giới. Sách tập hợp lời khuyên của tiên sinh Akihiro Ankatani về những chủ đề mà các bạn trẻ quan tâm: rèn luyện bản thân, tạo dựng sự nghiệp, kinh doanh, kết hôn. Mỗi chủ đề tác giả đưa ra đúng 50 lời khuyên, trình bày vô cùng đơn giản, khúc chiết nhưng ý tứ sâu xa. 50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20 - Akihiro Ankatani Cái gọi là môn học bắt buộc ở tuổi 20 có nghĩa là những việc mà chỉ ở tuổi 20 mới có thể làm được. Chỉ những ai ở tuổi ấy cứ bôn ba qua lại một cách uổng công vô ích đến một lúc nào đó mới mới thấm thía rằng: tuổi hai mươi là giai đoạn huy hoàng nhất trong cuộc đời mỗi người. 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học Trên đời này chỉ có 2 loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng - mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Những sinh viên có hoài bão phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy cơ hội khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Vì vậy, quãng đường đại học cũng chính là khoảng thời gian để bạn học cách vượt qua những thử thách đầu đời. 50 Việc Cần Làm Trước Khi Kết Hôn - Akihiro Nakatani Thượng đế sở dĩ chưa để cho bạn kết hôn, là vì trước khi kết hôn, bạn còn rất nhiều việc phải làm. Sau khi kết hôn, người ta mới ân hận: sớm biết thế này, thì những việc cần làm trước khi kết hôn, mình đã thực hiện chu đáo cả rồi. Tiếc rằng trước khi kết hôn, người ta thường không hiểu giá trị của thời gian sống độc thân nên đã đem phung phí khoảng thời gian quý báu đó. 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng Đầu bếp của tiệm ăn Shousi làm gì vào khoảng thời gian giữa cao điểm ban ngày và ban đêm? Nhân viên Akimasi đã tận dụng khoảng thời gian rỗi ấy để học tiếng Anh. Mặc dù cửa hàng không tăng lương và cũng không có bất kỳ khoản phí hỗ trợ nào cho việc này, nhưng anh vẫn kiên trì học tiếng. Bởi vì Akimasi muốn kể tỉ mỉ cho thực khách nước ngoài biết cách thưởng thức món ăn như thế nào, cách nấu món ấy ra sao... Đôi khi chỉ những cố gắng nhỏ từ bản thân bạn nhưng sẽ mang đến những lợi ích không ngờ trong kinh doanh. *** Akihiro Nakatani Akihiro Nakatani sinh năm 1959. Ông là một nhà văn, diễn viên và một nhà sản xuất tài năng và nổi tiếng ở Nhật Bản. Ông bắt đầu sự nghiệp với vai trò là một DJ vào năm 1973. Năm 1976, ông được trao giải thưởng của Hiệp hội Các nhà thơ của Asahi Tanka. Năm 1982, ông đã là một nhà văn được nhiều người biết tên. Năm 1984, sau khi tốt nghiệp khóa kịch nghệ tại trường đại học Waseda, ông làm giám đốc kinh doanh tại công ty Hakuhodo - công ty đứng thứ hai Nhật Bản về quảng cáo. Ông đã nhận được giải thưởng ACC bốn năm liên tiếp, kể từ năm 1987. Năm 1990, ông viết quyển "Mensetsu No Tatsujin (Masters for interviews)", về cách để thành công trong phỏng vấn xin việc. Quyển sách gây được tiếng vang lớn và bán được hơn 2,5 triệu bản. Năm 1991, ông thành lập văn phòng của riêng mình. Ông đã xuất bản hơn 370 quyển sách về các chủ đề như kinh doanh, cuộc sống và tình yêu; và đã bán được 2,5 triệu bản một năm ở Nhật Bản, 1 triệu bản tại Hàn Quốc và 4 triệu bản trên toàn thế giới. Hiện nay, sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và được phát hành ở nhiều quốc gia. Tác phẩm tiêu biểu 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học 50 Việc Cần Làm Đối Với Khách Hàng  50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20  50 việc cần làm trước khi kết hôn 50 việc cần làm ở tuổi 30… *** Rõ ràng là bạn sẽ không thể có cách thuyết phục khách hàng nếu như không biết được họ là ai và họ muốn gì. Thử tưởng tượng trong một cuộc giao tiếp mà bạn chỉ thao thao bất tuyệt, tôi là A, tôi muốn B, bạn nên làm C, bạn đừng làm D… sẽ chẳng có một khách hàng nào đủ kiên nhẫn để nghe hết từ A đến Z cả! Và càng tệ hơn nữa là trong khi bạn có thể nói “tất tần tật” về bản thân thì lại “quên” đi khách hàng của bạn là ai, thậm chỉ gọi nhầm tên, địa chỉ của họ. Nếu cuộc giao tiếp thật sự “rơi” vào tình huống này thì kết quả có lẽ bạn đã thấy trước… Vậy nên, kỹ năng thuyết phục khách hàng trước hết nên là kỹ năng ghi nhớ, ghi nhớ tất cả những thông tin của khách hàng, càng nhiều càng tốt! (tất nhiên chỉ là những thông tin cần thiết liên quan đến quá trình thương thảo) Tiếp theo, điều quan trọng hơn nữa là sau khi bạn biết họ là ai, bạn phải biết khách hàng của bạn muốn gì. Kinh doanh hiện đại đã chỉ ra rằng muốn thành công bạn phải “bán cái khách hàng cần chứ không phải cái bạn sản xuất”. Và vì vậy, biết khách hàng muốn gì là điều kiện tiên quyết để có thể “đánh đúng tâm lí” và thuyết phục họ. Biết được khách hàng muốn gì thì kỹ năng tiếp theo bạn nên có đó là biết cách hướng cuộc hội thoại về kết quả: lợi ích cuối cùng thuộc về khách hàng. Trong một quyển sách nghiên cứu về văn hóa kinh doanh của các nước trên thế giới, tác giả Richard R. Gesteland đã nhấn mạnh rằng ở Nhật Bản (một trong những nước có nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới), khái niệm “Customer is King” (khách hàng là vua) đang dần được thay thế bằng khái niệm “Customer is God” (khách hàng là thượng đế) để nói lên tầm quan trọng của khách hàng trong đời sống kinh doanh. Vậy nên, trong tổng hòa cuộc giao tiếp, hãy để khách hàng “hiểu” rằng sử dụng dịch vụ hay sản phẩm của bạn sẽ mang lại lợi ích cao nhất cho họ, sẽ không thể có nơi thứ 2 có dịch vụ hoặc giá tốt hơn. Tóm lại, khách hàng phải cảm nhận được “lợi ích tuyệt đối” trong suốt cuộc thương thảo. Sẽ không quá khi nói rằng kỹ năng giao tiếp sẽ quyết định việc thuyết phục khách hàng của bạn. Các “thủ thuật” về ánh mắt, cách chào hỏi, cách bắt tay, cách mỉm cười, cách nói chuyện… sẽ “ghi dấu” hình ảnh của bạn trong mắt khách hàng. Một ánh mắt thân thiện, một nụ cười “vừa phải” sẽ làm bạn đẹp hơn rất nhiều trong mắt người đối diện. Dáng điệu của bạn cũng nên để lại sự tự tin cần thiết để khách hàng có đủ niềm tin vào những điều bạn nói. Ngoài ra, những kỹ năng giao tiếp khác cũng cần được chú trọng, bởi vì bạn không nên (và không được phép) để lại bất kì một sai sót nào trong quá trình tiếp xúc. Bởi lẽ, một khi những “ấn tượng ban đầu” này tốt đẹp thì xem như bạn đã thành công một nửa, còn ngược lại, có lẽ sẽ rất khó khăn cho cuộc thương thảo của bạn. Thật đáng tiếc, điều này có thể khiến các nhân viên bán hàng dành những quãng thời gian quý báu của họ vào việc nỗ lực xác định và giải thích bản thân nội dung thông điệp mà không diễn tả được giá trị kinh doanh tới các khách hàng. Thay vào đó, bạn cần phải kể một câu chuyện khai phá các thách thức kinh doanh và phương pháp của công ty bạn để giải quyết những vấn đề đó. Khi nó bắt đầu trở nên thích hợp trong cuộc thảo luận, bạn sẽ phác họa nó trong các cụm từ viết tắt và kết nối nó giữa những bức tranh và các giải pháp. Tiếp theo, hãy biểu lộ rằng: “Tại công ty XYZ, chúng tôi gọi đó là….”   Mời các bạn đón đọc 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng của tác giả Akihiro Nakatani.
Con Mắt Biên Tập
Tác giả cuốn sách là những nhà báo và chuyên gia tên tuổi trong giới truyền thông Mỹ. Bà Jane T. Harrigan là giáo sư khoa báo chí ở Đại học New Hampshire kiêm cố vấn cho nhiều ấn phẩm đa dạng. Bà Jane đã có 23 năm giảng dạy nghiệp vụ biên tập. Còn Karen Brown Dunlap là giám đốc Viện Báo chí Poynter ở Florida và đã hai lần tham gia ban giám khảo giải thưởng báo chí Pulitzer. "Con mắt biên tập" là cuốn sách nghiệp vụ báo chí đầu tiên trong tủ sách "Nghề báo" do công ty Sài Gòn truyền thông thực hiện. Nhà báo Trần Trọng Thức, người có nhiều đóng góp với các tờ Tin Sáng, Tuổi Trẻ, Lao Động, Thời báo Kinh tế Sài Gòn... và hiện nay là tờ Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần đã viết lời giới thiệu cuốn sách. Tuần Việt Nam xin trân trọng giới thiệu tới quí vị độc giả: Bài báo đến với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫn hơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng". L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nổi tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên đã cho rằng, một Ban Biên Tập thật giỏi với những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xĩnh. Một Ban Biên Tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một Ban Biên Tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập". Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biên tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoài nghi. Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày trang báo... Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết. Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết. Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ. Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi. Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nên tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc. Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với độc giả. Báo chí là một sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí. Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thì "Con mắt biên tập" (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Sài Gòn Media và báo Sài Gòn Tiếp Thị giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh được những vấp ngã mà còn giúp những ai muốn đi xa hơn trong nghề viết hệ thống lại kỹ năng cơ bản. Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới đang phát triển không ngừng. Không quá đáng khi nói rằng, "Con mắt biên tập" là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh phong cách viết báo hiện đại mà chúng ta đang hướng đến. *** LỜI GIỚI THIỆU           Để một bài báo đến được với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫn hơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, những người thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng".     L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nối tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên, đã cho rằng, một ban biên tập thật giỏi với -những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xỉnh. Một ban biên tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một ban biên tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập".     Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biến tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoàn nghi.     Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày tang báo…     Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết.     Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết.     Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ.     Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi.     Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nền tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc.     Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với dộc giả.     Báo chí là một sản phẩm của sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí.     Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thí CON MẮT BIÊN TẬP (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Công ty Sài Gòn truyền thông giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh đuợc những vấp ngã mà còn giúp những ai muôn đi xa hơn irên con đường viết lách hệ thống lại kỹ năng cơ bản.     Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới dang phát triển không ngừng.     Không quá dáng khi nói rằng, CON MẮT BIÊN TẬP là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh nhông cách viết báo hiện đại mà chúng ta dang hướng đến.     TRẦN TRỌNG THỨC     NHÀ BÁO Mời các bạn đón đọc Con Mắt Biên Tập của tác giả Jane T. Harrigan & Karen Brown Dunlap.