Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Chúc Sơn

Mới hạ tuần tháng chín, trời chưa hẳn sang đông mà đã giá căm căm. Trên mặt sông lạnh tanh từ sáng đến trưa, con đò ngang mới chở được vài ba chuyến, mỗi chuyến lèo tèo dăm sáu người. Cảnh ngược xuôi tấp nập trên đường đê rộng thênh thang lượn dài theo con sông Đáy cũng không còn nữa. Trong túp lều tranh nhỏ xíu dựng nép bên đường, bà hàng tóc bạc phơ buồn bã ngó con đê vắng ngắt, giòng sông lạnh lẽo với con đò bơ vơ. Ngồi co ro trong tấm áo bông cánh còn mới, bà cụ chít lại chiếc khăn vuông nâu cho thật kín và nhớ lại những ngày đông vui đã qua. Nào mấy bà người làng te tái từ dưới bến lên vào uống bát nước chè tươi cho ấm bụng, nào mấy ông khách buôn, tay nải khoác chĩu một bên vai, sà xuống ghế làm một cút 1 rượu nhắm với đĩa lòng béo ngậy… Bà cụ nhớ cả những tiếng dép da trâu lẹp kẹp trên mặt đường, những tiếng nói chuyện ồn ào của những ông lái, bà lái không bao giờ ghé vào trong quán. Họ phải gồng gánh nặng và luôn luôn phải chạy gằn từng thôi 2 thẳng cho kịp giờ họp chợ. Nhớ cả đám trẻ con nô đùa dức lác… Chỉ có nghịch, chỉ có phá, nhưng mà vui. Còn bây giờ, nguyên cả một nồi chè đậu đãi chưa ai động đến với già nữa chõ xôi ngon thật là ngon. Cứ cái cung cách này chắc tối nay cả nhà phải ăn xôi chè trừ bữa… Có tiếng vang lên cùng với tiếng chân người bước tới. - Có nắng rồi !... Cũng sắp có đò nữa ! Hai người đàn ông hăm hở bước vào trong quán. Cả hai cùng cao lớn, vạm vỡ. Nét mặt và cử chỉ cùng lanh lợi. Và họ cùng đảo mắt xoi mói khắp nơi trong quán hẹp trước khi bóc mấy tấm bánh nếp ra ăn. Họ chỉ đưa mắt cho nhau chứ không nói chuyện bằng lời và chỉ ậm ự khi bà hàng đon đả mời họ dùng thêm thứ này thứ khác. Dưới sông, con đò đã gần sang tới bến. Họ trả tiền, đứng dậy. Mấy chiếc lá gói bánh bay lào xào, đuổi nhau trên mặt đê. Bà hàng ngước mặt lên nhìn khách : - Hai ông sang đò ? - Phải ! Đó là tiếng nói độc nhất mà một trong hai người đã miễn cưỡng buông ra trong quán nước. Y có một bộ râu quai nón khá đẹp. Họ bước xuống con đường dốc. Một tên ngoái lại nhìn thấy có ba người từ phía nam đi tới sắp bước vào trong quán. Bà hàng vồn vã : - Mời ba ông vào nghỉ chân sơi nước. Nắng xiên khoai chiếu vào đầy quán. Cả chủ lẫn khách khoan khoái ngâm mình trong ánh vàng ấm áp. Bà hàng một tay vươn ra lật ngửa mấy chiếc bát ở sát mép chõng, một tay ngoái ra đàng sau cầm cái gáo dài múc nước chè tươi rót cho khách. Hình ảnh ngộ nghĩnh y như một người đang quờ quạng bơi trong nắng. Bà suýt soa : - Mới tháng chín mà trời đã rét ngọt ! Đi đường lúc này chắc vất vả lắm, thưa ba ông ? - Phải !... Hàng có gì ăn không, bà cụ ? Ông khách có gương mặt nho nhã nhất lên tiếng hỏi. Bà hàng ân cần đáp, vẻ mừng hiện rõ trên đôi môi ăn trầu cắn chỉ 3 : - Thưa có ạ. Xôi lạc ngon lắm. Cả chè đậu đãi nữa. Xôi tôi để nguyên trong chõ, nóng hôi hổi. Để tôi cơi 4 ra đĩa, ba ông sơi thử. Người cao lớn nhất ngồi ngoài cùng cười nói oang oang : - Thôi, bà cụ cơi cho ông thầy tôi đây một đĩa xôi và hai chén chè là đủ. Còn bao nhiêu bà cụ cứ để đấy, hai anh em tôi lo cho. Hai người lực lưỡng như hai ông hộ pháp ăn như rồng cuốn nước trước sự ngạc nhiên và mừng rỡ của bà hàng. Tuy nhiên, những gì xẩy ra chung quanh cũng không qua được tai mắt họ. Dưới bến, chiếc đò ngang đã tới. Cô lái, người cao dong dỏng, cắm chiếc sào dài xuống đất cho thuyền ghé sát bờ. Khách quá giang ngưng bặt câu chuyện đang nói dở khi họ thấy hai người bịt khăn tùm hụp từ mặt đê xuống tới nơi. Họ lên bờ, lặng lẽ. Tên có hàm râu quai nón nhẩy tót xuống thuyền, nhẹ như chiếc lá. Mặt y lầm lì trong khi gã bạn đồng hành nhe hàm răng trắng nhởn cười nham nhở và làm bộ quờ quạng nắm cổ tay trắng nõn của cô lái như phải có một điểm tựa mới bước được lên thuyền. Sợ hãi, người con gái vội rụt tay lại và kéo theo luôn cả con sào. Mũi thuyền quay ngang hắt tên vô lễ lăn tòm xuống nước. Tiếng cười khoái trá vang trên mặt đê. Cười lớn nhất là hai ông khách ăn mạnh như hùm trong quán. Ông khách nho nhã vuốt chòm râu đen nhánh khen : - Hà hà ! Cô bé cũng là tay đáo để đấy chứ, phải không hai chú ? - Dạ. Thân thủ 5 khá lắm. Người thứ hai tiếp lời : - Còn phải nói ! Con gái Chúc Sơn mà ! - Ờ, trông cách cô bé gỡ tay rồi bước xéo chân khiến cho con thuyền tạt ngang, êm cứ như ru, cũng biết cô bé có nghệ chân truyền. - Vâng. Ngón nghề cô bé vào hạng cừ khôi đó, thưa thầy. Bà hàng bỗng thấy cao hứng, tươi cười nói xen vô : - Con gái họ Hoàng mà, thưa ba ông. Lúc thường thì ăn nói dịu dàng, dễ thương hết sức. Nhưng lúc cần dụng võ thì, nói ba ông bỏ lỗi, con trai lực điền cũng không bằng. Ông khách ngồi ngoài cùng ngó xuống mé sông, thích chí cười ha hả : - Chả thế mà hai tên kia biết thân phải ngồi yên một phép ! - Rét mướt thế này mà tên kia ướt như chuột lột… Kìa, cu cậu phải ngồi thu hình vào một xó cho đỡ lạnh, trông thảm hại chưa ! - Cho thế mới đáng đời ! - Hai đứa cũng là tay võ nghệ, sao chúng không gây sự nhỉ ? Bà hàng tươi cười giải thích : - Chúng nó không dám đâu ông ơi ! Một thằng là người làng làm chó săn cho giặc. Tôi nhận ra ngay khi nó mới bước chân vào trong quán. Còn thằng kia là Tầu. Đánh nhau trên bộ không biết sao, chứ giở giỏi ra trên thuyền thì chết với cô gái. - À, ra thế ! Có phải cô ấy là cô Sơn Ca không bà cụ ? Bà hàng ngạc nhiên : - Phải. Mà sao ông biết ? - Chúng tôi nghe người ta đồn. Bà hàng nhỉ, sao từ nẫy đến giờ, không thấy cô ta hát ? Nở một nụ cười cởi mở khi thấy hai ông hộ pháp đã ăn sạch nhẵn cả chõ xôi lẫn nồi chè, bà hàng kể rành rọt : - “Sơn Ca” không phải là tên thật cô ấy đâu, ông thầy ạ. Tên thật cô bé ấy là Mai, con ông Hương trưởng Tùng. Ngày nhỏ, nó hay hát, hát véo von suốt ngày nên người làng gọi đùa là con Sơn Ca, lâu dần thành tên. Nhớn lên, thấy nước nhà hoạn nạn, giặc lại hay sục sạo làm điều càn rỡ, bọn con gái biết lo không cười đùa ca hát nữa. Họ theo gót cha anh tập võ. Cụ Cử Chúc Sơn khen con bé Sơn Ca giỏi vào hạng nhất nhì làng tôi đấy. Ba thầy trò chưa kịp gợi chuyện thêm, bà cụ đã ướm lời hỏi trước : - Tôi già nua lẫn cẫn hỏi thế này khí không phải, ba ông bỏ lỗi cho nhé. Nghe nói ở đường trong, Bình Định Vương đã đánh đến Tây Đô 6 chả biết đến bao giờ Người mới dẹp được Đông Quan 7 để cho con dân được yên ổn làm ăn ? Ông khách nho nhã cười khiêm tốn đỡ lời : - Ấy chết ! Sao cụ lại hỏi chúng tôi điều ấy ? Chúng tôi cũng là con nhà làm ăn buôn bán như cụ, biết đâu được những việc xa xôi. - Các ông giấu già này cũng chả được. Nhác trông một cái già biết liền. Có điều già muốn nói ra hay không nói ra mà thôi. Này nhé, ba ông là người ngoài ta nhưng ở lâu trong ấy, giọng đã hơi nặng, tinh ý một chút là nhận ra ngay. Bàn tay của ông thầy trông xa cũng thấy là bàn tay cầm bút. Còn hai ông đây đúng là hai ông hổ tướng. Đố ai dám bảo các ông là người buôn bán hay làm việc thổ mộc 8 ! Một người tấm tắc khen : - Bà cụ vậy mà cũng biết xem tướng nữa cơ đấy ! - Chẳng qua là thói quen đấy thôi, các ông ạ. Chả là tôi bán quán đã lâu, khách cũng đông, mỗi người một vẻ, chả ai giống ai, mà tôi nhận xét ít khi lầm lẫn. *** Chân Phương là tác giả, nhà thơ, hiện sống tại Hoa Kỳ. Tác phẩm đã in (dưới bút hiệu Phương Sinh): Chú thích cho những ngày câm nín (1992), Bản án cho các vĩ cầm (1992), Nghĩa đen (1993), Bổ túc lý lịch cho loài di dân (1994) và Biển là một tờ kinh (1996). Mời các bạn đón đọc Cô Gái Chúc Sơn của tác giả Chân Phương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vịnh Tokyo - Anthony Grey
Tiểu thuyết lịch sử về các biến động tháng Bảy năm 1853, tàu chiến Mỹ làm chấn động nước Nhât, và gần đưa hai nứơc mỹ nhật tới chiến tranh *** Anthony Gray OBE là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, bao gồm một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. *** Nửa đêm, 7 tháng Bảy năm 1853 MỒ HÔI TRẮNG XOÁ TÚA RA TỪ LƯNG CON ngựa trạm gần như đang hấp hối khi chàng kị sĩ đội chiếc mũ trụ samurai thúc mạnh cựa giày vào nó và phóng như tên bắn vọt qua chiếc cầu vồng vắt qua vòng thành thứ ba phía trước toà thành trì đồ sộ của Shogun ở Yedo. Tới trước hàng lính gác mặc áo giáp chống giáo chắn ngang cánh cổng sắt nặng nề chàng kị sĩ hô vang: - Chokurei - da! Kinkyu Chokurei - da! Chàng rút ra từ dưới vạt áo chiến bào một cuộn giấy nhỏ được buộc bằng những sợi dây mạ vàng và giơ cao lên quá đầu. Những người lính gác đội mũ sắt mặc áo giáp bằng da và tre đã dợm chĩa mũi dáo về phía chàng, nhưng tiếng hô của chàng trai trẻ có vẻ là một samurai đã khiến họ dừng tay. Những lời chàng vừa hô là mật hiệu báo rằng chàng mang theo một "tin khẩn" do Hoàng đế gửi tới từ cung điện ẩn dật của Người ở Kyoto, cách Yedo ba trăm dặm về phía Tây nam. Và nữa, khi chàng đến gần hơn thì họ nhìn rõ ngôi sao sáu cánh, phù hiệu của thị tộc chàng được thêu bằng chỉ vàng trên vạt áo chiến bào jimbaory chỉ rõ rằng chàng là một nhà quý tộc ở đẳng cấp cao nhất. - Hayaku! Hayaku! Mau lên! Chàng khẩn thiết quát những tên lính gác đang lóng ngóng mở cổng và cố kìm con ngựa đang lảo đảo. Khe hở giữa hai cánh cổng vừa đủ rộng chàng đã thúc cho con ngựa chồm vọt qua hàng lính gác bên trong. Chàng dễ dàng vượt qua vài trạm gác nữa, mỗi lần lại hô vang và vung cao cuộn giấy, tận tới khi lên tới bậc thềm đá dẫn lên cửa chính của toà lâu đài. Đúng lúc chàng quăng người xuống khỏi yên thì con ngựa gục xuống, mép sùi bọt máu. Nhưng chàng samurai không hề liếc mắt nhìn lại, chàng nhảy vội lên bậc thềm đá, đôi song kiếm nhô ra khỏi tấm thắt lưng màu tro nhạt bó chặt lấy tấm kimono. Chàng giơ cuộn giấy có đóng triện của Hoàng đế cho viên chỉ huy đội vệ binh và ngay lập tức được đưa vào. Vừa đi vừa chạy, chàng vượt qua dãy hành lang lợp mái vòm cao, hai bên tường được dát toàn vàng lá. Nhảy ba bậc một, chàng đi sát vào bức tường trên có những hoạ tiết miêu tả cảnh những con chim huyền thoại đậu trên cành trúc và những rặng anh đào núi. Phía trên đầu, hàng xà gồ bằng gỗ được phủ lớp sơn mài hai màu đen và óng ánh vàng đỡ lấy mái vòm được trang trí tuyệt đẹp, nhưng chàng samurai trẻ tuổi chẳng hề liếc mắt đến tất cả những cái đó và chỉ dừng lại để hỏi những tên lính gác mặc đồng phục đứng dọc hành lang xem phải đi lối nào rồi lại hối hả bước đi. Khi đến trước cánh cửa của phòng Hội đồng Tướng quân, chàng tháo mũ trụ và rút cuộn giấy ra khỏi vạt áo chiến bào. Vẻ mặt khẩn cấp chàng trình bày với viên thị vệ trưởng của Hội đồng. Ngay sau đó chàng tháo zori và quỳ tiến vào trên đôi chân trần. Hàng trăm cặp mắt đổ dồn đầy dò hỏi khi chàng bước vào gian sảnh với vẻ mặt xanh tái. Tất cả bọn họ đều mặc những tấm áo daimyo rực rỡ, đó là những quận công đứng đầu các lãnh địa trên khắp đất nước Nhật Bản, tất cả bọn họ quỳ quanh một chiếc bệ cao đặt chính giữa. Shogun ngồi trên chiếc bệ đó. Các daimyo chỉnh tề trong bộ triều phục gồm áo choàng vai, quần lụa buông lá toạ, đầu đội mũ sơn mài sáng lấp lánh, họ kinh ngạc nhìn chàng quý tộc áo quần xộc xệch. Khi chàng phủ phục, đầu cúi xuống tận nền nhà họ mới nhìn thấy búi tóc trên đầu chàng cũng dính đầy bụi bặm và bê bết mồ hôi. Trước khi phủ phục chàng đã tháo hai thanh kiếm ra khỏi thắt lưng áo choàng và đặt chúng cùng chiếc mũ trụ xuống tâm tatami bên mình. Cũng giống như quần áo chàng, hai thanh kiếm cùng chiếc mũ trụ đều bê bết bùn đất. Shogun ngồi trên bục cao, im lặng nhìn và chờ đợi. Ông ngồi xếp bằng, tấm áo choàng bằng lụa xám khiến cho ông có dáng vẻ của Đức Phật. Mặc dù ông vẫn ngồi rất thẳng, nhưng gương mặt gầy của ông vẫn có một vẻ xanh xao khác thường và những giọt mồ hôi ướt đẫm trên trán cho thấy ông tựa như đang bị bệnh nặng. Sự xuất hiện đột ngột của chàng trai đang thở hổn hển kia đã gây nên một chớp nhoáng cảnh giác trong đôi mắt của Shogun, nhưng ông đã nhanh chóng lấy lại được vẻ bình thản và khẽ quay đầu lại. Tiếp nhận hiệu lệnh đó, một vị trong hàng các daimyo đang quỳ trước bệ bèn nhổm lên và cúi đầu xuống thật thấp hướng về phía Shogun. Rồi vẫn tiếp tục cúi đầu thật thấp ông ta lùi tiếp ra xa để người đưa tin trẻ tuổi có thể lách vào quỳ xuống và tự giới thiệu. - Tâu Đại Tướng quân, tôi là Tanaka Yoshio, hoàng tử thuộc thị tộc Kago, tỉnh Kumatore - Chàng samurai nói giọng sang sảng - Tôi được uỷ nhiệm mang tới trình Đại Tướng quân một tin thượng khẩn từ Đức Đại Hoàng đế ở Kyoto. Mời các bạn đón đọc Vịnh Tokyo của tác giả Anthony Grey.
Chậm Rãi - Milan Kundera
Chúng tôi nảy ra ý muốn nghỉ chiều và qua đêm tại lâu đài. Nhiều lâu đài ở Pháp đã biến thành khách sạn: một vùng cây cối lọt thỏm trong một vùng không gian trơ trụi, khô cằn; một khoảng nhỏ để đi dạo với chim muông, cây cỏ giữa một hệ thống đường cao tốc rộng lớn. Tôi đang lái xe, qua tấm kính hậu tôi nhận thấy một chiếc xe con chạy phía sau. Ngọn đèn nhỏ bên trái nhấp nháy, cả chiếc xe phả ra những làn sóng nôn nóng. Người tài xế đang tìm cơ hội để vượt qua tôi; anh ta quan sát lựa thời cơ giống như một con diều hâu lựa lúc lao xuống chụp con chim sẻ. Véra, vợ tôi, nói với tôi: “Cứ năm mươi phút lại có một người chết vì tai nạn giao thông ở Pháp. Nhìn mà xem, tất cả cái đám đông điên cuồng đang quay lượn quanh chúng ta. Đó cũng chính là những người đã tỏ ra thận trọng kinh khủng khi có một bà già bị móc túi ngay trước mặt họ ở trên phố. Làm sao họ lại không cảm thấy sợ hãi khi ngồi sau tay lái?” Tôi biết nói gì đây? Có thể là thế này: con người đang cúi gập mình trên chiếc xe máy chỉ có thể tập trung chú ý vào khoảnh khắc hiện tại anh ta đang lao xe đi; anh ta bị buộc chặt vào mảng thời gian bị cắt rời khỏi cả quá khứ và tương lai; anh ta bị dứt tung khỏi dòng chảy liên tục của thời gian; anh ta ở ngoài thời gian; nói cách khác, lúc đó anh ta đang trong trạng thái xuất thần, ở trạng thái đó anh ta không còn biết gì đến tuổi tác, vợ con, những nỗi âu lo của mình nữa cả, thế nên anh ta không thấy sợ, bởi vì nguồn gốc nỗi sợ là ở phía trước, phía tương lai, mà một người đã thoát khỏi tương lai thì không có gì phải sợ. Tốc độ là một hình thức xuất thần mà cuộc cách mạng kỹ thuật đã tặng cho con người. Ngược lại với người đi xe máy, người chạy bộ luôn luôn hiện diện trong cơ thể anh ta, buộc phải không ngừng nghĩ xem mình đã phồng chân, kiệt sức chưa; trong khi chạy anh ta cảm thấy trọng lượng, tuổi tác của mình, ý thức hơn bao giờ hết về bản thân và thời gian sống của mình. Mọi chuyện sẽ thay đổi khi con người giao phó khả năng tốc độ cho máy móc: kể từ khi đó, cơ thể riêng của anh ta bị đặt ra ngoài quá trình vận động, anh ta hiến mình cho cái tốc độ phi cơ thể, phi vật chất, tốc độ thuần túy, tốc độ tự nó, tốc độ xuất thần. *** Milan Kundera (sinh 1/4/1929 tại Brno, Cộng hòa Czech, định cư tại Pháp từ 1975) là một nhà văn lớn thế kỷ XX, một nhà tiểu thuyết có lối viết độc đáo, khác lạ. Tác phẩm của ông đã vào Việt Nam từ cuối thập niên 1990.  Tiểu thuyết “Sự bất tử” do tôi dịch đã đăng ở số 1 (1996) tạp chí “Văn học nước ngoài” của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1999 tiểu thuyết này cùng hai tiểu thuyết khác của Milan Kundera (“Chậm rãi”, “Bản nguyên”) cũng do tôi dịch đã được in thành sách dày 766 trang (Nxb Văn Học & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây).  Nhà văn Nguyên Ngọc đã dịch của Milan Kundera ba tập tiểu luận - “Nghệ thuật tiểu thuyết” (1998), “Những di chúc bị phản bội” (2001), “Một cuộc gặp gỡ” (2013) và một tiểu thuyết - “Lễ hội của vô nghĩa” (2015).  Dịch giả Cao Việt Dũng đã dịch của Milan Kundera ba tiểu thuyết – “Cuộc sống không ở đây” (2003), “Điệu valse giã từ” (2004), “Vô tri” (2010), một tập truyện ngắn – “Những mối tình nực cười” (2009) và một tập tiểu luận – “Màn” (2014).  Dịch giả Trịnh Y Thư ở Mỹ đã dịch của Milan Kundera tiểu thuyết “Đời nhẹ khôn kham” (2002), cuốn này vừa được in trong nước đầu 2018. Hôm nay, sau đúng hai mươi năm ra sách lần đầu, tôi đón nhận bản dịch “Sự bất tử” (496 trang) tái bản. Hai cuốn còn lại (“Chậm rãi” và “Bản nguyên”) sắp tới cũng sẽ ra lại. Cả ba cuốn này đều do Nhã Nam làm.  Nhà văn Nguyên Ngọc cho biết ba cuốn tiểu luận của Milan Kundera ông dịch cũng đang được công ty sách Bảo An Books xúc tiến tái bản. Các tác phẩm của tác giả Milan Kundera: Đời Nhẹ Khôn Kham Vô Tri Cuộc Hội Thảo Điệu Valse Giã Từ Những Di Chúc Bị Phản Bội Sẽ Không Ai Cười Chậm Rãi Sự Bất Tử Lễ Hội Của Vô Nghĩa Màn Một Cuộc Gặp Gỡ ... Mời các bạn đón đọc Chậm Rãi của tác giả Milan Kundera.
Bỏ Vợ - Hồ Biểu Chánh
Ông Ba Chánh năm nay vừa quá 50 tuổi, tóc đã bạc hoa râm, nhưng răng còn chắc chắn, sức còn mạnh mẽ. Ông goá vợ đã hơn 6 năm rồi. Trong nhà chỉ có một đứa con gái, là cô Huyền, được 21 tuổi. Ông quen với thầy Thanh, nhà ở một xóm, mà làm việc dưới Sài Gòn, thường hay tới lui đàm luận với nhau chơi. Cách vài năm trước, vì thầy Thanh làm mai nói dẻo dai quá, nên ông mới gã cô Huyền cho thầy Võ Như Bình, người mồ côi, gốc ở đâu dưới Hậu Giang, thi đậu bằng thành chung rồi làm việc trong một hãng buôn dưới Sài Gòn. Ông nghĩ thầy Bình thân phận côi cút lại là người có học thức, nên gả con ông cũng không đòi hỏi vật chi hết, đám cưới làm sơ sài, mời năm ba người quen đến ăn uống một bữa mà thôi, mà cũng không cần rước Chánh lục bộ đến lập hôn thú. Từ ngày cưới rồi thì thầy Bình về ở theo bên vợ. Thầy có sắm một cái xe máy, để mỗi buổi sớm mai thầy đạp đi xuống Sài Gòn làm việc, trưa thầy ăn cơm quán và ở nghỉ tạm tại nhà của người làm chung một hãng, đến chiều tối thầy mới về Chí Hòa. Thầy Bình ở với cô Huyền đã sanh được một chút con trai, đặt tên là Nghiệp, mới 10 tháng mà sổ sữa, ngộ nghĩnh, chẳm hẳm lắm... *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Bỏ Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Bỏ Chồng - Hồ Biểu Chánh
Qua tháng mười một, mùa mưa đã dứt rồi, lại có ngọn gió bấc thổi lao rao. Buổi chiều, ở Sài Gòn, khí trời mát mẻ, làm cho con người từ trẻ chí già đều khỏe khoắn trong mình, nên đi ngoài đường ai cũng lộ cái vẻ hớn hở tươi cười. Thế mà, Chí Thiện, năm nay đã được 28 tuổi, làm thơ ký toán cho một hãng buôn lớn tại đường Kinh Lấp, đúng 7 giờ tối, thầy ở trong hãng bước ra, bộ đi chậm rãi, mặt mày buồn hiu, dường như thầy tiếc rẻ hãng đóng cửa sớm không cho thầy làm việc thêm nữa. Tay ôm một cuốn sách với một tờ nhựt báo, thầy thủng thẳng đi lại đường Pelerin đón xe autobus mà về Đa Kao. Bước lên xe thầy ngồi dưới ngọn đèn điện sáng trưng, mở tờ nhựt báo ra mà xem, không ngó kẻ qua người lại hai bên đường, mà cũng không để ý đến những kẻ đi trên xe. Tới Đa Kao xe ngừng, thầy xếp tờ nhựt trình rồi bước xuống tránh xe kéo, xe máy mà quẹo lên đường Paul Bert. Gần tới căn phố chỗ thầy ở, thầy thấy con Sáu, là đứa con gái, đương đứng dựa cột điện mà chơi với con thầy, tên con Yến, năm nay đã được 6 tuổi. Bấy giờ thầy mới xăn bước, đi riết lại. Con Yến kêu “ba” rồi chạy đón, ôm bắp vế thầy. Thầy cuối xuống, ôm mặt con mà hun, đưa cuốn sách với tờ nhựt báo cho con cầm, rồi nắm tay dắt con đi vô nhà. Trong nhà đèn sáng trưng, nhưng từ trước ra sau đều vắng hoe, không nghe tiếng, không thấy dạng một người nào hết. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Bỏ Chồng của tác giả Hồ Biểu Chánh.