Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vận Mệnh Người Lính Tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới Tập I-II

Tác phẩm kinh điển của văn học Séc được dịch sang tiếng nước ngoài nhiều nhất. Karel Čapek  từng nhận xét về cuốn sách: "Ở nhà trường, các thầy cô thường bảo chúng ta rằng sự hài hước là gia vị. Nhưng đúng hơn mà nói, ngày nay tôi có cảm giác sự hài hước không phải là gia vị, mà là cái nhìn cơ bản nhất định về thế giới. Hašek là người có khiếu hài hước. Hašek là người nhìn nhận được thế giới, trong khi nhiều người khác chỉ viết về nó". Văn học hiện đại Séc nửa đầu thế kỷ XX có nhiều nhà văn nổi tiếng, nhưng nổi trội là bộ ba vĩ đại: Jaroslav Hašek (1883–1923), Franz Kafka (1883–1924) và Karel Čapek (1890–1938). Franz Kafka sáng tác bằng tiếng Đức, Jaroslav Hašek và Karel Čapek sáng tác bằng tiếng Séc. Franz Kafka và Karel Čapek là hai tác giả đã rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Còn bộ tiểu thuyết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của Jaroslav Hašek là tác phẩm văn học Séc được chuyển ngữ nhiều nhất, tính đến năm 2013 đã được dịch sang 58 ngôn ngữ khác. Ngay từ khi tác phẩm ra đời và cho đến hiện nay, không chỉ ở Séc, mà cả ở nước ngoài, nó cũng còn được chuyển thể sang kịch bản sân khấu, điện ảnh, truyền hình và truyền thanh. Cuốn tiểu thuyết có một không hai trong lịch sử văn học Séc này cũng có một số phận rất đặc biệt. Ngay sau khi nó ra đời, và cả một thời gian dài sau đó, trong khi những người dân thường đọc nó một cách say mê và khoái chí thì, trừ một số nhà văn nhà báo nhận thấy ngay đây là một tác phẩm đáng đọc, làng văn Séc hầu như không chấp nhận nó, không coi nó là một tác phẩm văn học, không coi tác giả của nó là nhà văn. Thậm chí còn có ý kiến cho rằng Švejk là kẻ trốn tránh nghĩa vụ, rằng cuốn sách này gây tác hại đến đạo đức người lính, có người còn nguyền rủa phỉ báng Hašek và cách sống của ông. Nhưng dần dần, những lời khen nhiều hơn và cuối cùng cả giới phê bình phải nhận định Jaroslav Hašek là 1 trong 3 nhà văn vĩ đại nhất Văn học  Séc nửa đầu thế kỷ XX. Chúng tôi lại xin mượn lời của nhà báo, nhà văn và dịch giả Séc Ivan Olbracht:  “Các bạn hãy đọc đi, đây là một cuốn sách tuyệt vời.” *** Sau đúng 100 năm xuất bản lần đầu tiên tại Séc (1921), bộ tiểu thuyết đồ sộ Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới được NXB Phụ nữ Việt Nam giới thiệu đầy đủ tại Việt Nam. Trọn bộ câu chuyện về anh Svejk vui tính bao gồm 4 tập, khi dịch sang tiếng Việt được chia thành 2 quyển: Quyển 1 gồm tập I-II; Quyển 2 gồm tập III-IV. Švejk là một kiểu nhân vật hoàn toàn mới trong văn học thế giới. Một kiểu người đần độn trong dân gian Séc lần đầu tiên xuất hiện trong văn học viết và được đưa vào cuộc sống hiện đại ồn ã. Một kiểu người bình thản được nhìn từ một góc độ mới. Chúng ta vui vì gặp một kiểu người hoàn toàn ngược với kiểu người đáng ghét “tính nết có vấn đề”, “không bằng lòng với bất kỳ tình huống nào, cũng chẳng hợp với bất kỳ tình huống nào”, bởi vì Švejk là người hài lòng trong mọi tình huống, và cũng ở thế mạnh hơn trong mọi tình huống. Một người ngu tinh khôn, hay thật sự là một người ngu tài tình, người có cái vẻ hiền lành ngu xuẩn, nhưng đồng thời ranh mãnh như thế phải thắng ở mọi nơi. Kiểu người văn học mới này không thể làm chúng ta quan tâm đến thế, vui vẻ đến thế, nếu nó không phải là một phần của chúng ta, nếu “ngôn ngữ Švejk” ít nhiều không phải là của tất cả chúng ta, tương tự như “ngôn ngữ Don Quixote”, “ngôn ngữ Hamlet”, “ngôn ngữ Faust”, hay “ngôn ngữ Oblomov”. *** Năm 1998, Séc tổ chức cho 23 nhà phê bình xuất sắc nhất bình chọn cuốn tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20 của văn học Séc. Đứng đầu danh sách được đăng trên tạp chí Týden là tác phẩm “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” của Jaroslav Hašek. Không ngạc nhiên gì khi tác phẩm văn học Séc được dịch ra hơn 60 thứ tiếng trên thế giới này là lựa chọn của các phê bình gia. Chính một nhà văn Séc nổi danh thế giới khác, Milan Kundera, cũng đã nhận định rằng, “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” có thể là cuốn tiểu thuyết dân gian lớn cuối cùng. Đầy phi lý, mang tính đả phá lớn, kiệt tác này là một tượng đài trong văn học phản chiến, và sẽ còn khiến thế hệ tương lai liên tục lật giở trang vì những câu chuyện khôi hài thâm sâu của nó. “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” bao gồm 4 tập: Ở hậu phương, Ngoài mặt trận, Trận đòn vẻ vang, Tiếp tục trận đòn vẻ vang, mà tập đầu tiên được xuất bản lần đầu cách đây 99 năm. Tác phẩm kể về một anh chàng tên là Švejk kiếm sống bằng nghề bán chó ở Prague. Anh chàng từng đi lính nhưng được cho giải ngũ vì bị ban quân y kết luận là kẻ ngu độn.   Tác phẩm hài hước bậc nhất này mở đầu bằng một câu mà nay đã trở thành kinh điển của bà giúp việc của Švejk “Thế là họ giết mất Ferdinand của chúng ta rồi.” Nó nhắc đến vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand của đế quốc Áo-Hung, nguyên nhân trực tiếp gây ra cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đáp lại lời thông báo đầy trịnh trọng ấy, Švejk ngây ngô hỏi rằng đó là Ferdinand nào, bởi anh biết hai người cũng có tên như vậy: một thằng hầu, và một thằng chuyên nhặt phân chó.   Ngay từ những dòng đầu tiên, Hašek đã tạo nên một loại tình huống có thể gọi là phá hủy sự trịnh trọng, mà kể từ đó về sau sẽ là thứ xuyên suốt toàn bộ câu chuyện. Người đầu trò thực thi những sự đả phá, không hiểu vô tình hay cố ý, chính là Švejk, nhân vật chính phức tạp gây nên không biết bao nhiêu tranh cãi của giới nghiên cứu. Bụng một bồ những câu chuyện dân gian, Švejk luôn mồm kể đủ loại thứ chuyện ngớ ngẩn tưởng chừng chẳng hề liên quan đến bất kỳ sự việc khẩn cấp nào đang xảy ra. Thêm vào đó, phản ứng thường trực của anh trong mọi cảnh huống là xuôi theo hoàn cảnh. Bị bắt vào sở cảnh sát, bị đẩy vào nhà thương điên, bị đưa vào trại giam, gây ra sự cố trên tàu hỏa, bị nghi làm gián điệp, bị đi lạc, … tất cả những tai họa ập xuống đầu anh, Švejk đều nhẹ nhàng vượt qua vì tinh thần hài lòng tuyệt đối đến ngờ nghệch khó hiểu. Kết quả là, không ai biết chân tướng thực sự của Švejk là gì: thông minh hay đần độn, khôn lỏi hay ngu ngơ. Khi chiến tranh nổ ra, Švejk xung phong nhập ngũ để phụng sự Hoàng đế Áo Hung. Jaroslav Hašek vẽ ra vô vàn nghịch lý trong kiệt tác của mình chính nhờ nhân vật có một không hai Švejk ấy: từ những nghịch lý nhỏ bé tầm thường đến những nghịch lý lớn lao không ai giải thích nổi. Chiến tranh và quyền lực của nó trở thành trò cười dưới ngòi bút đầy giễu nhại của ông. Độc giả không lấy làm ngạc nhiên khi Joseph Heller coi “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong đại chiến thế giới” là hình mẫu để dựa trên nó mà viết nên cuốn tiểu thuyết phản chiến vĩ đại “Bẫy-22” của mình. Trong sự tàn bạo của chiến tranh, trong sự đè nén đến nghẹt thở của bộ máy công vụ quan liêu, khi những mạng người bị đem nướng sống vào những cuộc chiến vô nghĩa, rất ít người chất vấn hay thấy mình cần phải thoát khỏi những mệnh lệnh quái quỷ trong chiến tranh, phải thoát khỏi hệ thống áp đặt. Quả đúng như Kundera phân tích, ở tác phẩm “Iliad” của Homer, cả ở “Chiến tranh và Hòa bình” của Lev Tolstoi, chiến tranh vẫn có ý nghĩa rõ ràng: “người ta chiến đấu vì nàng Helen xinh đẹp hay vì nước Nga.” Nhưng ở “Vận mệnh người lính tốt Švejk”, “Švejk và các đồng đội của anh ra trận mà chẳng biết vì sao và, còn tệ hơn, chẳng quan tâm gì đến chiến tranh.” Hašek là một nhà văn đặc biệt trong nền văn học Séc: nghiện ngập, vô chính phủ, đào ngũ, tinh thần phóng túng tột bậc. Là một nhà báo chuyên lăn lộn đường phố, ông rành rõi thứ ngôn ngữ bình dân và những câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Hašek đã đưa được thứ ngôn ngữ trào phúng đầy tự nhiên ấy vào tác phẩm của mình, tạo nên một giọng văn dí dỏm đặc biệt. Đả kích chiến tranh và những sự phi lý của nó bằng những câu chuyện như sinh ra từ trí tuệ dân gian, không ngạc nhiên khi “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” là danh tác không chỉ được độc giả Séc mà cả thế giới tung hô. Tập 2 của kiệt tác văn học Séc này từng được dịch sang tiếng Việt qua bản dịch tiếng Pháp và được NXB Văn Học xuất bản vào năm 1992 với tên “Những cuộc phiêu lưu mới của Xvêch, anh lính chân thực.” Ở lần xuất bản năm 2020 này, “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” sẽ được dịch đầy đủ từ nguyên bản tiếng Séc. Bản dịch được NXB Phụ Nữ Việt Nam chia thành 2 quyển với toàn bộ tranh minh họa màu của họa sĩ Josef Lada, bạn thân của Hašek: Quyển 1 gồm tập 1 và 2, xuất bản vào tháng 10/2020; Quyển 2 gồm tập 3 và 4, xuất bản vào giữa năm 2021. *** lời người dịch Văn học hiện đại Séc nửa đầu thế kỷ XX có nhiều nhà văn nổi tiếng, nhưng nổi trội là bộ ba vĩ đại: Jaroslav Hašek (1883–1923), Franz Kafka (1883–1924) và Karel Čapek (1890–1938). Franz Kafka sáng tác bằng tiếng Đức, Jaroslav Hašek và Karel Čapek sáng tác bằng tiếng Séc. Franz Kafka và Karel Čapek là hai tác giả đã rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Còn bộ tiểu thuyết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của Jaroslav Hašek là tác phẩm văn học Séc được chuyển ngữ nhiều nhất, tính đến năm 2013 đã được dịch sang 58 ngoại ngữ. Ngay từ khi tác phẩm ra đời và cho đến hiện nay, không chỉ ở Séc, mà cả ở nước ngoài, nó cũng còn được chuyển thể sang kịch bản sân khấu, điện ảnh, truyền hình và truyền thanh. Giai đoạn văn học Séc đầu thế kỷ XX có bối cảnh lịch sử cũng như văn hóa sâu xa và phức tạp với đỉnh điểm là Đại chiến Thế giới I và sự sụp đổ của Đế quốc Áo–Hung. Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đặc biệt đầu thế kỷ XX, Đế quốc Áo–Hung đa dân tộc có tình hình chính trị không ổn định, nhà nước đã phải đối mặt với nhiều vấn đề chính trị và xã hội, đặc biệt là vấn đề chính sách dân tộc mà chủ yếu là chính sách ngôn ngữ. Là thành viên quan trọng của Đế quốc Áo–Hung, Vương quốc Bohemia của người Séc luôn cố gắng yêu cầu được quyền tự trị về chính trị và văn hóa dân tộc, nhưng không bao giờ được đáp ứng. Mặc dù vậy, phần lớn những nhà lãnh đạo của Vương quốc Bohemia vẫn muốn gìn giữ nhà nước Áo–Hung với yêu cầu phải có thay đổi lớn trong chính sách dân tộc. Sau vụ Thái tử của Đế quốc Áo–Hung, Đại Công tước Franz Ferdinand d’Este, cùng phu nhân bị một người Serbia ám sát ở Sarajevo vào ngày 28/6/1914, Đế quốc Áo–Hung tuyên chiến với Serbia. Chiến tranh bùng nổ không chỉ trong phạm vi châu Âu, mà còn lan rộng ra thế giới. Nhà nước Áo–Hung ra lệnh tổng động viên trên toàn bộ lãnh thổ. Người Séc thể hiện rõ thái độ chống chiến tranh, không muốn chiến đấu chống các dân tộc người Slav, nhiều lính Séc tình nguyện để bị bắt làm tù binh. Rất nhiều tù binh người Séc ở chiến trường Nga sau này tham gia lực lượng đội quân lê dương tình nguyện Séc. Cuộc chiến tranh đẫm máu không kết thúc trong thời gian vài tháng như nhiều người đã tưởng, mà kéo dài đến tận tháng 11 năm 1918, gây tổn thất bao nhiêu sinh mạng, gây kiệt quệ cho Áo–Hung về nhiều mặt, mang lại kết cục thảm hại cho nhà nước quân chủ của triều đại Habsburg-Lothringen. Đế quốc Áo–Hung sụp đổ, dẫn đến sự ra đời của Cộng hòa Tiệp Khắc (Séc & Slovakia), Cộng hòa Áo, Cộng hòa Hungary và một số nhà nước khác ở châu Âu. Nhà báo, nhà văn Jaroslav Hašek đã sống và sáng tác trong giai đoạn lịch sử đầy biến động đó. Bậc thầy trào phúng Jaroslav Hašek, một tên tuổi rất đặc biệt trong lịch sử văn học hiện đại Séc, sinh ngày 30/4/1883 tại Praha, trong một gia đình nghèo theo Kitô giáo. Cha của ông là một thầy giáo dạy Toán và Vật lý ở một trường tiểu học Praha, mẹ làm nội trợ. Cả cha và mẹ ông đều là người quê ở vùng Nam Séc. Thủ phủ vùng Nam Séc, thành phố České Budějovice, và vùng lân cận là những địa danh được nhắc đến rất nhiều ở tác phẩm Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của ông. Bản thân Hašek khi nhập ngũ năm 1915 cũng được đưa tới doanh trại ở České Budějovice. Vùng Nam Séc là nơi gắn liền với tuổi thơ của Hašek, khi cậu cùng em trai thường được cha mẹ gửi về quê sống với ông bà ngoại, đặc biệt sau khi cậu bé Jaroslav mới bốn tuổi đã có biểu hiệu của bệnh yếu tim và tuyến giáp. Ngay từ nhỏ, Hašek cùng em trai được cha mẹ dạy dỗ rất nghiêm khắc, nhưng ông lại là người có bản tính thích tự do không chịu theo khuôn khổ, thích lang thang, thích bia rượu cùng bè bạn, có một thời gian còn theo chủ nghĩa vô chính phủ, và suốt đời sống theo phong cách Bohemian. Hašek cũng rất thích ngao du, ông đã có nhiều chuyến đi chơi dài ngày, nhiều khi đi bộ, đến hầu hết những vùng thuộc phạm vi Đế quốc Áo–Hung và một số nơi khác của châu Âu. Những chuyến đi ấy đã mang lại cho ông nhiều trải nghiệm và cảm hứng trong sáng tác. Năm 1894, Hafek vào học trung học phổ thông, nhưng sau khi cha mất năm 1896, Hašek chểnh mảng hơn và đến năm cuối cùng thì bỏ không học nữa. Một thời gian sau đó ông giúp việc ở cửa hàng vệ sinh và mỹ phẩm, rồi theo nguyện vọng của mẹ, ông nhập học trường trung cấp thương mại Praha. Sau khi tốt nghiệp, Hašek vào làm việc ở Ngân hàng Bảo hiểm Slavia Praha. Nhưng chán cuộc sống nhàm tẻ của một viên chức, chỉ chưa đầy một năm, ông bỏ nghề và chuyển hẳn sang viết báo viết văn. Năm 1910, vượt qua nhiều trở ngại và nhất là khi đã là biên tập viên của tạp chí Thế giới động vật, Hašek được phép kết hôn với Jarmila, tình yêu lớn của ông, con gái của một gia đình tiểu tư sản rất nền nếp ở Praha, người mà sau này cũng trở thành một nữ văn sĩ. Nhưng với phong cách sống của mình, Hašek không thể làm trụ cột gia đình, không thể làm người chồng tốt, người cha tốt được. Vì vậy, sau khi con trai họ ra đời vào năm 1912, Jarmila đem con về nhà cha mẹ đẻ, và từ đó gia đình họ không bao giờ đoàn tụ nữa, cho dù sau này họ coi nhau như những người bạn, thậm chí khi viết Vận mệnh người lính tốt Švejk,Hašek còn đọc cho Jarmila nghe những chương đầu. Sau khi Hašek qua đời, Jarmila đã viết: “Chương này nối chương kia, tôi bắt đầu ngưỡng mộ nghệ thuật của anh, người mà trước đây tôi từng yêu vì ánh nhìn tuyệt đẹp của anh đối với cuộc sống.” Mốc quan trọng nữa trong cuộc đời Hašek là năm 1915, khi ông gia nhập quân đội Áo–Hung và bị đưa sang chiến trường Nga. Ông bị bắt làm tù binh, và cũng tại Nga, ông tham gia đội quân tình nguyện Séc & Slovakia (còn gọi là quân lê dương Séc & Slovakia) chống Đế quốc Áo–Hung. Sau đó, do bất đồng chính kiến, ông rời hàng ngũ quân lê dương Séc và chuyển sang cộng tác với Hồng quân Nga. Trong thời gian ở Nga, nhờ biết nhiều ngoại ngữ, ông đã làm việc như một biên tập viên, đặc biệt cho tờ Čechoslovan của người Séc & Slovakia tại Nga, phụ trách nhà in, làm trợ lí cho chỉ huy thành phố Bugulma. Công việc trong Hồng quân cũng đã đưa ông tới tận Siberia, tới thành phố Irkusk. Cuối năm 1920, Hašek trở về Praha, mang theo người vợ Nga tên là Šura. Mùa thu năm 1921, Hašek cùng Šura chuyển về thành phố nhỏ mang tên Lipnice nad Sázavou (cách Praha 103 km về phía đông nam), một nơi yên tĩnh để Hašek có thể tập trung làm việc. Tại đây, ông tiếp tục viết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới. Nhưng cũng tại đây, sức khỏe của ông xấu đi trầm trọng do hậu quả của những năm tháng lang thang trước đó, của những cuộc say mèm, của khoảng thời gian khắc nghiệt ở Nga, của bệnh tim từ nhỏ và cả bệnh thương hàn mắc phải ở Siberia. Cuối năm 1921, khi bị bỏng tay không viết được, ông đã thuê một thanh niên ở Lipnice làm thư ký, và đọc cho anh viết tiếp. Hằng ngày, cứ viết được bao nhiêu là họ gửi đến nhà xuất bản bấy nhiêu, chỉ giữ lại trang cuối để hôm sau biết tiếp tục từ chỗ nào. Nhưng do bệnh nặng, ngày 3/1/1923, ở tuổi chưa đầy bốn mươi, Jaroslav Hašek qua đời, để lại cuốn tiểu thuyết còn đang dang dở. Từ ý định ban đầu viết về Vận mệnh người lính tốt Švejk cho đến sau chiến tranh, ông dừng lại trước khi kết thúc tập IV⦾. Trong những trang cuối cùng ông đọc cho người thư ký có câu viết về cuộc gặp mặt của Švejk với người lính tình nguyện một năm là: “Anh vẫn chẳng thay đổi gì cả,” người lính tình nguyện một năm Marek nói. “Ừ, không thay đổi,” Švejk trả lời, “tôi đã không có thời gian để thay đổi.” Và cha đẻ của Švejk thì đã không còn thời gian để hoàn thành tác phẩm nổi tiếng của mình.   Chưa đầy bốn mươi năm tuổi đời, nhưng Jaroslav Hašek đã có tới hai chục năm sáng tác. Trong suốt thời gian đó, ông đã viết tới 1.200 truyện ngắn, rất nhiều tiểu phẩm, bút ký và bài báo, đăng rải rác ở nhiều báo và tạp chí. Ông từng làm biên tập viên cho nhiều báo và tạp chí như tạp chí của tổ chức thanh niên tiến bộ Omladina, tạp chí của phong trào vô chính phủ Komuna, Đời sống động vật (Svět zvířat), hay Chân trời nữ giới (Ženský obzor), Tiếng Séc (České slovo) và thường xuyên viết bài cho các tờ như Báo dân tộc (Národní listy), Quyền lợi nhân dân (Právo lidu), Quyền lợi đỏ (Rudé právo), Hài hước (Humoristické listy), Châm biếm (Karikatury), Praha vui vẻ (Veselá Praha), v.v. Phần lớn các sáng tác của Hašek được tuyển chọn và xuất bản sau khi ông qua đời, chỉ một số được xuất bản thành tập lúc sinh thời. Thí dụ cuốn sách xuất bản đầu tiên và là tập thơ duy nhất đăng cùng Domažlický Tiếng kêu tháng Năm (Májové výkřiky, 1903), các tuyển tập Galerie châm biếm về các nhà chính trị và các vấn đề chính trị (Galerie karikatur, 1909, 1910), Những nỗi phiền muộn của ông Tenkrát (Trampoty pana Tenkráta, 1912), Cửa hàng chó của tôi và các truyện hài hước khác (Můj obchod se psy a jiné humoresky, 1915), Ba người đàn ông với con cá mập và các truyện bổ ích khác (Tři muži se žralokem a jiné poučné historky, 1921), v.v… Đặc biệt, ông còn cho xuất bản Người lính tốt Švejk và các truyện kỳ lạ khác (Dobrý voják Švejk a jiné podivné historky, 1912), Nguời lính tốt Švejk bị bắt làm tù binh (Dobrý voják Švejk v zajetí, 1917, xuất bản ở Kiev), Người lính tốt Švejk trước chiến tranh và các truyện kỳ lạ khác (Dobrý voják Švejk a jiné podivné historky, 1922), và tất nhiên, trọn vẹn ba tập đầu của tiểu thuyết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới (Osudy dobrého vojáka Švejka za světové války, 1921–1922). Từ Nga trở về Praha, Hašek đã bị nhiều người, kể cả bạn bè cũ, nói xấu và lẩn tránh. Người ta cho ông là kẻ phản bội đội quân lính lê dương Séc, vì ông đã tham gia Hồng quân Nga, đã là Bolshevik. Sau thời gian dài sống có kỷ luật và không rượu chè ở Nga, Hašek quay trở lại thói quen đi quán như trước. Nhưng cũng chính trong những ngày đó, ông nuôi ý tưởng viết về Người lính tốt Švejk. Cái ông viết sẽ không phải là truyện ngắn như những truyện về Người lính tốt Švejk ông đã viết vào năm 1911, 1912 hay 1917, mà là tiểu thuyết, bắt đầu từ vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand d’Este cho tới sau chiến tranh. Cuốn tiểu thuyết đó sẽ là tiểu thuyết châm biếm phóng đại với nhân vật chính mang tên Švejk mà ông đã nghĩ ra từ năm 1911. Đồng thời, ông đặt tên cho nó là Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới và nội chiến ở nước ta và Nga (Osudy dobrého vojáka Švejka za světové i občanské války u nás i v Rusku). cái tên dài như vậy dẫn đến nhiều tên gọi khác nhau của bộ tiểu thuyết, ví dụ Vận mệnh người lính tốt Švejk, hay Người lính tốt Švejk, người Séc chỉ gọi ngắn gọn là Švejk. cuốn sách bạn có trong tay mang tên đầy đủ của bốn tập do Hašek viết. Cuối tháng 2 năm 1921, ý tưởng xây dựng bộ tiểu thuyết đó đã trở thành kế hoạch cụ thể. Hašek quyết định cùng với người bạn Franta Sauer tự xuất bản, bắt đầu in thành từng cuốn sách mỏng rẻ tiền, và cũng tự bán. Hašek là người đọc rất nhiều, cũng nổi tiếng là người có trí nhớ tuyệt vời và có hiểu biết sâu rộng, giống như cuốn Từ điển Bách khoa toàn thư sống. Ông thuộc lòng tất cả mọi thứ công văn tài liệu để dẫn dắt. Khi viết, ngoài bản đồ ra hầu như ông không cần có ghi chép hay chú thích thêm nào cả, đặc biệt lúc này, ông có thêm rất nhiều hiểu biết và kinh nghiệm về môi trường quân đội, về cuộc chiến tranh tàn khốc vô nghĩa lý mới kết thúc. Hašek đã viết rất nhanh, giống như ông đã viết rất nhanh những truyện ngắn và tiểu phẩm của mình từ trước đó. Ông lại đến ngồi viết quán ăn, và đọc cho khách nghe những gì đã viết. Những con người thuộc đáy xã hội ở các quán ăn bình dân rẻ tiền đó trở thành những “nhà phê bình” sách đầu tiên của ông. Nhìn họ ôm bụng cười, ông biết mình đã thành công. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về tài chính, cuối cùng thì trong năm 1921 tập 1 Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới đã ra đời, do chính Hašek tự trang trải các chi phí và xuất bản tại Nhà xuất bản Franta Sauer & Václav Čermak, Praha. Tại Lipnice, Hašek tiếp tục viết tập II với tốc độ nhanh chóng mặt và giữa tháng 1 năm 1922 ông đã bắt đầu viết tập III. Cả hai tập này được xuất bản ngay năm 1922, nhưng tại Nhà xuất bản Adolf Synek ở Praha. Sau khi Hašek qua đời, tập IV của Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới được xuất bản ngay trong năm 1923. Từ đó đến nay, bộ tiểu thuyết đồ sộ này được in lại rất nhiều lần với số lượng bản in trung bình 40.000 cuốn/lần, đặc biệt các năm 1975, 1976, 1980 và 1990 in 100.000 cuốn/lần và đỉnh cao là năm 1951, sách được in tới 150.750 cuốn. Cuốn tiểu thuyết có một không hai trong lịch sử văn học Séc này cũng có một số phận rất đặc biệt. Ngay sau khi nó ra đời, và cả một thời gian dài sau đó, trong khi những người dân thường đọc nó một cách say mê và khoái chí thì, trừ một số nhà văn nhà báo nhận thấy ngay đây là một tác phẩm đáng đọc, làng văn Séc hầu như không chấp nhận nó, không coi nó là một tác phẩm văn học, không coi tác giả của nó là nhà văn. Thậm chí còn có ý kiến cho rằng Švejk là kẻ trốn tránh nghĩa vụ, rằng cuốn sách này gây tác hại đến đạo đức người lính, có người còn nguyền rủa phỉ báng Hašek và cách sống của ông. Nhưng dần dần, những lời khen nhiều hơn, và sau đây là một số trích dẫn thay cho lời phân tích tác phẩm: Max Brod (1884–1968), nhà ngôn ngữ học, dịch giả, nhà báo, nhà văn viết bằng tiếng Đức, đã viết vào năm 1923: Nhà văn dân gian người Séc đã đạt được điều mà hàng trăm nhà văn khác cố gắng suốt đời nhưng không thành: đó là việc sáng tạo, xây dựng được một nhân vật, một con người độc đáo, đồng thời là một kiểu người. Tác phẩm của Hašek – mặc dù có thể là chính bản thân tác giả không biết điều này – là tác phẩm hàng đầu. Nhà văn không thể mong muốn gì hơn được nữa: đó là nhân vật xuất hiện từ cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người, và lập tức được mọi người công nhận và tiếp nhận vào tâm thức của mình. Và chúng ta có thể đặt giả thiết hầu như chắc chắn rằng, một nhân vật như thế phản ánh được cái gì đó sâu kín nhất, không chỉ về dân tộc nó xuất thân, mà còn về sự liên quan đến cơ sở tồn tại bí ẩn nhất của loài người. Nhân vật ấy cũng giống như Hiệp sĩ gàn dở Don Quixote de la Mancha, mặc dù lúc đầu châm biếm người Tây Ban Nha, nhưng cuối cùng đã trở thành biểu tượng được yêu mến nâng niu bởi tất cả mọi sự gàn dở điên điên, về mặt tốt, cũng như mặt xấu của mình. Bằng lời ngợi ca này, tôi nói về những cuốn sách đã đưa tên tuổi của Người lính tốt Švejk ở Praha trở thành nổi tiếng. Nhà phê bình văn học, sân khấu và mỹ thuật, đồng thời là đạo diễn điện ảnh và dịch giả Séc Josef Kodíček (1892–1954) viết vào năm 1927: Có những nhà phê bình có học thức và cao thượng thấy kinh hãi nhân vật Švejk. Có những nhà văn tuyên bố rằng Švejk là cuốn sách mà họ không mang theo cả khi phải ra hòn đảo hoang vắng. Vì sao? Chỉ vì trong đó có nói tục ư? Ngược lại, nhà thơ và nhà văn Durych nói rằng Švejk phải được đúc thành tượng. Về phía mình, chúng tôi không sợ trở thành nhà tiên tri khi khẳng định Švejk sẽ được đọc cả vào khi mà phần lớn các sáng tác cùng thời với nó bị lãng quên. Nhà báo, nhà văn trào phúng Séc Karel Poláček (1892–1945) đã viết vào năm 1930: Švejk là một tác phẩm thú vị và tôi nghĩ là lịch sử văn học phải nghiên cứu. Chỉ ngay về mặt hình thức thôi nó cũng thú vị rồi. Nó là tiểu thuyết ư? Là sử ký hài hước ư? Có thể nó là tiểu thuyết hài hước được gộp lại từ các chương, tức là nó có đặc trưng của các cuốn tiểu thuyết hài hước nổi tiếng nhất trên thế giới, như nhà văn Karel Čapek đã khẳng định. […] Švejk là văn học, thậm chí là văn học rất truyền thống. Người lính tốt Švejk có gia phả của mình. Anh có quan hệ họ hàng rất gần gũi với Sam Weller. Anh và Sam Weller có chung sở thích đánh giá bình luận các sự kiện, đối với ông chủ của mình thì có một tình yêu lớn, nhưng mang chút rộng lượng và có phần coi thường. Và cả Sam Weller lẫn Švejk đều dùng cách so sánh rất thơ mộng trong các hồi ức và những câu chuyện của đời mình, và họ kể về chúng một cách ung dung thoải mái. […] cách đây không lâu đã có một cuộc tranh luận gay gắt về Người lính tốt Švejk. Ông Viktor Dyk lo lắng về số phận và khả năng chiến đấu của quân đội Tiệp Khắc và lên tiếng cảnh báo về những Švejk và ảnh hưởng không tốt của họ đến kỷ luật quân đội. Xin ông Nghị sĩ và nhà thơ Dyk yên tâm. Giá mà ông đã đi lính và có hiểu biết rõ hơn về người lính Séc thì ông đã thấy là Švejk chưa bao giờ và không bao giờ có thể là kiểu người lính Séc. Tôi đã đi lính bốn năm và chưa bao giờ tôi gặp một Švejk nào. […] Švejk là một người ở Praha không có thu nhập ổn định, nhiều khi không có chỗ ở và không nghề nghiệp, cảnh sát có thể viết về anh ta như thế. Švejk là sản phẩm của trí tưởng tượng phóng túng và say mèm của tác giả. Tôi có thể kể đến kiểu người thực sự hoàn hảo như anh lính công binh Vodička – người hết sức căm ghét dân Hungary, kiểu người háu ăn không bao giờ no là Baloun, kiểu người như trung úy Lukáš – người thầm thì bí mật: “Chúng ta hãy là người Séc, nhưng không người nào phải biết đến điều đó.” Tôi cũng là người Séc: Những nhân vật một trăm phần trăm như thế, những nhân vật sẽ sống muôn đời và sẽ đúng muôn đời như thế, có rất nhiều trong tác phẩm này. Một ông chủ quán Palivec thận trọng, không cho ai tán chuyện về chính trị trong quán của mình bởi vì ông là người buôn bán. Một tay mật thám Bretschneider luôn khiêu khích với hy vọng bắt được ai đó vào nhà tù. Đó là những người chúng ta thường gặp và tất cả chúng ta đều biết họ. Nhà văn, nhà báo và dịch giả Ivan Olbracht (1882–1952) đã viết những dòng này năm 1921: Nếu muốn cười thật sự, bạn hãy đọc Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của Jaroslav Hašek. Gotthold Ephraim Lessing nói về Friedrich Gottlieb Klopstock rằng mọi người đều khen ông, nhưng ít người đọc ông. Trong trường hợp Jaroslav Hašek thì ngược lại. Hàng chục nghìn người đọc Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới (10.000 cuốn phát hành lần đầu đã bán hết), hàng chục nghìn người nghiêng ngả cười trên các trang sách. Thế mà không một nhà phê bình văn học nào dám khen nó. Bạn hãy hỏi một độc giả bình thường nhận xét của người ấy về cuốn sách, và độc giả ấy mới chỉ nghe đến tên Švejk là đã bật cười. Suy cho cùng thì đó là câu trả lời tốt nhất. Nhưng nếu bạn hỏi một người có “trình độ về văn học” thì người ấy cười độ lượng rồi ngập ngừng trả lời nước đôi: “Ờ…” Người ấy không dám làm kẻ vô ơn mà nói gì xấu về cuốn sách, bởi nó đem lại cho người ấy nhiều lúc vui vẻ. Nhưng khi nghĩ đến phong cách hoàn toàn “phi văn học”, đến ngôn ngữ nhà binh, đến ngôn ngữ ngoài đường phố và các quán ăn rẻ tiền thì người ấy lại sợ mất thể diện khi nói “đấy là cuốn sách tuyệt vời”. Švejk là một kiểu nhân vật hoàn toàn mới trong văn học thế giới. Một kiểu người đần độn trong dân gian Séc lần đầu tiên xuất hiện trong văn học viết và được đưa vào cuộc sống hiện đại ồn ã. Một kiểu người bình thản được nhìn từ một góc độ mới. Chúng ta vui vì gặp một kiểu người hoàn toàn ngược với kiểu người đáng ghét “tính nết có vấn đề”, “không bằng lòng với bất kỳ tình huống nào, cũng chẳng hợp với bất kỳ tình huống nào”, bởi vì Švejk là người hài lòng trong mọi tình huống, và cũng ở thế mạnh hơn trong mọi tình huống. Một người ngu tinh khôn, hay thật sự là một người ngu tài tình, người có cái vẻ hiền lành ngu xuẩn, nhưng đồng thời ranh mãnh như thế phải thắng ở mọi nơi. Kiểu người văn học mới này không thể làm chúng ta quan tâm đến thế, vui vẻ đến thế, nếu nó không phải là một phần của chúng ta, nếu “ngôn ngữ Švejk” ít nhiều không phải là của tất cả chúng ta, tương tự như “ngôn ngữ Don Quixote”, “ngôn ngữ Hamlet”, “ngôn ngữ Faust”, hay “ngôn ngữ Oblomov”. Hašek giải nghĩa cho chúng ta về Thế chiến từ góc nhìn mới. Ông là người trực tiếp tham gia cuộc chiến, đã đi đến một nửa châu Âu và đến cả châu Á. Vận mệnh người lính tốt Švejk của ông là cuốn tiểu thuyết về chiến tranh. Tôi đã đọc một số tiểu thuyết chiến tranh và chính bản thân tôi cũng viết một quyển. Nhưng không có một quyển nào toát ra được toàn bộ sự tàn ác bất lương, cái ngu xuẩn và man rợ của Đại chiến Thế giới một cách rõ ràng như ở cuốn sách của Hašek. Ông không đòi hỏi phải vượt qua chiến tranh để chiến thắng. Ông đứng bên trên nó ngay từ lúc mở đầu. Ông cười chế nhạo nó. Ông đã cười chế nhạo nó trên toàn bộ cũng như từng chi tiết, như thể nó không hơn gì cuộc ẩu đả say rượu trong quán ăn ở Žižkov. Để có thể có được cái nhìn như thế tất nhiên cần phải có một Švejk mạnh mẽ, cùng với sự ngu xuẩn tài tình. Quang vinh thuộc về người đã làm được điều đó. Và kết quả là: Vận mệnh người lính tốt Švejk là một trong những cuốn sách hay nhất được viết ở Séc. Khi ở Omsk, Hašek là một con người mẫu mực, nhưng chẳng viết được dòng nào. Ở Praha ông là người lang thang quán này sang quán nọ, nhưng đã viết được một trong những cuốn sách hay nhất của văn học Séc. Siberia có thể tìm được người chỉ huy quân sự tốt khác, nhưng không một người nào khác có thể viết được Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới”.   Đây là lần đầu tiên cuốn tiểu thuyết đồ sộ Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới đến trọn bộ với bạn đọc Việt Nam. Chúng tôi tin rằng Švejk sẽ trở thành người bạn văn học đáng yêu của độc giả Việt Nam. Và tương tự như Jan Neruda, Franz Kafka, Karel Čapek, Bohumil Hrabal, Milan Kundera… cả Jaroslav Hašek cũng sẽ trở thành tác giả quen thuộc ở Việt Nam. Bắt tay vào chuyển ngữ bộ tiểu thuyết, người dịch ý thức được nhiều vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa. Trong tác phẩm này, ngôn ngữ mà Jaroslav Hašek sử dụng là tiếng Séc bình dân từ ngoài đường phố, từ các quán ăn rẻ tiền, nhưng dưới ngòi bút sắc sảo của ông, nó là thứ tiếng Séc rất dí dỏm, khôi hài, đậm sắc dân tộc. Tác phẩm cũng phản ánh phần nào cả vấn đề ngôn ngữ dân tộc trong giai đoạn lịch sử đó ở Séc, khi mà tiếng Đức chiếm vị trí độc tôn, đặc biệt ở đây là sự có mặt của vốn từ tiếng Đức trong ngôn ngữ nhà binh⦾. Lời kể trong truyện là lời kể tự nhiên không gượng ép, không cố gây cười và cái hài hước chỉ là công cụ để châm biếm, đả kích những điều xấu xa trong xã hội và đặc biệt chống lại cuộc Đại chiến tàn khốc. Cái dí dỏm, khôi hài và châm biếm rất Séc của tác phẩm đồng thời cũng là điểm chung có thể chuyển tải sang tiếng Việt, bởi trào phúng là một phần đáng kể trong văn hóa Việt. Và hơn cả, bên cạnh những câu chuyện vui hài hước làm nền là nhiều trang viết về chiến tranh, về những điều sâu sắc khiến độc giả trầm ngâm suy nghĩ. Nói cho cùng, nếu không có cái thông điệp chung như thế thì Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới không thể được dịch ra bằng ấy ngoại ngữ trên thế giới.   Chúng tôi lại xin mượn lời của nhà báo, nhà văn và dịch giả Séc Ivan Olbracht: Các bạn hãy đọc đi, đây là một cuốn sách tuyệt vời. bình slavicka   Mời các bạn đón đọc Vận Mệnh Người Lính Tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới Tập I-II của tác giả Jaroslav Hašek & Bình Slavická (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Có Gì & Không Một Ai - Nguyễn Đông Thức
Ba nhân vật chính là ba người bạn than là Phong, Tiềm và Thương. Giữa họ vừa là tình bạn vừa lấn cấn chút tình yêu. Tuy mỗi người xuất thân từ mỗi hoàn cảnh khác nhau, nhưng vượt lên trên tất cả tình yêu thương, sự tin tưởng họ dành cho nhau không gì lay chuyển nổi. Vì thế họ đã sống và sẵn sàng hi sinh tình cảm cá nhân để bạn mình được hạnh phúc. Ba người bạn bước đi trên ba lối rẽ, mỗi người một cách vào đời, cùng trắc trở theo những thăng trầm của đất nước sau ngày giải phóng. Sau những khó khăn chia lìa họ càng quý trọng tình bạn và dẫu mỗi người ở một phương trời cuối cùng họ vẫn hội ngộ, bởi vì không có gì và không một ai có thể chia cắt tình bạn của họ. *** Mỗi lần cầm trên tay tác phẩm của nhà văn Nguyễn Đông Thức, trong tôi lại có cảm giác gần như là bồi hồi, chờ đợi. Như thể chính mình sẽ được cùng các nhân vật trở về thời mà nhà văn đã sống, đã cống hiến bằng tất cả lý tưởng của tuổi trẻ, thời đại có lẽ rồi sẽ chẳng bao giờ trở lại thêm một lần nữa trong cuộc sống đã nhiều bôn ba, vội vã này. Một năm trước, khi đọc Không quên - tập truyện ngắn cũng từ ký ức của nhà văn về những năm tháng thanh niên xung phong - tôi đã chia sẻ với ông niềm cảm phục về một thế hệ thanh niên sống thiếu thốn mọi bề nhưng sao tràn đầy nhiệt tâm, lý tưởng đến vậy. Chừng như những câu chuyện của quá khứ được nối dài bằng thời gian trở thành những con chữ bao giờ cũng mang giá trị của sự chiêm nghiệm, của một hành trình đã nhìn thấu được những vạn biến quanh đời. Lần này cũng vậy, với tiểu thuyết Không có gì và không một ai, nhà văn Nguyễn Đông Thức lại gửi đến độc giả một hành trình đã được minh chứng bằng thời gian, có hồn nhiên tinh khôi, rồi chia ly, nước mắt; có nông nổi, sai lầm và cả những tiếc nuối, đau xót. Và thứ tha… Sẽ không ai biết được ngày mai sẽ như thế nào, những lựa chọn của hiện tại rồi sẽ dẫn bước chân người về đâu. Hôm nay hạnh phúc hay khổ đau, vẫn chẳng thể nói lên được điều gì ở phía cuối con đường. Với Không có gì và không một ai, tác giả của Ngọc trong đá, Vĩnh biệt mùa hè, Trăm sông về biển… chọn một lát cắt để lý giải tất cả những điều đó. Cuộc đời, dài mấy mươi năm đó, nhưng có khi cũng chỉ là một cái chớp mắt của số phận, để những người từng thương yêu nhau được gặp lại nhau. "Không có gì và không một ai có thể thay đổi tình bạn tụi mình", một phần câu nói được chọn làm tựa truyện, và đó cũng là nguyên tắc "số 1" trong mối quan hệ giữa 3 người bạn thân, nhân vật chính: Phong, Tiềm và Thương. Gắn bó với nhau từ thời còn học đệ nhất (lớp 12 bây giờ), những tưởng cả 3 người sẽ có được những ngã rẽ hạnh phúc khi họ tràn đầy sức sống của niềm tin, của lý tưởng tuổi trẻ. Nhưng câu chuyện không chỉ xoay quanh mối tình tay ba của các nhân vật. Giữa thời đại vẫn còn đầy những biến động của thời cuộc, nhà văn đã để cho những nhân vật của mình có những ngã rẽ không ngờ tới được của lựa chọn và cả mất mát. Nếu như ở Vĩnh biệt mùa hè, Nguyễn Đông Thức từng khiến người đọc xót lòng khi “xuống tay” chọn cái chết cho nhân vật, thì ở Không có gì và không một ai, lý do cho cuộc chia ly giữa Tiềm và Thương, một tình yêu thiết tha mà không dám ngỏ, đau đớn theo một cách khác. Phong làm báo, Thương làm cô giáo vùng cao, Tiềm đi thanh niên xung phong. Phong yêu Thương, Thương lại dõi theo Tiềm, Tiềm vì không muốn Phong đau khổ mà chọn cách ra đi. Mỗi người một lý lẽ, một lựa chọn hy sinh vì hạnh phúc của bạn thân nhưng không ai nghĩ rằng cũng sẽ “không có gì và không một ai” có thể làm thay đổi khi trái tim đã chọn yêu thương một người. Hạnh phúc là một món quà, nhưng cũng là một ẩn số trong cuộc đời của mỗi người. Không có gì và không một ai là một câu chuyện đầy những ẩn số. Những câu hỏi, những con chữ bỏ lửng của nhà văn: “Nếu ngày mai ta không còn nhìn thấy nhau… Có phải cuộc đời này cuối cùng sẽ không còn lại gì? Có những sai lầm thật quá khó để lấy lại những gì đã mất”, “Hãy ngồi xuống đây, cho nhau lần này…” khiến người đọc như bị dẫn dụ, phải đi tìm câu trả lời, những lý giải trong từng trang viết của nhà văn. “Đây là cuốn tiểu thuyết mà ba nhân vật đã trôi theo dòng nhạc, từ Cho lần cuối của Lê Uyên Phương đến You’ve got a friend của Carole King. Có hay không một tình bạn giữa người nữ và người nam? Bạn đọc sẽ có câu trả lời khi cùng trôi theo dòng nhạc - dòng đời đó, để hiểu về tình bạn và tình yêu của chính mình”, nhà văn Đoàn Thạch Biền đã chia sẻ như vậy về tác phẩm. Thật vậy, cuốn sách đã đưa người đọc đi theo hành trình của 3 nhân vật chính, khóc cười cùng họ, thấu hiểu và chia sẻ, mong chờ một cái kết ít nhất là trọn vẹn cho hai con người trái tim vốn dĩ thuộc về nhau. Rồi thì có lẽ cũng được “toại nguyện” khi nhà văn đã chọn sự đoàn tụ cho kết thúc của những hành trình đi dài trong suốt mấy mươi năm. Nhưng có lẽ “không một ai” đọc tác phẩm lại nghĩ rằng các nhân vật sẽ có một kết thúc như thế, trong sum vầy nhẹ hẫng, trong nụ cười của bình yên. Dẫu rằng nếu phải quay nhìn lại thì đôi chân nào cũng đã đi qua gian nan, khắc nghiệt và đau đớn tưởng như đến tận cùng của một cuộc đời. Khép lại tác phẩm, tôi vẫn nhớ câu nói: “Không có gì và không một ai…”. Ừ, mọi thứ có thể bị bào mòn, nhưng tình thương sẽ mãi mãi ở lại. Tiểu Quyên *** Nhà văn Nguyễn Đông Thức sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính đã xuất bản Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986) Mưa khuya (truyện ngắn, 1987) Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987) Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988) Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988) Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989) Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... Vĩnh biệt mùa Hè Vĩnh biệt facebook Như Núi Như Mây ... Mời các bạn đón đọc Không Có Gì & Không Một Ai của tác giả Nguyễn Đông Thức.
Chỉ Tại Con Chim Bồ Câu - Patrick Suskind
Nhân vật chính của cuốn sách là Jonathan Noel, 53 tuổi, sống một mình trong một căn hộ nhỏ của Paris. Ông là bảo vệ của một ngân hàng, cách nơi ở khoảng 5 phút đi bộ. Ông không có bạn bè, không có bất kỳ mối liên kết nào với hàng xóm. Ông tính toán rằng cho đến lúc nghỉ hưu, ông đã dành khoảng 75 nghìn giờ để đứng trên ba bậc đá cẩm thạch ở cửa ngân hàng. Ông cũng tin chắc, ông sẽ là người duy nhất ở Paris, thậm chí ở nước Pháp, đứng lâu nhất chỉ ở một vị trí. Ông sống một cuộc sống được lập trình sẵn, và mục đích của ông chính là duy trì trạng thái trật tự ấy cho đến khi cái chết mang ông đi. Nhưng, con chim bồ câu đã đột ngột xuất hiện trong cuộc đời ông. Vào buổi sáng khi trông thấy con chim bồ câu bên ngoài cánh cửa phòng, ông dựng tóc gáy, mồ hồ vã ra đầm đìa, trái tim đập liền hồi, sợ hãi. Ông đóng sập cửa lại và ngã gục trên giường, như vừa trải qua một cơn đau tim hay đột quỵ. Nỗi sợ hãi đã khiến ông quyết định chọn những đồ vật quan trọng nhất bỏ vào vali xách đến chỗ làm. Ông tính toán số tiền mình có được để đủ thuê khách sạn trong bao lâu. Và ông lấy hết sức can đảm để ra khỏi nhà, đến cơ quan ngày hôm ấy. Câu chuyện kể tỉ mỉ những sự kiện diễn ra trong ngày con chim bồ câu xuất hiện của cuộc đời Noel. Thật tệ khi ông bắt đầu bứt rứt trong lúc đứng thực hiện nhiệm vụ, ông lơ đễnh trong sự bối rối đến mức không nhận biết chiếc xe quan trọng của ngân hàng xuất hiện đúng giờ như mọi ngày, rồi lại bần thần làm chiếc quần bị rách, phải đi khắp chốn tìm nhờ người khâu lại… Những sự kiện bất ngờ ấy từ lâu không xuất hiện trong cuộc sống của ông, khiến ông tưởng như đã chạm đáy sự tuyệt vọng. Câu chuyện Chỉ tại con chim bồ câu có thể là lời cảnh tỉnh về sự ơ hờ trần trụi ở đời sống xã hội hiện đại này, khi con người chọn cách khép chặt mọi cách cửa liên hệ với xã hội, cự tuyệt xã hội, sống qua ngày như cỗ máy, khước từ sự nghe, nhìn, đối thoại. Hay nó là một lời biện hộ cho những kẻ cô lẻ trong đời, bị đời “tra tấn” đến độ phải chạy trốn, lựa chọn bỏ rơi thay vì trở thành kẻ bị bỏ rơi, bởi đã đầy những vết thương của li tán, phản bội. Cuộc đời trầm lặng tưởng mờ nhạt của lão Noel còn khiến độc giả phải trăn trở, ngẫm nghĩ rất nhiều. Chỉ tại con chim bồ câu là cuốn tiểu thuyết ngắn của nhà văn Patrick Süskind, đã từng rất nổi tiếng với tiểu thuyết Mùi hương. Ông là một người sống khép kín. Năm 1987, ông từ chối tất cả các giải thưởng, né tránh các phương tiện truyền thông và từ từ rút khỏi công chúng. Patrick Süskind sống ở Munich và Pháp. *** Patrick Süskind (sinh năm 1949) là một nhà văn và nhà viết kịch bản người Đức. Ông học đại học về lịch sử tại München và Aix-en-Provence và hiện nay sống tại München và Paris. Cha của ông, Wilhelm Emanuel Süskind, là nhà văn, người biên dịch và cộng tác viên lâu năm của tờ báo Süddeutsche Zeitung. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Mùi hương (Das Parfum, 1985) đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng và năm 2005 đã được đạo diễn Tom Tykwer chuyển thể phim sau khi hãng Constantin-Film đảm nhận phí tổn sản xuất và mua quyền sở hữu với tròn 10 triệu Euro. Ngoài ra Süskind còn tham gia viết các kịch bản cho bộ phim truyền hình nhiều tập Monaco Franze (1982) và Kir Royal (1986) cũng như cho các phim truyện Rossini - oder die mörderische Frage, wer mit wem schlief (1997) và Vom Suchen und Finden der Liebe (2005), được đạo diễn Helmut Dietl quay thành phim. Der Kontrabaß, vở kịch độc thoại một hồi trong năm 1981, với hơn 500 lần diễn trong mùa diễn 1984/1985 là vở kịch được diễn nhiều nhất trên sân khấu tiếng Đức. Có rất ít người khước từ cao độ các mong đợi từ đời sống văn học như Süskind. Ông gần như không tiếp nhận phỏng vấn mình, không xuất hiện trong giới công chúng và đã từ chối nhiều giải thưởng khác nhau như Giải Gutenberg, Giải Tukan và giải thưởng văn học của tờ báo Frankfurter Allgemeine Zeitung. Ông đã có một vai diễn xuất nhỏ trong bộ phim truyền hình 10 tập Monaco Franze. Tác phẩm Der Kontrabaß, 1981 Mùi hương (Nguyên tác tiếng Đức: Das Parfum, 1985, ISBN 3-8044-0392-1) Chỉ tại con chim bồ câu (Nguyên tác tiếng Đức: Die Taube, 1987) Chuyện về chú Sommer (Nguyên tác tiếng Đức: Die Geschichte von Herrn Sommer, 1991) Rossini – oder die mörderische Frage, wer mit wem schlief, 1997 Drei Geschichten, 2005, ISBN 3-257-23468-6 Mời các bạn đón đọc Chỉ Tại Con Chim Bồ Câu của tác giả Patrick Suskind.
Sức Mạnh Tiềm Thức - Joseph Murphy
Là một trong những quyển sách về nghệ thuật sống nhận được nhiều lời ngợi khen và bán chạy nhất mọi thời đại, Sức mạnh tiềm thức đã giúp hàng triệu độc giả trên thế giới đạt được những mục tiêu quan trọng trong đời chỉ bằng một cách đơn giản là thay đổi tư duy. Sức mạnh tiềm thức giới thiệu và giải thích các phương pháp tập trung tâm thức nhằm xóa bỏ những rào cản tiềm thức đã ngăn chúng ta đạt được những điều mình mong muốn. Sức mạnh tiềm thức không những có khả năng truyền cảm hứng cho người đọc, mà nó còn rất thực tế vì được minh họa bằng những ví dụ sinh động trong cuộc sống hằng ngày. Từ đó, Sức mạnh tiềm thức giúp độc giả vận dụng năng lực trí tuệ phi thường tiềm ẩn trong mỗi người để tạo dựng sự tự tin, xây dựng các mối quan hệ hòa hợp, đạt được thành công trong sự nghiệp, vượt qua những nỗi sợ hãi và ám ảnh, xua đi những thói quen tiêu cực, và thậm chí còn hướng dẫn chúng ta cách chữa lành vết thương về thể chất cũng như tâm hồn để có được sự bình an, hạnh phúc trọn vẹn trong cuộc sống. *** Tôi đã từng chứng kiến phép lạ xảy đến với rất nhiều người thuộc những tầng lớp khác nhau trên thế giới. Và tôi đoan chắc điều kỳ diệu cũng sẽ đến với bạn nếu bạn biết cách vận dụng sức mạnh thần kỳ của tiềm thức. Quyển sách này sẽ giúp bạn hiểu được rằng chính lối suy nghĩ và những hình tượng quen thuộc sẽ định hình và tạo nên số phận của bạn; vì đơn giản là suy nghĩ trong tiềm thức của một người thế nào thì họ sẽ như thế ấy. Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao người này buồn rầu còn người kia thì vui vẻ? Tại sao người này sung sướng và thành đạt còn người khác thì nghèo đói và khốn khổ? Tại sao người này sợ hãi và lo lắng còn người kia lại tràn đầy lòng tin và sự tự tin? Vì sao người này có nhà cửa khang trang, lộng lẫy trong khi người kia sống cuộc đời cùng khổ trong một khu nhà ổ chuột? Tại sao người này cực kỳ thành công còn người kia thất bại thảm hại? Tại sao người này đạt được nhiều thành tựu trong công việc trong khi người kia lao nhọc vất vả cả đời mà chẳng làm nên trò trống gì? Tại sao rất nhiều người lương thiện phải chịu những nỗi thống khổ đày đọa tinh thần và thể xác? Tại sao có nhiều kẻ đồi bại và vô đạo lại thành công, giàu sang và có sức khỏe tráng kiện? Tại sao cuộc hôn nhân của người này hạnh phúc còn của người kia thì bất hạnh? Phải chăng trong sự vận hành của ý thức và tiềm thức sẽ có câu trả lời cho những vấn đề này? Dĩ nhiên là có. Và chính niềm mong mỏi sâu xa được chia sẻ những đáp án mà tôi đã khám phá ra là động lực thôi thúc tôi viết quyển sách này. Tôi đã cố minh giải những điều căn bản và lớn lao về tâm trí bằng một ngôn ngữ giản dị, đời thường nhất có thể. Tôi tin rằng sau khi nghiền ngẫm và áp dụng những phương pháp được đề cập trong quyển sách này, bạn sẽ nắm giữ một sức mạnh thần diệu để tự vực mình dậy khỏi bối rối, khổ sở, u sầu và thất bại. Nó sẽ dẫn đưa bạn đến vị trí đích thực của bạn, giúp bạn giải quyết những khó khăn, ngăn bạn khỏi sự câu thúc về xúc cảm và thể chất, và đặt bạn trên con đường thẳng tắp dẫn đến tự do, hạnh phúc và sự thanh thản tâm hồn. Năng lực thần diệu của tiềm thức tồn tại trước khi chúng ta được sinh ra. Những chân lý và nguyên tắc vĩnh cửu vĩ đại trong cuộc sống cũng được hình thành từ lâu đời. Chính vì vậy mà tôi rất muốn bạn hãy vận dụng sức mạnh biến đổi huyền diệu, thần kỳ này để chữa lành những vết thương trong tâm hồn và thể xác, giải phóng bạn khỏi những hạn định của sự nghèo khổ, thất bại, cơ cực… Tất cả những gì bạn phải làm là hợp nhất tinh thần và cảm xúc với những điều tốt đẹp nhất mà bạn mong muốn, sức mạnh của tiềm thức sẽ đáp ứng phù hợp. Hãy bắt đầu ngay hôm nay. Để những điều kỳ diệu xảy đến trong đời bạn! *** Giáo sư Joseph Murphy (1898 - 1981), đã viết sách, giảng dạy, tư vấn và diễn thuyết cho hàng ngàn người trên thế giới. Ông từng là Phó chủ tịch của Hội nhà thờ Thánh khoa học ở Los Angeles trong 28 năm, nơi các bài diễn thuyết của ông có từ 1300 đến 1500 người đến nghe mỗi Chủ nhật. Tư tưởng của ông ảnh hưởng từ Ernest Holmes và Emmet Fox - những tác giả nổi tiếng theo nguyên tắc New Thought. Ông viết hơn 30 quyển sách, đưa ra những kĩ thuật đơn giản nhưng được chứng minh một cách khoa học, và đưa một sự thật đầy kinh ngạc là sức mạnh trong tiềm thức mỗi người có thể mang đến những điều vô cùng kì diệu, chữa lành mọi vết thương tâm lý. Một số quyển sách nổi tiếng của ông có thể kể đến như “Peace within yourself” (1956), “Your infinite power to be rich” (1966), “Within you is the power” (1977), “The power of your subconscious mind” (1963). Các tác phẩm nổi tiếng: - Khai Thác Sức Mạnh Tiềm Thức - Sức mạnh của tiềm thức - Phép màu của tâm trí - Câu trả lời hoàn hảo - Tình yêu là sự tự do - Điều kỳ diệu của niềm tin - Sức mạnh vũ trụ bên trong bạn Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Tiềm Thức của tác giả Joseph Murphy.
Sự Thật Về Donald Trump - David Cay Johnston
Sự Thật Về Donald Trump là cuốn sách New York Times Bestseller đầu tiên tiết lộ mối liên hệ giữa Donald Trump với Liên Bang Nga - thứ đã làm tốn không ít giấy mực của giới truyền thông toàn cầu. Trong "Sự thật về Donald Trump", những khía cạnh gay cấn và riêng tư nhất của nhân vật thời đại này sẽ được tiết lộ một cách cẩn trọng, dựa trên những tài liệu vững chắc. Thông qua hàng chục năm nghiên cứu các bài phỏng vấn, báo cáo tài chính, văn kiện tòa án... liên quan đến Donald Trump; tác giả - nhà báo David Cay Johnston cung cấp cho độc giả cái nhìn sâu sắc nhất về người đàn ông khiến cả thế giới phải dõi theo. Đúng như tiêu đề của nó, tất cả những sự thật về Donald Trump, như lịch sử gia đình phức tạp của ông, các câu chuyện hôn nhân đầy toan tính, sự nghiệp kinh doanh lắm thăng trầm, đế chế Trump hùng mạnh nhưng tai tiếng... đều sẽ được phơi bày trong tác phẩm. Và đương nhiên, chúng ta không thể không bàn tới việc Trump đã lôi kéo rất nhiều cá nhân quyền lực vào quỹ đạo của bản thân như thế nào. Johnston tâp trung phân tích hành vi ứng xử của Trump, để người đọc có thể phần nào hiểu được tính cách của con người kỳ lạ này.  Trump cáo già trong truyền thông, luôn sôi sục tinh thần kinh doanh, và có sức ảnh hưởng chính trị không hề nhỏ, ngay cả khi chưa lên làm Tổng thống. Vì nhiều lý do, cuộc đời ông trở thành một chuỗi tranh luận với đủ loại quan điểm trái chiều. Nhưng bạn thì sao, bạn nghĩ như thế nào về Donald Trump? Hãy cầm lên "Sự thật về Donald Trump" và tìm kiếm câu trả lời của riêng mình. *** K hi đài truyền hình quốc gia phát sóng trực tiếp buổi quảng bá chiến dịch tranh cử Tổng thống của Donald Trump tại tòa nhà Trump Tower vào tháng Sáu năm 2015, hầu như mọi ký giả đều xem nó như điều vớ vẩn. Trừ tôi. Tôi đã làm phóng viên điều tra từ năm 18 tuổi. Tôi luôn đào bới sự thật, cập nhật các dự thảo luật, và săn nhiều tin cho các tờ báo San Jose Mercury, Detroit Free Press, Los Angeles Times, Philadelphia Inquirier, và cuối cùng là tờ New York Times. Lúc đầu, tôi tự chọn tin để đăng. Tôi luồn lách trong mớ tin tức vì những bài báo của tôi thu hút người đọc và có hiệu ứng tốt: như vụ chương trình truyền hình bị cấm phát sóng vì đưa tin sai lệch, một người đàn ông được giải oan do tôi tìm được hung thủ thực sự, Jack Welch từ bỏ các khoản lương hưu, hay tiết lộ các vụ phạm pháp và hoạt động gián điệp mật của Sở Cảnh sát Los Angeles với các tổ chức nước ngoài nhằm phá hoại chính trị Mỹ. Trong phi vụ cuối cùng của mình, tôi được trao giải Pulitzer vì đã vạch trần nhiều vụ trốn thuế và chỉ ra các lỗ hổng luật pháp đến mức một chuyên gia luật thuế nổi tiếng đã gọi tôi là “viên chức thuế thực thụ của nước Mỹ”1. 1 Từ gốc “de facto chief tax enforcement officer”. Năm 1987, tôi hứng thú điều tra mảng casino sau khi Tòa án Tối cao ban hành luật người gốc Mỹ2 có quyền sở hữu các sòng bài. Tôi chắc rằng vụ việc này sẽ dẫn tới sự gia tăng hàng loạt casino khắp đất nước – các sòng bài mà hầu hết do các tập đoàn lớn của Mỹ điều hành. Hãng tin Philadelphia Inquirer thích ý tưởng này của tôi: nên vào tháng Sáu năm 1988, tôi chuyển đến thành phố Atlantic. 2 Từ gốc “Native American” chỉ những người quốc tịch Mỹ nhưng không phải nhập cư trước đó. Chỉ vài ngày sau, tôi gặp được Donald Trump. Tôi đánh giá Trump như một P.T. Barnum3 thời hiện đại đang rao bán vé tham quan Người cá Feejee, một trong những xác ướp giả nổi tiếng của ông mà mọi người chấp nhận bỏ tiền để xem. Trump lúc này hoàn toàn bản năng. Tôi nhanh chóng biết được từ người dân trong vùng rằng ông ấy chẳng hề biết gì về ngành công nghiệp casino, cũng như luật chơi của nó. Nhưng điều này hóa ra lại trở nên quan trọng, như tôi sẽ trình bày tại hai chương gần cuối. 3 Nhà chính trị, kinh doanh, ông bầu gánh xiếc nổi tiếng thế kỷ 19. Tới nay, trong gần 30 năm, tôi đã theo dõi sát sao các vụ thỏa thuận kinh doanh của Trump và phỏng vấn ông ấy nhiều lần. Năm 1990, tôi đưa tin về vụ Trump thực sự đang rơi vào nợ nần4, thay vì sở hữu hàng tỉ đô như ông tuyên bố, và chỉ thoát khỏi cảnh phá sản nhờ chính phủ đứng về phía Trump trong cuộc chiến với các ngân hàng. Tôi cũng sẽ nhắc kỹ vấn đề này sau. 4 Negative net worth. Trước khi công nghệ có khả năng số hóa dữ liệu, tôi đã có cả kho tài liệu lớn về Trump, như những phóng viên săn tin thường làm với những đối tượng họ hứng thú. Tôi trữ nhiều thùng tài liệu về ông ấy và những người Mỹ nổi tiếng khác như Barron Hilton, Jack Welch, và giám đốc Sở Cảnh sát Los Angeles, Daryl Gates, nhiều đến nỗi trong nhiều năm, tôi phải thuê tận hai gian nhà kho để lưu trữ chúng. Với vốn hiểu biết đó, tôi chẳng hề ngạc nhiên khi Trump trở thành ứng viên Đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử năm 2016. Sau sự kiện này, tôi cũng nói đi nói lại rằng các cuộc thăm dò ý kiến trước thềm không nói lên được điều gì so với khi bầu cử thực sự, các bang lớn thường sẽ quyết định kết quả, và nhờ vậy Trump có thể chiến thắng. Tuy nhiên, tôi, cũng như tất cả mọi người, thậm chí cả đội ngũ của Trump, đều vỡ òa trước chiến thắng thực sự của ông. Trump vốn không chiếm ưu thế trong các cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng vào ngày bầu cử, những cử tri ủng hộ Trump hóa ra lại ở các bang công nghiệp trọng yếu vốn thường bầu cho Đảng Dân chủ: Michigan, Minnesota, Ohio, Pennsylvania, và Wisconsin. Dành nhiều thập kỷ săn tin về Trump vì xem ông như hiện tượng văn hóa quan trọng của Mỹ và là một nhân vật thú vị, tôi đã sở hữu nhiều tài liệu của riêng mình và thường xuyên cập nhật đến chúng. Thêm vào đó, nhà báo Wayne Barrett, người đầu tiên nghiên cứu về Trump một cách nghiêm túc, đã chia sẻ cho tôi bộ sưu tập tài liệu khổng lồ của ông. Nhờ vậy, tôi biết nhiều điều mà các ký giả khác không biết. Đầu tiên, tôi biết rằng Trump thực chất đã bàn tới việc chạy đua chức Tổng thống từ năm 1985. Năm 1988, ông tự đề cử mình là ứng cử viên Phó Tổng thống cho George Bush, vị trí mà sau đó được giao cho thượng nghị sĩ Dan Quayle. Tháng Bảy cùng năm, tôi theo dõi ông cập cảng thành phố Atlantic trên chiếc du thuyền Trump Princess trước sự reo hò của đám đông. Một đội hình gồm các thiếu nữ nhảy nhót, hú hét trong vui sướng như thể được gặp thần tượng nhạc rock. Khi Trump và vợ của mình, Ivana, trên thang máy vào sòng bài Castle Casino của ông, cũng có một đám đông reo hò phía dưới. Một người đàn ông thậm chí đã la lớn: “Hãy trở thành Tổng thống của chúng tôi đi, Donald!”. Tôi cũng từng theo dõi Trump một thời gian ngắn chạy đua vào vị trí ứng viên Đảng Cải cách, một đảng phái nhỏ khoảng chục ngàn người (đối đầu với hàng triệu người theo Đảng Dân chủ và Cộng hòa). Trong suốt chiến dịch, Trump tuyên bố ông sẽ trở thành người đầu tiên chạy đua chức Tổng thống và kiếm được lợi nhuận. Ông tiết lộ giành được thỏa thuận mười bài diễn thuyết trị giá triệu đô do Tony Robbins5 tổ chức. Ông đã quảng bá chiến dịch tại các sự kiện này nhằm chi trả phí sử dụng chiếc Boeing 727 của mình. Đó chính là Trump, nhìn thấy lợi nhuận trong mọi thứ, kể cả với chính trị. Tuy vậy, điều này lại ít được ai biết tới. 5 Tác giả, diễn giả hàng đầu nước Mỹ chuyên về truyền cảm hứng. Cũng như với chiến dịch 2016, phần lớn nguồn tài trợ cho Trump được chi trả vào việc sử dụng Boeing 757, chiếc phản lực nhỏ hơn, trực thăng, khu vực văn phòng của Trump Tower, và những dịch vụ khác do tập đoàn của Trump cung cấp. Theo luật, Trump phải tự trả các loại phí thuê máy bay và trả với giá thị trường cho các dịch vụ thuê từ công ty của ông. Đạo luật chống tham nhũng này nhằm ngăn chặn các nhà cung cấp khỏi tình trạng định giá dịch vụ nhằm thao túng chính trị. Nhưng có ai ngờ người giàu có như Trump lại mua dịch vụ từ chính tập đoàn của mình. Năm 2016, giới luật sư đã quả quyết rằng Trump đã kiếm được khoản lời trong chiến dịch tranh cử nhờ hàng hóa và dịch vụ ông thuê từ Trump Organization. Năm 2012, Trump một lần nữa tuyên bố tranh cử. Lúc này, mọi người xem ông ấy như một ứng viên nặng ký, ngoại trừ tôi và nhà sản xuất O’Donnell của đài MSNBC (Mỹ). Rõ ràng, cả hai chúng tôi đều kết luận rằng chiến dịch của Trump nhằm vào một mục đích khác thay vì làm chủ Nhà Trắng. Mục tiêu thực sự của ông, theo như chúng tôi đoán, là một hợp đồng cao giá hơn với đài NBC cho chương trình lâu năm Người Tập sự, vốn nổi tiếng với câu thoại “Anh bị sa thải”. Thực vậy, khi thất bại trong chiến dịch, Trump đã phát biểu rằng chương trình này cần ông ấy hơn Nhà Trắng cần. Cũng vì câu nói này, giới nhà báo cho rằng chiến dịch của Trump là một trò đùa cợt kỳ cục. Do vậy họ cũng ít quan tâm tới ông hơn vào cuộc bầu cử năm 2016. Nhưng kết quả của phi vụ đài truyền hình lần này lại khác. Tỷ lệ xem giảm, chương trình của Trump đứng trước nguy cơ ngừng phát sóng. Đối với Trump, ông hoàng thích ngồi đọc báo sáng New York, đó hẳn là điều tồi tệ nhất khi thức dậy với những dòng tít của Daily News and Post: “NBC: Trump, ông bị sa thải”. Ngay khi Trump tuyên bố tranh cử vào năm 2015, tôi ngay lập tức đăng bài – nhưng chúng lại đối lập với xu hướng truyền thông lúc bấy giờ. Tôi nghĩ tin tức sẽ thà tập trung vào giải đua ngựa còn hơn lý lịch của một ứng viên thậm chí chẳng quan tâm tới dịch vụ công ích. Tôi đã đưa ra một bảng gồm 21 câu hỏi mà giới báo chí nên đặt ra trong suốt chiến dịch. Nhưng chẳng có ai quan tâm. Về sau, trong cuộc chạy đua ứng viên các Đảng, thượng nghị sĩ Marco Rubio mới chọn câu hỏi về Đại học Trump còn Ted Cruz đưa câu hỏi về thỏa thuận giữa Trump với Genovese và Gambino - hai băng nhóm Mafia tại Mỹ - những vụ đó sẽ được đề cập sau. Nhưng quan trọng là không có một nhà báo nào đặt các câu hỏi giống tôi. Tôi luôn tự hỏi sẽ ra sao nếu giới ký giả (hay thậm chí vài người trong số 16 đối thủ của Trump tại Đảng Cộng hòa) đặt ra những câu hỏi này sớm hơn. Cuốn sách này là nỗ lực để tất cả mọi người biết câu chuyện về Trump đầy đủ hơn những gì ông nói. Trump, người tự cho mình là vua Midas6 hiện đại, là người biết rõ về báo chí và lợi dụng nó tài tình hơn bất cứ ai tôi từng biết. 6 Vị hoàng đế nổi tiếng của Thần thoại Hy Lạp, có khả năng biến mọi thứ ông chạm vào thành vàng. Nghề báo thường tập trung vào phương pháp 5W để đưa tin: who, what, where, when, why. Bình thường nó sẽ rất hiệu quả, nhưng lại không đủ nếu muốn giúp người đọc hiểu về Trump, người mà nhân cách và chiến dịch nằm ngoài quy chuẩn bình thường của tin tức chính trị. Trump dùng 5W để kêu gọi những người có mong muốn hình mẫu người cha cứng rắn trở thành lãnh đạo, người thực chất lại chỉ quan tâm đến bản thân kể cả khi vấn đề liên quan tới người khác. Trump nhận gia đình mình là người Mỹ da trắng theo đạo Cơ đốc, trong khi bác bỏ các cáo buộc từ hội Ku Klux Klan7 (Trump từng tuyên bố trên truyền hình vài ngày trước tổng tuyển cử rằng ông không biết về KKK). Ông bổ nhiệm Steve Bannon vào vị trí giám đốc chiến dịch tranh cử và sau đó là chiến lược gia trưởng của Nhà Trắng8. Steve Bannon được xem là người có tư tưởng chống Do Thái và là người điều hành trang báo Brietbart chuyên châm biếm và bịa đặt các thuyết âm mưu kỳ lạ như người phát ngôn thuộc Đảng Cộng hòa Paul Ryan là đặc vụ bí mật của bà Hillary Clinton. 7 Hay KKK, phong trào ra đời năm 1866 tại Mỹ và vẫn tồn tại đến ngày nay, có tư tưởng cực hữu, xem người da trắng là thượng đẳng, chống người nhập cư, và thường có hành động tấn công vũ lực những người họ phản đối. 8 Cố vấn cấp cao, chức danh mới xuất hiện dưới thời Donald Trump. Quan trọng hơn, Trump đã cật lực ngăn chặn tin tức về các rắc rối liên quan tới buôn lậu cocain, băng cướp Mỹ - Nga, và lừa đảo. Ông ấy đã bị kiện rất nhiều lần vì không trả lương cho nhân viên, nhà cung cấp, và những người khác. Các nhà đầu tư ở nhiều thành phố khác nhau cũng kiện ông vì tội lừa đảo. Trong số những kỹ năng tài tình nhất của Trump có thể kể tới khả năng làm chệch hướng hoặc ngừng các cuộc điều tra về hành pháp. Ông cũng thường dùng kiện tụng để đe dọa các công ty mới ngừng việc soi mói người có-vẻ-như-là vô cùng quyền lực và khôn ngoan như Trump. Vào những buổi đầu phỏng vấn Trump, tôi đã đặt câu hỏi mà tôi đã mong cũng có người hỏi ông ấy trước thềm bầu cử tháng Mười Một năm 2016. Tôi chọn vấn đề về sòng bài mà Trump không biết nhiều, cố ý đưa ra những tiểu tiết sai, một mánh thường sử dụng trong điều tra. Tôi làm vậy vì các nguồn tin tại thành phố Atlantic – kể cả những người thân cận với Trump – cho biết rằng ông ấy chẳng biết gì về kinh doanh sòng bài ngoại trừ cào tiền ở đó. Tôi tỏ vẻ cực kỳ hoài nghi khi đề cập về một chuyện tầm phào và ngạc nhiên khi Trump ngay lập tức đáp trả dựa theo tình tiết tôi nói, giống như các nhà tâm linh lắng nghe mạch truyện từ người kể để đưa ra lời tiên đoán. Thói quen lấy thông tin từ người nói của Trump lộ rõ khi vào cuối tháng Sáu năm 2016, phát thanh viên chuyên mục Thời sự tối của đài NBC, Lester Holt, đề cập tới phát ngôn của ông về bà Hillary Clinton đã ngủ suốt khi vụ tấn công cơ quan ngoại giao Mỹ tại Benghazi (Ai Cập) xảy ra năm 2012. Sau khi Holt nhấn mạnh rằng sự việc là vào giữa chiều nơi bà Clinton đang ở, Trump đã cố gắng liên kết chúng với câu trả lời của mình, rồi cố che giấu rằng ông thiếu kiến thức về vụ việc. Dành cho những ai nghi ngờ về sự thiếu hiểu biết của Trump trong các vấn đề quan trọng, tôi cam đoan là có rất nhiều tình huống thực tế. Đây là một ví dụ: Suốt buổi tranh luận giữa các ứng viên Đảng Cộng hòa do đài CNN tổ chức hồi tháng Mười Hai năm 2015, Hugh Hewitt đã hỏi Trump ở buổi trò chuyện trên đài phát thanh Đảng Bảo thủ rằng, “Cái nào ông cho là sáng giá nhất trong bộ ba hạt nhân10 của nước ta?” 10 Thuật ngữ “Nuclear Triad”. “Trước hết, tôi nghĩ chúng ta cần một người hoàn toàn có thể tin tưởng, cực kỳ trách nhiệm, và biết rõ anh ta đang làm gì”, Trump trả lời. “Điều đó rất quan trọng. Và một trong những sự việc, thẳng thắn mà nói làm tôi rất tự hào, là tôi đã phản đối kịch liệt Mỹ đưa quân vào Iraq năm 2003 và 2004 bởi vì chúng ta sẽ làm Trung Đông mất ổn định. Tôi đã lên án rất mạnh mẽ. Chúng ta phải tuyệt đối cẩn trọng về vấn đề hạt nhân. Vũ khí hạt nhân sẽ thay đổi toàn bộ thế cờ. Tôi sẽ thẳng thắn nói rằng hãy ra khỏi Syria – vì lúc đó chúng ta không có vũ khí mạnh như hiện nay. Nhưng hiện nay, chúng ta mạnh đến nỗi không thể bỏ qua các khu vực mà chỉ 50 hay 70 năm trước chúng ta còn chẳng thèm quan tâm. Đó là trận đối đầu trực diện…” Phát thanh viên Hewitt tiếp tục hỏi: “Nhưng trong số ba phương tiện của vũ khí hạt nhân, ông ưu tiên cái nào nhất?” Trump vẫn tiếp tục huyên thuyên rằng: “Tôi nghĩ… tôi nghĩ rằng sức mạnh [hạt nhân] rất quan trọng. Khả năng tàn phá của nó rất đáng quan tâm”. Hewitt lúc này chuyển câu hỏi sang thượng nghị sĩ Marco Rubio của bang Florida, người mà Trump thường chế nhạo là kẻ rỗng tuếch. “Đầu tiên, hãy giải thích cho mọi người hiểu bộ ba này là gì?” Ông Rubio trả lời, “Đó là khả năng của Mỹ trong việc triển khai các cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân thông qua máy bay, tên lửa dưới hầm, trên mặt đất hay từ các bệ phóng hạt nhân”. Đây không phải lần đầu tiên Trump được hỏi về cách chi tiền cho ba phương pháp tấn công hạt nhân của quân đội Mỹ. Bốn tháng trước, Hewitt đã hỏi Trump câu tương tự trên đài phát thanh. Ông ấy trả lời không ăn nhập gì với ý của vị phát thanh viên. Rõ ràng ông ấy không hề nỗ lực cải thiện thiếu sót trong ngần ấy thời gian. “Tôi nghĩ một trong những vấn đề quan trọng nhất là việc truyền bá rộng rãi về hạt nhân”, Trump trả lời. “Sức mạnh hạt nhân mà chúng ta có hiện nay, và vụ thỏa thuận với Iran – mục tiêu của nó quan trọng tới nỗi chúng ta phải tăng gấp đôi, gấp ba lệnh trừng phạt…” Cuốn sách này sẽ phơi bày sự thật đã được tôi chứng minh và ghi nhận trên phương tiện truyền thông. Chúng là những thông tin thật và chất lượng như tất cả sản phẩm trí tuệ mà tôi đã tạo ra từ nửa thế kỷ trước. Nhiều người thắc mắc tại sao tôi không viết về Hillary Clinton hay tiểu sử tốt về Donald Trump. Đó là vì năm 1988, tôi đã đến Atlantic thay vì Arkansas11. Tôi chỉ biết về Trump và chưa hề nói chuyện với Clinton hay chồng của bà. Tuy nhiên, dưới cương vị là đệ nhất phu nhân, Clinton đã từng chiếm trọn các bài báo trên New York Times về vụ bà và chồng đã đóng gấp đôi thuế thu nhập cá nhân do người tư vấn kém, mặc dù hai người phải chi gần 10.000 đô/năm để được cố vấn về đóng thuế. 11 Năm 1988, Hillary Clinton là Đệ nhất phu nhân bang Arkansas khi Bill Clinton đang trong nhiệm kỳ Thống đốc của bang. Trong thời gian ở bang Arkansas, Hillary cũng sáng lập rất nhiều tổ chức cộng đồng. Điều cuối cùng cần ghi nhớ khi đọc cuốn sách này. Đó là về những nhóm người trẻ ngồi đầy khán phòng của Trump Tower vào tháng Sáu năm 2015, vỗ tay 43 lần trong suốt bài phát biểu của Trump về chiến dịch có kèm theo lời đe dọa nhằm vào người Mexico, Hồi giáo, và giới truyền thông. Tôi đã nghĩ thật vô lý khi ở Manhattan lại có tư tưởng bài ngoại hay ủng hộ các kiểu chỉ trích. Thật vậy, đám đông không phải khán giả tự nguyện. Nhiều trong số họ là diễn viên được trả tiền thù lao 1,5 đô la. Như chúng ta rồi sẽ thấy, chiến dịch tranh cử của Trump được bắt nguồn từ trong chính cuộc sống và sự nghiệp của ông. Mời các bạn đón đọc Sự Thật Về Donald Trump của tác giả David Cay Johnston.