Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lỡ Yêu Gracie

Cô theo anh khắp nơi, để ý từng hành động của anh, biến cuộc sống của anh thành địa ngục trần gian suốt hai năm trời... và cô bỏ đi. Bây giờ cô trở lại. Anh nên vừa hét vừa chạy theo hướng ngược với cô, đúng không? Vậy tại sao anh ở lại để... lỡ yêu Gracie? *** "Gracie? Gracie Landon? Phải cô đó không?" Bị bắt gặp, đứng ngay giữa bãi cỏ trước nhà mẹ của cô, 1 tay cầm báo, 1 tay cầm li cà phê, Gracie Landon nhìn về phía lối thoát là cánh cửa trước của ngôi nhà với vẻ khao khát. Về lý thuyết, thì cô có thể vụt chạy thoát đi, nhưng như vậy sẽ là bất lịch sự với bà Eunice Baxter, người hàng xóm lớn tuổi. Và Gracie Landon đã được dạy dỗ đàng hoàng. Cô vén mớ tóc đã dán chặt vào mặt sau giấc ngủ qua 1 bên, lê bước đến cái hàng rào thấp bằng gỗ ngăn cách nhà Landon và nhà bà Eunice Baxter trong đôi dép Tweetie Bird của em gái cô. "Chào buổi sáng, bà Baxter," cô nói, hi vọng là giọng cô nghe vui vẻ chứ không gượng ép. "Đúng, là cháu, Gracie nè." "Trời thần, vậy là đúng rồi. Tôi không gặp cô nhiều năm rồi nhưng tôi thề là tôi có thể nhận ra cô ở bất cứ đâu. Bao lâu rồi nhỉ?" "14 năm rồi." Nửa cuộc đời cô. Cô đã rất mong là mọi người đã quên cô đi. "Chà, phải nói chứ... trông cô đẹp hẳn ra. Khi cô bỏ đi, tôi nói vầy là có ý tế nhị lắm rồi đó, cô là 1 đứa bé xấu thấy sợ luôn. Thậm chí bà má tội nghiệp của cô cứ phải lo lắng suốt là cô sẽ không trổ mã xinh đẹp ra, nhưng mà cô đã làm được. Bây giờ trông cô rạng rỡ, xinh xắn như người mẫu bìa tạp chí ấy." Gracie không thực sự muốn nhớ lại thời kỳ "vịt con xấu xí" của cô - 1 giai đoạn đã kéo dài gần sáu năm. "Cám ơn," cô nói, chân nhích dần về phía hiên nhà. Eunice vun cho phồng mái tóc với những lọn xoăn tít của bà, tay gõ gõ vào cằm." Cô biết không, tôi mới nói chuyện với bà bạn Wilma của tôi về cô. Chúng tôi đã nói rằng giới trẻ ngày nay không biết yêu là gì. Không giống như trong phim hay như cách cô đã yêu Riley Whitefield."  Ôi Trời ơi, Trời ơi. Trời ơi. Đừng nhắc chuyện Riley. Bất cứ chuyện gì trừ chuyện đó. Sau từng ấy thời gian, cái tiếng xấu cô là 1 kẻ bám đuôi ngây thơ, cuồng dại vẫn không thể ngủ yên ư? "Cháu không hẳn đã yêu anh ấy," Gracie nói, tự hỏi tại sao cô lại đồng ý trở về nhà sau từng ấy thời gian. Ồ phải. Đám cưới của em gái cô. "Cô là một minh chứng cho tình yêu chân thật," Eunice bảo cô. "Cô nên tự hào. Cô đã yêu thích cậu ta với tất cả trái tim của cô và cô không sợ thể hiện điều đó ra. Phải đặc biệt can đảm mới làm thế được."  Hoặc bị tâm thần, cô nghĩ và mỉm cười yếu ớt. Tội nghiệp Riley. Cô đã làm cho cuộc sống của anh thành một địa ngục trần gian. "Và anh bạn phóng viên đó đã viết về cô trên tờ báo địa phương để mọi người biết câu chuyện của cô," Eunice nói thêm. "Cô đã được nổi tiếng."  "Tai tiếng thì đúng hơn," Gracie lẩm bẩm, nhớ lại cảm giác xấu hổ khi đọc bài báo về tình cảm thầm kín của cô dành cho Riley trong lúc ăn sáng. "Wilma thích nhất đoạn cô đã đóng đinh giữ chặt cửa sổ và cửa chính nhà bạn gái cậu ta để cô ta không thể đi đến chỗ hẹn hò được. Vụ đó hay, nhưng tôi lại thích lần cô nằm lăn ra trước mũi xe của cậu ta ngay tại đó." Eunice chỉ phần  đường trước nhà mình.  "Tôi đã chứng kiến hết. Cô đã nói với cậu ta là cô đã yêu cậu ta quá nhiều nên không thể để cho cậu ta kết hôn với Pam và nếu cậu ta nhất quyết đính hôn, cậu ta cứ việc cán qua cô để giải thoát cô khỏi đau khổ."  Gracie cố kềm tiếng thở dài. "Phải, vụ đó hay thật."  Tại sao mọi người trên thế giới được phép quên đi sự xấu hổ của thời thơ ấu của họ, nhưng tất cả mọi người đều muốn nói về sự xấu hổ của cô?  "Cháu nghĩ có lẽ cháu còn nợ Riley một lời xin lỗi."  "Cậu ta đã quay lại thị trấn này," Eunice hớn hở nói. "Cô có biết không?"  Khi mà hầu hết mọi người cô gặp trong mấy ngày vừa qua đã cố nói cho cô hay, tất nhiên là cô biết. "Thật không?"  Bà cụ nháy mắt. "Cậu ta lại độc thân rồi. Còn cô, Gracie? Có ai đặc biệt chưa?"  “Chưa, nhưng lúc này cháu đang rất bận rộn với công việc của cháu và ..."  Eunice gật đầu ra vẻ hiểu biết. "Duyên phận đó. Đúng là duyên phận. Hai người đã được đưa về lại với nhau và được cho một cơ hội thứ hai."  Gracie biết cô thà bị treo trần truồng trên một đống kiến lửa hơn là có bất cứ điều gì dính líu với Riley Whitefield một lần nữa. Cô không muốn có thêm sự xấu hổ nào khi chuyện có liên quan đến Riley. Và ai mà biết là anh ta sẽ sẵn sàng chịu đựng những cực hình gì để tránh mấy người như cô?  "Thế thì hay quá, nhưng cháu không nghĩ rằng cháu -"  "Có thể là cậu ta vẫn thích cô,” Eunice nói.  Gracie phì cười. "Bà Baxter này, anh ta sợ cháu phát khiếp ấy chứ. Nếu bây giờ anh ta nhìn thấy cháu, anh ta vừa la hét vừa chạy theo hướng đối diện ngay." Thành thật mà nói, ai mà trách anh ấy được?  "Đôi khi đàn ông cần được nhẹ nhàng thúc đẩy."  "Đôi khi đàn ông cần được để yên một mình."  Và đó chính là dự định của cô. Không bám đuôi Riley nữa. Thực tế thì cô định sẽ tránh xa tất cả các nơi Riley có thể có mặt. Và nếu họ có tình cờ chạm mặt, cô sẽ bình thản, lịch sự và giữ kẽ. Có thể cô sẽ thậm chí không nhận ra anh ta. Bất kỳ tình cảm gì cô từng dành cho Riley trước đây đã phôi phai. Đã chết và chôn sâu. Cô đã quên hẳn anh ta rồi.  Ngoài ra, bây giờ cô đã là một người khác rồi. Duyên dáng. Trưởng thành.  Không còn là con nhỏ bám đuôi nữa. "Ai thế?" Vivian hỏi khi Gracie đi vào nhà bếp của gia đình Landon. "Bà Baxter túm chị lại nói chuyện với bà ấy hả?"  "Ừ." Gracie đặt tờ báo lên trên bàn bếp và uống một ngụm cà phê lớn. "Chị thề, cứ như là chị mới bỏ xứ mà đi vào tuần trước chứ không phải là 14 năm trước."  "Người già cảm nhận thời gian theo cách riêng của họ," Vivian nói khi cô rũ rũ mái tóc vàng lấp lánh ánh đỏ của cô ra sau lưng rồi ngáp dài. "Có điều, họ dậy sớm quá. Mẹ mình chưa 7 giờ là đã ra khỏi cửa rồi."  "Chị nghe Mẹ nói gì đó về thứ Bảy giảm giá đặc biệt ở cửa tiệm." Gracie trườn lên ngồi trên 1 chiếc ghế đặt trước bàn ăn và để ly xuống bàn. “Buổi bán hàng mà lẽ ra em đã đi phụ mẹ."  "Em biết." Vivian vươn vai. "Là lỗi của em đã chọn mua 1 chiếc áo cưới trị giá 3000 đô la. Em có hai chọn lựa: một là dồn hết tiền lo lễ cưới vô cái áo và cho khách nhịn đói, hai là trả góp." Cô nhoẻn miệng cười. "Ít nhất thì em cũng sẽ có được 1 cái bánh cưới tuyệt vời mà không mất đồng nào." "May cho em."  Là chị gái của cô dâu, Gracie đã tình nguyện đóng góp một trong những kiệt tác của cô cho buổi tiệc. Cô nhìn tờ lịch treo trên tường. Tính từ hôm nay thì còn đúng 5 tuần nữa là lễ cưới sẽ diễn ra. Nếu là người thông minh, cô đã tránh mặt cho đến phút cuối, rồi xuất hiện cùng với cái bánh, ăn tiệc rồi lại bỏ đi. Nhưng những cú điện thoại hốt hoảng của mẹ cô, của Vivian và Alexis, người chị cả, đã khuấy lên cảm giác tội lỗi trong cái bụng vốn đã hay bị cồn cào của Gracie làm cô đồng ý trở về nhà để giúp đỡ với kế hoạch tổ chức lễ cưới.  Và Gracie đã được tưởng thưởng bằng việc phải nướng tất cả các bánh đã được đặt hàng với cô trong 1 cái lò nướng lạ hoắc mà cô không cảm thấy tin tưởng gì mấy, và bị các cụ bà tra tấn khi họ khăng khăng nhắc lại chuyện tình cảm đầy vấn đề trong quá khứ của cô.  "Thời gian đó có gì hay đâu," Gracie lẩm bẩm với ly cà phê của mình.  Vivian cười toe toét. "Bà Baxter  có nói rằng Riley Whitefield đã trở lại thị trấn không?"  Gracie trừng mắt với em. " Em phải đi đâu mà hả?"  Vivian cười vang và chạy ra cầu thang.  Gracie nhìn em bỏ đi, rồi mở tờ báo, sẵn sàng tận hưởng 1 buổi sáng bình yên. Chiều hôm nay, cô sẽ chuyển vào ngôi nhà cô đã thuê cho sáu tuần cô ở lại thị trấn, nhưng cho đến khi đó, cô không bận gì cả, ngoại trừ -  Cánh cửa bếp bật mở.  "Ồ, tốt quá. Em dậy rồi."Alexis, chị gái lớn hơn Gracie 3 tuổi, liếc nhìn xung quanh. "Vivian đâu?" "Đang sửa soạn để chuẩn bị ra cửa hàng."  Alexis cau mày. "Chị tưởng nó đã đi rồi chứ. Không phải đợt bán hàng giảm giá bắt đầu lúc 8 giờ à?"  "Em có biết gì đâu," Gracie thừa nhận.  Cô mới về lại nhà được hai ngày và vẫn đang cố tìm cách thích nghi. Trong khi Alexis và Vivian đã lớn lên trong ngôi nhà này, thì Gracie đã bỏ đi vào mùa hè cô vừa lên mười bốn và đã không một lần trở lại.  Alexis rót cho mình một tách cà phê và ngồi lên ghế cạnh ghế của Gracie.  "Chúng ta cần nói chuyện", người chị cả khẽ nói với giọng hơi run rẩy. "Nhưng em không được kể cho Vivian. Hoặc Mẹ. Chị không muốn họ phải lo lắng, khi họ đang phải lo chuyện đám cưới."  "Được rồi," Gracie chậm rãi trả lời, biết là cô không cần phải hỏi chị là mọi chuyện có ổn không. Nếu mọi chuyện đều ổn, Alexis đã không ở đây đòi cô giữ bí mật, hoặc trông có vẻ hoảng hốt.  "Chuyện về Zeke," Alexis nói, rồi mím môi lại. "Chết tiệt, chị đã tự nhủ là sẽ không khóc rồi."  Gracie thấy căng thẳng. Zeke và Alexis đã kết hôn được năm năm, hạnh phúc về mọi mặt.  Alexis hít một hơi sâu, rồi thở ra. "Chị nghĩ anh ấy đang ngoại tình."  "Cái gì? Không thể nào. Anh ấy mê chị đắm đuối mà. "  "Chị cũng đã nghĩ vậy." Alexis đưa tay chùi mắt. "Chỉ là ..." Chị dừng lại khi cả hai nghe thấy tiếng ầm ầm ở trên lầu. "Anh ấy biến mất mỗi đêm và không về lại nhà cho đến khi ba hoặc bốn giờ sáng. Khi chị hỏi anh ấy có chuyện gì không, anh ấy nói rằng anh ấy làm việc trễ vì lo cho cuộc vận động tranh cử. Nhưng chị không tin anh ấy."  Gracie cẩn thận gấp tờ báo lại. "Vận động tranh cử gì? Không phải Zeke bán bảo hiểm sao?"  "Phải, nhưng anh ấy đang lo chiến dịch vận động để Riley Whitefield tranh chức thị trưởng.  Chị tưởng em biết rồi."  Gracie lạc hậu với thông tin hơn cô đã nghĩ. "Chuyện bắt đầu khi nào?"  "Vài tháng trước đây. Anh ta thuê Zeke vì-"  Tiếng bước chân rầm rầm ở cầu thang. Vài giây sau Vivian xông vào nhà bếp.  "Chào chị, Alexis," Vivian nói khi cô đang bím mái tóc dài của cô lại. "Hôm nay chị muốn làm ở ngoài tiệm thay em không?"  "Không hẳn."  Vivian cười toe toét. "Đâu có thiệt gì mà không hỏi. Em đi làm nô lệ để trả tiền cho chiếc váy cưới của em đây. Đừng có quậy bạo lúc em không có đây đó nha."  Cánh cửa bếp đóng sầm lại sau lưng cô. Một phút sau, tiếng máy xe khởi động, lụt phụt muốn tắt nhưng rồi lại nổ được.  Alexis đi ra phía cái cửa sổ nằm ngay trên bồn rửa chén và nhìn ra đường. "Rồi, nó đi rồi. Mình nói tới đâu rồi?"  "Chị đang kể với em là chồng của chị hiện đang làm việc cho Riley Whitefield. Sao lại thế?"  "Sau Đại học, Zeke đã làm việc cho thượng nghị sĩ bang Arizona khoảng 2 năm." Chị có vẻ nguôi bớt nỗi lo khi chị quay sang nhìn Gracie mỉm cười. "Lúc đó chị đang ở Arizona và anh ấy..." Alexis lắc đầu. "Trời ạ, chuyện lâu lắm rồi. Chị không thể tin rằng anh ấy sẽ làm điều này với chị. Chị yêu anh ấy rất nhiều và và ch… chị nghĩ ..." giọng nói của chị nghẹn ngào. "Chị phải làm gì?"  Gracie có cảm giác không thoải mái của người bị kẹt trong 1 ngôi nhà kỳ lạ. Không có gì trong nhà giống như vẻ bề ngoài của ngôi nhà, và cô tìm không được lối thoát ra. Chắc chắn rồi, Alexis và Vivian là chị em với cô. Người thân của cô. Nhìn họ đủ giống nhau để không ai có thể nhầm lẫn quan hệ máu mủ của họ, cũng mái tóc dài màu vàng - vàng nhạt cho Alexis, vàng ánh đỏ cho Vivian và vàng ánh kim cho chính cô, cũng đôi mắt xanh to tròn và thân hình cân đối vừa phải. Nhưng quan hệ chị em này đã được duy trì từ 1 khoảng cách khá xa suốt cả nửa cuộc đời cô - không được khởi động lại từ từ thì cô không biết làm sao để lại quay về với mối quan hệ đủ thân mật để có thể gửi gắm tâm sự hay cho lời khuyên. "Chị không biết chắc chắn là Zeke đang làm gì mà," Gracie nói. "Có thể là vì cuộc vận động tranh cử thật."  "Chị không biết, nhưng chị nhất định sẽ tìm hiểu cho rõ." Chị tiến lên 1 bước.  Gracie có 1 cảm giác không hay trong cái bụng đang cồn cào của cô. "Em ái ngại khi phải hỏi lắm, nhưng chị định tìm hiểu bằng cách nào?"  "Theo dõi anh ấy. Anh ấy có kế hoạch họp với Riley tối nay và chị sẽ đi đến đó."  "Không phải là ý kiến hay," Gracie nói và với lấy ly cà phê của cô. "Tin em đi, xuất phát từ kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm về Riley đó."  "Chị sẽ tiến hành kế hoạch này," Alexis nói, mắt chị ngân ngấn nước, "và chị cần em giúp chị." Gracie đặt ly cà phê xuống. "Không, Alexis, không. Em không thể, và chị cũng không thể làm thế. Điên quá."  Nước mắt lăn tròn trên má chị. Niềm đau làm đôi mắt chị xanh thẫm. Alexis làm cho sự đau khổ như hiển hiện và Gracie không biết làm sao để cưỡng lại. Nhưng cô vẫn cố thử. "Cách này chỉ gây thảm họa", cô khẳng định. "Em sẽ không dự phần vào đâu."  "Chị h… hiểu," Alexis nói và môi chị run rẩy.  "Tốt. Vì em sẽ không đi với chị đâu."     Khuya hôm đó, Gracie thấy mình theo sau chị, men theo một hàng rào cắt tỉa gọn gẽ nằm ở phía đông của một ngôi nhà cũ lớn, mà không phải là nhà ai khác, chính là biệt thự của họ Whitefield, nhà của nhiều thế hệ Whitefield giàu có và bây giờ là nơi ở của chính Riley. "Đúng là điên quá mà," Gracie thì thầm với chị khi họ lom khom cách cái cửa sổ hậu của tòa nhà vài mét. "Em đã thôi theo dõi Riley khi em mười bốn tuổi. Em không thể tin rằng em đang làm như vậy một lần nữa."  "Em không theo dõi Riley, em theo dõi Zeke. Có một sự khác biệt lớn đó."  "Em không tin Riley sẽ nghĩ thế nếu bắt gặp chúng ta.”  “Vậy thì chúng ta sẽ không bị bắt gặp. Em có đem theo máy ảnh của em chứ?"  Gracie lấy cái máy chụp hình Polaroid yêu quí (loại in hình ra ngay sau khi chụp) cô đang kẹp dưới cánh tay đưa ra. Ánh đèn đường phản chiếu cái ống kính nhỏ bé của máy sáng lấp lánh. "Hãy sẵn sàng", Alexis nói. "Sau góc này là cửa sổ thư viện. Từ vị trí đó em có thể chụp được những bức ảnh rất rõ ràng."  "Sao chị không chụp đi?" Gracie hỏi, sự sợ hãi làm chân cô nặng như chì. "Vì chị cần phải ở đây để xem có con lăng loàn nào trốn ra từ cửa sau không." "Nếu Zeke ngoại tình, sao anh ấy không đi thuê phòng ở khách sạn chứ?" Gracie hỏi. "Sao anh ấy làm vậy được, chị quản lý chuyện chi tiêu trong nhà mà. Với lại lúc tụi chị còn cặp bồ, anh ấy cũng thường cho bạn mượn nhà để đưa bạn gái về chơi. Nói cho em hay, Riley cũng đang làm như vậy cho Zeke. Có ai mà họp hành tranh cử đến tận 2 giờ sáng chứ?" Lý lẽ nghe hợp lý 1 cách kỳ cục, Gracie thầm nghĩ khi cô rón rén đi ra bên hông tòa nhà, nhất là khi mình cố tình lờ đi thực tế là mình đang lẻn vào nhà riêng của người khác để chụp hình qua cửa sổ nhà họ. "Chúng ta thậm chí không biết là họ có đang ở trong thư viện không," Gracie trầm giọng nói. "Zeke nói rằng họ luôn họp ở đó. Nếu anh ấy thực sự đang họp tranh cử thì đó là nơi họ nên có mặt."  "Hay là em nhìn qua cửa sổ rồi nói lại cho chị nghe là em đã thấy gì nha?" Gracie hỏi.  "Chị cần bằng chứng."  Còn Gracie thì cần tránh xa thật xa nơi này. Nhưng cô nhận ra vẻ ương ngạnh của Alexis và thấy ái ngại. Dù cô có muốn quay lưng không giúp chị, cô cũng không thể. Tốt nhất là chụp đại tấm hình rồi đi về hơn là cứ lom khom ở đây mà tranh cãi. "Sẵn sàng," Gracie nói khi cô tiếp tục bước ra phía hông tòa nhà. Các bụi cây quanh tòa nhà đã dày hơn lúc mới được trồng. Chúng cào xước cánh tay để trần của cô và níu kéo quần áo cô. Tệ hơn nữa, cái cửa sổ thư viện cao hơn cô, có nghĩa là cô phải cầm máy để lên trên đầu, chĩa xuống, hướng vào trong thư viện để chụp mà không biết chắc là cái gì, hay ai đang ở đó. Số cô sẽ thật may khi có ai đó nhìn ra cửa sổ ngay lúc cô chĩa máy hình vô(!) "Chỉ phí công vô ích thôi," cô làu bàu khi vươn người đứng trên đầu ngón chân và nhấn cái nút màu đỏ. Một ánh sáng chói lóa lóe lên trong màn đêm. Gracie vội ngồi sụp xuống và thầm chửi thề. Đèn flash! Sao mà cô lại quên mất cái đèn flash cơ chứ? "Bởi vì tôi sử dụng máy ảnh để chụp ảnh bánh cưới, không phải để theo dõi người ta," cô lẩm bẩm trong khi gượng đứng lên và chạy về phía Alexis đậu xe. Không thấy bóng dáng của Alexis đâu hết, và Gracie cũng không biết cô đã chụp được gì. Nhưng chuyện đó không quan trọng. Cô chỉ muốn đi khỏi chỗ này trước khi- "Đứng yên!"  Khi mệnh lệnh hùng hồn đó được đi kèm với 1 cái gì cứng cứng giống như mũi súng chĩa vào giữa xương bả vai, Gracie liền làm theo mệnh lệnh. Cô đứng yên. "Ngươi định làm cái quái gì vậy? Nếu là ăn trộm thì ngươi là một tên trộm dở tệ. Hay là ngươi luôn thông báo sự có mặt của ngươi bằng đèn flash?"  "Biết thì đã chẳng làm." Gracie nói và hít một hơi thật sâu. "Tôi xin lỗi tôi đã làm anh giật mình. Tôi có thể giải thích." Vừa nói, cô vừa quay lại và khi cô quay lại, nhìn thấy người đàn ông cầm súng và anh thấy cô… Cả hai đều nhảy ngược trở lại. Trong khi Gracie ước mặt đất mở ra và nuốt chửng lấy cô, anh ta nhìn như bị gặp ma.  "Lạy Chúa lòng lành," Riley Whitefield thở ra. "Gracie Landon, là cô?"            Chương 2 Vì mặt đất tốn quá nhiều thời gian để nuốt lấy cô nên Gracie bắt đầu ước có một con khủng long ăn thịt người khổng lồ trỗi dậy từ trong mộ và nuốt trửng lấy cô. Hoặc người ngoài hành tinh. Cô bằng lòng để người ngoài hành tinh bắt cô vào tàu du hành của họ để cô khỏi phải đứng đây và nhìn thấy gương mặt tuyệt đẹp của Riley. Cô thậm chí sẽ chịu mấy cái xét nghiệm mà không than van gì.  Cô đã không gặp anh từ mùa hè cô lên mười bốn tuổi. Anh lúc đó đã được mười tám tuổi, cái tuổi vừa con nít, vừa người lớn đáng yêu và đầy ngượng ngập. Anh giờ đã trưởng thành, cao lớn và trông hấp dẫn, nguy hiểm hơn lúc trước.Tuy nhiên, ánh mắt sững sờ của anh làm cô muốn chết ngay tại chỗ.  "Tôi có thể giải thích," cô nói, rồi tự hỏi nếu cô thực sự có thể làm được điều đó. Có từ ngữ nào có thể thuyết phục anh là cô đã không còn là con nhỏ bám đuôi điên khùng vừa mới được thả ra khỏi viện tâm thần?  "Gracie Landon?" Anh lặp lại.  Cô nhận thấy anh đã hạ súng xuống để nó không chỉa trực tiếp vào cô. Vậy cũng được. "Chuyện không phải như anh nghĩ đâu," cô nói và bước lùi một bước. Có lẽ nó sẽ tốt hơn cho cả hai người họ nếu cô tan biến vào trong màn đêm. Và chị cô đâu rồi? Làm cái quái nào mà Alexis luôn biến mất khi có chuyện rắc rối xảy ra vậy. Lúc nào chị cũng để Gracie lãnh đủ.  "Cô không phải đang rình rập bên ngoài nhà của tôi để chụp ảnh sao?" Riley hỏi.  "Ừ thì có, tôi có làm thế, nhưng không phải vì anh. Không hẳn là thế." Mắt anh có màu của đêm giông bão. Ít nhất đó là cách cô mô tả chúng khi cô còn thiếu nữ.Cô đã viết hẳn 1 bài thơ hai-ku (thể thơ Nhật) dở òm về đôi mắt và miệng của anh. Cô đã tưởng tượng anh sẽ hôn cô thế nào khi cuối cùng anh cũng đã giác ngộ và nhận ra được họ thuộc về nhau. Thậm chí cô còn làm thơ và gửi đến cho các bạn gái của anh - sau khi anh đã bỏ họ - để chia buồn cùng họ.  Phải rồi Jenny ạ, Chỉ mình tôi hiểu được Phút giây thần tiên ấy Khi anh nắm tay bạn Gracie đặt tay lên bụng khi cảm thấy nó bắt đầu cồn cào, nhộn nhạo.  Bình thường cô chẳng nhớ nổi cô đã để chìa khóa xe ở đâu, sao giờ cô lại có thể nhớ ra được mấy câu trong cái bài thơ dở òm cô đã làm từ đời thuở nào? "Chắc là mình bị trục trặc gì nặng lắm rồi," cô lẩm bẩm. "Tôi đồng ý,” Riley nói.  Cô nheo mắt nhìn anh. " Anh chẳng giúp được gì cả. Anh biết điều đó không? Tôi biết chuyện trông có vẻ tồi tệ, nhưng có tin mới nè. Tôi đến đây không phải vì anh. Anh rể tôi, Zeke lẽ ra tối nay phải ở đây với anh để giúp anh chuyện vận động tranh cử chức thị trưởng. Chuyện là vậy đó." Cô vẫy vẫy cái máy ảnh trước mặt anh.  Anh cau mày. " Cô có gì đó với anh rể của cô à?"  "Cái gì?" Cô la lên. " Không! Ghê quá! Tất nhiên là không rồi. Chị tôi, Alexis, nhờ tôi -", cô bặm môi lại và quay đi, hướng về phía xe chị cô đã đậu - mong là Alexis đã không lái xe chạy mất sau khi đã lén lút bỏ đi. "Thôi bỏ qua đi." "Đừng có vội thế ", Riley nói và chụp lấy tay cô."Cô không thể xuất hiện như thế này, chụp ảnh, rồi bỏ đi. Làm sao tôi biết cô đã không gài bom vào xe của tôi?"  Gracie giật tay lại rồi hiên ngang ưỡn ngực ra trước khi quay lại đối mặt với anh. "Tôi chưa từng cố ý làm hại anh." Cô nói với vẻ bình tĩnh hết sức trong khi điều cô muốn làm là hét lên và chạy biến vào trong màn đêm. Thật là không công bằng mà. "Khi tôi còn thương thầm anh, tôi chỉ cố ngăn cản anh đi hẹn hò với bạn gái của anh thôi, chứ tôi chưa thực sự làm tổn thương bất cứ ai."  “Cô đã nằm lăn ra ngay trước xe của tôi và xin tôi cán qua người cô."  Mặt cô bừng bừng lên. Sao mọi người không thể để quá khứ ngủ yên? Sao tất cả các chuyện đáng xấu hổ của cô phải bị mổ xẻ nơi công cộng chứ?  "Như thế sẽ làm tôi đau, chứ không phải anh." Cô hít một hơi thật sâu. Tư tưởng hòa bình, cô tự nhắc mình. Và thuốc kháng axit (để trung hòa dịch vị bao tử). Đó là tất cả những gì cô cần. "Tôi xin lỗi đã làm phiền anh. Tôi xin lỗi đã để chị tôi thuyết phục tôi đến đây. Tôi biết đó không phải là ý kiến hay. Chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Dù vấn đề của chị ấy với Zeke là gì đi nữa, tôi cũng sẽ không dính líu vô. Không bao giờ nữa." Anh nheo mắt lại. "Zeke có chuyện gì?" "Đó là chuyện riêng tư."  "Thôi nào, cô nương, từ lúc cô bắt đầu chụp ảnh qua cửa sổ nhà tôi thì nó đã thành chuyện của tôi rồi." Anh ấy cũng có lý. Không nhiều nhưng cũng vẫn có... "Gần đây Zeke xử sự hơi kỳ lạ - về nhà trễ, không chịu nói chuyện. Anh ta nói anh ta bận rộn suốt với chiến dịch tranh cử của anh nhưng Alexis nghĩ anh ta đang ngoại tình." Riley chửi thề và lại chụp lấy tay cô. "Đủ rồi. Đi nào." "Thả tôi ra." Anh không thả tay cô ra mà bắt đầu bước đi, lôi cô theo cùng. "Chúng ta đi đâu vậy?" cô hỏi. "Vào nhà. Chúng ta cần nói chuyện. Nếu người tổ chức cuộc vận động tranh cử của tôi đang dối gạt vợ anh ta thì tôi cần được biết." "Tôi không nghĩ anh ta đang ngoại tình. Anh ta có vẻ không thuộc loại người đó. Tối nay cuộc họp của hai người kết thúc lúc nào?" Riley ngừng lại ngay trước hiên nhà. Ánh sáng từ ngọn đèn lớn trên cửa chính phản chiếu các nét hoàn hảo của gương mặt anh - đôi mắt sẫm, đôi gò má cao, và đôi môi có thể khiến một người phụ nữ bình thường luôn tỉnh táo lại khao khát làm một điều gì đó thật hư đốn. Anh vẫn đeo bông tai, nhưng chiếc khuyên bằng vàng mà cô nhớ rất kỹ nay đã được thay thế bằng 1 hạt kim cương. "Chúng tôi không có họp", anh nói thẳng. "Tôi đã không thấy Zeke ba ngày nay rồi."  Cơn nhộn nhạo trong bụng trở nên trầm trọng hơn. Gracie giằng tay khỏi tay của Riley và xoa xoa bụng. "Không hay rồi." "Tôi cũng nghĩ như thế. Vậy cô nên vô nhà đi, tôi muốn cô kể từ đầu tất cả những gì cô biết về Zeke và chuyện ngoại tình của anh ta." "Có điều, tôi thậm chí không biết anh ta có phải đang ngoại tình không. Alexis có thể đã phản ứng quá mạnh." "Cô ấy hay như vậy lắm sao?” anh hỏi, tay giữ cánh cửa mở và ra hiệu cho cô bước vô. "Tôi không nghĩ vậy. Có thể lắm. Tôi sống ở Los Angeles. Tôi không thường ở cùng chị ấy." Cô bước vô nhà và đứng sững lại ngay tiền sảnh. Bên trong thật rộng, đã cũ nhưng đẹp tuyệt với trần nhà thật cao và chạm trổ điêu luyện, nội thất và các vật trang trí cùng các tác phẩm nghệ thuật bên trong đủ để chương trình Antique Roadshow dành riêng 1 tháng phát sóng cho chúng (đây là 1 chương trình chuyên định giá (trị) của đồ cổ). "Chà, tuyệt quá," Gracie vừa nói vừa nhẹ xoay người vòng vòng. "Cả căn nhà của tôi để trong tiền sảnh này cũng vừa." "Ừ, nó rộng thật. Thư viện bên này." Một lần nữa anh lại túm tay cô lôi đi. Cô nhìn thoáng thấy phòng ăn và một phòng giải trí hay phòng khách trước khi bị anh kéo hẳn vào thư viện. Anh thả tay cô và bước đến khay rượu đặt ở bệ cửa sổ. Sau khi để cây súng lên bàn, anh rót gì đó giống như rượu Scotch vào hai cái ly. Cô đặt cái máy hình xuống. "Để tôi nói cho rõ - á, đau quá," cô vừa nói vừa xoa xoa cánh tay cô. "Hồi trước anh đâu có thô bạo với phụ nữ." Anh trừng mắt với cô rồi đưa cô li rượu. "Tôi không tin cô." "Chuyện cách đây 14 năm rồi, Riley à. Anh cần phải để quá khứ ngủ yên đi." "Tôi đã vui vẻ làm thế cho đến khi cô lại xuất hiện ở đây. Cô đã làm khổ tôi suốt 2 năm trời. Họ đã viết về chuyện đó trên báo. Họ gọi nó là "Truyền thuyết Gracie". Sự bối rối làm cô muốn ngọ nguậy. "Ừ, à, vụ đó không phải lỗi của tôi. Sao chúng ta không nói chuyện khác thích hợp hơn? Như chuyện của Zeke vậy." "Tại sao Alexis nghĩ anh ta đang ngoại tình?" Gracie nhún vai. "Anh ta hay về trễ, và không chịu nói là đã đi đâu." "Chuyện diễn ra bao lâu rồi?" "Khoảng 6 tuần. Lúc đầu Alexis nghĩ anh ta thực sự bận rộn với cuộc vận động tranh cử, nhưng anh ta ngày càng về trễ và không chịu nói là có chuyện gì đang diễn ra..." Cô ngừng lại, liếc anh. "Sao anh lại tranh chức thị trưởng? Tôi thấy anh đâu giống người thích chính trị." Riley phớt lờ câu hỏi và chỉ vào ly rượu của cô. "Cô muốn đồ uống khác không?" Gracie ngửi ngửi cái ly rồi đặt nó trở lại bàn. "Không, nó cũng được. Có điều stress làm dạ dày tôi khó chịu." Cô rút cái gì giống như 1 cây kẹo thuốc kháng axit ra và bỏ vài viên vào miệng. "Phòng này tuyệt quá." Riley dõi theo ánh mắt cô khi cô ngước nhìn dãy kệ sách cao vời vợi chứa đầy sách. Anh không buồn nói cho cô biết là trong tòa nhà này, thư viện là 1 trong vài nơi anh cảm thấy thoải mái khi ở đó. "Nói cho tôi nghe về Zeke," anh nói. "Anh nói cho tôi nghe." Cô bước đến bộ so-fa bằng da đối diện 1 lò sưởi trang nhã và ngồi ịch xuống. "Anh ta là người lo vận động tranh cử cho anh. Anh ta có phải đang ngoại tình không?" "Làm quái nào tôi biết được." Riley bước đến cạnh cái bàn làm việc và tựa vào đó. "Lúc nào anh ta cũng nhắc đến Alexis. Tôi nghĩ anh ta yêu cô ấy lắm." "Nhưng mấy cuộc họp của anh không kéo dài đến 3 giờ sáng chứ." Anh mỉm cười. "Tôi tranh chức thị trưởng, có phải chức tổng thống đâu." "Ừ, tôi cũng nghĩ thế. Chà, tôi nghĩ tôi phải nói với Alexis là Zeke không có ở đây. Chị ấy sẽ không muốn thế đâu." Riley cũng không muốn như thế. Còn 5 tuần nữa là đến ngày bỏ phiếu rồi, anh không thể để có bất kỳ rắc rối gì, nhất là khi anh đang bắt đầu được lòng các cư dân lương thiện ở thị trấn Los Lobos này. Anh đặt ly của mình xuống và giật tấm hình đang kẹp lơ lửng ở máy ảnh ra. Sau khi lột bỏ lớp bảo vệ, anh nhìn chằm chằm vào bức ảnh.  Ngoài cái trần thư viện và vài kệ sách, nó chẳng có gì khác. "Cô không giỏi vụ này lắm," anh nói. Cô đảo tròn mắt. "Tôi chẳng thèm. Dù anh nghĩ gì về tôi đi nữa thì tôi không lớn lên để thành thám tử hay kẻ chuyên bám đuôi. Tôi kiếm sống bằng nghề trang trí bánh cưới." Cô có vẻ hơi bực bội, tự ái và cả xấu hổ nữa. Mặt cô ửng hồng lên và môi cô hơi run run. Cô đã trưởng thành, trổ dáng, nhưng các nét cơ bản thì vẫn thế. Vẫn đôi mắt xanh to tròn, vẫn mái tóc dài vàng óng và vẻ cương quyết đã từng làm anh vãi hồn khi xưa. "Tôi xin lỗi. Cho chuyện này và tất cả các chuyện kia. Anh biết mà. Trước đây." "Có phải chúng ta đang nói đến chuyện bột ngứa được bỏ vào trong quần lót của tôi không?" "Ừ, thì, tôi nghĩ vậy. Chỉ là..." Cô hơi chồm người tới trước và đưa tay vẽ vòng vo trên mặt cái bàn đặt cạnh bộ so-fa. "Nhìn lại thì tôi không ngờ tôi đã làm như vậy với anh. Thật kinh khủng." "Dân quanh đây vẫn còn nói về chuyện đó."  Cô ngồi thẳng dậy và nhìn anh. "Anh còn nói. Ai cũng có thể bỏ quá khứ của họ lại sau lưng, nhưng tôi thì không được. Khônnngggg. Tôi trở thành huyền thoại. Và phải nói chứ, chuyện đó thật vớ vẩn." Anh nghĩ về liều thuốc xổ cô đã xoay sở lén bỏ vô chén canh của anh buổi trưa trước ngày lễ tốt nghiệp. "Cô rất là sáng tạo." "Tôi là một hiểm họa. Lúc đó tôi chỉ muốn..." Mặt cô lại hồng lên. "Ừ thì, cả hai chúng ta đều biết lúc đó tôi đã muốn gì." "Bây giờ có hay hẹn hò không?" "Vài lần, nhưng tôi cẩn thận không đưa họ về đây." "Cô không muốn họ nghe chuyện cô đã dụ 1 con chồn hôi vào xe của tôi, rồi nhốt nó trong đó vài giờ chứ gì?" Cô nhăn nhó. "Tôi đã chịu chi phí rửa xe rồi." "Xe của tôi không bao giờ được như cũ. Tôi đã phải bán nó. Ở 1 cuộc đấu giá." Anh nâng ly lên. "Cô đã rất cương quyết phá vỡ chuyện tôi với Pam. Bằng vào chuyện đã xảy ra thì lẽ ra tôi nên nghe lời cô." Vẻ mặt tự đắc của Gracie khiến anh nghĩ cô sẽ đồng ý với nhận xét của anh nhưng thay vì có ý kiến về chuyện đó, cô lại hỏi. "Bây giờ cần làm gì?" "Tôi sẽ tìm hiểu xem Zeke đang tính chuyện gì. Lúc này tôi không muốn có rắc rối gì. Cô có thể khuyên chị cô rút lui, chờ tôi có thông tin chắc chắn được không?" Khi thấy Gracie ngại ngần, anh trừng mắt với cô. "Cô nợ tôi." Anh nhắc nhở. Cô rùng mình. "Tôi biết. Được rồi - tôi sẽ làm hết sức với Alexis. Nhưng tôi không thể hứa là hoãn chị được hơn 2,3 ngày, vì chị ấy đã quyết rồi." "Và tất cả chúng ta đều biết chuyện gì xảy ra khi phụ nữ nhà Landon quyết làm một điều gì đó." "Chính xác." Cô đứng dậy và nhìn anh. "Tôi thành thật xin lỗi anh, Riley. Tôi biết câu xin lỗi này đã trễ 14 năm, nhưng nó là lời thật từ đáy lòng tôi. Tôi không bao giờ có ý định làm cuộc sống của anh khổ sở thế." "Tôi cảm kích điều đó." "Anh có muốn tôi để số điện thoại di động của tôi lại cho anh liên hệ với tôi về chuyện của Zeke hay anh muốn trực tiếp liên lạc với Alexis?" Giữa "quỷ sứ và ma vương" thì Riley chọn "quỷ sứ" mà anh biết. "Số của cô là được rồi." Anh đưa cho cô tập giấy, cô viết số lên rồi trả lại cho anh. "Máy ảnh của tôi?" cô nói. Anh đưa nó cho cô. Mời các bạn đón đọc Lỡ Yêu Gracie (Falling for Gracie) của tác giả Susan Mallery.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngàn Hạc Giấy của Sadako
Ngày mùng 6/8/1945, 8 giờ 15 phút sáng, một quả bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima. Bé Sadako hai tuổi may mắn sống sót sau vụ nổ, thậm chí hoàn toàn lành lặn. Nhưng mầm bệnh của chất độc phóng xạ đã ngấm vào người em, nấu ủ suốt mười năm để rồi phát tác khi cô bé còn chưa học xong tiểu học. Dù ốm yếu, thân thể liệt dần từ dưới lên trên, hạch và các vết ung thư da nổi khắp người, nhưng với nụ cười không tắt trên môi và nỗi lòng đau đáu cho gia đình, Sadako vẫn chuyên cần dành những ngày cuối cùng của đời mình để gấp những con hạc giấy đong đầy nguyện ước. Sadako là một biểu tượng của tình thương yêu, của tiếng gọi hòa bình tha thiết. Cô bé cũng là nguyên mẫu cho bức tượng bé gái nâng hạc giấy trên Đài tưởng niệm Hòa bình cho Trẻ em ở Hiroshima. *** Hiroshima một ngày đầu tháng Tám, người đang ăn sáng người bắt đầu đi làm, nhưng ai nấy cùng dừng lại để ngẩng mặt lên trời ngắm nhìn. Ở rất cao, rất xa, có cái gì đó chói sáng rực rỡ lắm. Xuống cách mặt đất chừng 600 mét, cái chói sáng đó phát nổ, sóng xung kích bùng ra, tước đi sự sống của vạn vật. Gần thì biến thành tro bụi, xa thì sụp đổ hoặc nát vụn. Và lửa bốc lên ngùn ngụt, lửa thiêu cháy cả những dòng sông vốn đan dày như tấm lưới ở thành phố cảng này. Rồi mưa đổ xuống, mưa gom cả tro than từ chín tầng trời mang theo và tiếp đất với màu đen đặc, nhuộm đen da và đen cả tế bào sống của những người thoát chết. Từ đó, những mầm bệnh lặng lẽ vươn dài. Sadako là một bé gái thuộc vào trường hợp ấy. Hai tuổi dính mưa nguyên tử, mười năm ủ bệnh, chẩn đoán ung thư máu vào năm mười một tuổi, và mười hai thì từ giã cõi đời. Gần một năm chữa trị là gần một năm ngập tràn nước mắt, đau đớn và hi sinh cho nhau giữa Sadako và mọi người trong gia đình em. Tất cả được khắc họa lại ở cuốn sách này, khiến ta vừa cảm phục, yêu mến, vừa không khỏi xót xa. Với trái tim kiên cường và giàu lòng trắc ẩn, Sadako đã gói gọn bao yêu thương bí mật, bao mong ước thầm kín của mười hai năm ngắn ngủi trên đời vào những cánh hạc giấy. SADAKO VÀ NGÀN HẠC GIẤY phản ánh một câu chuyện bình dị và chân thực, đồng thời cũng là lời lên án thầm lặng mà mạnh mẽ nhất của một thế hệ trẻ em bị ép buộc làm nạn nhân chiến tranh. Bên cạnh Sadako chống chọi với bệnh tật, còn thấp thoáng hình bóng nước Nhật gian khó thời hậu chiến. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, dân cư xoay xỏa kiếm sống bằng chợ đen và vật vã chạy trốn cảnh sát kinh tế... Nhưng ở đó, không có oán hận hay căm thù. Bởi, giống như tình thương bao la trong gia đình, một đất nước cũng cần tình người để tiến bước. *** Sasaki Masahiro sinh năm 1941 tại Hiroshima, Nhật Bản. Cùng gia đình mình, ông đã sống sót qua vụ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima năm 1945. Em gái Sadako của ông, sau một thời gian chống chọi với bệnh ung thư máu do bị nhiễm phóng xạ, đã qua đời khi mới mười hai tuổi. Từ năm 2000, Sasaki bắt đầu đến nhiều nơi trên khắp đất Nhật để kể lại câu chuyện của em gái cũng như lan tỏa thông điệp về hòa bình và tình thương trong xã hội. *** Trước mặt tôi lúc này là Đài tưởng niệm Hòa bình cho Trẻ em. Đài tưởng niệm nằm ở một góc công viên Hòa bình Hiroshima*, phần trên là tượng một bé gái đang đứng, hai cánh tay giơ lên nâng một con hạc giấy lớn. Công trình kiến trúc ở gần tâm vụ nổ nguyên tử Hiroshima nhất. Tòa nhà được bảo tồn nguyên trạng ngay sau vụ nổ, và ngày nay đã trở thành biểu tượng của ước mơ hòa bình mãi mãi trên toàn thế giới. Bức tượng được lấy nguyên mẫu từ em gái tôi, Sasaki Sadako. Cách đây hơn nửa thế kỉ, vào năm 1945, gia đình Sasaki chúng tôi là nạn nhân của bom A thả xuống Hiroshima. Thời điểm đó, Nhật Bản đang chìm trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bố Shigeo đã nhập ngũ, chỉ còn bốn người ở lại thành phố là tôi, bà nội Matsu, mẹ Fujiko và Sadako em gái tôi. Vào cái ngày nghiệt ngã ấy, mái ấm của chúng tôi đã bị thiêu rụi hoàn toàn. “Bom A” còn được gọi là “bom nguyên tử”. Và quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima năm 1945 đánh dấu lần đầu tiên loài người sử dụng vũ khí hạt nhân trong chiến tranh. Sức công phá của vụ nổ tương đương 16.000 tấn bom TNT thông thường. Tuy nhiên, khía cạnh kinh khủng của vũ khí hạt nhân không chỉ nằm ở khả năng tàn phá của nó tại thời điểm phát nổ, mà còn ở lượng lớn chất phóng xạ khuếch tán sau khi thả bom. Nhiều người phải bỏ mạng vì hội chứng nhiễm phóng xạ cấp tính*. Có những người tuy sống sót sau vụ nổ, nhưng hệ lụy của phóng xạ còn kéo dài đến nhiều năm tiếp theo. Kể cả khi chiến tranh kết thúc, không ít người vẫn sống cùng nỗi lo ung thư hay bạch cầu*. Sadako bị chẩn đoán mắc bệnh máu trắng vào năm em học lớp Sáu. Sau khi tiếp xúc với lượng lớn chất phóng xạ trong thời gian ngắn, những triệu chứng sẽ xuất hiện trên toàn thân và nạn nhân sẽ tử vong trong khoảng thời gian từ một đến hai tuần. Hiện tượng bạch cầu trong máu tăng đột biến. Bệnh có thể gây ra các triệu chứng như sốt cao, thiếu máu, nhiễm trùng, chảy máu... Bố mẹ tôi đã làm mọi việc có thể để giúp Sadako đấu tranh với bệnh tật. Cả gia đình cùng nỗ lực tối đa nhằm vượt qua thử thách. Sadako vốn hay nghĩ cho mọi người, dù đau đớn đến đâu khi chống chọi với căn bệnh, em cũng không để lộ ra ngoài, mà luôn giữ khuôn mặt tươi cười vui vẻ để không làm ai lo lắng. Trong câu chuyện này, tôi sẽ kể về sự gắn bó của gia đình mình khi cùng nhau khắc phục gian nan. Sadako chưa từng than thở một lời, em không rên rỉ hay kêu đau bao giờ. Ngày qua ngày, em gấp những điều ước của mình thành hạc giấy. Rồi em mất ở tuổi mười hai, chưa đầy một năm kể từ khi biết mình mắc bệnh. Sadako không phải đứa trẻ duy nhất thiệt mạng vì bom nguyên tử. Tuy em là nguyên mẫu cho bức tượng ở Đài tưởng niệm, nhưng tượng được dựng lên là để an ủi hương hồn của tất cả các em nhỏ cùng cảnh ngộ. Trên bia đá dưới chân Đài tưởng niệm có khắc dòng chữ: Chúng em kêu gọi. Chúng em nguyện cầu. Vì hòa bình cho thế giới. Tôi viết cuốn sách này, không chỉ nhằm thuật lại cuộc chiến chống bệnh tật của Sadako, mà còn muốn các bạn hiểu thêm về những em bé là nạn nhân của mưa bom bão đạn. Khi nhìn bức tượng, ta có cảm giác bé gái đang giúp hạc giấy bay lên trời. Bên trên cánh hạc là vòm không xanh thẳm cao vời vợi, và đằng sau cô bé là những tán lá sum sê của hàng cây xanh lấp lánh. Vào thời điểm bom nguyên tử dội xuống Hiroshima, dù nước Nhật ngùn ngụt khói lửa chiến tranh, chúng tôi vẫn đang sống trong hạnh phúc bé mọn cùng gia đình mình. Buổi sáng mùng 6 tháng Tám năm 1945. Bầu trời cao xanh, tuyệt đẹp. *** Ngàn hạc giấy của Sadako – Những cánh hạc chở khao khát hòa bình. Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc nhưng thảm họa từ vụ nổ nguyên tử ở thành phố Hiroshima vẫn kéo dài mãi về sau. Cô bé Sasaki Sadako, là một trong những nạn nhân từ thảm họa đó. Sadako bị nhiễm phóng xạ, mất vì bệnh máu trắng khi mới 12 tuổi. Và Ngàn cánh hạc của Sadako, là những dòng chữ của anh trai cô bé – Sasaki Masahiro, viết về quãng đời đầy ý nghĩa mà Sadako đã sống.   Đề tài phản chiến trong Ngàn hạc giấy của Sadako Được viết bởi Sasaki Masahiro, một người không chỉ trải qua những giây phút kinh hoàng nhất của thành phố Hiroshima vào thời khắc Mỹ ném trái bom đầu tiên xuống Nhật Bản, mà ông còn là người thân liên quan trực tiếp với nhân vật trung tâm trong cuốn truyện – bé Sadako. Nên có thể nói, những dòng văn của Sadako no Senbazuru – Ngàn hạc giấy của Sadako, những dòng văn được viết lên bằng ngôi kể thứ nhất – tác giả xưng “tôi”, kể lại trải nghiệm, các sự kiện ông tự mình trải qua đã thấm đẫm hơi thở của lịch sử, hơi thở của thời đại. Qua đó mà Sasaki Masahiro gửi gắm, thể hiện tư tưởng phản chiến đầy mạnh mẽ. Cụm từ phản chiến xuất hiện đầu tiên trong tên một phong trào xã hội: Phong trào chống chiến tranh – Phong trào phản chiến. Phong trào này là sự phản đối việc sử dụng bạo lực, gây hấn quân sự, những cuộc xung đột vũ trang giữa các cộng đồng, quốc gia, dân tộc… Trong văn chương, các tác giả thể hiện tinh thần phản chiến bằng nhiều cách thức khác nhau. Như khắc họa, tái hiện hiện thực chiến tranh, những con người thời chiến hay những con người bước ra từ cuộc chiến… mà từ đấy thể hiện những hậu quả do chiến tranh mang lại. Qua đấy, bày tỏ khát vọng yêu hòa bình, mong muốn một thế giới không còn xung đột, làm dấy lên trong lòng người tinh thần phản đối chiến tranh, đoàn kết con người thành một khối, vì một thế giới không còn tiếng súng, tiếng bom, không còn những mảnh đời bất hạnh vì bom đạn. Trong dòng chảy của văn học mang đề tài phản chiến, Ngàn hạc giấy của Sadako vừa góp tiếng nói vào phong trào chung chống chiến tranh trên thế giới, đồng thời, vừa cất lên tiếng nói riêng của một tác giả Nhật Bản, đã trải qua những giờ phút tang thương nhất của cuộc đời, đã phải chứng kiến những người thân yêu lần lượt ra đi trong đau đớn vì chiến trận, khi quả bom nguyên tử đầu tiên được Mỹ đưa vào sử dụng vì mục đích quân sự. Khi nhắc đến đề tài phản chiến trong tác phẩm Ngàn hạc giấy của Sadako, trước hết, cần phải nói rằng đây là cuốn tiểu thuyết nhìn lại: khi con người ở hiện tại, nhìn lại những sự kiện đã xảy ra và viết về những năm tháng đã qua trong lịch sử. Nhưng không chỉ mang tính lịch sử, Ngàn hạc giấy của Sadako còn mang tính tự truyện nhằm khắc họa lên hình tượng một nhân vật có thật, thậm chí là cùng chung dòng máu thân thiết với người viết. Vì thế, đề tài phản chiến ở cuốn sách, vừa thể hiện trong từng mốc thời gian ứng với từng sự kiện có thật, mà còn thể hiện trong những chứng nhân lịch sử, và kết tinh lại, ở hình ảnh cô bé Sadako. Chiến tranh là đau thương, là những mất mát không thể tránh khỏi. Nhưng quả bom nguyên tử Mỹ thả xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki vào bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ Hai sắp kết thúc, việc Nhật đầu hàng Đồng Minh chỉ còn là vấn đề thời gian thì mãi vẫn là điều gây tranh cãi trong lịch sử. Người dân Nhật Bản nói chung, người dân ở Hiroshima nói riêng, đến tận khi trái bom phát nổ, vẫn đang diễn ra nhịp sống thường nhật. Thậm chí, theo mô tả của tác giả Masahiro, khi trái bom rơi xuống, phát nổ tạo hai vệt sáng chói lọi, người dân còn ra đường ngắm nhìn và thốt lên: “Đẹp quá!” Để rồi, về sau nhìn lại, tất cả hiện về là những ký ức đầy đau đớn, cay đắng: “Tại sao lại quăng quả bom tàn khốc đó xuống nước Nhật chứ?” Quả thực là quá tàn khốc khi vụ nổ nguyên tử không chỉ san phẳng thành phố Hiroshima, tạo lên những cảnh tượng tang tóc ám ảnh mãi những ai còn sống: thành phố chìm trong biển lửa, xác người chết, dòng sông nhuốm máu, mưa đen phóng xạ… Mà hơn cả còn là những di chứng chiến tranh kéo dài đến hàng thế hệ: căn bệnh máu trắng, ung thư da mà Sadako và những trẻ em trên toàn nước Nhật gánh chịu, những đứa trẻ khiếm khuyết về ngoại hình hay trí tuệ… Chiến tranh cướp đi tính mạng con người. Và trong thời bình vãn đi tiếng súng, di chứng chiến tranh lại cướp đi tương lai, hi vọng của bao gia đình, bao đứa trẻ khác. Tái hiện hiện thực chiến tranh thảm khốc, khắc họa lên những số phận bất hạnh như cô bé Sadako vào thời đại mà tiếng súng đã lìa xa, lần nữa, tác giả Sasaki Masahiro đã góp một phần tiếng nói vào phong trào chống chiến tranh nói chung, chống việc sử dụng và thử nghiệm vũ khí nguyên tử, vũ khí hạt nhân nói riêng ở hiện tại và tương lai. Đồng thời, thể hiện tinh thần phản chiến, ủng hộ hòa bình trong Ngàn hạc giấy của Sadako cũng là một cách, Sasaki Masahiro bày tỏ tấm lòng nhân đạo, trĩu nặng yêu thương của ông, của một con người đã nếm trải đủ đau thương quá khứ mang lại: tố cáo tội ác chiến tranh, yêu thương những mảnh đời bất hạnh và khát khao về tương lai tốt đẹp. Chẳng vậy mà, con người ấy đã mang tư tưởng phản chiến cùng tinh thần nhân đạo đó, không chỉ gửi gắm vào những con chữ trong Ngàn hạc giấy của Sadako, mà còn gửi vào những chuyến đi thực tế tới khắp nước Nhật, dành trọn gần như phần đời còn lại để đấu tranh cho hòa bình và lan tỏa yêu thương. Câu chuyện của tình yêu và lòng dũng cảm Bên cạnh việc thể hiện đề tài phản chiến, cất lên tiếng nói chống chiến tranh mạnh mẽ, Ngàn hạc giấy của Sadako còn là câu chuyện của tình yêu và lòng dũng cảm, thông qua hình tượng trung tâm: cô bé Sadako nhỏ bé, bất hạnh mà tốt bụng, kiên cường. Mà đó cũng chính là một phần mục đích của tác giả Sasaki Masahiro khi kể lại quá khứ về người em gái nhỏ đã ra đi vì căn bệnh máu trắng: các tế bào bạch cầu ác tính phát triển thành tế bào ung thư da di căn khắp cơ thể: lan tỏa yêu thương tới nước Nhật, và tới cả thế giới. Thật vậy, Ngàn hạc giấy của Sadako là một câu chuyện bi kịch, câu chuyện về cái chết, buồn thương, day dứt và khắc khoải. Nhưng vượt lên trên tất cả đau thương mà chiến tranh mang lại, vẫn là tình yêu thương ấm áp ẩn sau câu từ, con chữ tưởng như chỉ là lời trần thuật đơn thuần về những gì đã qua. Đó là tình thương mà những con người trong hoàn cảnh gian nan, khó khăn nhất gửi tới nhau: Có hoạn nạn mới thấm thía hai tiếng chân tình. Đó là tình thương của hai tiếng gia đình: dẫu vất vả, cực nhọc vẫn luôn cố gắng, hi sinh vì nhau, bên nhau vượt qua nghịch cảnh. Đó là tình thương của những cô bé, cậu bé bất hạnh đã gửi trao cho nhau sự quan tâm đầy thơ trẻ, trong sáng. Một Nhật Bản, một Hiroshima hoang tàn sau chiến tranh, oằn mình vì nạn đói, chuyển mình trước những bước tiến mạnh mẽ chung của cả xã hội, đã sáng lên những tấm lòng như xua tan đêm đen của đạn bom như vậy đấy. Và giữa yêu thương nhỏ nhặt, giản dị của con người thời chiến và hậu chiến ở thành phố Hiroshima, cô bé Sadako hiện lên như một thiên thần nhỏ, giàu lòng nhân hậu, hi sinh cùng thương yêu. Sadako, cô bé phát bệnh khi mới 11 tuổi, thời gian sống chỉ còn 1 năm, bao dự định, bao ước mơ chưa thành, cô bé ấy đã ra đi khi tuổi thơ còn chưa trọn vẹn. Nhưng tin rằng, với quãng đời ít ỏi, Sadako đã thật sự sống những phút giây không hoài phí, đã sống trọn một cuộc đời ngắn ngủi. Sadako yêu thương thật nhiều, cũng trao gửi đi thật nhiều tin yêu. Giữa cơn bạo bệnh, cô bé đó vẫn chỉ một lòng lo cho gia đình, nghĩ suy đến món nợ của người cha, vẫn dành những quan tâm bình dị tới những người xung quanh. Nụ cười của Sadako, vẫn nở trên môi kể cả khi cơn đau hành hạ. Nơi thân thể bé nhỏ, suy kiệt ấy, là cả trái tim kiên cường, nghị lực, bền bỉ khao khát yêu và được yêu, khao khát sống và được sống trọn từng giây phút của đời người. Giọt nước mắt Sadako rơi, những câu nói nghẹn ngào của em: “Chị ơi, có phải lần sau sẽ đến lượt em không?”, “Bom nguyên tử đáng sợ thật đấy.” như những vết dao cứa vào tim độc giả, đau nhói. Sadako kiên cường trong đau đớn khiến ta khâm phục, nhưng một cô bé lo sợ trước cái chết cận kề lại càng làm ta cảm động, đau xót. Bởi, đó mới thật sự là cuộc đời, đó mới thực sự là chiến tranh và nhắc nhở mỗi người rằng, vết thương chiến tranh khi xưa, vẫn chưa từng khép miệng. Nhưng dẫu cuộc đời có khổ đau, số phận có nghiệt ngã thì yêu thương, tình đời, tình người, lòng dũng cảm vẫn luôn ngời sáng. Như cách Sadako đã kiên cường ra sao, như cánh hạc giấy mỏng manh đã chở nặng tâm tư bé gái 12 tuổi đến lúc giã từ cõi đời thế nào. Bài ca của niềm hi vọng Chợt nghĩ, cuộc đời cô bé Sadako, thật giống với bông hoa anh đào, biểu tượng cho lòng dũng cảm của con người Nhật Bản. Vòng đời của hoa có ngắn ngủi, nhưng khi cánh hoa rụng xuống, cũng chính là lúc loài hoa ấy bước vào quá trình ủ nụ, để mùa xuân năm sau, tiếp tục bung sắc. Sadako ra đi, song yêu thương em trao gửi, đã lan tỏa và nuôi dưỡng tâm hồn người ở lại. Cô bé ấy mất, nhưng tình thương của em vẫn còn sống mãi. Những cánh hạc em gấp, có lẽ không chỉ chứa đựng nguyện ước về một ngày em khỏe bệnh, về một ngày cha em trả được hết nợ, mà còn chứa đựng nguyện ước, hi vọng về một ngày thế giới vắng tiếng bom rơi, để không còn ai, phải chịu nỗi đau em đang mang. Chẳng thế mà, bức tượng bé gái, giơ cao đôi tay ôm cánh chim hạc giơ lên bầu trời xanh ở Công viên Hòa Bình tại thành phố Hiroshima, lấy nguyên mẫu từ cô bé Sadako, đã trở thành một trong những biểu tượng hòa bình của cả nước Nhật. Cô bé Sasaki Sadako, là một nhân vật có thật và Ngàn hạc giấy của Sadako, là câu chuyện có thật kể về cô bé đó. Nhưng Sadako, có lẽ từ lâu đã trở thành một hình ảnh biểu tượng cho tuổi thơ Nhật Bản kiên cường, vươn lên từ đau thương chiến tranh mà lan tỏa yêu thương, mà nói lên tiếng nói hi vọng vì một ngày mai hòa bình. Hình ảnh ấy, cũng như bao hình ảnh trẻ em khác trên toàn thế giới nói chung, và như chính hình ảnh trẻ em Việt Nam nói riêng, vẫn hát mãi những khúc ca hòa bình, về ngày mai, về tương lai không còn tiếng bom rơi, đạn nổ: “Em ước mong sao, bầu trờ chẳng đen bóng mây Em ước mong sao trẻ thơ đừng vương bão giông Vì em biết chân trời đang khép… Vì em biết nỗi đau nghiệt ngã…” (Lời bài hát Em ước mong sao) “Những cánh én chấp chới của mọi tuổi thơ Những cánh én lấp lánh đầy nhạc và thơ Em ước mong sao bầu trời chẳng đen bóng mây Để ngàn chim hót, để đàn én bay” (Lời bài hát Cánh én tuổi thơ) Review Mọt Mọt Mời các bạn đón đọc Ngàn Hạc Giấy của Sadako của tác giả Sasaki Masahiro.
Bệnh Án Của Thần Linh Tập 1
Trẻ trung và tài năng, tương lai xán lạn bày ra trước mắt, nhưng sẵn tính khác người, chàng bác sĩ Kurihara Ichito đã vứt bỏ cơ hội thăng tiến ở văn phòng y tế đại học mà đâm đầu vào làm việc tại bệnh viện Honjou xứ nhà quê, hòng lánh xa chốn đông đúc, xô bồ. Vậy mà đời chẳng như mơ, tấm biển “Khám chữa bệnh 24 giờ, 365 ngày” treo trước cổng bệnh viện Honjou đã khiến Kurihara trở nên tiều tụy và quay cuồng trong nỗi hồ nghi về mục đích đời mình. Làm sao để trở thành một bác sĩ tốt? Hối hả chạy theo những kỹ thuật y học không ngừng phát triển, hay dừng hẳn lại để chăm lo cho những bệnh nhân già yếu cô độc bị xã hội bỏ rơi? Và rốt cuộc cái bệnh viện tỉnh lẻ này có gì để níu chân anh ở lại? Đầy ắp những khắc khoải nhân sinh, nhưng đồng thời nồng ấm tình người và bừng sáng niềm lạc quan tuổi trẻ, câu chuyện về người bác sĩ do một bác sĩ chấp bút đã làm rung động bao trái tim độc giả, trở thành một trong những cuốn sách bán chạy tại Nhật Bản và được dựng thành phim điện ảnh. *** Bệnh án của thần linh là quyển sách cuối cùng mà mình đọc trong năm 2018 (hoàn thành ngay trong đêm 31 luôn) và là quyển sách đầu tiên mình review của năm 2019. Lý do mình biết đến tác phẩm này thì phải quay ngược một chút về mấy năm trước, khi mình tình cờ biết đến nhóm sub phim Gothcafe. Hồi ấy mình theo bộ phim "Quán ăn đêm" mà nhóm thầu, xong thích luôn cách dịch và cách chọn phim để sub của các bạn ấy. Xong đến khi Nhã Nam thông báo sắp xuất bản quyển này và thấy status thông báo dịch giả chính là bạn chủ fanpage thì mình quyết định mua luôn, không đắn đo gì. Một là có niềm tin tuyệt đối về gu của bạn ấy, hai là cái tên truyện nghe đáng yêu quá chừng, và thứ ba là do bìa sách đẹp mê hồn, nhìn phát đã phải lòng luôn. Phải nói đây là quyển sách có bìa đẹp nhất mà mình từng đọc luôn.    Truyện kể về cuộc sống của bác sỹ trẻ tuổi Ichito Kurihara tại một tỉnh nhỏ Honjo. Tuy bị đánh giá là tính tình hơi lập dị nhưng với sự dày dặn kinh nghiệm y học và tấm lòng hết mình vì người bệnh và bạn bè mà anh được tất cả mọi người vô cùng kính trọng và thương mến. Đặc biệt trong tình trạng thiếu bác sỹ trầm trọng tại tỉnh lẻ thì người luôn thức đêm thức hôm làm việc suốt 40 tiếng đồng hồ như anh lại càng trở nên quan trọng. Có thể tóm gọn mô tả con người này trong 1 câu là y đức toàn  tài. Ngoài các mối quan hệ tốt trong công việc, Ichito có một người vợ không những luôn thấu hiểu, bao dung mình mà còn luôn khéo léo, tháo vát săn sóc căn hộ nhỏ bé của hai người. Anh còn có hai người bạn tốt đầy mơ mộng hàng xóm cùng khu nhà trọ cũ kỹ, lúc nào cũng sẵn sàng giúp anh giải tỏa bớt nỗi căng thẳng, mệt mỏi trong lòng. Nhìn qua thì có vẻ êm đềm là vậy nhưng vẫn có những lúc anh cảm thấy hoài nghi không biết con đường mình lựa chọn có đúng đắn hay không. Cho đến một ngày anh nhận được thư mời tham gia viện y tế tại trường đại học và...... Quyển sách chia thành 4 câu chuyện nhỏ xoay quanh công tác thường nhật của Ichito, đồng thời cũng nối tiếp nhau trở thành cuộc hành trình tìm ra ý nghĩa thực sự của nghề y cũng như quan niệm về sự thành công, sự sống của Ichito. Với thể loại Slice of life thế này thì thực sự là muốn spoil nội dung cũng không biết nên spoil thế nào cho phải, vì chỉ khi cầm quyển sách trên tay, yên tĩnh ngầm nghiễn từng trang sách thì người đọc mới thực sự tìm ra được điều mà tác giả muốn truyển tải. Thú thực là khoảng 50 trang đầu của quyển sách khiến mình hơi hụt hẫng một chút, vì giọng văn tự sự và tưng tửng vốn không phải là gu của mình. Nhưng càng kiên nhẫn đọc về sau mình càng tìm được cảm giác "A, đây chính là quyển sách dành cho mình." Lời văn càng về sau càng rất dịu dàng, mềm mại, đúng chất Nhật Bản mà mình yêu thích. Chưa kể ngoài những dòng tâm sự, triết lý thì những câu tả cảnh sắc và chuyển cảnh vô cùng uyển chuyển cũng cực kì hợp ý mình.  Mình thích những cuộc nói chuyện dí dỏm mà cũng vô cùng sâu sắc giữa những người sống trong khu nhà trọ ấy. Giữa những bộn bề cuộc sống, thật kì diệu khi đâu đó vẫn còn tồn tại những tình bạn đẹp, chân thành đến thế. Có những người bế tắc suốt bao năm trời luôn thất bại liền liều mình kết liễu bản thân nhưng chỉ một đêm tỉnh dậy, được thức tỉnh bởi hơi ấm tình bạn và gia đình lại tiếp tục tiến về phía trước. Đó chính là kiểu tình bạn mà mình luôn luôn tìm kiếm và ngưỡng mộ. Không cần phải quá thân thiết, dành quá nhiều thời gian cho nhau hay can thiệp đến cuộc sống của nhau nhưng đủ quan tâm và chân thành để làm cuộc sống đối phương hạnh phúc hơn, dù chỉ là những điều cỏn con nho nhỏ. Bên cạnh đó thì mối quan hệ giữa vợ chồng bác sỹ và tình đồng nghiệp giữa các bác sỹ với nhau cũng cực kì đáng yêu, là những điểm sáng của truyện nữa. Mình cũng cực kì thích cách tác giả truyền tải lí tưởng nghề y và nhiếp ảnh vào câu chuyện. Có thể vì giấc mơ hồi bé của mình là mua được một chiếc máy ảnh để lưu giữ mọi khoảnh khắc tự nhiên trên thế giới này nên mình cực kì thích thú khi đọc những phân đoạn về vợ của Ichito. Thật đáng tiếc là đến giờ mình vẫn chưa đủ đam mê, dũng cảm cũng như tài năng để làm được điều này. Với cá nhân mình thì dù tương đồng đề tài nhưng Bệnh án của thần linh có lẽ sẽ dễ đọc hơn là Người đan thuyền xếp chữ. Nếu ai đang tìm kiếm một câu chuyện nhẹ nhàng đậm chất Nhật với độ dài vừa phải thì đây sẽ là một lựa chọn hợp lý. Tổng kết: 8.5/10 (Định cho 8/10 nhưng thôi cho thêm 0.5 vì cái bìa sách quá sức xinh đẹp - đẹp nhất trong số các tác phẩm của Nhã Nam từ trước tới nay với mình -  và văn phong dịch trau chuốt của dịch giả) Người Review: Blue Faith *** Chuyện xoay quanh những câu chuyện nghề và trăn trở cuộc sống của bác sĩ Ichito Kurihara ở một bệnh viện nhỏ tuyến tỉnh, cùng với mối quan hệ giữa anh và vợ mình, những người xung quanh và các bệnh nhân “đặc biệt” ở đây. .Quay lại câu chuyện thì bác sĩ nhân vật chính có cái tên khá đặc biệt: Ichito 一止 nếu viết dọc sẽ là 正 (chính nghĩa). Bác sĩ này khá trẻ, theo mình nhớ là mới tốt nghiệp về lại bệnh viện đây 5 năm, làm việc ở một bệnh viện nhỏ tuyến dưới nhưng lại làm một điều hơi khác thường là treo biển khám chữa bệnh 24 giờ, 365 ngày trong năm. Điều này đồng nghĩa với việc cứ cuối tuần sẽ đầu tắt mặt tối, và những ngày nghỉ Tết cũng chỉ còn trong mộng tưởng, đã bận vậy rồi nhưng anh Ichito này còn mắc thêm cái xui là cứ hôm nào ảnh trực đêm thì ca cấp cứu rồi ca nhập viện lại tăng nhiều hơn, tới mức các y tá phải đánh dấu lại ngày nào anh làm để chuẩn bị tinh thần nghênh chiến bão táp. Cuốn này là cuốn đầu tay của tác giả Natsukawa Sosuke, cũng là một bác sĩ, nên những tình tiết trong bệnh viện được mô tả rất chân phương, mộc mạc, bản thân mình lúc đọc truyện quên mất là đã từng xem phim (xem phim lâu lắm rồi, hồi ấy xem vì idol đóng :”>) nhưng chỉ cần men theo những lời văn khắc hoạ trong truyện cũng có thể hình dung ra được một bệnh viện ở vùng quê nhỏ, rồi hình dung được cả con đường heo hắt ánh đèn ở ngoài cổng thành Matsumoto nơi vợ bác sĩ đợi anh về này nọ.   Cuốn này có ba mẩu truyện nhỏ, có những nhân vật khác nhau xuất hiện trong cuộc đời bác sĩ, để giúp bác sĩ đưa ra quyết định to lớn ảnh hưởng tới cuộc đời sau này: tiếp tục ở lại bệnh viện này chữa trị cho những ông bà cao tuổi và những kẻ nát rượu hay đi về bệnh viện đại học tuyến đầu để đương đầu với những ca khó nâng cao tay nghề. Mình rất phục cách viết của tác giả này, chi tiết truyện mà kể thì đau xé lòng, nhưng khi đọc tác giả đan xen những chi tiết rất nhỏ, giọng văn rất vui tươi, đọc xong cảm giác trong lòng nhẹ nhàng thư thái, và đương nhiên là càng thêm kính trọng một cái nghề mà trước giờ mình đã vốn rất ngưỡng mộ: nghề y :D. Có lẽ ở quanh ta không thiếu những người đang trăn trở về mỗi một quyết định của bản thân mình, nhưng rồi đọc cuốn này xong mình mới nhận thấy, suy nghĩ nhiều trước khi quyết định cũng là chuyện cần thiết, nhưng có những lúc chính một nhân vật không ngờ tới xuất hiện kéo theo câu chuyện giữa ta và họ, kết quả là lựa chọn sẽ rất tự nhiên mà có thôi, đọc hết gập truyện lại thì mình cũng thấy mừng cho bác sĩ, vì đã có quyết định của chính mình, ít nhất là ở thời điểm hiện tại. Sách đọc nhẹ nhàng mau hết, đáng ra thể loại văn học đọc nhanh không lắt léo này mình ít khi có ấn tượng nhiều nhưng cuốn này khá riêng lại đúng ngành nghề mình thích (mình thích bác sĩ và cảnh sát, truyện nào có yếu tố này tự dưng sẽ điểm cao lol), đánh giá cũng cao hơn bình thường chút ^^. Đánh giá: 4/5  Review: yuu3008.com *** Lời bạt Câu chuyện mùa Xuân Uehashi Nahoko Một câu chuyện thật ấm lòng... Gấp sách lại, đó là suy nghĩ đầu tiên hiện lên trong tôi. Tác phẩm của tôi đã vinh hạnh được nhà văn trẻ Natsukawa ưa thích, và vì cái duyên ấy, anh đã ngỏ ý nhờ tôi viết lời bạt cho cuốn sách của anh. Lúc đó tôi rất bất ngờ, tôi đã thưa với anh rằng chuyện "viết lời bạt" tôi thật không rành cho lắm. Nhưng anh nói rằng chỉ cần viết một đoạn cảm nghĩ là được, nên tôi xin mạn phép mượn một vài trang giấy để chia sẻ cảm giác dễ chịu ấm áp trong lòng tôi với quý độc giả vừa đọc xong truyện. Mong các bạn kiên nhẫn dành cho tôi một chút thời gian. Khi đọc xong cuốn sách, trái tim tôi như được thắp sáng vậy. Chẳng hề có những phút hồi hộp, thót tim. Chỉ có ánh sáng nhỏ bé và yên tĩnh tựa ánh lửa nơi đầu ngọn nến, nhẹ nhàng từ những con chữ truyền sang, sáng lên trong tâm khảm, khẽ rung rinh, rồi ngay sau đó lại tiếp tục lưu giữ hình hài một ngọn lửa tĩnh lặng. Đối với tôi, đây là một câu chuyện như thế. Vừa khắc họa sự sống và cái chết của con người, vừa viết nên một câu chuyện ấm áp tựa ánh nến nhỏ bé, việc ấy thực rất khó. Thế nên tôi đây có đôi phần cảm phục anh Natsukawa, người đã làm được điều đó ngay trong tác phẩm đầu tay. Sự sống, cái chết, tình yêu của con người, bản thân những điều ấy đã mang theo sức mạnh phi thường. Trong chương trình Hành trình nhỏ của đài truyền hình NHK có một phiên bản được thực hiện bằng cách đọc những lá thư từ khán giả, nếu quý độc giả đây đã từng xem chương trình ấy thì có lẽ sẽ hiểu được điều tôi muốn nói. Những câu chuyện liên quan đến sự sống - cái chết hay tình cảm hướng về người khác, dù chỉ xuất hiện trong hồi ức của những con người đã sống một cuộc đời hết mực bình thường, vẫn mang theo sức cuốn hút mãnh liệt, tác động mạnh mẽ tới trái tim người nghe. Khoảnh khắc đời thực ấy vô cùng sống động, lại mang sức mạnh sâu sắc nên chẳng cần phải biên tập làm tăng phần kịch tính, chỉ cần những câu chuyện từ những cánh thư đã vang vọng tới trái tim những khán thính giả ở nơi xa xôi. Tại những cơ sở y tế, nhất định cũng có rất nhiều câu chuyện như thế. Thiết nghĩ, trong tâm tư của người bệnh, hay trong vô vàn cách thức mà họ lìa bỏ cõi đời, hẳn đã khỏi sinh một điều gì đó sống động rực rỡ. Những vị bác sĩ ngày ngày chăm sóc cho họ, tiếp xúc trực tiếp với họ nhất định không thể ngăn bản thân mình trằn trọc suy nghĩ về điều ấy, rằng dù mô tả thế nào chăng nữa thì vẫn có gì đó không đúng, không chính xác... Thế nên, dẫu các bác sĩ biết rằng mọi trải nghiệm của họ khi thuật lại đều có thể làm lay động trái tim độc giả, nhưng để viết thành truyện thì thật là một công việc khó khăn. Tuy không phải là bác sĩ, nhưng bấy lâu nay tôi cũng đã xỏ hai chiếc dép rơm mang tên "nhà văn" và "nhà nghiên cứu nhân học văn hóa" mà bước đi, nên tôi hiểu rất rõ tình trạng tiến thoái lưỡng nan mà trải nghiệm cuộc đời trao tặng cho những người sống bằng ngòi bút. Muốn viết, nhưng càng viết lại càng cảm nhận được khoảng cách với "điều ấy". Sự tiến thoái lưỡng nan này, có lẽ những tác giả viết thể loại phi hư cấu sẽ nhận thấy rõ nét hơn. Còn đối với những nhà văn, tôi nghĩ đó chính là một viên đá thử vàng. Chỉ với những mô tả bằng văn chương - tức sự hư cấu mang tên "chuyện kể" - ta mới có thể biến những kinh nghiệm cá nhân thành thứ gì đó ngân vang trong lòng những độc giả chưa từng có trải nghiệm tương tự. Đó chính là công việc của một nhà văn.   Trong số những bác sĩ ngày ngày đối diện với sinh tử của con người, có vài vị đã viết nên những tác phẩm tuyệt vời. Phương pháp mà họ sử dụng để chuyển hóa "kinh nghiệm" thành "chuyện kể" vô cùng đa dạng, nhưng thảy đều hấp dẫn. Điều đó cũng giống với những chi tiết về "cà phê" xuất hiện nhiều lần trong cuốn sách này. Có người đặc biệt sử dụng bột cà phê hòa tan, tạo ra hương vị đậm đặc quá mức, tầm thường một cách có chủ đích, vừa ngọt lịm lại vừa đắng ngắt. Có người lại kén chọn hạt cà phê, chỉ uống loại cà phê đen nguyên chất thơm lừng. Tác giả Natsukawa không nhấn mạnh vị đắng gay gắt, cũng không câu nệ những giá trị lớn lao, mà đã tạo ra cho cuốn sách này một hương vị thơm ngon, chân thành, dễ chịu, giống như cà phê Trân Châu Ả Rập của hãng Inoda được pha đầy sữa - loại cà phê mà Ichito ưa thích. Cách nói chuyện của Ichito, vẻ dễ thương của Haru, không khí trong lành của Matsumoto, sự hiền từ của bà Azumi, sự quan tâm của các bác sĩ cấp trên, tất cả những điều ấy nhẹ nhàng bao bọc hiện thực nghiệt ngã về sinh và tử, khiến nó tái sinh trở thành một câu chuyện tựa như nắng ấm. Vì lẽ nào đó mà một số người thường hay hiểu sai về "truyện", họ cho rằng truyện là thứ nông cạn, ấu trĩ, và vô giá trị hơn nhiều so với "hiện thực cuộc sống". Theo tôi, định kiến ấy là hết sức sai lầm. Nếu không phải là một người đã cắm mũi kim cảm xúc vào sâu bên trong "hiện thực", thì không thể nào viết nên được một truyện hay. Một câu chuyện hay, đó là thứ kết tinh từ ước mong tha thiết rằng " muốn nó như thế này - nếu được như thế này thì...". Chính vì hiểu rõ mùa đông, nên mới có thể họa nên mùa xuân. Khi đối diện với cái chết của một người nào đó, đột nhiên hình hài cuộc sống hữu hạn của bản thân sẽ tiến gần đến tâm khảm của ta. Cuộc đời vốn dĩ vô thường... Chính vì ngày ngày không ngừng trăn trở suy tư về điều đó, nên mới không thể ngăn bản thân thôi trằn trọc nghĩ về việc ôm lấy sự trống rỗng đó mà sống tiếp. Truyện là thứ được tạo ra để những người đó, bất chấp trăn trở trong lòng, có thể thắp lên ngọn lửa nơi trái tim và tiến bước trên đường đời. Và trong tim các độc giả được trao gửi điều ấy, cũng mang theo năng lượng để thắp lửa. Ichito, Haru, và ngay cả tác giả đều là những người trẻ tuổi. Vô cùng trẻ. Những con người trẻ tuổi ấy đối diện với những người đã chạm tới điểm cuối của cuộc đời như bà Azumi, ngắm nhìn một mùa đông lạnh cóng xương. Dẫu vậy, họ đã nghĩ về mùa xuân. Một mùa trẻ trung và dễ chịu. Vậy nên, đối với tôi, cuốn sách này có lẽ là một câu chuyện mùa xuân rất đỗi ấm lòng. Abiko, ngày 14 tháng 4 năm Heisei thứ 23[20]. (Uehashi Nahoko/ - Nhà văn, giảng viên Đại học Nữ sinh Kawamura Gakuen) Mời các bạn đón đọc Bệnh Án Của Thần Linh Tập 1 của tác giả Natsukawa Sosuke.
Bỗng Dưng Muốn Sống
Với bốn cuốn tiểu thuyết đã xuất bản dạng khổ lớn và ba cuốn dạng sách bỏ túi, Laurent Gounelle đã hai lần được ghi tên trong bảng xếp hạng 10 tiểu thuyết gia bán được nhiều sách nhất tại Pháp. Trong bảng top 10 năm 2014, do tuần báo Le Figaro bình chọn, anh đứng ở vị trí thứ 10 với 430.000 cuốn sách đã được bán. Là một chuyên gia về môn Khoa học nhân văn, được đào tạo tại Pháp và Hoa Kỳ, là diễn giả thường xuyên của các trường đại học, Laurent Gounelle đi khắp nơi trên thế giới để gặp gỡ, trò chuyện. Và trong mỗi dịp ấy, anh quan sát, ghi nhận từ mỗi người, theo cách của mình, đem đến những luồng sáng, những lời giải thích cho vấn đề cốt lõi nhất: làm sao để tinh thần thăng hoa và đem lại cho cuộc sống một ý nghĩa tích cực. Tôi đã rất ấn tượng và bị cuốn hút trước sự đam mê của anh đối với nền triết học phương Đông, mà theo tôi, anh đã thẩm thấu khá sâu đậm. Trong tác phẩm của mình, anh luôn nhấn mạnh đến sự sống chậm, đến thiên nhiên, đến những gì mà từ ngàn đời Tạo hóa ban tặng cho chúng ta. Laurent Gounelle phân tích một cách thuyết phục những bất cập của cuộc sống hiện đại luôn hối hả, xô bồ và chỉ ra mặt trái của sự toàn cầu hóa… Những phát triển của ngành công nghệ đã dần dần bào mòn đi khả năng cảm thụ và thấu cảm của con người. Cảm xúc trở nên lạnh lẽo, nhạt nhòa hơn khi ta bấm trên bàn phím một tin nhắn, một lá thư điện tử để hỏi thăm nhau thay bằng đến gặp nhau trò chuyện như trước kia. Nhiều thuần phong mỹ tục cũng bị cơn bão công nghệ cuốn dần đi. Anh cho rằng niềm vui, hạnh phúc, sung sướng hay khổ đau đều đến từ chính ta, ta suy nghĩ hay nhìn cuộc sống của mình như thế nào thì nó sẽ ra thế ấy. Trong cuốn sách Bỗng dưng muốn sống này, nhân vật chính Jonathan, là một người đàn ông trẻ đầy tham vọng và tràn trề nhựa sống, nhưng đang gặp rắc rối trong cuộc sống gia đình và công việc. Anh là đồng sở hữu một văn phòng bảo hiểm. Công việc bề bộn cùng những áp lực về doanh thu, về thu nhập và nhu cầu trong cuộc sống đã khiến anh bị cuốn vào một đời sống đơn điệu, sa vào những mánh khóe chiêu dụ khách hàng để có được các hợp đồng. Và rồi anh cùng gia đình bé nhỏ của mình bị rơi vào một cái bẫy do chính cộng sự giăng ra hòng mua rẻ số cổ phần của anh trong công ty. Đúng lúc bẫy vừa chụp xuống lưng chừng thì anh nhận được lời dự đoán của một cô gái Bô-hem: “Anh sắp chết…!”. Từ chỗ hoang mang lo sợ, chán nản, buông xuôi rồi từ từ thay đổi góc nhìn, cách cảm nhận cuộc sống, xoay chuyển tư duy và mục tiêu kinh doanh, âm thầm làm những điều thiện lành nho nhỏ mang lại niềm vui bất ngờ cho người khác, Jonathan đã “ngộ” ra được giá trị của sự an lạc. Khi hành động mang lại lợi ích, hạnh phúc cho người xung quanh, anh đã tự tạo ra được nguồn cảm hứng cho những ngày mới tràn đầy năng lượng. Anh đã không còn cảm thấy sợ cái chết. Nhưng hơn bao giờ hết, anh bỗng dưng khao khát được sống - một cuộc sống năng động mà an nhiên, từng giây từng phút gieo hạt giống yêu thương, từng khoảnh khắc nở nụ cười thân thiện, để đón trở về trong lòng mình sự thanh tĩnh, bình yên. Trải nghiệm những ngày đếm lùi để đối điện với bản án tử bí hiểm mà cô gái Bô-hem xa lạ báo trước, Jonathan cùng những phát hiện mới mẻ của mình sẽ mang lại cho bạn đọc nhiều điều bất ngờ, ẩn chứa những thông điệp kỳ diệu của cuộc sống và bạn sẽ hiểu vì sao nhân vật của chúng ta bỗng dưng muốn sống. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Paris tháng 11/2017 Hiệu Constant *** Review Yến Yến:   “Để sống thoải mái cuộc sống của mình, – Bác Margie tiếp tục lên tiếng, – điều cần thiết là lắng nghe những gi vọng tới từ sâu trong tâm hồn chúng ta. Lắng nghe những bức thông điệp thì thầm phát ra từ chính tâm hồn chúng ta. Nhưng tâm hồn chúng ta thì giống như một thiên thần, luôn thì thầm bằng một giọng quá dịu êm, quá nhỏ, đến nỗi ta phải dỏng tai lên. Cháu làm sao có thể nghe thấy nó khi cháu đứng giữa đám đông huyên náo không ngừng chứ?…” Jonathan được nhắc đến là một nhân vật chính của cuốn sách này. Có lẽ khi cầm cuốn sách này trên tay, hầu như tất cả những người trẻ đều thấy bản thân mình ở trong đó: Bị cuốn đi bởi những bận rộn của lối sống hiện đại mà không hề có thời gian cho tâm hồn được ngơi nghỉ. Jonathan là một điển hình cho một người như thế – người đàn ông trẻ đầy tham vọng và tràn trề nhựa sống. Anh đồng sở hữu một văn phòng bảo hiểm nhưng công việc bộn bề cùng với những áp lực về doanh thu, về thu nhập và nhu cầu trong cuộc sống đã khiến anh bị cuốn vào một đời sống đơn điệu. Gia đình anh bắt đầu rạn nứt và đổ vỡ. cuộc sống ngày một bế tắc thì anh lại nhận được lời dự đoán của cô gái xem đường chỉ tay Bô-hem: “Anh sắp chết!” Cuộc sống của anh ngày một lao đao hơn khi anh không thể nào thoát ra khỏi ý nghĩ về cái chết của bản thân mình. Cuối cùng anh đã quyết định nghỉ việc, tìm đến nghỉ dưỡng để tịnh tâm. Đây cũng chính là quãng thời gian anh gặp bác gái của mình – Bác Margie – người phụ nữ với những chiêm nghiệm về cuộc đời và nhân sinh đã giúp anh cảm thấy “bỗng dưng muốn sống”. Bác giúp anh hòa hợp với thiên nhiên, giúp anh hiểu được mỗi chúng ta “là những cá thể hoàn chỉnh và thiên nhiên dẫn dắt chúng ta cảm nhận điều đó một cách sâu sắc, trong khi xã hội tạo ra nơi chúng ta sự trống vắng thiếu hụt”. Bác giúp anh biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm trong tâm hồn mình, để hiểu rõ, cuối cùng thì điều thực sự mình muốn là gì? Bằng những chiêm nghiệm qua cách dẫn dắt của bác Margie về sự sống chậm, đến thiên nhiên, đến những gì mà từ ngàn đời tạo hóa ban tặng cho chúng ta đã giúp chúng ta hiều bản thân mình hơn một cách nhẹ nhàng. Từ đó, Jonathan đã cân bằng lại được cuộc sống vồn vã trước kia của mình. Anh bắt đầu dành thời gian cho bản thân mình hơn đồng thời âm thầm làm những điều thiện lành nho nhỏ để mang lại niềm vui bất ngờ cho người khác. Gửi một tách cà phê cho một cô gái ngồi âu sầu ở quán, tặng một bó hoa hồng ngẫu nhiên cho người thứ bảy bước xuống từ một chuyến tàu,… Cuối cùng, anh cũng đã ngộ ra được giá trị của sự an lạc và phá bỏ lời nguyền về cái chết của cô gái Bo-hem. Và đơn giản, ai chẳng không muốn “muốn sống” một cuộc sống tuyệt với như thế. Hiểu tận cùng nỗi đau Từ cửa sổ phòng tắm trên tầng lầu ngôi nhà nhỏ màu đỏ mà anh thuê từ gần ba tháng nay trong một con hẻm xinh xắn của thành phố San Francisco, Jonathan vừa cạo râu, vừa quan sát lũ cỏ ba lá tròn mọc nhanh một cách vô cảm trên bãi gazon*. Bãi cỏ thảm hại, vàng ủng dưới ánh nắng chói chang nghiệt ngã của mặt trời tháng Bảy, dường như đã sẵn sàng xin chào thua rồi. Dùng chất clopyralid* thì chẳng ăn nhằm gì. Từ đầu tháng phun cả một bình đầy mà không mang lại tác dụng nào. Phải nhổ thôi, từng cọng một, mình buộc phải làm thế, - Jonathan tự nhủ trong lúc bàn cạo râu điện rà rà mơn man dưới cằm trong một âm thanh rì rì không ngớt. Anh thiết tha chăm sóc khu vườn đến mức tốt nhất: khu vườn nằm sau nhà và quay hướng Nam, là sân chơi cho cô con gái nhỏ của anh, Chloé, trong kỳ nghỉ cuối tuần, khi nó về ở với bố, xen kẽ hai tuần một lần. • Gazon là dạng bãi cỏ mọc do được gieo hạt, không phải là bãi cỏ mọc tự nhiên. • Một loại thuốc diệt cỏ. Vừa tiếp tục cạo râu, Jonathan vừa kiểm tra thư điện tử trên chiếc điện thoại thông minh của mình. Những yêu cầu của khách hàng, một đơn khiếu nại, một bữa ăn trưa bị hoãn, bản báo cáo hàng tháng của ban Kế toán, một món quà tặng thương mại của Công ty Cung ứng điện thoại và vài bản thông tin mới. Quay lại trước gương, anh vớ một cây phớt nhỏ và một lọ thuốc nhuộm tóc màu đen. Rất tinh tế, anh thấm nước nhuộm lên những sợi tóc bạc đầu tiên trên đầu mình. Tuổi ba mươi sáu vẫn còn quá sớm để có thể chấp nhận dấu ấn thời gian. Anh hối hả chuẩn bị để kịp đến đúng giờ hẹn, cuộc gặp gỡ hàng ngày ở quán cà phê trên quảng trường diễn ra mỗi sáng kể từ khi thành lập công ty bảo hiểm từ 5 năm trước, ba cộng sự đều gặp nhau tại đó để dùng cà phê sáng, nhanh thôi, ngay trên mảnh sân hiên ngoài trời. Một trong ba người chính là bạn gái cũ của anh, Angela, và sự chia tay mới đây giữa anh và cô ấy đã không làm thay đổi thói quen hình như đã trở thành bất biến này. Văn phòng bảo hiểm của họ là cơ quan duy nhất trong thành phố chuyên về lượng khách hàng gồm các tiểu thương nhỏ của cả khu vực. Sau thời kỳ khởi đầu khá khó khăn, văn phòng hiện thời đã vận hành tốt và cho phép các cộng sự cùng trợ lý của họ được nhận lương tháng, dẫu khoản tiền lương ấy vẫn còn khiêm tốn. Văn phòng đã bén rễ và hứa hẹn những viễn cảnh tăng trưởng. Chắc chắn là còn phải chiến đấu và đôi khi Jonathan cảm thấy chút nản chí chợt thoáng qua tâm tưởng, nhưng anh tiếp tục tin rằng mọi chuyện đều có thể xảy ra, và những giới hạn duy nhất chính là giới hạn mà ta tự đặt cho mình. Anh bước xuống bậc tam cấp và đi ra cổng. Không khí thơm nồng phảng phất mùi sương mù mùa hè. Tình trạng khu vườn nhỏ nằm giữa ngôi nhà và đường phố cũng chẳng khá khẩm hơn khu vườn đằng sau kia. Khu vườn này quay hướng Bắc, lại bị rêu mọc ở khắp nơi. Có thư tín nằm đợi Jonathan trong thùng thư. Anh bóc một phong thư do nhà băng gửi tới. Tiền thanh toán phí sửa xe đã khiến tài khoản bị báo động đỏ. Phải nhanh chóng cứu trợ thôi. Lá thư thứ hai đến từ nhà cung ứng điện thoại. Có lẽ lại là một hóa đơn nữa… - Xin chào! Cũng ra lấy thư tín như anh, người hàng xóm chào anh với dáng vẻ hoàn toàn thư thái, điệu bộ của kẻ mà hình như cuộc sống luôn mỉm cười với hắn. Jonathan cũng chào đáp lại. Một con mèo cọ vào chân anh và miệng kêu meo meo. Jonathan cúi xuống âu yếm nó. Đó là con mèo của một bà lão ở trong khu chung cư nhỏ bên cạnh. Jonathan thường xuyên thấy nó trong vườn nhà mình, Chloé vui thích vô cùng khi gặp nó. Trên phố, con mèo liền tiến lên đi trước Jonathan rồi kêu meo meo khi đến khu chung cư, mắt ngước nhìn anh. Jonathan đẩy cánh cửa và nó lao nhanh vào bên trong, trong lúc mắt vẫn không rời khỏi anh. - Mày muốn tao đi cùng với mày ư, đúng không? Tao đang vội lắm, mày biết đó, - Jonathan nói trong lúc mở cửa thang máy. Đi nào, nhanh lên đi! Nhưng con mèo cứ đứng lì ở chân cầu thang bộ, miệng kêu meo meo nhẹ nhàng. - Mày thích đi cầu thang bộ hơn, tao biết… nhưng tao không có thời gian. Nào, đến đây đi… Con mèo chớp chớp mắt nài nỉ. Jonathan thở hắt ra. - Mày quá đáng lắm rồi đấy… Anh ôm con mèo trên tay và bước nhanh qua các bậc cầu thang lên tận tầng ba. Anh bấm chuông rồi lại đi xuống ngay mà không đợi. - A! Mày đây rồi, đồ háo chiến! - Tiếng bà cụ già vang lên. Jonathan bước nhanh trong con hẻm giữa những ngôi nhà còn ngái ngủ, rồi rẽ phải vào phố buôn bán để đến khu quảng trường nhỏ, nơi anh có hẹn. Anh chợt nghĩ đến sự kiện diễn ra hôm trước mà anh đã tham dự: chống nạn phá rừng trong vùng Amazôn. Cuộc biểu tình đã quy tụ vài trăm người tham gia và thu hút được sự chú ý của báo chí địa phương. Thoạt đầu, được thế đã là tốt rồi. Đi qua trước cửa hiệu bán đồ thể thao, anh liếc nhìn đôi giày đã trêu ngươi anh từ ít lâu nay. Tuyệt hảo nhưng đắt quá chừng. Xa hơn chút nữa, mùi bánh ga-tô nóng thơm lừng quyến rũ thoảng tới quấy nhiễu mũi anh. Mùi thơm này bay ra từ những ô cửa sổ được trổ rất khéo trên mặt tiền một cửa hiệu bánh ngọt Áo. Anh đã suýt xiêu lòng, nhưng rồi cố gắng đi nhanh hơn. Quá nhiều chất cholesterol. Trong tất cả các cuộc chiến thường nhật, thì cuộc chiến đấu chống lại những ham muốn mà người ta luôn luôn cố tình làm nảy sinh trong chúng ta, liệu đã phải là tệ hại nhất không nhỉ? Vài người vô gia cư đang nằm ngủ rải rác đây đó, dưới những tấm chăn. Ông chủ hiệu bán đồ khô người Mê-hi-cô đã mở cửa, cũng như các sạp báo và xa hơn chút nữa là ông chủ hiệu làm đầu gốc Puerto Rico. Anh chạm mặt một số khuôn mặt thân quen đang trên đường đi làm, vẻ mặt họ lơ đễnh. Chỉ một giờ đồng hồ nữa thôi, khu phố này sẽ rất náo động. Mission District là khu cổ nhất thành phố San Francisco. Tất cả nơi đây đều tạp nham: những ngôi biệt thự thời Victoria đã hơi cũ nằm cạnh những tòa nhà cao tầng vô hồn, những tòa nhà hiện đại này lại nằm cạnh những khu chung cư cổ lỗ xập xệ. Những ngôi nhà cổ màu phấn phơn phớt cạnh những tòa nhà phủ đầy những hình vẽ tự phát với những gam màu lòe loẹt. Chính dân chúng nơi đây cũng sống rải rác giữa nhiều cộng đồng khác nhau. Họ chạm mặt nhau nhưng không thực sự giao du với nhau. Ta nghe thấy đủ các thứ tiếng như Trung Quốc, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ả Rập hoặc Nga. Ai nấy sống trong thế giới của mình mà không bận tâm đến những người xung quanh. Một người ăn mày tiến đến và chìa tay ra. Jonathan lưỡng lự giây lát rồi bước qua trong lúc cố tránh nhìn vào mắt ông ấy. Ta làm sao có thể cho tất cả mọi người được. Michael - cộng sự của anh - đã chọn bàn trên sân quán cà phê. Đó là một người đàn ông trạc tứ tuần, lịch lãm với nụ cười quyến rũ, nói rất nhanh và luôn tràn trề năng lượng đến nỗi ta phải tự hỏi liệu có phải anh ấy được gắn với các hộp pin cao áp hay đơn giản là đã được tiêm amphêtamin. Com-plê màu cát, áo sơ mi trắng và cà-vạt lụa màu vàng dệt nổi, anh ta ngồi trước một cốc cà phê to và phần bánh carrot cake, mà nó hình như được chọn để hợp với màu chiếc cà-vạt. Phần sân hiên quán cà phê chiếm dụng một khoảng lớn vỉa hè, đủ sâu để khiến ta quên đi luồng xe hơi đang chạy ngoài kia, đằng sau dãy cây thấp, được trồng trong những bồn gỗ lớn sánh ngang các vườn ươm trong các tòa lâu đài. Bàn ghế được làm từ song mây tạo thêm cảm giác rằng ta đang ở nơi khác, chứ không phải ở trung tâm thành phố. - Cậu ổn chứ? - Michael lên tiếng với một chất giọng đầy hưng phấn. Cảnh tượng gần giống với các màn diễn của Jim Carrey trong phim Mặt nạ*. • Phim The Mask với sự tham gia của nam diễn viên điện ảnh Mỹ Jim Carrey. - Còn anh thì sao? - Jonathan đáp lại hệt như thường lệ. Anh lấy trong túi ra một lọ nước tẩy trùng, nhỏ vài giọt lên những ngón tay và xoa thật mạnh. Michael nhìn anh với một nụ cười thích thú trên môi. - Tuyệt đỉnh! Cậu dùng gì hả? Hôm nay có bánh ga-tô ngon lắm. - Giờ anh lại ăn sáng bằng bánh ga-tô à? - Đấy là chế độ ăn mới của tôi đấy: một chút đường vào buổi sáng để khởi động, sau đó thì suốt cả ngày sẽ chẳng có gì hết. - Thế thì gọi bánh ga-tô đi. Michael ra hiệu cho người bồi bàn và gọi đồ ăn. Trong ba cộng sự thì Michael là người xử lý tốt nhất những mánh lới nghề nghiệp, Jonathan thường xuyên cảm thấy và dành cho anh ta một sự ngưỡng mộ nhất định. Anh thèm muốn sự lưu loát thuần thục mà Michael có được để dẫn dụ khách hàng vào một tình thế thích hợp để rồi bị thuyết phục. Khi đi cùng anh ta tiến hành thăm dò tư tưởng của những tiểu thương, Jonathan chứng kiến nhiều cảnh đáng kinh ngạc mà Michael đã có thể lật ngược tình thế để thuyết phục được một khách hàng tiềm năng nhưng hết sức khó tính. Sau một thời gian dài được đào tạo và huấn luyện các phương pháp bán hàng, Jonathan đã xoay xở khá thành công, nhưng anh vẫn cần phải có nhiều nỗ lực đáng kể ở những điểm mà Michael đã thực hiện với một sự thuần thục cao độ, thông thạo mọi chi tiết kỹ thuật để thuyết phục được khách hàng đồng ý ký hợp đồng mới, những chọn lựa mới, luôn luôn gia tăng các điều khoản bảo hiểm để bảo vệ mình hơn nữa, cho đến tận lúc cứ đồng ý mua các khoản mà không hề nhận ra rằng trên thực tế chúng bảo hiểm cho cùng một rủi ro… Trong lĩnh vực này - anh ta đã thổ lộ bí quyết với các cộng sự của mình - sợ hãi là cảm xúc chúa tể, đồng minh cốt lõi của người bán hàng. Cảm xúc đó mà nảy sinh trong ánh mắt của nhà buôn thì ngay lập tức gợi lên hình ảnh của một thảm họa, một vụ trộm, một vụ kiện tụng. Thoạt đầu rất nhỏ, nhưng rất âm ỉ, nó nhanh chóng thấm vào tận các hang cùng ngõ hẻm của trí óc cho đến lúc nó trở nên chiếm ưu thế trong tính năng quyết định. Khi ấy khoản lệ phí hàng năm sẽ được đưa ra, khoản này sẽ được so sánh với phí tổn của một trận hỏa hoạn, một tai nạn hoặc một vụ kiện tụng bởi một khách hàng tiêu dùng giận dữ? Các viễn cảnh tai nạn càng ảm đạm bao nhiêu thì các khoản đóng bảo hiểm hình như càng chẳng đắt đỏ gì… Jonathan là một người trung thực, nên anh thường cảm thấy hơi có lỗi. Nhưng tất cả các đối thủ cạnh tranh của anh đều vận dụng những kỹ thuật này, mà nếu một mình từ bỏ chúng thì e sẽ bị trừng phạt. Trong thế giới nhẫn tâm này, các quy tắc là đúng như chúng vốn thế, - anh tự nhủ. Tốt hơn là chấp nhận chúng và cố gắng lấy lại vốn liếng của mình nếu như ta không muốn đến nhập bọn cùng với những kẻ bị xã hội ruồng bỏ… - Cậu biết đấy, - Michael nói, - tôi đã suy nghĩ rất nhiều về tình trạng của cậu trong những ngày gần đây. - Tình trạng của tôi ư? Michael gật đầu nhẹ. Ánh mắt anh ta ngập tràn sự cảm thông. - Càng quan sát kỹ các bạn, thì tôi lại càng tự nhủ rằng quả là địa ngục đối với cậu khi cứ tiếp tục làm việc hàng ngày với người vợ cũ như hiện nay. Hơi bị bất ngờ, Jonathan ngước nhìn người cộng sự mà không đáp lại. - Các người cứ làm khổ lẫn nhau. Thật chẳng ra làm sao cả. Jonathan vẫn nín thinh. - Và chuyện ấy không thể kéo dài mãi được. Jonathan cụp mắt xuống. Michael nhìn anh gần như rất trìu mến. - Thế nên tốt hơn là thúc tiến trước đi… Anh ta cắn một miếng bánh carrot cake. - Tôi đã động não ghê lắm, lật ngược lật xuôi vấn đề, và cuối cùng tôi đã tìm ra đề xuất này cho cậu. - Một đề xuất à? - Ừ. Jonathan lại quay về với trạng thái yên lặng. - Cậu không cần trả lời ngay lập tức đâu, hãy cứ bình tĩnh suy xét cho kỹ. Jonathan nhìn anh ta một cách chăm chú. - Tôi sẵn sàng, - Michael lên tiếng, - gắng sức để mua lại các phần của cậu, nếu như cậu muốn rút đi. - Các phần của tôi… thuộc văn phòng công ty ư? - Đúng thế, chứ không phải phần bánh ga-tô của cậu đâu. Jonathan không sao thốt được thành lời. Anh chưa bao giờ có ý định rời khỏi công ty mà họ đã cùng nhau sáng lập nên. Anh đã đầu tư vào đó biết bao nhiêu, cả thể xác lẫn tâm hồn, đến nỗi mà nơi đó đã trở thành… như chính một bộ phận của cơ thể anh vậy. Anh cảm thấy lòng quặn thắt. Rời khỏi công ty đồng nghĩa với việc tự cắt đi phần cốt lõi nhất của cuộc đời anh. Bắt đầu lại từ con số 0. Phải gầy dựng lại toàn bộ… Một màn hình ti vi gắn trên tường trong quán cà phê đang phát những hình ảnh về Austin Fisher, quán quân quần vợt đã giật được cơ man là giải thưởng. Sau khi đã tiếp tục chiến thắng giải Wimbledon vài tuần trước, cầu thủ này lại có mặt tại Flushing Meadow với rất nhiều triển vọng cho giải US mở rộng. Jonathan nhìn những hình ảnh, vẻ mơ màng. Bán lại các cổ phần cho Michael chắc cũng sẽ đồng nghĩa với việc từ bỏ ước mơ thầm kín của anh: vượt anh ta, để đến lượt anh sẽ trở thành người thu được thành quả kinh doanh tốt nhất. - Tôi sẽ phải đi vay thêm, - Michael tiếp tục lên tiếng - cũng nặng đô đấy, nhưng có lẽ đó là điều mà tất cả chúng ta nên làm. - Hello mọi người! Angela ngồi vào bàn cùng họ và ồn ĩ thở hắt ra để biểu lộ sự bực bội của mình, tuy nhiên vẫn có nụ cười thoáng trên môi. Jonathan biết rõ tâm tính cô ấy. - Cô khỏe chứ? - Michael hỏi. - Con gái anh đã không muốn đánh răng, - cô gái lên tiếng trong lúc hất cằm về phía Jonathan. - Đương nhiên là mẹ nó đã không nhân nhượng. Em đã phải chiến đấu trong suốt mười phút liền… Kết quả là khi đến nơi thì cổng trường đã đóng. Nó đã phải tự bấm chuông phòng người quản trường và đã bị mắng cho một trận. Đáng đời nó lắm! - Cà phê Mỹ, như thường lệ chứ hả? - Michael hỏi mà không đánh mất đi nụ cười của mình. - Không, một cà phê đúp đi, - Angela đáp và lại tiếp tục thở hắt ra. Michael gọi cà phê. Angela đưa mắt nhìn Jonathan kèm theo một nụ cười a-xít. - Anh có vẻ bình thản nhỉ. Thư giãn… Anh không phản ứng. Cô luồn bàn tay vào mái tóc hạt dẻ sáng màu và dài chớm vai của mình. - Anh đã trách em, - cô nói, - dành thời gian chăm sóc đám cây cối hơn là chăm con gái nhưng mà… - Anh chưa bao giờ trách em điều ấy, - Jonathan phản kháng bằng một chất giọng đã kịp mang màu cờ trắng rồi. - Nhưng đám cây cối của em, như anh thấy đấy, chúng chẳng bao giờ lăn lộn ra đất và kêu toáng lên cả. Jonathan cố kìm một nụ cười, rồi uống tách cà phê của mình mà không nói gì. Họ chia tay nhau đã ba tháng nay, nhưng cô tiếp tục trách cứ anh hệt như trước đây. Và kỳ lạ, đột nhiên anh cảm thấy thích điều ấy. Bởi nó gây cho anh cảm giác quan hệ giữa anh và cô, dẫu đã chia cắt, nhưng vẫn tiếp tục. Anh chợt ngộ ra điều mà anh đã chưa bao giờ thú nhận: tận sâu trong tâm khảm mình, tia hy vọng sẽ nối lại tình xưa vẫn đang ngủ gà ngủ gật đâu đó. Bán các cổ phần của anh trong công ty cho Michael là dập tắt cả tia hy vọng đó trong anh, khi hủy bỏ mối quan hệ hàng ngày cuối cùng giữa anh và Angela. Anh quáng quàng đi đến buổi hẹn làm việc đầu tiên trong ngày, bỏ mặc các cộng sự trên sân hiên quán cà phê. Bản danh sách những khách hàng tiềm năng cần gặp gỡ thì dài. Sẽ là một ngày vất vả đang chờ đợi đấy, nhưng hôm nay là ngày làm việc cuối cùng trước kỳ nghỉ cuối tuần. Anh sẽ còn thời gian để nghỉ ngơi. Anh còn lâu mới hình dung rằng chỉ hai ngày sau, cuộc đời của anh sẽ thay đổi hoàn toàn. Mời các bạn đón đọc Bỗng Dưng Muốn Sống của tác giả Laurent Gounelle.
Hôi Của Đông Lăng
Danh gia cổ vật là bộ tiểu thuyết lấy đề tài giám định và sưu tầm đồ cổ tiêu biểu cho các sáng tác của Mã Bá Dung, ngay sau khi ra mắt đã được đông đảo bạn đọc yêu thích đón nhận. Cuối năm 2018, tác phẩm được Tencent Pictures chuyển thể thành phim dài tập cùng tên với sự tham gia diễn xuất của Hạ Vũ, Kiều Chấn Vũ… TẬP 3: Giám định cổ vật, thực ra là đo lòng người đấy thôi. Báu vật càng trân quý càng soi thấu lòng người đáng sợ. Ngược dòng thời gian về năm Dân Quốc thứ mười bảy, ông nội Hứa Nguyện là Hứa Nhất Thành bấy giờ đang theo học ngành khảo cổ ở đại học Thanh Hoa, bất ngờ nhận được nửa bức thư in dấu tay máu của một người bạn cũ. Chữ “lăng” trơ trọi trên mảnh giấy dường như ám chỉ một âm mưu nhắm tới những lăng tẩm đế vương đang bị quên lãng giữa thời cuộc rối ren, nhưng ai sẽ là kẻ ra tay thủ ác và mục tiêu sau cùng là gì? Lần theo những manh mối mơ hồ, những sự kiện tưởng chừng rời rạc, Hứa Nhất Thành dần tìm ra từng mảnh ghép của một âm mưu chấn động. Song thế lực y phải đương đầu không chỉ có một, trong khi hậu phương là Minh Nhãn Mai Hoa lại chỉ như con rùa rụt cổ… DANH GIA CỔ VẬT (trọn bộ 4 tập): - Kỳ Án Đầu Phật - Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ - Hôi Của Đông Lăng - Minh Nhãn Mai Hoa VỀ TÁC GIẢ: MÃ BÁ DUNG sinh năm 1980, tại Xích Phong (Ulankhad) thuộc khu tự trị Nội Mông. Ông là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc với bút lực dồi dào, văn phong đa biến. Phạm vi sáng tác trải từ phê bình, tản văn, tiểu phẩm đến tiểu thuyết vừa và dài, thể loại sáng tác phong phú, bao gồm khoa học viễn tưởng, kỳ ảo, lịch sử, trinh thám v.v… Năm 2005, ông đạt giải thưởng Ngân Hà dành cho tác phẩm khoa học viễn tưởng Trung Quốc. Năm 2010, ông đạt giải thưởng Văn học Nhân dân, một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất của văn đàn Trung Quốc. *** Review DANH GIA CỔ VẬT - HÔI CỦA ĐÔNG LĂNG. Bài đăng của bạn Nguyen Viet Ha trên Nhã Nam reading club. Tác giả: Mã Bá Dung Warning: Review có spoil. _ Chuyện xảy ra vào năm Dân quốc thứ mười bảy. Năm ấy Bắc Kinh vô cùng hỗn loạn, các phe cánh chính trị đối chọi nhau gay gắt, giới cổ vật cũng nổi lên sóng gió. Người Nhật sang Trung Quốc dưới danh nghĩa khảo cứu và bảo tồn văn vật, nhưng thực chất là muốn mang văn vật Trung Quốc về Nhật Bản; còn chính người Trung Quốc thì cũng lại lén lút đánh cắp, bòn rút cổ vật có giá trị hòng bỏ túi riêng. Trong không khí đượm mùi chết chóc và hỗn loạn của Bắc Kinh bấy giờ, Hứa Nhất Thành nhận được nửa mảnh giấy in năm dấu tay máu và chữ “lăng” mơ hồ từ một người bạn cũ. Người ấy trước lúc chết đã gắng sức níu lấy một ông lão qua đường, khẩn cầu ông ta báo tin đến y, như thể chỉ cần chậm trễ một chút thôi là cả tấn bi kịch sẽ đổ xuống Bắc Kinh vốn đã chẳng bình an gì mấy này. Hẳn Hứa Nhất Thành khi ấy cũng sẽ không ngờ, mảnh giấy ấy sẽ dẫn y tới một vụ án chấn động không chỉ giới cổ vật, mà còn liên quan đến vận mệnh quốc gia. Ban đầu, Hứa Nhất Thành vốn tưởng chỉ có người Nhật có liên quan đến bí ẩn sau mảnh giấy dính máu mà bạn mình để lại, nào ngờ trên đường tra án, y nhận ra càng ngày càng xuất hiện thêm nhiều thế lực khác, mới có cũ có, mà mục đích cuối cùng, đều là nhắm vào lăng tẩm của các đế vương Trung Quốc, hay nói đúng hơn, là đồ tuỳ táng được chôn cùng chủ nhân những lăng tẩm ấy. Nhưng mà, có thật là những thế lực kia chủ ý muốn sở hữu cổ vật trong Đông lăng không, hay đó chỉ là bước đầu để che giấu một âm mưu khác đáng sợ hơn nhiều? Rốt cuộc trong Đông lăng có thứ gì, mà phải khiến người ta lao tâm khổ tứ giăng bẫy hòng đặt chân vào ngôi mộ ấy như thế? Các triều đại luôn có sự liên kết với nhau, hình thành nên sợi dây lịch sử kéo dài không dứt. Đến lúc này, khi có kẻ muốn lật đào lịch sử lên, mối liên hệ giữa những ngôi mộ lặng yên đã hàng trăm năm ấy cũng dần được hé lộ... ___ “Danh Gia Cổ Vật - Hôi của Đông Lăng” không nối tiếp câu chuyện của Hứa Nguyện ở tập 1 và tập 2, mà là kể lại chuyện xưa của ông nội Hứa Nguyện - Hứa Nhất Thành, khi vẫn đang theo học ngành khảo cổ ở đại học Thanh Hoa. Kiến thức về văn hoá và cổ vật vẫn được cài cắm xuyên suốt tập truyện, song mình đánh giá tập 3 này vụ án khó hơn và tình tiết cũng bất ngờ hơn hai tập trước. Ngay từ cái tên và vết tích cuối cùng trên mảnh giấy mà Hứa Nhất Thành nhận được, người đọc có thể dễ dàng đoán ra trung tâm của tập này là “lăng”, còn “hôi của Đông Lăng” thì ám chỉ về một vụ trộm mộ. Đông Lăng là lăng mộ của vua chúa nhà Thanh, nơi chôn cất hoàng đế Thuận Trị, Khang Hi, Càn Long, Hàm Phong, Đồng Trị và các phi tần, hoàng tử, công chúa. Từ xưa việc quật mồ mả người chết vẫn luôn là việc không nên, rất tổn hại âm đức, thế nhưng những đồ tuỳ táng chôn theo ở lăng tẩm vua chúa không chỉ có giá trị lịch sử, mà giá trị vật chất thực cũng không ít món hời, do vậy không ít kẻ vẫn bất chấp tất cả mà tìm đường vào lăng hòng “hôi của”. Tình cảnh năm ấy thật sự rất loạn, ngay cả Minh Nhãn Mai Hoa tiếng tăm lẫy lừng cũng phải khúm núm nhún nhường trước tiền bạc và quyền lực, nhưng Hứa Nhất Thành lại không màng nguy hiểm mà quyết tâm tìm ra bí mật sau mảnh giấy kia đến cùng. Thứ nhất là bởi y muốn hoàn thành uỷ thác mà người bạn quá cố đã giao cho mình, thứ hai là bởi y không thể trơ mắt nhìn văn vật Trung Quốc cứ vậy mà rơi vào tay người Nhật. Y không thể chịu nổi cảnh người Trung Quốc bị “đào trốc rễ”, văn hoá lịch sử bị ngoại quốc lấy sạch chẳng còn gì. Có lẽ tính tình cố chấp, cương trực thẳng thắn của Hứa Nguyện di truyền từ Hứa Nhất Thành. Đúng là con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, Hứa Nhất Thành tài giỏi như vậy, đến đời Hứa Nguyện cũng không hề thua kém. Chỉ khác là Hứa Nhất Thành có vẻ chín chắn và dứt khoát hơn Hứa Nguyện. Ngoài những đoạn phá án hồi hộp thì tập này có khá nhiều những phân cảm xúc, ví như đoạn Hứa Nhất Thành bất lực nhìn Đông lăng bị xới tung lên, con người nổi lòng tham mà ào vào vơ vét đồ tuỳ táng, dẫm đạp lên lịch sử văn hoá và người đã khuất. Vào thời buổi rối ren bấy giờ, mỗi người chọn cho mình một con đường riêng, còn Hứa Nhất Thành, dù trải qua bao phen hiểm nguy gian khổ, y vẫn trước sau như một giữ trọn tấm lòng sáng như gương, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ nguồn cội của dân tộc. Đúng là một người rất đáng quý. Nói chung “Danh Gia Cổ Vật - Hôi của Đông Lăng” hay lắm. Tập này có thể coi là một ngoại truyện, vì vậy nếu tách ra đọc riêng thì vẫn có thể hiểu được. Mình thật sự mong chờ tập 4 - cũng là tập cuối cùng trong series này được xuất bản để xem hành trình của “Danh Gia Cổ Vật” sẽ tiếp diễn và kết thúc thế nào. *** Một gia tộc truyền đời cũng giống như một món cổ vật thượng hạng vậy. Trải bao đời giữ gìn và đánh bóng, âm thầm tích lũy giữa dòng thời gian đằng đẵng, dần dà, nó sẽ khoác lên mình một lớp hồ bọc đậm đà tinh thuần, ôn nhuận trầm lặng, toát lên vẻ cổ kính. Cổ vật hữu hình, truyền thừa vô hình, không nhìn thấy, không chạm tới được song lại thấm vào xương máu con cháu đời sau trong gia tộc, trở thành sợi dây ràng buộc tinh thần giữa các thành viên trong gia tộc với nhau, thậm chí trở thành một phần trong tính cách và số phận họ. Trên đường tới gặp Lão Triều Phụng, tinh thần của nhà họ Hứa đã ẩn tàng cả nghìn năm nay trong cơ thể tôi bắt đầu thức tỉnh. Nó rục rịch, sôi trào như muốn nói gì đó với tôi. Đó không phải sự biểu đạt bằng ngôn ngữ, mà là sự cộng hưởng vượt lên cả hạn chế của thời gian. Câu chuyện nó muốn kể rất dài, song khi truyền đạt cho tôi lại chỉ mất một cái chớp mắt. Những con người quá khứ, những câu chuyện xa xưa cùng những món cổ vật truyền kỳ đã ngưng kết lại thành cảm xúc trong một khoảnh khắc, khiến tôi đang đi chợt dừng bước, đặt tay lên ngực, ngẩng đầu nhìn trời. Tuy không thấu triệt, nhưng tôi cảm nhận được, đây là một câu chuyện liên quan đến ông nội Hứa Nhất Thành của tôi. Một truyền kỳ tôi chưa bao giờ được biết.   Hạ tuần tháng Năm năm Dân Quốc thứ mười bảy*, Bắc Kinh đương lúc chuyển mùa giữa xuân và hạ, khắp thành nở đầy hoa hòe. Đây là lúc trời nóng dần lên, dễ xảy ra đại dịch nên dân gian kiêng kị rất nhiều. Kiêng dán cửa, kiêng chuyển nhà, không cắt tóc, không phơi giường, ai nấy đều mong tới Đoan Ngọ giết sâu bọ xong mới bắt tay sửa sang dọn dẹp. Dân gian thường gọi là tháng Năm độc, hễ đến tháng này, nhất định sẽ có chuyện. Năm nay chưa nóng đã có gió lớn. Trận gió này cực lớn, cuốn theo cát bụi đầy trời phủ lên chùa Đàm Giá, trùm lấy núi Hương, cuồn cuộn ập vào thành, liên tục suốt mấy ngày. Quả là bụi lấp mặt trời, đâu đâu cũng một màu vàng của cát, cả thành Bắc Kinh như một bức ảnh cũ, trời mù mịt đất mù mịt tường mù mịt, người ngựa đi trên đường đều mù mịt, khiến lòng người ta cũng mịt mờ. Hằng năm Bắc Kinh đều nổi bão cát, nhưng chủ yếu vào mùa xuân. Năm nay trận bão này lại oái oăm, đến vào tháng Năm độc. Người già kể rằng loại gió này rất có lai lịch, gọi là gió Hoàng sát, chuyên khắc hoàng thượng. Năm Sùng Trinh treo cổ, Bắc Kinh đã nổi gió này; năm Viên Thế Khải qua đời, cũng nổi gió; về sau khi Tuyên Thống đế bị Phùng Ngọc Tường trục xuất khỏi Tử Cấm thành, gió này cũng đến. Bởi thế năm nay gió vừa nổi, lại gặp ngay tháng Năm độc, người già ở Bắc Kinh đều nhủ bụng, e rằng… lần này lại thay triều đổi đại rồi đây. Hoàng Khắc Vũ ôm tay nải xanh, liêu xiêu chạy men theo chân Thiên Đàn về phía Tây. Giữa mịt mù bão cát lại chạy ngược gió, dù đang trai tráng bẻ gãy sừng trâu, cậu cũng phải khom lưng cúi đầu nín thở. Hễ chạy nhanh là miệng đầy cát, vừa hít thở đã sặc sụa vì bụi. Nhưng việc gấp như lửa đốt, Hoàng Khắc Vũ làm gì còn tâm trạng oán trách thời tiết, đành kéo sụp vành mũ xuống, chạy không ngơi nghỉ. Vừa qua cầu Hổ Phường, trời đã nổi gió lớn, đất vàng mịn hơn cả phấn cuồn cuộn bốc thành làn sương bụi che mờ cả đất trời. Đừng nói đến mái tháp phía xa và biển hiệu treo trên rào chắn ở gần, ngay người ngựa bên kia đường, cách mấy bước chân cũng chẳng trông rõ được. Hoàng Khắc Vũ nheo mắt cúi đầu chạy như bay, ngờ đâu phía trước lại mọc ra một bóng người sau làn sương bụi, khiến cậu không kịp dừng bước, đâm sầm vào người ta. Hoàng Khắc Vũ có võ, lập tức lùi lại mấy bước, túm lấy cây cột đứng vững, song người kia thì ngã nhào. Hoàng Khắc Vũ vội cúi xuống đỡ, vừa khom người đã thầm than không ổn, người kia mặc quân phục xanh xám, đầu buộc một dải băng lem luốc, tay còn cầm cây súng Mauser 13, ra là lính Phụng Thiên! Lính Phụng Thiên là quân Đông Bắc do Trương Tác Lâm dẫn vào quan nội, kỷ luật cực kém, dân chúng vẫn gọi vụng là quân thổ phỉ. Từ đầu năm, khi hai phe Nam Bắc lại giao tranh, tổng thống Trương vẫn sa lầy trong chiến sự ở một dải Sơn Đông, Hà Nam, quân Bắc phạt đánh thẳng lên phía Bắc, lính Phụng Thiên bị thương trong thành Bắc Kinh ngày càng nhiều. Bề trên bỏ bê lương thưởng nên trong tay đám thương binh này chẳng có gì ngoài cây súng, chúng bèn tụ hợp lại, gặp người là cướp, thấy hiệu là phá, cảnh sát cũng chẳng dám động đến. Hoàng Khắc Vũ không muốn rầy rà, vội chắp tay xin lỗi rồi quay người toan lẩn vào màn cát bụi chuồn thẳng. Nào ngờ tên lính Phụng Thiên kia lồm cồm bò dậy, lên đạn cách một tiếng, chĩa súng vào Hoàng Khắc Vũ quát lớn, “Đâm vào ông mày còn định chạy à?” Hoàng Khắc Vũ đành đứng lại. Tên lính Phụng Thiên kia khập khiễng đi đến, giáng ngay cho cậu một bạt tai, “Thằng ranh này! Mắt ném cho chó ăn rồi hả?” Hoàng Khắc Vũ nghiến răng nhìn trừng trừng họng súng không đáp. Tên lính Phụng Thiên thấy cậu khoác tay nải thì sáng mắt lên, ra lệnh, “Ông nghi mày là tay trong của quân phản loạn, đưa đây! Mở ra ông kiểm tra!” Đoạn vươn tay định giật. Tay nải này hết sức quan trọng, Hoàng Khắc Vũ đời nào để hắn chạm vào, bèn xoay người né tránh. Tên lính nổi điên chửi “Rõ là đéo biết điều” rồi giơ súng lên định kéo cò. Tình thế cấp bách, Hoàng Khắc Vũ đành sấn lên nửa bước, tay phải nắm lấy họng súng hất lên, tay trái nhanh như chớp chặt mạnh vào gáy hắn. “Đoàng” một tiếng, đạn bay sượt qua đầu Hoàng Khắc Vũ bắn vào khoảng không, tên lính kia cũng ngã xuống đất ngất lịm. Hoàng Khắc Vũ sờ đầu, mặt tái xanh. Nếu chậm nửa bước, e rằng cậu đã bị bắn chết tươi ngay trên phố. Giữa kinh đô nổi tiếng là đất lành, vậy mà chẳng biết từ bao giờ lại hỗn loạn tới mức này? Cậu thần ra mấy giây, rồi sực nhớ mình đang có việc quan trọng, vội ném cây súng xuống, thắt chặt tay nải, quay người lẩn vào màn cát bụi mù trời. Chẳng bao lâu sau, lại thấp thoáng mấy bóng người đi đến, thấy tên lính Phụng Thiên nằm mê man, chúng liền xúm lại lột sạch quần áo hắn, cuỗm luôn cả cây súng. Hoàng Khắc Vũ thoát được tên lính, chạy một mạch qua cổng Tuyên Vũ, tới cửa hội quán Thái Nguyên nằm ở đầu Đông ngõ Trữ Khố Doanh mới dừng lại. Chạy cả một quãng dài, cậu thấy phổi nóng rát như bị giội nước sôi, buộc phải nghỉ chân, chống gối thở hổn hển. Vừa ngẩng lên, cậu đã thấy một cậu trai trắng trẻo đeo kính tròn đứng dưới gốc hòe già vẹo vọ đầu ngõ, rõ ràng đã đợi khá lâu. “Đem đến rồi à?” Kẻ kia hỏi. Hoàng Khắc Vũ thận trọng cầm tay nải lên tay, nâng niu vuốt ve, “Dọc đường gặp nhiều rắc rối, suýt nữa làm hỏng.” Hoàng Khắc Vũ đang định cởi tay nải ra thì cậu trai kia đã đưa mắt ra hiệu đừng nói chuyện. Hoàng Khắc Vũ nhìn quanh, phát hiện gần hội quán Thái Nguyên có rất nhiều cảnh sát đi tuần, họ túm năm tụm ba đứng giữa bụi mù, như hồn ma ngoài nghĩa địa giữa đêm hôm, chẳng thấy rõ được dáng dấp và mặt mũi, song vẫn rờn rợn ác ý. “Đi từ từ thôi, đừng chạy, cũng đừng ngoái lại.” Cậu trai hạ giọng dặn, đoạn hai người sánh vai đi vào trong ngõ. Mời bạn đón đọc Danh Gia Cổ Vật Tập 3: Hôi Của Đông Lăng của tác giả Mã Bá Dung.