Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vận Mệnh Người Lính Tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới Tập I-II

Tác phẩm kinh điển của văn học Séc được dịch sang tiếng nước ngoài nhiều nhất. Karel Čapek  từng nhận xét về cuốn sách: "Ở nhà trường, các thầy cô thường bảo chúng ta rằng sự hài hước là gia vị. Nhưng đúng hơn mà nói, ngày nay tôi có cảm giác sự hài hước không phải là gia vị, mà là cái nhìn cơ bản nhất định về thế giới. Hašek là người có khiếu hài hước. Hašek là người nhìn nhận được thế giới, trong khi nhiều người khác chỉ viết về nó". Văn học hiện đại Séc nửa đầu thế kỷ XX có nhiều nhà văn nổi tiếng, nhưng nổi trội là bộ ba vĩ đại: Jaroslav Hašek (1883–1923), Franz Kafka (1883–1924) và Karel Čapek (1890–1938). Franz Kafka sáng tác bằng tiếng Đức, Jaroslav Hašek và Karel Čapek sáng tác bằng tiếng Séc. Franz Kafka và Karel Čapek là hai tác giả đã rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Còn bộ tiểu thuyết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của Jaroslav Hašek là tác phẩm văn học Séc được chuyển ngữ nhiều nhất, tính đến năm 2013 đã được dịch sang 58 ngôn ngữ khác. Ngay từ khi tác phẩm ra đời và cho đến hiện nay, không chỉ ở Séc, mà cả ở nước ngoài, nó cũng còn được chuyển thể sang kịch bản sân khấu, điện ảnh, truyền hình và truyền thanh. Cuốn tiểu thuyết có một không hai trong lịch sử văn học Séc này cũng có một số phận rất đặc biệt. Ngay sau khi nó ra đời, và cả một thời gian dài sau đó, trong khi những người dân thường đọc nó một cách say mê và khoái chí thì, trừ một số nhà văn nhà báo nhận thấy ngay đây là một tác phẩm đáng đọc, làng văn Séc hầu như không chấp nhận nó, không coi nó là một tác phẩm văn học, không coi tác giả của nó là nhà văn. Thậm chí còn có ý kiến cho rằng Švejk là kẻ trốn tránh nghĩa vụ, rằng cuốn sách này gây tác hại đến đạo đức người lính, có người còn nguyền rủa phỉ báng Hašek và cách sống của ông. Nhưng dần dần, những lời khen nhiều hơn và cuối cùng cả giới phê bình phải nhận định Jaroslav Hašek là 1 trong 3 nhà văn vĩ đại nhất Văn học  Séc nửa đầu thế kỷ XX. Chúng tôi lại xin mượn lời của nhà báo, nhà văn và dịch giả Séc Ivan Olbracht:  “Các bạn hãy đọc đi, đây là một cuốn sách tuyệt vời.” *** Sau đúng 100 năm xuất bản lần đầu tiên tại Séc (1921), bộ tiểu thuyết đồ sộ Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới được NXB Phụ nữ Việt Nam giới thiệu đầy đủ tại Việt Nam. Trọn bộ câu chuyện về anh Svejk vui tính bao gồm 4 tập, khi dịch sang tiếng Việt được chia thành 2 quyển: Quyển 1 gồm tập I-II; Quyển 2 gồm tập III-IV. Švejk là một kiểu nhân vật hoàn toàn mới trong văn học thế giới. Một kiểu người đần độn trong dân gian Séc lần đầu tiên xuất hiện trong văn học viết và được đưa vào cuộc sống hiện đại ồn ã. Một kiểu người bình thản được nhìn từ một góc độ mới. Chúng ta vui vì gặp một kiểu người hoàn toàn ngược với kiểu người đáng ghét “tính nết có vấn đề”, “không bằng lòng với bất kỳ tình huống nào, cũng chẳng hợp với bất kỳ tình huống nào”, bởi vì Švejk là người hài lòng trong mọi tình huống, và cũng ở thế mạnh hơn trong mọi tình huống. Một người ngu tinh khôn, hay thật sự là một người ngu tài tình, người có cái vẻ hiền lành ngu xuẩn, nhưng đồng thời ranh mãnh như thế phải thắng ở mọi nơi. Kiểu người văn học mới này không thể làm chúng ta quan tâm đến thế, vui vẻ đến thế, nếu nó không phải là một phần của chúng ta, nếu “ngôn ngữ Švejk” ít nhiều không phải là của tất cả chúng ta, tương tự như “ngôn ngữ Don Quixote”, “ngôn ngữ Hamlet”, “ngôn ngữ Faust”, hay “ngôn ngữ Oblomov”. *** Năm 1998, Séc tổ chức cho 23 nhà phê bình xuất sắc nhất bình chọn cuốn tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20 của văn học Séc. Đứng đầu danh sách được đăng trên tạp chí Týden là tác phẩm “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” của Jaroslav Hašek. Không ngạc nhiên gì khi tác phẩm văn học Séc được dịch ra hơn 60 thứ tiếng trên thế giới này là lựa chọn của các phê bình gia. Chính một nhà văn Séc nổi danh thế giới khác, Milan Kundera, cũng đã nhận định rằng, “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” có thể là cuốn tiểu thuyết dân gian lớn cuối cùng. Đầy phi lý, mang tính đả phá lớn, kiệt tác này là một tượng đài trong văn học phản chiến, và sẽ còn khiến thế hệ tương lai liên tục lật giở trang vì những câu chuyện khôi hài thâm sâu của nó. “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” bao gồm 4 tập: Ở hậu phương, Ngoài mặt trận, Trận đòn vẻ vang, Tiếp tục trận đòn vẻ vang, mà tập đầu tiên được xuất bản lần đầu cách đây 99 năm. Tác phẩm kể về một anh chàng tên là Švejk kiếm sống bằng nghề bán chó ở Prague. Anh chàng từng đi lính nhưng được cho giải ngũ vì bị ban quân y kết luận là kẻ ngu độn.   Tác phẩm hài hước bậc nhất này mở đầu bằng một câu mà nay đã trở thành kinh điển của bà giúp việc của Švejk “Thế là họ giết mất Ferdinand của chúng ta rồi.” Nó nhắc đến vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand của đế quốc Áo-Hung, nguyên nhân trực tiếp gây ra cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đáp lại lời thông báo đầy trịnh trọng ấy, Švejk ngây ngô hỏi rằng đó là Ferdinand nào, bởi anh biết hai người cũng có tên như vậy: một thằng hầu, và một thằng chuyên nhặt phân chó.   Ngay từ những dòng đầu tiên, Hašek đã tạo nên một loại tình huống có thể gọi là phá hủy sự trịnh trọng, mà kể từ đó về sau sẽ là thứ xuyên suốt toàn bộ câu chuyện. Người đầu trò thực thi những sự đả phá, không hiểu vô tình hay cố ý, chính là Švejk, nhân vật chính phức tạp gây nên không biết bao nhiêu tranh cãi của giới nghiên cứu. Bụng một bồ những câu chuyện dân gian, Švejk luôn mồm kể đủ loại thứ chuyện ngớ ngẩn tưởng chừng chẳng hề liên quan đến bất kỳ sự việc khẩn cấp nào đang xảy ra. Thêm vào đó, phản ứng thường trực của anh trong mọi cảnh huống là xuôi theo hoàn cảnh. Bị bắt vào sở cảnh sát, bị đẩy vào nhà thương điên, bị đưa vào trại giam, gây ra sự cố trên tàu hỏa, bị nghi làm gián điệp, bị đi lạc, … tất cả những tai họa ập xuống đầu anh, Švejk đều nhẹ nhàng vượt qua vì tinh thần hài lòng tuyệt đối đến ngờ nghệch khó hiểu. Kết quả là, không ai biết chân tướng thực sự của Švejk là gì: thông minh hay đần độn, khôn lỏi hay ngu ngơ. Khi chiến tranh nổ ra, Švejk xung phong nhập ngũ để phụng sự Hoàng đế Áo Hung. Jaroslav Hašek vẽ ra vô vàn nghịch lý trong kiệt tác của mình chính nhờ nhân vật có một không hai Švejk ấy: từ những nghịch lý nhỏ bé tầm thường đến những nghịch lý lớn lao không ai giải thích nổi. Chiến tranh và quyền lực của nó trở thành trò cười dưới ngòi bút đầy giễu nhại của ông. Độc giả không lấy làm ngạc nhiên khi Joseph Heller coi “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong đại chiến thế giới” là hình mẫu để dựa trên nó mà viết nên cuốn tiểu thuyết phản chiến vĩ đại “Bẫy-22” của mình. Trong sự tàn bạo của chiến tranh, trong sự đè nén đến nghẹt thở của bộ máy công vụ quan liêu, khi những mạng người bị đem nướng sống vào những cuộc chiến vô nghĩa, rất ít người chất vấn hay thấy mình cần phải thoát khỏi những mệnh lệnh quái quỷ trong chiến tranh, phải thoát khỏi hệ thống áp đặt. Quả đúng như Kundera phân tích, ở tác phẩm “Iliad” của Homer, cả ở “Chiến tranh và Hòa bình” của Lev Tolstoi, chiến tranh vẫn có ý nghĩa rõ ràng: “người ta chiến đấu vì nàng Helen xinh đẹp hay vì nước Nga.” Nhưng ở “Vận mệnh người lính tốt Švejk”, “Švejk và các đồng đội của anh ra trận mà chẳng biết vì sao và, còn tệ hơn, chẳng quan tâm gì đến chiến tranh.” Hašek là một nhà văn đặc biệt trong nền văn học Séc: nghiện ngập, vô chính phủ, đào ngũ, tinh thần phóng túng tột bậc. Là một nhà báo chuyên lăn lộn đường phố, ông rành rõi thứ ngôn ngữ bình dân và những câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Hašek đã đưa được thứ ngôn ngữ trào phúng đầy tự nhiên ấy vào tác phẩm của mình, tạo nên một giọng văn dí dỏm đặc biệt. Đả kích chiến tranh và những sự phi lý của nó bằng những câu chuyện như sinh ra từ trí tuệ dân gian, không ngạc nhiên khi “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” là danh tác không chỉ được độc giả Séc mà cả thế giới tung hô. Tập 2 của kiệt tác văn học Séc này từng được dịch sang tiếng Việt qua bản dịch tiếng Pháp và được NXB Văn Học xuất bản vào năm 1992 với tên “Những cuộc phiêu lưu mới của Xvêch, anh lính chân thực.” Ở lần xuất bản năm 2020 này, “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” sẽ được dịch đầy đủ từ nguyên bản tiếng Séc. Bản dịch được NXB Phụ Nữ Việt Nam chia thành 2 quyển với toàn bộ tranh minh họa màu của họa sĩ Josef Lada, bạn thân của Hašek: Quyển 1 gồm tập 1 và 2, xuất bản vào tháng 10/2020; Quyển 2 gồm tập 3 và 4, xuất bản vào giữa năm 2021. *** lời người dịch Văn học hiện đại Séc nửa đầu thế kỷ XX có nhiều nhà văn nổi tiếng, nhưng nổi trội là bộ ba vĩ đại: Jaroslav Hašek (1883–1923), Franz Kafka (1883–1924) và Karel Čapek (1890–1938). Franz Kafka sáng tác bằng tiếng Đức, Jaroslav Hašek và Karel Čapek sáng tác bằng tiếng Séc. Franz Kafka và Karel Čapek là hai tác giả đã rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Còn bộ tiểu thuyết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của Jaroslav Hašek là tác phẩm văn học Séc được chuyển ngữ nhiều nhất, tính đến năm 2013 đã được dịch sang 58 ngoại ngữ. Ngay từ khi tác phẩm ra đời và cho đến hiện nay, không chỉ ở Séc, mà cả ở nước ngoài, nó cũng còn được chuyển thể sang kịch bản sân khấu, điện ảnh, truyền hình và truyền thanh. Giai đoạn văn học Séc đầu thế kỷ XX có bối cảnh lịch sử cũng như văn hóa sâu xa và phức tạp với đỉnh điểm là Đại chiến Thế giới I và sự sụp đổ của Đế quốc Áo–Hung. Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đặc biệt đầu thế kỷ XX, Đế quốc Áo–Hung đa dân tộc có tình hình chính trị không ổn định, nhà nước đã phải đối mặt với nhiều vấn đề chính trị và xã hội, đặc biệt là vấn đề chính sách dân tộc mà chủ yếu là chính sách ngôn ngữ. Là thành viên quan trọng của Đế quốc Áo–Hung, Vương quốc Bohemia của người Séc luôn cố gắng yêu cầu được quyền tự trị về chính trị và văn hóa dân tộc, nhưng không bao giờ được đáp ứng. Mặc dù vậy, phần lớn những nhà lãnh đạo của Vương quốc Bohemia vẫn muốn gìn giữ nhà nước Áo–Hung với yêu cầu phải có thay đổi lớn trong chính sách dân tộc. Sau vụ Thái tử của Đế quốc Áo–Hung, Đại Công tước Franz Ferdinand d’Este, cùng phu nhân bị một người Serbia ám sát ở Sarajevo vào ngày 28/6/1914, Đế quốc Áo–Hung tuyên chiến với Serbia. Chiến tranh bùng nổ không chỉ trong phạm vi châu Âu, mà còn lan rộng ra thế giới. Nhà nước Áo–Hung ra lệnh tổng động viên trên toàn bộ lãnh thổ. Người Séc thể hiện rõ thái độ chống chiến tranh, không muốn chiến đấu chống các dân tộc người Slav, nhiều lính Séc tình nguyện để bị bắt làm tù binh. Rất nhiều tù binh người Séc ở chiến trường Nga sau này tham gia lực lượng đội quân lê dương tình nguyện Séc. Cuộc chiến tranh đẫm máu không kết thúc trong thời gian vài tháng như nhiều người đã tưởng, mà kéo dài đến tận tháng 11 năm 1918, gây tổn thất bao nhiêu sinh mạng, gây kiệt quệ cho Áo–Hung về nhiều mặt, mang lại kết cục thảm hại cho nhà nước quân chủ của triều đại Habsburg-Lothringen. Đế quốc Áo–Hung sụp đổ, dẫn đến sự ra đời của Cộng hòa Tiệp Khắc (Séc & Slovakia), Cộng hòa Áo, Cộng hòa Hungary và một số nhà nước khác ở châu Âu. Nhà báo, nhà văn Jaroslav Hašek đã sống và sáng tác trong giai đoạn lịch sử đầy biến động đó. Bậc thầy trào phúng Jaroslav Hašek, một tên tuổi rất đặc biệt trong lịch sử văn học hiện đại Séc, sinh ngày 30/4/1883 tại Praha, trong một gia đình nghèo theo Kitô giáo. Cha của ông là một thầy giáo dạy Toán và Vật lý ở một trường tiểu học Praha, mẹ làm nội trợ. Cả cha và mẹ ông đều là người quê ở vùng Nam Séc. Thủ phủ vùng Nam Séc, thành phố České Budějovice, và vùng lân cận là những địa danh được nhắc đến rất nhiều ở tác phẩm Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của ông. Bản thân Hašek khi nhập ngũ năm 1915 cũng được đưa tới doanh trại ở České Budějovice. Vùng Nam Séc là nơi gắn liền với tuổi thơ của Hašek, khi cậu cùng em trai thường được cha mẹ gửi về quê sống với ông bà ngoại, đặc biệt sau khi cậu bé Jaroslav mới bốn tuổi đã có biểu hiệu của bệnh yếu tim và tuyến giáp. Ngay từ nhỏ, Hašek cùng em trai được cha mẹ dạy dỗ rất nghiêm khắc, nhưng ông lại là người có bản tính thích tự do không chịu theo khuôn khổ, thích lang thang, thích bia rượu cùng bè bạn, có một thời gian còn theo chủ nghĩa vô chính phủ, và suốt đời sống theo phong cách Bohemian. Hašek cũng rất thích ngao du, ông đã có nhiều chuyến đi chơi dài ngày, nhiều khi đi bộ, đến hầu hết những vùng thuộc phạm vi Đế quốc Áo–Hung và một số nơi khác của châu Âu. Những chuyến đi ấy đã mang lại cho ông nhiều trải nghiệm và cảm hứng trong sáng tác. Năm 1894, Hafek vào học trung học phổ thông, nhưng sau khi cha mất năm 1896, Hašek chểnh mảng hơn và đến năm cuối cùng thì bỏ không học nữa. Một thời gian sau đó ông giúp việc ở cửa hàng vệ sinh và mỹ phẩm, rồi theo nguyện vọng của mẹ, ông nhập học trường trung cấp thương mại Praha. Sau khi tốt nghiệp, Hašek vào làm việc ở Ngân hàng Bảo hiểm Slavia Praha. Nhưng chán cuộc sống nhàm tẻ của một viên chức, chỉ chưa đầy một năm, ông bỏ nghề và chuyển hẳn sang viết báo viết văn. Năm 1910, vượt qua nhiều trở ngại và nhất là khi đã là biên tập viên của tạp chí Thế giới động vật, Hašek được phép kết hôn với Jarmila, tình yêu lớn của ông, con gái của một gia đình tiểu tư sản rất nền nếp ở Praha, người mà sau này cũng trở thành một nữ văn sĩ. Nhưng với phong cách sống của mình, Hašek không thể làm trụ cột gia đình, không thể làm người chồng tốt, người cha tốt được. Vì vậy, sau khi con trai họ ra đời vào năm 1912, Jarmila đem con về nhà cha mẹ đẻ, và từ đó gia đình họ không bao giờ đoàn tụ nữa, cho dù sau này họ coi nhau như những người bạn, thậm chí khi viết Vận mệnh người lính tốt Švejk,Hašek còn đọc cho Jarmila nghe những chương đầu. Sau khi Hašek qua đời, Jarmila đã viết: “Chương này nối chương kia, tôi bắt đầu ngưỡng mộ nghệ thuật của anh, người mà trước đây tôi từng yêu vì ánh nhìn tuyệt đẹp của anh đối với cuộc sống.” Mốc quan trọng nữa trong cuộc đời Hašek là năm 1915, khi ông gia nhập quân đội Áo–Hung và bị đưa sang chiến trường Nga. Ông bị bắt làm tù binh, và cũng tại Nga, ông tham gia đội quân tình nguyện Séc & Slovakia (còn gọi là quân lê dương Séc & Slovakia) chống Đế quốc Áo–Hung. Sau đó, do bất đồng chính kiến, ông rời hàng ngũ quân lê dương Séc và chuyển sang cộng tác với Hồng quân Nga. Trong thời gian ở Nga, nhờ biết nhiều ngoại ngữ, ông đã làm việc như một biên tập viên, đặc biệt cho tờ Čechoslovan của người Séc & Slovakia tại Nga, phụ trách nhà in, làm trợ lí cho chỉ huy thành phố Bugulma. Công việc trong Hồng quân cũng đã đưa ông tới tận Siberia, tới thành phố Irkusk. Cuối năm 1920, Hašek trở về Praha, mang theo người vợ Nga tên là Šura. Mùa thu năm 1921, Hašek cùng Šura chuyển về thành phố nhỏ mang tên Lipnice nad Sázavou (cách Praha 103 km về phía đông nam), một nơi yên tĩnh để Hašek có thể tập trung làm việc. Tại đây, ông tiếp tục viết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới. Nhưng cũng tại đây, sức khỏe của ông xấu đi trầm trọng do hậu quả của những năm tháng lang thang trước đó, của những cuộc say mèm, của khoảng thời gian khắc nghiệt ở Nga, của bệnh tim từ nhỏ và cả bệnh thương hàn mắc phải ở Siberia. Cuối năm 1921, khi bị bỏng tay không viết được, ông đã thuê một thanh niên ở Lipnice làm thư ký, và đọc cho anh viết tiếp. Hằng ngày, cứ viết được bao nhiêu là họ gửi đến nhà xuất bản bấy nhiêu, chỉ giữ lại trang cuối để hôm sau biết tiếp tục từ chỗ nào. Nhưng do bệnh nặng, ngày 3/1/1923, ở tuổi chưa đầy bốn mươi, Jaroslav Hašek qua đời, để lại cuốn tiểu thuyết còn đang dang dở. Từ ý định ban đầu viết về Vận mệnh người lính tốt Švejk cho đến sau chiến tranh, ông dừng lại trước khi kết thúc tập IV⦾. Trong những trang cuối cùng ông đọc cho người thư ký có câu viết về cuộc gặp mặt của Švejk với người lính tình nguyện một năm là: “Anh vẫn chẳng thay đổi gì cả,” người lính tình nguyện một năm Marek nói. “Ừ, không thay đổi,” Švejk trả lời, “tôi đã không có thời gian để thay đổi.” Và cha đẻ của Švejk thì đã không còn thời gian để hoàn thành tác phẩm nổi tiếng của mình.   Chưa đầy bốn mươi năm tuổi đời, nhưng Jaroslav Hašek đã có tới hai chục năm sáng tác. Trong suốt thời gian đó, ông đã viết tới 1.200 truyện ngắn, rất nhiều tiểu phẩm, bút ký và bài báo, đăng rải rác ở nhiều báo và tạp chí. Ông từng làm biên tập viên cho nhiều báo và tạp chí như tạp chí của tổ chức thanh niên tiến bộ Omladina, tạp chí của phong trào vô chính phủ Komuna, Đời sống động vật (Svět zvířat), hay Chân trời nữ giới (Ženský obzor), Tiếng Séc (České slovo) và thường xuyên viết bài cho các tờ như Báo dân tộc (Národní listy), Quyền lợi nhân dân (Právo lidu), Quyền lợi đỏ (Rudé právo), Hài hước (Humoristické listy), Châm biếm (Karikatury), Praha vui vẻ (Veselá Praha), v.v. Phần lớn các sáng tác của Hašek được tuyển chọn và xuất bản sau khi ông qua đời, chỉ một số được xuất bản thành tập lúc sinh thời. Thí dụ cuốn sách xuất bản đầu tiên và là tập thơ duy nhất đăng cùng Domažlický Tiếng kêu tháng Năm (Májové výkřiky, 1903), các tuyển tập Galerie châm biếm về các nhà chính trị và các vấn đề chính trị (Galerie karikatur, 1909, 1910), Những nỗi phiền muộn của ông Tenkrát (Trampoty pana Tenkráta, 1912), Cửa hàng chó của tôi và các truyện hài hước khác (Můj obchod se psy a jiné humoresky, 1915), Ba người đàn ông với con cá mập và các truyện bổ ích khác (Tři muži se žralokem a jiné poučné historky, 1921), v.v… Đặc biệt, ông còn cho xuất bản Người lính tốt Švejk và các truyện kỳ lạ khác (Dobrý voják Švejk a jiné podivné historky, 1912), Nguời lính tốt Švejk bị bắt làm tù binh (Dobrý voják Švejk v zajetí, 1917, xuất bản ở Kiev), Người lính tốt Švejk trước chiến tranh và các truyện kỳ lạ khác (Dobrý voják Švejk a jiné podivné historky, 1922), và tất nhiên, trọn vẹn ba tập đầu của tiểu thuyết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới (Osudy dobrého vojáka Švejka za světové války, 1921–1922). Từ Nga trở về Praha, Hašek đã bị nhiều người, kể cả bạn bè cũ, nói xấu và lẩn tránh. Người ta cho ông là kẻ phản bội đội quân lính lê dương Séc, vì ông đã tham gia Hồng quân Nga, đã là Bolshevik. Sau thời gian dài sống có kỷ luật và không rượu chè ở Nga, Hašek quay trở lại thói quen đi quán như trước. Nhưng cũng chính trong những ngày đó, ông nuôi ý tưởng viết về Người lính tốt Švejk. Cái ông viết sẽ không phải là truyện ngắn như những truyện về Người lính tốt Švejk ông đã viết vào năm 1911, 1912 hay 1917, mà là tiểu thuyết, bắt đầu từ vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand d’Este cho tới sau chiến tranh. Cuốn tiểu thuyết đó sẽ là tiểu thuyết châm biếm phóng đại với nhân vật chính mang tên Švejk mà ông đã nghĩ ra từ năm 1911. Đồng thời, ông đặt tên cho nó là Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới và nội chiến ở nước ta và Nga (Osudy dobrého vojáka Švejka za světové i občanské války u nás i v Rusku). cái tên dài như vậy dẫn đến nhiều tên gọi khác nhau của bộ tiểu thuyết, ví dụ Vận mệnh người lính tốt Švejk, hay Người lính tốt Švejk, người Séc chỉ gọi ngắn gọn là Švejk. cuốn sách bạn có trong tay mang tên đầy đủ của bốn tập do Hašek viết. Cuối tháng 2 năm 1921, ý tưởng xây dựng bộ tiểu thuyết đó đã trở thành kế hoạch cụ thể. Hašek quyết định cùng với người bạn Franta Sauer tự xuất bản, bắt đầu in thành từng cuốn sách mỏng rẻ tiền, và cũng tự bán. Hašek là người đọc rất nhiều, cũng nổi tiếng là người có trí nhớ tuyệt vời và có hiểu biết sâu rộng, giống như cuốn Từ điển Bách khoa toàn thư sống. Ông thuộc lòng tất cả mọi thứ công văn tài liệu để dẫn dắt. Khi viết, ngoài bản đồ ra hầu như ông không cần có ghi chép hay chú thích thêm nào cả, đặc biệt lúc này, ông có thêm rất nhiều hiểu biết và kinh nghiệm về môi trường quân đội, về cuộc chiến tranh tàn khốc vô nghĩa lý mới kết thúc. Hašek đã viết rất nhanh, giống như ông đã viết rất nhanh những truyện ngắn và tiểu phẩm của mình từ trước đó. Ông lại đến ngồi viết quán ăn, và đọc cho khách nghe những gì đã viết. Những con người thuộc đáy xã hội ở các quán ăn bình dân rẻ tiền đó trở thành những “nhà phê bình” sách đầu tiên của ông. Nhìn họ ôm bụng cười, ông biết mình đã thành công. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về tài chính, cuối cùng thì trong năm 1921 tập 1 Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới đã ra đời, do chính Hašek tự trang trải các chi phí và xuất bản tại Nhà xuất bản Franta Sauer & Václav Čermak, Praha. Tại Lipnice, Hašek tiếp tục viết tập II với tốc độ nhanh chóng mặt và giữa tháng 1 năm 1922 ông đã bắt đầu viết tập III. Cả hai tập này được xuất bản ngay năm 1922, nhưng tại Nhà xuất bản Adolf Synek ở Praha. Sau khi Hašek qua đời, tập IV của Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới được xuất bản ngay trong năm 1923. Từ đó đến nay, bộ tiểu thuyết đồ sộ này được in lại rất nhiều lần với số lượng bản in trung bình 40.000 cuốn/lần, đặc biệt các năm 1975, 1976, 1980 và 1990 in 100.000 cuốn/lần và đỉnh cao là năm 1951, sách được in tới 150.750 cuốn. Cuốn tiểu thuyết có một không hai trong lịch sử văn học Séc này cũng có một số phận rất đặc biệt. Ngay sau khi nó ra đời, và cả một thời gian dài sau đó, trong khi những người dân thường đọc nó một cách say mê và khoái chí thì, trừ một số nhà văn nhà báo nhận thấy ngay đây là một tác phẩm đáng đọc, làng văn Séc hầu như không chấp nhận nó, không coi nó là một tác phẩm văn học, không coi tác giả của nó là nhà văn. Thậm chí còn có ý kiến cho rằng Švejk là kẻ trốn tránh nghĩa vụ, rằng cuốn sách này gây tác hại đến đạo đức người lính, có người còn nguyền rủa phỉ báng Hašek và cách sống của ông. Nhưng dần dần, những lời khen nhiều hơn, và sau đây là một số trích dẫn thay cho lời phân tích tác phẩm: Max Brod (1884–1968), nhà ngôn ngữ học, dịch giả, nhà báo, nhà văn viết bằng tiếng Đức, đã viết vào năm 1923: Nhà văn dân gian người Séc đã đạt được điều mà hàng trăm nhà văn khác cố gắng suốt đời nhưng không thành: đó là việc sáng tạo, xây dựng được một nhân vật, một con người độc đáo, đồng thời là một kiểu người. Tác phẩm của Hašek – mặc dù có thể là chính bản thân tác giả không biết điều này – là tác phẩm hàng đầu. Nhà văn không thể mong muốn gì hơn được nữa: đó là nhân vật xuất hiện từ cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người, và lập tức được mọi người công nhận và tiếp nhận vào tâm thức của mình. Và chúng ta có thể đặt giả thiết hầu như chắc chắn rằng, một nhân vật như thế phản ánh được cái gì đó sâu kín nhất, không chỉ về dân tộc nó xuất thân, mà còn về sự liên quan đến cơ sở tồn tại bí ẩn nhất của loài người. Nhân vật ấy cũng giống như Hiệp sĩ gàn dở Don Quixote de la Mancha, mặc dù lúc đầu châm biếm người Tây Ban Nha, nhưng cuối cùng đã trở thành biểu tượng được yêu mến nâng niu bởi tất cả mọi sự gàn dở điên điên, về mặt tốt, cũng như mặt xấu của mình. Bằng lời ngợi ca này, tôi nói về những cuốn sách đã đưa tên tuổi của Người lính tốt Švejk ở Praha trở thành nổi tiếng. Nhà phê bình văn học, sân khấu và mỹ thuật, đồng thời là đạo diễn điện ảnh và dịch giả Séc Josef Kodíček (1892–1954) viết vào năm 1927: Có những nhà phê bình có học thức và cao thượng thấy kinh hãi nhân vật Švejk. Có những nhà văn tuyên bố rằng Švejk là cuốn sách mà họ không mang theo cả khi phải ra hòn đảo hoang vắng. Vì sao? Chỉ vì trong đó có nói tục ư? Ngược lại, nhà thơ và nhà văn Durych nói rằng Švejk phải được đúc thành tượng. Về phía mình, chúng tôi không sợ trở thành nhà tiên tri khi khẳng định Švejk sẽ được đọc cả vào khi mà phần lớn các sáng tác cùng thời với nó bị lãng quên. Nhà báo, nhà văn trào phúng Séc Karel Poláček (1892–1945) đã viết vào năm 1930: Švejk là một tác phẩm thú vị và tôi nghĩ là lịch sử văn học phải nghiên cứu. Chỉ ngay về mặt hình thức thôi nó cũng thú vị rồi. Nó là tiểu thuyết ư? Là sử ký hài hước ư? Có thể nó là tiểu thuyết hài hước được gộp lại từ các chương, tức là nó có đặc trưng của các cuốn tiểu thuyết hài hước nổi tiếng nhất trên thế giới, như nhà văn Karel Čapek đã khẳng định. […] Švejk là văn học, thậm chí là văn học rất truyền thống. Người lính tốt Švejk có gia phả của mình. Anh có quan hệ họ hàng rất gần gũi với Sam Weller. Anh và Sam Weller có chung sở thích đánh giá bình luận các sự kiện, đối với ông chủ của mình thì có một tình yêu lớn, nhưng mang chút rộng lượng và có phần coi thường. Và cả Sam Weller lẫn Švejk đều dùng cách so sánh rất thơ mộng trong các hồi ức và những câu chuyện của đời mình, và họ kể về chúng một cách ung dung thoải mái. […] cách đây không lâu đã có một cuộc tranh luận gay gắt về Người lính tốt Švejk. Ông Viktor Dyk lo lắng về số phận và khả năng chiến đấu của quân đội Tiệp Khắc và lên tiếng cảnh báo về những Švejk và ảnh hưởng không tốt của họ đến kỷ luật quân đội. Xin ông Nghị sĩ và nhà thơ Dyk yên tâm. Giá mà ông đã đi lính và có hiểu biết rõ hơn về người lính Séc thì ông đã thấy là Švejk chưa bao giờ và không bao giờ có thể là kiểu người lính Séc. Tôi đã đi lính bốn năm và chưa bao giờ tôi gặp một Švejk nào. […] Švejk là một người ở Praha không có thu nhập ổn định, nhiều khi không có chỗ ở và không nghề nghiệp, cảnh sát có thể viết về anh ta như thế. Švejk là sản phẩm của trí tưởng tượng phóng túng và say mèm của tác giả. Tôi có thể kể đến kiểu người thực sự hoàn hảo như anh lính công binh Vodička – người hết sức căm ghét dân Hungary, kiểu người háu ăn không bao giờ no là Baloun, kiểu người như trung úy Lukáš – người thầm thì bí mật: “Chúng ta hãy là người Séc, nhưng không người nào phải biết đến điều đó.” Tôi cũng là người Séc: Những nhân vật một trăm phần trăm như thế, những nhân vật sẽ sống muôn đời và sẽ đúng muôn đời như thế, có rất nhiều trong tác phẩm này. Một ông chủ quán Palivec thận trọng, không cho ai tán chuyện về chính trị trong quán của mình bởi vì ông là người buôn bán. Một tay mật thám Bretschneider luôn khiêu khích với hy vọng bắt được ai đó vào nhà tù. Đó là những người chúng ta thường gặp và tất cả chúng ta đều biết họ. Nhà văn, nhà báo và dịch giả Ivan Olbracht (1882–1952) đã viết những dòng này năm 1921: Nếu muốn cười thật sự, bạn hãy đọc Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của Jaroslav Hašek. Gotthold Ephraim Lessing nói về Friedrich Gottlieb Klopstock rằng mọi người đều khen ông, nhưng ít người đọc ông. Trong trường hợp Jaroslav Hašek thì ngược lại. Hàng chục nghìn người đọc Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới (10.000 cuốn phát hành lần đầu đã bán hết), hàng chục nghìn người nghiêng ngả cười trên các trang sách. Thế mà không một nhà phê bình văn học nào dám khen nó. Bạn hãy hỏi một độc giả bình thường nhận xét của người ấy về cuốn sách, và độc giả ấy mới chỉ nghe đến tên Švejk là đã bật cười. Suy cho cùng thì đó là câu trả lời tốt nhất. Nhưng nếu bạn hỏi một người có “trình độ về văn học” thì người ấy cười độ lượng rồi ngập ngừng trả lời nước đôi: “Ờ…” Người ấy không dám làm kẻ vô ơn mà nói gì xấu về cuốn sách, bởi nó đem lại cho người ấy nhiều lúc vui vẻ. Nhưng khi nghĩ đến phong cách hoàn toàn “phi văn học”, đến ngôn ngữ nhà binh, đến ngôn ngữ ngoài đường phố và các quán ăn rẻ tiền thì người ấy lại sợ mất thể diện khi nói “đấy là cuốn sách tuyệt vời”. Švejk là một kiểu nhân vật hoàn toàn mới trong văn học thế giới. Một kiểu người đần độn trong dân gian Séc lần đầu tiên xuất hiện trong văn học viết và được đưa vào cuộc sống hiện đại ồn ã. Một kiểu người bình thản được nhìn từ một góc độ mới. Chúng ta vui vì gặp một kiểu người hoàn toàn ngược với kiểu người đáng ghét “tính nết có vấn đề”, “không bằng lòng với bất kỳ tình huống nào, cũng chẳng hợp với bất kỳ tình huống nào”, bởi vì Švejk là người hài lòng trong mọi tình huống, và cũng ở thế mạnh hơn trong mọi tình huống. Một người ngu tinh khôn, hay thật sự là một người ngu tài tình, người có cái vẻ hiền lành ngu xuẩn, nhưng đồng thời ranh mãnh như thế phải thắng ở mọi nơi. Kiểu người văn học mới này không thể làm chúng ta quan tâm đến thế, vui vẻ đến thế, nếu nó không phải là một phần của chúng ta, nếu “ngôn ngữ Švejk” ít nhiều không phải là của tất cả chúng ta, tương tự như “ngôn ngữ Don Quixote”, “ngôn ngữ Hamlet”, “ngôn ngữ Faust”, hay “ngôn ngữ Oblomov”. Hašek giải nghĩa cho chúng ta về Thế chiến từ góc nhìn mới. Ông là người trực tiếp tham gia cuộc chiến, đã đi đến một nửa châu Âu và đến cả châu Á. Vận mệnh người lính tốt Švejk của ông là cuốn tiểu thuyết về chiến tranh. Tôi đã đọc một số tiểu thuyết chiến tranh và chính bản thân tôi cũng viết một quyển. Nhưng không có một quyển nào toát ra được toàn bộ sự tàn ác bất lương, cái ngu xuẩn và man rợ của Đại chiến Thế giới một cách rõ ràng như ở cuốn sách của Hašek. Ông không đòi hỏi phải vượt qua chiến tranh để chiến thắng. Ông đứng bên trên nó ngay từ lúc mở đầu. Ông cười chế nhạo nó. Ông đã cười chế nhạo nó trên toàn bộ cũng như từng chi tiết, như thể nó không hơn gì cuộc ẩu đả say rượu trong quán ăn ở Žižkov. Để có thể có được cái nhìn như thế tất nhiên cần phải có một Švejk mạnh mẽ, cùng với sự ngu xuẩn tài tình. Quang vinh thuộc về người đã làm được điều đó. Và kết quả là: Vận mệnh người lính tốt Švejk là một trong những cuốn sách hay nhất được viết ở Séc. Khi ở Omsk, Hašek là một con người mẫu mực, nhưng chẳng viết được dòng nào. Ở Praha ông là người lang thang quán này sang quán nọ, nhưng đã viết được một trong những cuốn sách hay nhất của văn học Séc. Siberia có thể tìm được người chỉ huy quân sự tốt khác, nhưng không một người nào khác có thể viết được Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới”.   Đây là lần đầu tiên cuốn tiểu thuyết đồ sộ Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới đến trọn bộ với bạn đọc Việt Nam. Chúng tôi tin rằng Švejk sẽ trở thành người bạn văn học đáng yêu của độc giả Việt Nam. Và tương tự như Jan Neruda, Franz Kafka, Karel Čapek, Bohumil Hrabal, Milan Kundera… cả Jaroslav Hašek cũng sẽ trở thành tác giả quen thuộc ở Việt Nam. Bắt tay vào chuyển ngữ bộ tiểu thuyết, người dịch ý thức được nhiều vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa. Trong tác phẩm này, ngôn ngữ mà Jaroslav Hašek sử dụng là tiếng Séc bình dân từ ngoài đường phố, từ các quán ăn rẻ tiền, nhưng dưới ngòi bút sắc sảo của ông, nó là thứ tiếng Séc rất dí dỏm, khôi hài, đậm sắc dân tộc. Tác phẩm cũng phản ánh phần nào cả vấn đề ngôn ngữ dân tộc trong giai đoạn lịch sử đó ở Séc, khi mà tiếng Đức chiếm vị trí độc tôn, đặc biệt ở đây là sự có mặt của vốn từ tiếng Đức trong ngôn ngữ nhà binh⦾. Lời kể trong truyện là lời kể tự nhiên không gượng ép, không cố gây cười và cái hài hước chỉ là công cụ để châm biếm, đả kích những điều xấu xa trong xã hội và đặc biệt chống lại cuộc Đại chiến tàn khốc. Cái dí dỏm, khôi hài và châm biếm rất Séc của tác phẩm đồng thời cũng là điểm chung có thể chuyển tải sang tiếng Việt, bởi trào phúng là một phần đáng kể trong văn hóa Việt. Và hơn cả, bên cạnh những câu chuyện vui hài hước làm nền là nhiều trang viết về chiến tranh, về những điều sâu sắc khiến độc giả trầm ngâm suy nghĩ. Nói cho cùng, nếu không có cái thông điệp chung như thế thì Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới không thể được dịch ra bằng ấy ngoại ngữ trên thế giới.   Chúng tôi lại xin mượn lời của nhà báo, nhà văn và dịch giả Séc Ivan Olbracht: Các bạn hãy đọc đi, đây là một cuốn sách tuyệt vời. bình slavicka   Mời các bạn đón đọc Vận Mệnh Người Lính Tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới Tập I-II của tác giả Jaroslav Hašek & Bình Slavická (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bến Bờ
Bến bờ là câu chuyên tình nhuốm máu bi tráng của Điền, công an điều tra và Khanh, cô diễn viên xinh đẹp. Cao trào của tiểu thuyết diễn ra khi Khanh suýt bị gã đàn ông con riêng của mẹ kế cưỡng bức. Còn Điền bị ông Hói, thủ trưởng trực tiếp của anh, lộ mặt đê hèn, lợi dụng cơ hội hạ nhục anh. Điền và Khanh sẽ phản ứng và tiếp tục sống ra sao sau những cay đắng ấy? Tâm hồn cao thượng và lòng quả cảm có giúp anh đứng vững và đối mặt với cái ác hiển hiện trong cuộc sống? *** Mưa buông hạt từ lúc con tầu khởi hành. Những hạt mưa cuối thu hiền lành, nhỏ li ti, không trọng lực, bay lơ lửng, kết tụ như bụi, như ở bên kia xứ sở, ở bên ngoài cảm giác. Chúng chỉ hiện diện mỗi khi con tầu tăng tốc độ, hắt số nước tích đọng trên mui sang hai bên, thành những làn nước mỏng tanh; và dựa vào đà chạy của con tàu, chúng quay đảo, đè rạp đám cỏ dại cùng lau lách mọc ở hai bên lề đường. Không gì hắt hiu hơn là những bông lau trắng xám, chúng tự nở hoa, tự bạc đầu. Quẫy động trong luồng gió con tầu tạo ra, những bông lau tỏa ra bóng đêm sớm hơn những ngày thông lệ. Xuất phát từ lúc sáu giờ chiều ở một ga nhỏ biên giới, con tầu cảm nhận ngay được thân phận lẻ loi trên dặm đường xa. Nó hú còi liên tục và dàn bánh xe guồng rối rít tít mù như trốn chạy khỏi ám ảnh của một cuộc đuổi bắt hãi hùng. Nó làm dậy lên cuộc sống hoang dã hai bên đường. Hai bên đường thuần núi đất và rừng cây gỗ tạp chợt như được đánh thức và lập tức náo loạn lên với những tiếng gào thét, rên rỉ hoặc khoái trá của loài rắn rết, lũ côn trùng đang bắt đầu vào cuộc sát hại lẫn nhau hoặc cặp díp nhau, giẫy lên đành đạch vì lạc thú điên rồ khi trời sửa soạn vào phần đêm. Náo động từ hai bên đường, ở trong con tầu. Bao giờ cũng vậy, lộn xộn, hỗn loạn là trạng thái thường tình của con tầu ở mấy ga đầu. Người lên tầu còn chưa ổn định được chỗ ngồi, lại bỡ ngỡ trước môi trường mới. Dọc theo các lối đi xẻ giữa hay ở bên cạnh toa, nầm nập khách ngược xuôi đi lại và chỉ cần một người dừng chân để ngó nghé, hỏi han gì đó là đủ gây nên cảnh ùn tắc và ngay tức khắc ồn lên những lời mắng mỏ tức tối rồi. Cảnh sát dã chiến và người nhà tầu vung vẩy cây đèn pin hoặc đèn hiệu trong hộp kính mầu, nổi bật như các hồng huyết cầu trong dòng người chuyển động này, bao giờ cũng len lách vượt lên trong tinh thần chủ động. Rẽ vào một toa nằm để soát vé, giải quyết khiếu nại về sự trùng lắp của một vé ngồi, nhiều nhất là xử lý tình trạng đi tầu không vé, việc này bao giờ cũng gặp khó khăn, khúc mắc. Cũng giống như việc đi lại trên con tầu, lát sau tuy đã thưa người di chuyển, nhưng mọi việc diễn ra cũng không dễ dàng gì, vì con tầu bắt đầu phóng nhanh hơn. Nhất là khi bóng đêm đen tuyền đã phủ trùm toàn bộ cảnh vật. Không hề biết đến việc gì khác, con tầu dường như chỉ có mỗi một nỗi lo là hoàn thành lộ trình càng nhanh càng tốt. Đầu tầu chắm chúi lao hồng hộc và dàn bánh thép của nó càng lúc càng như tự trôi trượt trên mặt đường ray về đêm đã ướt nhoáng nước mưa. Như không có người lái, nó tự động chạy, vẻ như bất cẩn, ở những khúc quanh, vành xe chỉ còn mớm nhẹ vào mặt ray, như sắp buột ra khỏi khẩu độ, phát ra tiếng thép xiết như liếc dao, nghe ghê cả người. Nhiều đoạn, đường gập ghềnh như đường trâu đi trong làng bản, tầu nhảy chồm chồm, các điểm nối giữa các toa chỉ chực buột ra khỏi khớp khóa. Ngồi trong toa tầu mà dập dềnh như ngồi thuyền đè sóng sang ngang sông mùa lũ, như ngồi võng, như cưỡi ngựa. Đường xấu vì làm ẩu, làm vội để lấy thành tích báo cáo, để kiếm chác là một chuyện. Mặt khác, nó xấu kém còn vì bọn trộm cắp phá phách gần đây bỗng hoạt động rộ lên. Đạo chích là những kẻ nhạy cảm vô cùng đối với các khoản sinh lợi. Mà con đường thì cứ phô ra cả trăm, cả ngàn cây số, toàn bộ số tài sản khổng lồ không người canh giữ của mình. Đá có thể lấy về để rải đường, lát sân, đổ bê tông làm móng nhà, trần nhà. Ray, tà vẹt, lập lách, cóc đều có thể bán được tiền. Còn những chiếc guốc hãm các dàn bánh xe ở các toa tầu thì xứng đáng là nguyên liệu loại một để đúc nồi gang, chảo gang cỡ đại hoặc chân bàn máy khâu Trung Quốc, Nga, Phần Lan, loại máy công cụ khi nhập vào nước này vốn chỉ có mỗi cái đầu máy. Khủng khiếp! Nhiều chỗ đá bị moi, hai thanh ray như hai sợi thép căng giữa khoảng trống không điểm tựa đỡ. Ở những đoạn xuống dốc, con tầu mất lực hãm, lao sầm sập vô phương kìm giữ, nó chỉ dừng lại, khi các toa đang trôi tự do bỗng đâm vào nhau loảng xoảng chùn cả lại, vì sức cản của chiếc đầu tầu nặng như một quả núi đá chẹn đường. Tuy vậy, xóc lắc đều đều thì cũng là một kiểu nhịp điệu. Hiểm nguy liên tục thì cũng trở nên bình thường. Hơn nữa, lúc này vòng bánh xe quay theo cánh tay truyền lực phát tiếng kêu xục xịch đều đặn và tiếng hẫng hụt đứt gẫy cách quãng mỗi khi bánh xe qua điểm nối giữa hai thanh ray đã tạo nên trạng thái điều hòa trong cảm nhận mọi người. Dao động nhịp nhàng tác động vào thính giác hóa ra cũng thành một điệu ru. Hành khách được con tàu ru. Điền được con tàu ru. Duỗi thẳng chân, ở thế nằm nghiêng, úp mặt vào vách ngăn, trong con tầu xóc lắc liên tục, Điền đã tách mình ra khỏi hiện tại, để con người có thói quen đóng kín của mình trở nên trơ trụi, ở ngoài dòng thời gian. Vốn không dễ ngủ, nhưng Điền đã ngủ. Nói đúng hơn là Điền vừa chủ động vừa bị dìm nghỉm vào mớ tạp âm phát ra của con tàu và hơi mưa mát rượi chốc chốc lại tạt nhẹ vào khuôn cửa sổ tối mờ. Hơi mưa giải tỏa oi nồng trong toa tầu. May mà có mưa. Vì toa tầu đã chật hẹp lại đầy người. Mà người thì phát xạ như một hành tinh giầu năng lượng. Đã chật lại oi ngột. May mà có mưa. Mưa tắm mát vỏ con tầu. Mưa xóa nhòa các đường biên không gian, tạo nên cái hư giác là con tầu đang trôi trượt vào bóng đêm mung lung không thanh sắc, hình tướng. Trong mưa, tiếng va đập, rít xiết của con tầu trở nên phẳng bẹt, nhòa mờ, loang rộng. Mưa ru Điền vào giấc ngủ của kẻ lữ hành có cuộc sống phiêu tán đó đây đang rất cần những khoảng khắc tĩnh lặng để nghe được tiếng nói dịu dàng bên trong của một đời sống bình dị, lâu bền. Thiếp đi thật sâu, nhưng lát sau Điền đã thức giấc bất chợt. Nằm yên, lọc qua mớ tạp âm va đập, nhận ra tiếng hạt mưa đậu nhè nhẹ trên mui tầu, Điền có cảm giác như đã chạm tới nỗi quạnh vắng mênh mang của đời người, lòng chợt dịu mềm đi vì như gặp được niềm tâm cảm; nỗi lo âu có sẵn từ sâu xa bỗng chập chờn ẩn hiện. Trong Điền từ lâu rồi đã tồn tại một cơ chế cảnh báo tự động. Đời sống luôn khắc khoải muôn nỗi lo toan. Điền đã thức giấc vì tiếng quát tháo, hò hét vừa chợt rộ lên ở đâu đó trong con tầu. Giữa đêm đen mù mịt, trên con tầu chạy hộc tốc như bị săn đuổi, tiếng người quát tháo, hò hét như được khuếch đại lên nhiều lần, lại như nhiễm thêm nỗi kinh sợ bàng hoàng. Ở ga Phố Lu đã xảy ra một vụ cướp giật. Một viên thiếu tá bị mất chiếc túi dết đựng ba trăm mười lăm triệu đồng tiền lương mới lĩnh của đơn vị. Bọn cướp giật được túi tiền từ toa số 6. Cảnh sát đuổi chúng tới toa số 2, toa Điền nằm, thì mất tích. Chúng đã nhảy xuống tầu hay trà trộn vào mấy chục hành khách cùng toa với Điền vừa thất thần thức giấc? Điền ngồi dậy, nhìn vào khoảng không mờ mờ ánh đèn điện trong toa tầu chỉ thấy những bóng người qua lại mặt mày ngác ngơ hốt hoảng. Người trong khoang tầu nằm cùng Điền đã lục sục thức giấc. Nằm trên chiếc giường cạnh anh, ở tầng dưới cùng là một người đàn ông trung niên. Ông ngáp một cái rõ to rồi nhìn anh, lắc lắc đầu cười: “Thôi, các chú công an chào thua các ông kẻ cướp Việt Nam đi!”. Một người cảnh sát cầm súng ngắn đi qua, lườm người nọ, lướt mắt qua mặt Điền. Mắt anh ta đánh một tia chớp. Hình như anh ta nhận ra nét quen thuộc trên mặt Điền. Hay là đã có hồi anh ta cùng Điền tham gia chiến dịch săn bắt băng cướp trên các chuyến tầu Nam Định - Vinh? Chà, cuộc sống chứa chất bao điều quái dị. Có thể nào tin rằng bọn lưu manh chuyên nghề này xây nhà, sắm đài, mua xe đạp, xe máy... thuần bằng tiền móc ví hành khách? Buồn thay, cả băng hơn hai chục tên toàn là dân cày nghèo khổ và thợ thuyền. Người đàn ông trung niên đã leo lên tầng giường trên, gọi mấy ông bạn mình dạy chơi bài và uống trà. Chả còn ai ngủ nữa. Canh bạc ăn nhau về sáng. Bọn bất lương sang nửa phần đêm còn lại càng hoành hành dữ dội. Ở ga Lâm Giang một bà nạ dòng và một cô thiếu nữ Tày bị giật hai sợi dây chuyền vàng. Tên cướp nhảy tầu thật lành nghề, tầu đang chạy với tốc độ sáu mươi cây số giờ, thế mà nó cũng chỉ hơi chuệnh choạng khi chân chạm đất. Trong ánh đèn pin dọi ngược chiều, còn nhìn thấy cái mặt gồ ghề và bộ râu quai nón lục lâm thảo khấu của nó, thấy nó nhe răng cười và giơ hai sợi dây chuyền lên để giễu cợt những người định đuổi bắt nó thò cổ ra ngó nó từ trên các cửa sổ con tầu. Chuyến tầu đầy những sự cố bất thường. Vì đoạn đường nào cũng có người trình báo mất hành lý, mất ví tiền, sắp vào ga Ngòi Hóp, tầu hãm độc giật cục bất thình lình. Có một người nằm vắt ngang đường tầu. Tài xế phụ và một cảnh sát nhảy xuống. Người nọ là một gã đàn ông trẻ, mặt mũi bặm trợn. Bị dựng dậy, gã nhe răng: “Thằng chủ tịch xã nó chiếm đất nhà em, nó cướp cả vợ em. Em chán đời, em muốn chết. Với lại em muốn thử tài các bác lái đầu tầu anh hùng!”. Đúng là trò lưu manh dở. Anh tài xế phụ túm cổ gã, vung quả đấm: “Tài của tao đây!”. Gã nọ lăn ra đường, giẫy đành đạch, gào: “Ôi giời ơi, nó giết tôi. Mày nôn tiềnđền ông đi không có ốm nặng với ông đấy”. Thật là chẳng còn ra kỷ cương, phép tắc gì! Thật chẳng còn ra kỷ cương, phép tắc gì. Vì từ ga Cổ Phúc tràn lên cả bọn hơn chục tên thiếu niên ngổ ngáo nhất loạt trọc đầu, áo may ô đen bỏ ngoài quần, tay xăm hình đàn bà cởi truồng. Trưởng tầu đeo xà cột đến hỏi vé thì một thằng lên tiếng, rồi cả đám nhao nhao phụ họa: “Tầu của nhà nước chứ của riêng ông à!”. Được giải thích ôn tồn thì đồng loạt giả ngây: “Nhưng mà bố em bỏ mẹ em đi với con bồ nhí của ông, không cho em tiền mua vé”. Các bà buôn đường dài chứng kiến vở bi hài kịch cười ré lên: “Thôi các anh nhà tầu mấy lỵ cảnh sát ơi! Quên cha nó thằng cùn đi”. Trưởng tầu và mấy anh cảnh sát hợp lực kéo đẩy, dồn cả bọn vào một chỗ để lát nữa tới ga gần nhất sẽ đưa xuống. Thì chúng xô họ, ùa sang toa bên, sau khi phanh ngực áo, nghiến răng: “Tao nhớ cái bản mặt chúng mày nhé. Còn gặp nhau nhiều, nghen”. Ngồi ở tầng giường trên, người trung niên ngó xuống, như nói với Điền: “Thời kỳ mạt thế là đây. Đám dân Việt này hỏng từ gốc rồi, đến Khổng Tử cũng chẳng giáo dưỡng được chúng đâu, có phải không, các vị?”.   * *          *   Ngoài trời, bóng đêm đang rã ra từng mảng. Và tình trạng hỗn độn hình như đã bớt đi. Vậy mà con tầu thi thoảng vẫn giật đùng đùng. Có lúc nó như một linh hồn bất an, chợt rít ré lên, chợt hùng hùng hổ hổ rồi sau đó lại uể oải lờ ngờ lê dịch từng vòng bánh xe, như một kẻ kiệt lực. Đèn trong khoang tầu đã tắt. Người trung niên và mấy người ở tầng giường trên sau một hồi uống trà, chơi bài đã nằm ngủ lại. Điền nằm lắng nghe tiếng bánh xe quay vòng, cố tìm thấy ở đó một tiếng nói nội tâm của chính mình. Điền rất thích sự yên tĩnh. Có lẽ vì đối với Điền, sự ồn ào là quá thừa thãi rồi. Điền cần yên tĩnh để thư giãn, để lập lại thế cân bằng giữa thân thể và trí óc. Để có được sự yên hòa giữa cái hỗn tạp, nhộn nhàng, để nhận ra cái mênh mang, thăm thẳm của đời sống tinh thần và cái bến bờ bí ẩn của cuộc đời mỗi người. Điền có cảm giác đã tìm được sự yên tĩnh và thấy mình đang ở trong cuộc phiêu du của con tầu, đang đi tới cái bến bờ xa xăm trừu tượng và rất khó hiểu nọ. Chính lúc ấy, Điền đã phải bật dậy. Ở tầng giường trên Điền, người trung niên vừa giật thột mình, chồm dậy, giọng mê hoảng như vừa qua cơn chiêm mộng. - Cái gì thế? - Tôi... tôi... Mấy người ở tầng giường trên đã thức cả, và sau câu hỏi với người trung niên, họ liền vội vàng kiểm tra mấy bọc hành lý của mình. May, không ai bị mất mát gì. - Tôi nghe thấy, ông kêu la cái gì kinh hoảng lắm? - Tôi mơ mà hình như không phải chỉ là mơ. Tôi thấy, rõ ràng là thấy như là có một con bướm. Một con bướm rất to, lọt qua cửa sổ toa tầu, vào khoang tầu này. Con bướm đậu lên mặt tôi. - Bật đèn lên xem nào! Tiếng công tắc bật khô khan tiếp ngay sau tiếng một ông già. Con tầu vọt tăng tốc trên quãng đường thẳng. Dàn bánh thép dội lên từ nền đường làn âm thanh như đá đổ. Qua môt cây cầu dài, có cảm giác con tầu đang bị hút xuống một chiều dốc thăm thẳm và mọi người như mất tri giác, cũng bị lôi theo và phó mặc. Bóng đêm đã tan loãng trong những dao động nọ. Ngoài cửa sổ đã thấy lờ mờ khung cảnh miền trung du đồi đất trập trùng, cùng những vạt mây xám nặng nề như những nỗi buồn đau vón cục không thể tiêu tan. - Tôi có bà cô chết trẻ thiêng lắm. Cứ mỗi khi tôi sắp gặp tai nạn, bà lại hiện về để báo trước. Lần thì bà hiện thành hoa, lần bà hóa thành bướm. Bà hiền lắm. Từ nhỏ đến lớn không cãi nhau với ai một lời. - Bác năm nay đã bảy mươi chưa? - Tôi già đến thế kia ư? - Xin lỗi bác. - Vừa tròn sáu chục. Nhưng tôi về hưu được năm năm rồi. Vừa rồi là lên Lao Cai thăm đơn vị cũ. Nghề coi tù mệt mỏi, chóng kiệt lực lắm. Anh tính: suốt ngày tiếp xúc với cái bẩn tưởi. Ông Các Mác chia người thành giai cấp, là căn cứ vị trí của mỗi người trong hệ thống kinh tế - chính trị. Đúng! Còn tính khí con người thì có thể chia hai bậc chính: quân tử và tiểu nhân, hiền lành và độc ác. Tôi không phủ nhận hoàn cảnh xã hội. Còn bất công thì còn nổi loạn. Nhưng, có những người tiên thiên hiền hậu, hảo tâm, thánh thiện như bà cô tôi. Lại có những kẻ vốn sinh ra đã ác độc rồi kia. Cạnh nhà tôi có một thằng bé mà từ lúc nó sáu bảy tuổi tôi đã thấy nó là đứa trẻ tàn bạo. Đồ chơi nào vào tay nó, nó cũng đập phá tan tành mới thỏa thích. Không con mèo con nào sống nổi với nó. Lớn hơn gặp dịp là nó đánh đập bè bạn không tiếc tay. Bố nó nuôi một con béc giê để giữ nhà. Mới mười bốn tuổi đầu mà nó đã nhiễm có cái thú tính tàn ác là đánh chó. Nó xích con chó lại rồi cứ cái roi da đầu có mấu quất. Chuých! Bụp! Chuých! Bụp! Trăm phát không sai phát nào! Con chó sợ rúm lại, thậm chí phát điên mà nó cứ lì ra, như không. Ngày nào không đánh con chó một trận là nó ăn không ngon. Sau này, tôi gặp nó ở xà lim tử hình. Tội nó là giết vợ, giết nhân tình. Hỏi nó, nó cứ nhơn nhơn, chẳng chút ân hận. Mặt nó cũng dị hình dị tướng lắm. Độc ác hiện ra từ cái đầu hói khi mới có ba chục tuổi. Mắt thì mắt rắn. Mũi thì khoằm khoặm. Lại rỗ nữa mới kinh! Chết! Chết! Nó thuộc loại nhân chi sơ, tính bản ác, các anh ạ.   * *          *   Vậy là ngay ở trong khoang tầu có mấy người nằm, chạy từ Lao Cai về Hà Nội đêm nay đã có ít nhất là hai người làm công việc có quan hệ hàng ngày với bọn tội phạm, với cái ác. Điền cũng là nhân viên của ngành công an nhưng khác với ông già giám thị trại tù, Điền đóng vai người trinh sát, điều tra các tội phạm hình sự tức bọn cướp của giết người, gây rối loạn trật tự xã hội và gây nguy hiểm cho đời sống người dân. Hai mươi tư tuổi, Điền tốt nghiệp khóa đào tạo đại học chuyên ngành, tới nay Điền đã già hai tuổi nghề. Câu chuyện của người giám thị Trại giam vừa rồi, khiến Điền nhớ đến vụ án giết người mà tội phạm là một kẻ vị thành niên. Đây là vụ án đầu tiên anh giữ vai đảm trách chủ yếu trong đời. Anh đã tóm được nó. Đúng thế! Nó là một thằng nhóc, nói đúng hơn là một thân xác vừa trẻ con vừa còi cọc. Nó mới mười sáu tuổi. Người nhỏ tóp, chân tay ống sậy. Mặt choắt, trán dô, mắt lỗ đáo. Thằng lỏi này gọi người lái xe Honđa ôm tên là Ngạc, hai mươi tám tuổi, bảo anh chở nó từ Gốc Riếu đi Cam Đồng. Đi được chừng tám cây số, nó rút búa đập liên tiếp vào đầu anh. Anh chết, nó hất xác anh xuống vực, lấy xe đem về Yên Bái bán lấy tiền ăn chơi. Điền hỏi. Nó kể, kể rất thản nhiên. Rằng em ngồi sau anh ấy. Đến cây số tám, đường xấu, xe bị xóc, nên đi chầm chậm. Trời lúc này đã tối. Em bảo: “Cho xe dừng lại đi, em đánh rơi dép rồi!”. Xe vừa dừng, em liền rút cái búa để sẵn ở túi áo Natô đập mấy nhát vào sọ anh ấy. Anh ấy kêu ối. Em nghĩ: chưa chết đâu. Thế là em đập mấy cái nữa cho chết hẳn! Uất tức, Điền quát và bật đứng dậy, hai con mắt như hai tia lửa điện phóng thẳng vào mặt tên hung thủ trẻ con. Nó cũng giật mình đứng dậy, sợ hãi run lẩy bẩy. Nó choắt cheo, lép kẹp một khúc xương khô, đứng chỉ đến vai anh. Chỉ cần một quả đấm của anh là nó có thể nằm liệt cả tuần. Thế mà nó lại có thể giết người! Nó cần tiền, nó vốn hư đốn, quen ăn chơi lêu lổng? Không! Không chỉ có vậy! Còn một nguyên nhân nào nữa khiến thằng ranh nổi cơn hung đồ và tợn tạo như thế? Hay nó là đứa lãnh cảm, vô hồn, vì sau khi xác định nó là thủ phạm, theo dõi nó suốt mấy hôm, anh vô cùng kinh ngạc vì thấy nó quá thản nhiên, không hề lộ ra mảy may mặc cảm, áy náy gọi là, điều mà những tên sát thủ già đời cũng khó tránh khỏi. Lúc dẫn nó đi qua mộ người lái xe ôm ở bên đường, anh hỏi nó: “Mộ ai đấy?”. Nó đáp thản nhiên: “Mộ anh lái xe Hon đa ôm đấy mà!”. “Mày có biết là anh ấy người Hải Dương, đi bộ đội về, gia đình nghèo khổ, phải đem thân lên tận miền rừng núi này làm nghề lái xe ômđể kiếm tiền nuôi vợ con không? Tại sao mày lại giết anh ấy?”. Điền đã gào thét và túm cổ áo nó giật. Nó giẫy, nó kêu: Đau quá! Mặt nó nhăn nhúm. Má nó vạc hai nét vạc sâu hoắm. Điền nhìn hai nét vạc ấy, bỗng sợ hãi, buông tay, sờ lên mép mình. Nó ngồi xuống lí nhí: Em không hiểu tại sao em lại giết anh ấy ạ. Nó đã khai thật. Vì lúc ấy, như có một linh hồn xa lạ nào đó nhập vào nó. Nó bỗng thấy người nó nổi gai xù xì rồi phồng lên to tướng và chân tay bỗng ngứa ngáy, bứt rứt, chỉ muốn đập phá giết chóc. Thế là nó rút cái búa đóng đinh buổi chiều đi làm thuê ở phòng triển lãm thị xã còn để trong túi. Giang tay Điền đã cho nó một cái tát. Nó ngã nghiêng xuống đất, tay đưa lên che má, người co rúm lại, không dám đứng dậy. Còn Điền bỗng thấy người rơn rởn như chạm phải lông sâu róm. Thằng khốn! Một hồn ma bóng quỷ đã nhập vào nó, điều khiển nó, xui khiến nó. Nó không nhận thức được nó. Nó chỉ nhận ra cái bóng chạy ở phía trước nó và lưu lại ở sau nó thôi. Nó là một thực thể chưa hoàn chỉnh, một quái trạng, một thai nhi lọt lòng chưa đủ năm đủ tháng, một thể xác lỏng lẻo hồn vía, trống rỗng và bỏ ngỏ. Nó là đứa trẻ bị đẻ non. Nó chưa hoàn thiện. Và anh lái xe Hon đa ôm buồn thay, con người là vậy đó, cuộc đời thì quá ngắn ngủi, bến đợi thì xa tắp mịt mùng mà cái chết lại rập rình ngắt đoạn bất cứ lúc nào. Mời các bạn đón đọc Bến Bờ của tác giả Ma Văn Kháng.
Quãng Đời Đánh Mất
Quãng Ðời Ðánh Mất” là quyển tiểu thuyết thứ ba của Dương Thu Hương do nhà xuất bản Hải Phòng in năm 1989, sau “Bên Kia Bờ Ảo Vọng” (1987) và “Thiên Ðường Mù” (1988) – hai tác phẩm đã đưa tên tuổi của bà lên vị trí sáng chói nhất trên văn đàn Việt Nam suốt mấy năm qua. Bộ ba tiểu thuyết này tạo thành một bức tranh hoành tráng công phu của xã hội Việt Nam ngày nay, với biết bao khung cảnh, hình ảnh, nhân vật, tình tiết…Nghệ thuật miêu tả và phê phán hiện thực sắc bén và can đảm, cùng với nỗ lực phản kháng và giải ảo trong các tác phẩm của Dương Thu Hương, đã giúp bà trở thành nhà văn được tìm đọc nhiều nhất, và nổi tiếng nhất cả trong và ngoài nước… sống cuộc đời mình một cách độc lập, can đảm đối diện và chống lại những quyền lực phi lý, nhìn cho đúng và phá vỡ những ảo tưởng xa lạ, yêu thương cuộc đời và con người chân thành…Ðó là một vài thông điệp chính mà “Quãng Ðời Ðánh Mất” gửi đến người đọc…” Nhà văn Dương Thu Hương sinh năm 1947 tại Thái Bình, cư ngụ nhiều năm tại Hà Nội, sau đó lưu trú tại Paris, Pháp. Dương Thu Hương là đảng viên Ðảng Cộng Sản Việt Nam, nhưng đã bị khai trừ ra khỏi Ðảng năm 1989, vì đấu tranh cho dân chủ, vì phê bình nhà nước. Những tác phẩm của Dương Thu Hương không được phép lưu hành tại Việt Nam, vì lý do chính trị. Bà từng bị vào tù vì viết sách, vì phê bình việc áp dụng chủ nghĩa Marx-Lenin tại Việt Nam, vì phản đối độc quyền của Ðảng Cộng Sản. Năm 1994, Bộ Trưởng Văn Hóa Pháp Jacques Toubon trao tặng nhà văn Dương Thu Hương Huân Chương Văn Hóa Nghệ Thuật Chevalier Des Arts Et Des Lettres. Năm 2008, bốn tác phẩm “Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Những Thiên Ðường Mù, Tiểu Thuyết Vô Ðề, Chốn Vắng” của bà được đưa vào bộ sách Bouquins. Năm 2009, Giáo Sư Tiến Sĩ Joseph Pivato dạy môn Văn Chương Anh Ngữ tại Ðại Học Athabasca ở Alberta, Canada, đề cử nhà văn Dương Thu Hương vào danh sách xét duyệt Giải Nobel Văn Chương. Dương Thu Hương nhận định: “Lịch sử cận đại của người Việt Nam đã diễn ra trong khói bom và tiếng nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ chia cắt đến tận lòng sâu của mỗi gia đình. Sự nhầm lẫn, sự bất khả tri không chỉ xảy ra giữa hai nền văn hoá Ðông-Tây mà còn xảy ra ngay giữa lòng dân tộc Việt, giữa các thành viên trong một gia đình, một giòng họ, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa bên thắng cuộc và bên thua cuộc, giữa người trong nước và những người sống ngoài biên giới. Tóm lại, những người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông. Những con sông thiếu vắng những cây cầu. Khoảng cách giữa người với người có thể còn dài rộng hơn sông, sâu hơn vực thẳm, thế nên, dù trên địa hạt văn chương, tôi coi Albert Camus cao hơn hẳn Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận câu nói nổi tiếng của Sartre là một nghiệm sinh có tính nhân loại, “Tha nhân là địa ngục của ta.” [“Sức Mạnh Của Chủ Nghĩa Ngu Dân.”] “Quãng Ðời Ðánh Mất” của hai nhân vật Trọng và Bích để lại âm hưởng vi diệu trong lòng độc giả: “…Khi con người đã quen sống kiếp mù lòa, ai vạch ra sự ngu dốt tối tăm trong kiếp sống của họ sẽ bị họ coi là quỷ dữ, vì điều đó chứng tỏ cái hèn kém của bản thân họ, và đặt ra những lời thách đố nguy hiểm. Mà chắc chắn họ không đủ khả năng vượt qua…Tình yêu cũng cần lòng can đảm. Giữa bao nhiêu dục vọng của đời sống phải chọn lấy một thứ, phải dập tắt mọi đám cháy để nuôi dưỡng duy nhất ngọn lửa của riêng mình. Tình yêu, hơn mọi thứ tình cảm khác, cần lòng hy sinh và sự trung thực…” (trích) *** Mặt trời mù sau lớp mây bạc, nhưng vòm trời và mặt đất trắng ánh lên. Các đồi cây đan tiêu hớn hở nô giỡn trước gió, ném vào không trung ngọn lửa cuồng nhiệt và thất thường của những vòm lá đỏ như đồng. Trên con lộ chạy vắt qua những trái đồi ngoại ô, chợt xuất hiện một cỗ xe thổ mộ. Nó tiến thẳng vào thành phố, tiếng vó ngựa và tiếng lục lạc mỗi lúc mỗi rõ dần. Lão già Ngạn dỏng tai nghe. Rồi từ trong bếp, hấp tấp lao ra sân, đưa mắt dõi theo, cỗ xe ngựa vượt qua tòa biệt thự trắng, xưa là nhà nghỉ của quan công sứ Pháp, nay lũ trẻ đọc sách và chơi đu quay. Rồi cỗ xe lăn qua khuôn viên, khu trường phổ thông, nhà trẻ... Vượt qua hai cánh cổng để ngỏ của lão, nó đi hút về cuối phố. Lão già bất giác thở dài, đôi vai như còng xuống. Từ mảnh sân bên kia, phân cắt bởi hàng đỗ leo, một ông già cao lớn bước sang. Đưa mắt nhìn khuôn mặt ủ ê của lão Ngạn, ông cất tiếng: - Thôi đi, đừng mất công vô ích. Về được, nó khắc về. - Nhưng tôi nóng ruột... Lão Ngạn đáp, vẻ hằn học không che đậy: Ông có con đâu mà ông biết xót?... Ông già hàng xóm không mảy may phật ý, đáp: - Tôi không có con nhưng trên đời này chẳng riêng ông được quyền làm cha. Không người cha nào xử sự như ông cả...Nhưng thôi, đừng cãi cọ nhau buổi sớm. Pha ấm trà đi. Nói xong, ông kéo ghế ngồi, đôi chân bắt chéo lại. Lão Ngạn súc ấm, bỏ trà pha nước mới. Vừa làm, lão vừa nghĩ: Lúc nào hắn cũng đàng hoàng, mạnh mẽ hơn ta. Dù ngồi ở xó rừng hay ngồi trên ghế của người khác...Trông kìa, dường như chính hắn mới là chủ nhân ngôi nhà này, bộ bàn ghế mây đáng tiền này, cả bình trà bằng sứ đời Thanh này nữa. Đến con trai ta cũng thuộc về hắn. Nó tin hắn như dân đạo tin Chúa Jesu. Cái thằng khốn... Ông già láng giềng vẫn ngồi yên lặng, mắt đăm đăm nhìn dãy đồi đan tiêu nơi chân trời. Tóc ông dày và đen, lưng thẳng. Lão Ngạn đặt bình trà xuống bàn: - Được rồi đây. Ông già rót nước: - Ông uống luôn cho nóng. Lão Ngạn gật đầu: - Phải...Nhưng tôi vào bếp đã. Chặn lại cái thớt kẻo sổng mấy con cua. Chúng nó cạo nồi cả đêm, không ngủ được. Lão vào bếp vì không muốn người láng giềng đọc được ý nghĩ của mình. Thực tình, lão căm ghét ông Hai đến mức thầm ước rằng bỗng dưng có cơn gió độc thổi tới, ông Hai trúng phong ngã lăn quay trên mảnh sân này, lão sẽ hả hê bao nhiêu. Trong chiếc nồi đồng lớn, lũ cua biển giương những đôi mắt lồi tí xíu nhìn lão. Móng cua sắc cạo xào xạo nghe rợn tai. Bất chợt, lão già đập chiếc thớt gỗ lên miệng nồi: - Lũ khốn, trưa nay ta đem luộc ráo. Lão quay ra sân. Ông già Hai đã uống xong chén trà, khoan thai bước về mảnh sân bên kia. Lão Ngạn nhìn theo, nghẹn cổ. Trưa hôm ấy, lão luộc cả mớ cua biển. Một mình, ăn mãi tới nửa đêm mới hết. Dù uống nửa lít rượu, lão vẫn bị đau bụng. Từ hai giờ rưỡi đêm, lão chạy đi chạy lại từ nhà trên xuống chuồng tiêu như con thoi. Lũ nhặng đêm kêu như ong trong không, gian hôi thối. Lão đành uống năm viên rửa có á phiện. Rồi sau đó, khoảng bốn giờ sáng, lão ngủ thiếp đi cho tới non trưa ngày hôm sau. Giữa đám sương bồng bềnh, lãng đãng những vệt nắng vàng. Lão già nghe tiếng xe lăn ngoài phố. Lần này, xe dừng lại trước cổng. Đứa con trai bước xuống, nện gót giày trên sân: - Chào ba, con đã về. Nó giơ cao chiếc mũ dạ xanh thẫm, đính mỏ neo vàng. Mắt lão hoa lên. Lão ngắm nghía bộ đồng phục bó sát tấm thân trai trẻ của nó, nước mắt rớt xuống má... - Thình thình...thình...Thình thình... - Ba ơi i i... Hai cánh cửa rung bần bật. Và giọng một người đàn bà: - Chú Hai, ba cháu ốm à? - Không rõ. Đêm qua tao thấy ông ấy chong đèn tới ba giờ sáng. - Mọi ngày ông cụ tỉnh ngủ lắm, ho khẽ đã trở dậy rồi. - Có thể ngủ mệt không nghe được. - Cháu phá cửa đây. - Hãy gọi thêm lát nữa xem sao?... Tiếng gọi cất lên: - Ba ơi, ba ơi i i... Lão Ngạn rùng mình. Không phải tiếng nói của thằng Cường, đứa con trai lão chờ đợi. Giọng của một người đàn bà, như từ cõi âm vọng tới. Lão già cố mở mắt, nhìn thấy cánh tay xanh nhợt của mình vắt trên ngực. Lão cố định thần, lắng nghe tiếng gọi: - Ba ơi... Lão Ngạn thầm kêu: - Con Bích. Rồi chống tay ngồi lên, lão lê từng bước ra mở cửa. Bàn tay lão lạnh ngắt, run run đặt trên quả đấm sứ: - Tao đây. Cánh cửa bật mở. Cô con gái kêu: - Ba làm sao vậy? Thay vì trả lời con, lão Ngạn quay sang người hàng xóm: - Tôi bị tháo dạ, vì lũ cua biển hôm qua. Ông Hai hỏi: - Ông có cần thuốc không? - Không. Giờ cầm rồi. - Có cần gì thì gọi tôi. Người láng giềng quay đi. Lão Ngạn lần về giường nằm, chút nữa bật tiếng rên thất vọng: - Mình mong thằng bé. Lại hóa ra con trời đánh này. Mời các bạn đón đọc Quãng Đời Đánh Mất của tác giả Dương Thu Hương.
MM - Chuyện Về Cô Gái Ấy
“Khi tịch dương chạm vào đường chân trời, chúng tôi trao nhau nụ hôn đầu tiên. Một nụ hôn như trong ước nguyện. Hành tinh xanh vẫn yên lặng chuyển động, màn đêm dần kéo đến từ phía trời Đông. Chúng tôi cùng hẹn ước tình yêu giữa khoảnh khắc giao nhau của ánh sáng và bóng tối. Tình yêu tuổi mười lăm vẫn còn quá non nớt, nhưng chúng tôi đều vô cùng chân thành. Cả hai đều cố gắng tìm ra những gì có thể làm cùng nhau. Phát minh ra một tình yêu mới, khắc sâu mối quan hệ này vào tâm khảm. Chỉ cần mình đủ mạnh mẽ, tôi nghĩ, nhất định sẽ chiến thắng vận mệnh. Có đúng không?” *** 3.5/5 sao. Lâu rồi mình không đọc tiểu thuyết tình cảm, vài tháng trước đọc lại "Mắt biếc" đã quá chán, tiểu thuyết ngôn tình thì ôi thôi đọc xong quên sạch không nhớ tí gì. Nhưng không ngờ rất lâu sau "Bí mật của Ella và Micha" lại có 1 cuốn truyện lãng mạn làm mình thích được. Lúc đầu mình hứng thú với quyển này vì đọc giới thiệu của Nhã Nam có câu "Chỉ cần mình đủ mạnh mẽ, tôi nghĩ, nhất định sẽ chiến thắng vận mệnh. Có đúng không?", chắc câu chuyện sẽ liên quan đến bói toán, tử vi, vượt lên hoàn cảnh,... đại loại là thể loại gay cấn. Nhưng mà không, nhầm hoàn toàn, nó chẳng liên quan gì đến những chuyện mà mình đề cập. Đó cũng là lý do mình khá hụt hẫng khi đọc xong. Nhưng bỏ qua cái kỳ vọng của mình thì nội dung câu chuyện rất ổn. Minamikawa Momo - nàng thơ của câu chuyện, và nam chính (nhân vật tôi) - Sasa Tokio (Momo gọi là Jiro) học chung lớp cấp 2, đều là học sinh chuyển trường nhưng Jiro đến trước Momo vài năm. Tất cả các nhân vật đều liên quan đến xưởng may chi phối đời sống của cả thị trấn vì hầu như học sinh ở đây đều là con em của cán bộ và công nhân trong xưởng may. Momo là con gái của giám đốc xưởng, nghiễm nhiên trở thành nữ hoàng, Jiro sống với mẹ để trốn nợ ở thị trấn này, bà làm thêm ở quán ăn chứ không phải ở xưởng. Hai người chẳng liên quan gì đến nhau bắt đầu mối quan hệ từ lúc Momo nhờ Jiro viết hồi ký 15 năm cuộc đời cho mình (có trả lương), từ đó dần dần hai người hiểu về nhau hơn. Tình cảm trong truyện được miêu tả rất ngây ngô, trong trẻo đúng chất mối tình đầu, không lẩn tránh ngại ngùng mà vô cùng bộc trực, cũng có những hiểu lầm cãi vã, giận dỗi nhưng vô cùng trong sáng. Ngoài cặp chính còn có cặp phụ rất đáng yêu (đoạn cuối truyện họ có thể sắp làm đám cưới) là Tobio và Kikuchi - nữ sinh chuyển trường người ngoại quốc. Kết thúc mở nhưng với mình đấy là Happy ending rồi vì Momo đã trở về trường của Jiro và đọc cuốn sách hồi ký về cô mà Jiro đã hoàn thành, trở nên vô cùng nổi tiếng trong trường. Chuyện gặp lại nhau chỉ là vấn đề thời gian. Câu chuyện xoay quanh Momo nên tác giả xây dựng nhân vật này có vẻ quá hoàn hảo và hơi điêu. Đấy là một điểm trừ. Momo xinh đẹp, cao ráo, con nhà giàu, có bố là giám đốc lắm tiền đẹp trai và mẹ là nữ diễn viên kiêu sa đỏng đảnh, lại vô cùng hào phóng và thông minh. Nhưng chuyện một cô gái 15 tuổi hiểu được bố mình vi phạm pháp luật và dám đứng ra tố cáo bố, đòi quyền lợi cho công nhân, cuối cùng bỏ nhà ra đi và lẩn trốn truyền thông vô cùng hoàn hảo thật khó tin, chưa kể cô gái này còn có suy nghĩ rất sâu sắc về quyền lực, về nghề nghiệp và tương lai. Jiro may mắn hơn vì dù 2 mẹ con phải trốn nợ khắp nơi do bố phá sản nhưng hóa ra ông bao năm vẫn làm mọi cách trả hết nợ nần và âm thầm bảo vệ 2 mẹ con, chuyện đoàn tụ chỉ là sớm muộn. Giọng văn của Ichikawa Takuji rất giàu chất thơ, diễn biến câu chuyện nhanh nhưng không bị gượng, cũng không buồn ngủ. Tuy vậy mình thấy xuất sắc hẳn thì chưa mà phù hợp đọc để thư giãn thôi nên chỉ cho 3.5/5. *** Mỗi lần mỏi mệt tôi lại tìm về với những tác phẩm của Ichikawa Takuji, để được trải lòng, để được bình lặng. “Chuyện về cô gái ấy” vẫn mang nét đặc trưng của tác giả, cái nét trầm trầm, buồn buồn, nhè nhẹ. Momo và Jiro gặp nhau trong một hiệu sách nhỏ, từ đó, hai người trở thành tâm điểm trong mắt nhau, cuộc sống của họ chầm chậm xoay quanh nhau, có những sự việc xảy ra xung quanh, có cảm xúc ngây ngô, vụng dại. Tất cả mọi thứ xảy đến, diễn ra, để viết nên một một câu chuyện không thể quên, về một cô gái dũng cảm và một anh chàng gan dạ, về sự bóc lột giữa các tầng lớp trong xã hội ngày ấy, về những ngày xưa cũ, về những mảnh ký ức nhạt dần theo thời gian. Một tác phẩm êm đềm và nhẹ nhàng, ấm áp. Câu chuyện cứ chầm chậm trôi, thời gian cứ lặng lẽ lướt qua, có hai con người dừng lại, trái tim đập chung một nhịp đập yêu thương. Dù chỉ là những cô cậu bé, dù không mang tầm vóc lớn lao, thế nhưng tâm hồn và suy nghĩ của họ đủ rộng, đủ bao la để khiến bản thân tôi ngưỡng mộ, trầm trồ. Giọng văn của tác giả dịu dàng nhưng không hề nhàm chán mà vẫn luôn cuốn hút. Câu chuyện về cô gái ấy có thực sự chỉ là một câu chuyện bình thường hay chất chứa trong đó có biết bao nhiêu ý nghĩa tác giả muốn gửi gắm?, từng trang giấy, từng câu chữ có chứa đựng nỗi buồn sâu lắng, trầm lặng như bao tác phẩm khác của Ichikawa? Đó là những câu hỏi tôi đặt ra trước khi đọc tác phẩm, may mắn là MM không bi lụy, và buồn như các tác phẩm khác của ông, câu chuyện có nét tươi sáng và vui vẻ hơn, thế nhưng, khép lại tác phẩm, vẫn đọng lại trong lòng sự tiếc nuối mơ hồ và những cảm xúc loáng thoáng chẳng thể gọi tên. |  Trần Lan Hương *** Đôi lời mở đầu Gửi tới các bạn độc giả một ngày nào đó sẽ đọc cuốn sách của tôi. Ngày xửa ngày xưa, xưa rất là xưa, khi nàng còn đang theo học ở ngôi trường này. Cái “ngày xưa” đó cách đây bao lâu, còn tùy thuộc vào việc bạn đọc cuốn sách tại thời điểm nào. Nếu bạn cầm nó lên vào ngày kế tiếp (hay “ngày hôm sau”) cái ngày tôi khẽ khàng đặt nó lên giá sách thư viện (ở góc Hồi ký, nằm giữa cuốn Vua phát minh Edison và Cuộc đời Marie Curie), thì đó mới là chuyện của năm năm về trước mà thôi. Phải rồi, chỉ mới có năm năm thôi đấy, vậy mà tôi lại có cảm giác đã là chuyện xa xưa lắm rồi, tựa như những câu chuyện cổ tích hay thần thoại từ thời tiền sử vậy. Có lẽ vì lý do đó mà trong câu chuyện này, tôi đã tự ý cho thêm vào cả những “hồi ức tưởng tượng” do chính tôi tạo nên. À không, đương nhiên tôi cũng muốn viết cho thật chính xác chứ. Có điều việc hồi tưởng lại quá khứ cũng giống như sáng tác mới vậy, ngay cả những người cùng sống ở thời ấy lúc đọc truyện có khi cũng phải ngạc nhiên, cứ như thể được nghe một câu chuyện hoàn toàn khác. Chúng ta làm đẹp quá khứ, phóng đại mọi chuyện và thổi phồng sự việc lên. Chúng ta tỉa tót thêm cho hồi ức trong vô thức, rồi cứ thế dựng lên cái gọi là “kỷ niệm thời xưa”. Ví dụ như khi viết lại các cuộc đối thoại chẳng hạn, dù cho đã cố tái hiện một cách trung thực nhất có thể, không hiểu sao tôi vẫn cứ trộn lẫn cách nói chuyện của tôi hiện tại vào trong câu thoại của họ. Nếu bạn đọc để ý thấy lời nói của nhân vật có cảm giác già dặn quá, xin cứ xem như đó là lỗi của việc “vô thức tỉa tót thêm cho hồi ức” nhé (nói vậy nhưng thực sự chúng tôi là những đứa trẻ lớn trước tuổi. Chính “hoàn cảnh gia đình phức tạp” đã buộc chúng tôi phải trưởng thành sớm). Nói ra thì giống như lấy cớ vậy, nhưng phải viết lại hết tất cả những chuyện mình đã biết, dưới góc độ khi chưa biết gì cả, quả là khó khăn lắm thay! Phần lớn tôi sẽ viết theo kiểu vờ như mình chưa hề biết đến diễn biến tiếp theo, nhưng có đôi khi tôi vẫn nhịn không nổi, lỡ thốt ra những lời thoại như nhà tiên tri. Nếu bạn đọc tới khúc ấy, xin đừng suy nghĩ nhiều quá, hãy cứ nhẹ nhàng lướt qua là được. Mà thôi, gì thì gì tôi cũng đã cố gắng làm tốt nhất rồi. Cũng một phần vì thế mà thành ra mất tới tận năm năm. Nói sao nhỉ, đây là “công việc” của tôi, mà đã là công việc, thì tuyệt đối không được phép qua loa. Chỉ cần bạn đọc cuốn sách này, nhất định sẽ thấy được tôi đã cố gắng đến nhường nào. Mặc dù nó chẳng có vẻ gì giống một quyển hồi ký, nhưng tôi chỉ có thể dùng lối viết như vậy thôi (nói đúng ra đây không phải “hồi ký” theo ý nghĩa thông thường, cũng chẳng phải thứ gì đó giống như hồi ký, dù tôi đã được nhờ cậy viết như thế. Lý do chủ yếu nằm ở chỗ cuốn sách này viết ra cho ai, điều này sẽ được làm rõ hơn trong tác phẩm, vì thế xin các bạn cố chờ thêm một chút). Hy vọng tôi có thể kể lại cho các bạn một cách chân thật nhất về nàng. *** 1 Hôm ấy là một ngày hè nóng nực, độ ẩm cũng cao kinh khủng khiếp. Tôi đang ở trong một hiệu sách nho nhỏ nằm trên con phố trước nhà ga. Mặc cho máy lạnh vẫn đang chạy, phát ra âm thanh như tiếng thở dài của loài khỉ rú (có lúc lại giống như tiếng bị mắc đờm), nhiệt độ trong cửa hàng cũng chẳng đỡ hơn bên ngoài là bao. Tôi vừa dùng vai áo lau đi từng dòng mồ hôi chảy dài trên má, vừa đứng đọc một quyển sách. Một bản dịch tên Con đường ngắn nhất để trở thành biên kịch tại Hollywood. Dù rằng cái tiêu đề nghe như đùa, nội dung bên trong quả thật có viết rất nhiều điều cần thiết để trở thành một biên kịch, nên từ tận đáy lòng tôi cực kỳ muốn có nó. Có điều, đối với quyển sách 600 trang thì cái giá của nó đắt đến mức lố bịch. Vì lẽ đó mà kể từ ngày đầu tiên của kỳ nghỉ hè, hôm nào tôi cũng ghé qua đây (không tới 30 phút mỗi ngày - thì tôi cũng chưa muốn bị cấm cửa mà. Ông cụ chủ hiệu sách tạo cho người ta cảm giác lầm lì bảo thủ, hẳn không phải là người dễ tính thân thiện gì cho cam), và vùi đầu cố gắng đọc xong hết tất cả các trang sách (tiện thể học thuộc hết luôn nếu có thể). Đang giữa lúc tập trung ấy, tôi bỗng giật mình khi bị ai đó vỗ vào vai. Và hình như tôi còn bật thốt lên thành tiếng nữa, “Oái”, chỉ một tiếng rất khẽ thôi. Mình bị ông chủ hiệu sách để ý tới rồi sao, tôi nghĩ. Có lẽ ông cụ sắp hết kiên nhẫn với mình rồi. Dè dặt quay đầu nhìn lại, tôi trông thấy nàng ở đó. Minamikawa Momo. Điều này lại càng đáng ngạc nhiên hơn. Tôi cảm thấy có chút bối rối. Bởi vì mặc dù cùng học chung một lớp, chúng tôi chưa lần nào bắt chuyện với nhau. “Nói chuyện chút được chứ?” Nàng đề nghị. Không hiểu sao trong giọng nói của nàng có vẻ gì đó như tức giận. Nàng mặc một chiếc áo khoác đen tuyền bên ngoài áo sơ mi trắng (đến cả chiếc quần bò bó nàng mang cũng màu đen nốt). Mùa hè mà ăn mặc thế này ư? Ấy vậy mà trông nàng vẫn rất thong dong, thậm chí còn chẳng vương giọt mồ hôi nào. “Nói chuyện ấy à?” Mình có từng làm gì khiến nàng khó chịu không nhỉ? Tôi vắt óc lục lọi ký ức, nhưng tuyệt nhiên không nhớ ra được điều gì. Mà cũng phải thôi, giữa hai chúng tôi hoàn toàn chưa từng có một tiếp điểm nào, tính đến giờ phút này. “Ừm, mình có việc muốn nhờ Sasa.” Nhờ? Nhưng nhờ cái gì nhỉ? Tôi càng thấy khó hiểu hơn. “Việc gì thế?” Tôi hỏi lại nàng. “Đi nơi khác nhé?” Nàng vừa nhìn quanh hiệu sách vừa đáp lời, “Ở đây không tiện cho lắm.” “Ừ, được thôi.” Tôi nói, và thế là chúng tôi cùng nhau tới quán cà phê cách hiệu sách ba căn nhà. Mời các bạn đón đọc MM - Chuyện về cô gái ấy của tác giả Ichikawa Takuji & Mai Mai (dịch).
Bác Sĩ Cuối Cùng Dưới Tán Hoa Anh Đào
[REVIEW] "BÁC SĨ CUỐI CÙNG DƯỚI TÁN HOA ANH ĐÀO" - NIỀM TIN SẼ TẠO NÊN KÌ TÍCH? - CUỐN TIỂU THUYẾT HẤP DẪN VÀ XÚC ĐỘNG KHÔNG THỂ BỎ QUA - "Bác sĩ cuối cùng dưới tán hoa anh đào" của tác giả Atsuto Ninomiya là cuốn tiểu thuyết tâm lí - y học mới được phát hành vào ngày 28/5 bởi Ai Novel. Ngoài phần mở đầu ngắn, cuốn sách gồm 3 chương chính tương ứng với 3 cái chết đặc biệt của nhân viên văn phòng, sinh viên và bác sĩ (được thể hiện ngay ở tên chương). Ung thư hay các bệnh về tế bào thần kinh... nếu chỉ nghe qua hay chưa từng chứng kiến thì sẽ không thể nào tưởng tượng được hết sự kinh khủng, nguy hiểm và cả những xúc cảm mãnh liệt của bệnh nhân. Fukuhara - Viện phó bệnh viện với trái tim nồng cháy, luôn hết mình với bệnh nhân, mong muốn và tin tưởng vào cái gọi là "kỳ tích": giống như sau cơn mưa trời lại sáng, trải qua hành trình chống bệnh gian khổ dài đằng đẵng, kỳ tích nhất định sẽ xuất hiện, căn bệnh quái ác nhất định sẽ bị đập tan. Kiriko - Bác sĩ có biệt danh "Tử Thần", với suy nghĩ sống mà phải chịu đau đớn, dày vò thì thà lùi lại 1 bước để ngắm nhìn cuộc sống tươi đẹp xung quanh và tận hưởng tháng ngày quý báu ít ỏi còn lại sẽ tốt hơn nhiều. 2 bác sĩ, 2 tư tưởng, 2 định hướng... nhưng lại có chung mục đích: tất cả là vì bệnh nhân. Nghe thật lạ lùng nhưng sự thật chính là vậy! Sẽ có người vì không muốn gia đình thương tổn mà chấp nhận chịu đau để thực hiện hóa - xạ trị, sẽ có người lại chấp nhận hy sinh để sống một cuộc sống đúng nghĩa trước khi quá muộn... Lựa chọn theo tư tưởng của vị bác sĩ nào thì cũng chẳng có gì là sai trái hay bất hợp lí cả, vì mỗi bệnh nhân sẽ có thứ đáng giá để coi trọng và suy nghĩa riêng biệt. Cách viết của tác giả vô cùng chân thực và giàu cảm xúc khiến cho người đọc có thể dễ dàng cảm nhận được những chiêm nghiệm và ý nghĩa sâu sắc về sự sống, sức khỏe và thời gian mà tác giả muốn truyền đạt. Chắc chắn là khi đọc xong, bạn sẽ thấy cuốn sách được đánh giá cao trên Amazon là hoàn toàn hợp lí! *** “Ông còn nửa năm để sống…”. Tại một bệnh viện nọ, bác sĩ Kiriko – người được mệnh danh là thần chết – đã nói với bệnh nhân như vậy. Anh giải thích rằng khi đón nhận cái chết, ta sẽ trân trọng những ngày còn lại. Tuy nhiên, phó viện trưởng Fukuhara lại tin vào điều kỳ diệu, anh sẽ không ruồng bỏ ‘sự sống’ cho đến phút cuối cùng. Kết cục của cuộc đối đầu trong thời gian có hạn giữa hai con người đối lập này là? Trước lựa chọn cuối cùng, bệnh nhân có thể quyết định được không? Ánh sáng lấp lánh của sự sống được vẽ theo cách sống của từng người. Câu chuyện về nghề y nghẹt thở và đầy cảm động. *** Atsuto Ninomiya Sinh năm 1985 tại vùng đô thị Tokyo. Tốt nghiệp khoa Kinh tế Đại học Hitotsubashi. Là một tác giả của thế hệ mới được chú ý, có tác phẩm “! (Bikkurimāku)” đã bán ra 200.000 bản, Atsuto Ninomiya liên tiếp xuất bản các tác phẩm mới. *** Bệnh viện trọng điểm khu vực - bệnh viện Musashi no Shichijuuji. Ba tòa nhà chín tầng với những dãy tường trắng dài dằng dặc; ở góc tầng hai, của phòng tư vấn đang hé mở. Bài trí trong phòng vô cùng tối giản. Chỉ đặt bàn, ghế và bảng trắng. Bốn người sắc mặt buồn bã đang ngồi. Một trong số đó là bệnh nhân luống tuổi, mặc bộ pyjama phủ thêm tấm áo choàng. Ba nhân vật còn lại là người nhà gồm bạn đời và hai vợ chồng con trai ông. Họ lắng tai nghe từng tiếng bước chân với nhịp điệu đều đặn, chuẩn xác như đồng hồ quả lắc. “Xin lỗi vì đã để mọi người phải chờ.” Tiếng bước chân dùng lại trước phòng tư vấn. Đấy cánh của và bước vào phòng, Kiriko Shuuji cất tiếng. Khi anh ngồi xuống, tà áo trắng lay động khe khẽ. Vóc người nhỏ nhắn, làn da trắng và đôi mắt mang sắc nâu nhàn nhạt. Vị bác sĩ với ngoại hình hơi mềm mại nữ tính, đâu đó tỏa ra cảm giác lành lạnh này nhìn lướt qua khuôn mặt của bốn người rồi nói: “Bác là bệnh nhân Hashida đã yêu cầu tư vấn cùng người nhà phải không ạ. Cháu là Kiriko.” “Vâng, bác sĩ ơi, chuyện là…” “Bác muốn bệnh viện kiểm tra tình trạng bệnh hiện giờ và nói rõ phương hướng điều trị về sau phải không ạ?” Kiriko không tán chuyện phiếm dù chỉ một câu. Thấy bác sĩ lập tức đi thẳng vào vấn đề, bốn người cùng nín lặng. Không ngập ngừng, không do dự, Kiriko nói tiếp. “Cháu đã xem bệnh án rồi, tình trạng của bác không thể cải thiện được đâu. Một phần do tuổi tác đã cao ạ. Bác còn khoảng nửa năm. Giờ chỉ còn xem trì hoãn thời hạn này được bao lâu thôi ạ.” “Ơ…” Giữa lúc cả gia đình còn đang ngơ ngác, Kiriko nhìn thẳng vào mắt bệnh nhân lớn tuổi, anh hỏi: “Bác Hashida, bác muốn ra đi như thế nào ạ? Kể cả khi dùng thuốc điều trị ung thư bác cũng chỉ sống thêm được vài tháng thôi và sẽ phải nhập viện suốt vài tháng đó. Bác có thế lựa chọn chuyển hẳn sang chăm sóc giảm nhẹ* đồng thời sử dụng thời gian còn lại sao cho có ý nghĩa ạ.” “Chờ, chờ đã!” Anh con trai ngồi bên cạnh hấp tấp chồm hẳn người lên. “Bố tôi đang làm hóa trị*… Bác sĩ phụ trách bảo chỉ số của bố đang khá lên mà.” Kiriko xem tập giấy tờ. “Đúng vậy ạ. Tình trạng của bác không xấu đi, Nhưng chỉ số ở mức độ này thì gia đình không nên kỳ vọng tình trạng bệnh sẽ có khởi sắc đâu ạ. Về mặt y học, trường hợp của bác đã vô phương cứu chữa rồi ạ. Giờ chúng ta chì có thể vừa kéo dài thời gian vừa cầu nguyện sẽ xảy ra một điều kỳ diệu thôi.” “Nhưng, nhưng, bố tôi vừa thi lấy bằng lái thuyền mơ ước từ lâu… Ông ấy đã rất cố gắng dành thời gian mới thi được để từ giờ còn lái thuyền mà. Các cậu phải có cách gì khác chứ? “Không có cách nào đâu ạ. Nếu còn phương pháp chữa trị khác thì tôi đã nói với gia đình rồi ạ.” “Kể cả thế, tôi nghe nói dùng chiết xuất nấm tác dụng rất tốt, liệu pháp Proton*, rồi còn thảo dược nữa… Phải, phải có cách khác chứ? Cậu đã tìm hiểu kĩ càng chưa đấy?” “Không còn cách nào đâu ạ. Phương pháp điều trị có căn cứ khoa học, được nhận định mang lại hiệu quả là thuốc chống ung thư bác đang dùng. Loại thuốc chống ung thư này không thế ngăn bệnh tình tiến triển, chỉ có tác dụng đến thế thôi ạ. Giờ không phải lúc chúng ta nên tranh luận vấn đề bác nhà có tử vong hay không, phí phạm thời gian. Tử vong là chắc chắn. Sang năm bố anh sẽ không còn nữa đâu ạ. Mọi người cần bàn xem nên làm gì trong khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại trước khi bác mất. Với tư cách là một chuyên gia, tôi sẽ hỗ trợ mọi người hết khả năng ạ.” “Cậu, cậu! Sao cậu lại có thể nói đến chuyện… chết chóc ở đây. Cậu nói gì với chồng tôi vậy hả? Chúng tôi chỉ trông chờ một tia hy vọng. Vậy mà cậu ăn nói như thế, thật quá quắt…” Đến lượt vợ người bệnh lên tiếng, mắt bà đỏ hoe. Kiriko nghiêng đầu, vẻ mặt đầy khó hiểu. “Bác trai rất quan trọng với mọi người phải không ạ?” “Đương nhiên rồi!” “Cháu nghĩ, chính vì bác trai rất quan trọng nên mọi người càng cần nghiêm túc cân nhắc về việc ra đi của bác ấy mới phải.” Giọng điệu lãnh đạm của Kiriko khiến cả gia đình bùng nổ. Ba người họ đều cực kỳ giận dữ. Phòng tư vấn ngập tràn những tiếng tranh cãi. Lông mày không hề máy động, Kiriko lẳng lặng quan sát toàn bộ khung cảnh trước mắt, bình thản như thể mình đang xem kịch. Anh nghĩ mãi vẫn không hiểu vì sao họ phải làm ầm ĩ đến mức này. Chỉ riêng bệnh nhân là không lên tiếng. Ông im lìm cúi đầu, gương mặt trắng bệch. Trời rất đẹp, gió thổi mạnh. Vừa ngắm tán cây tiêu huyền rung rinh Fukuhara Masakazu vừa sải rộng bước chân trên hành lang nối giữa hai tòa nhà. Nước da rám nắng khỏe khoắn, vóc dáng rắn rỏi cứng cáp, gương mặt anh mang những đường nét sắc cạnh và đôi mắt chứa đựng một ý chí mạnh mẽ. Vừa thẳng tiến anh vừa chào hỏi nhân viên bệnh viện và bệnh nhân mình chạm mặt trên đường. “Bác sĩ gì mà không hiểu tâm trạng người bệnh! Chúng tôi sẽ không bao giờ đến cái bệnh viện này nữa!” Đột nhiên có tiếng quát tháo vọng tới. Fukuhara vừa nhìn sang liền thấy người nhà bệnh nhân lao ra từ phòng tư vấn tòa nhà phía bắc. Mặt họ đều đỏ gay lên vì giận dữ. Một người phụ nữ ôm mặt khóc nức nỏ đang được chàng trai ôm vai dìu đi. “Có chuyện gì vậy?” Fukuhara vội vàng đi tới. Thấy Fukuhara cao lớn lại gần, người phụ nữ thoáng giật mình, nhưng thấy tấm bảng tên “Bác sĩ khoa Ngoại Fukuhara Masakazu” đính trên ngực áo anh, bà cất tiếng như nài nỉ. “Bác sĩ chỗ các anh cứ nói chồng tôi sẽ chết.” “Nghĩa là sao ạ?” “Cậu ta hết lần này đến lần khấc khăng khăng bảo chồng tôi sắp chết. Bác sĩ ăn nói kiểu đó, chúng tôi chữa cũng như không… Bác sĩ đã mặc kệ thì chúng tôi còn biết làm thế nào. Các anh định vứt bỏ bệnh nhân đang khốn khổ hay sao?” “Xin bác bình tĩnh đã ạ. À, bác là… bác Hashida ở khoa Huyết học? Bác đang làm hóa trị đợt đầu* phải không ạ?” Đỡ lấy người phụ nữ, Fukuhara nhìn sang bệnh nhân trong bộ pyjama. “Bác sĩ biết bố tôi sao?” Con trai bác Hashida rất bất ngờ vì vị bác sĩ mới gặp mặt lần đầu này lại biết tường tận về bệnh tình của bố anh đến vậy. “Tôi là Viện phó, ít nhiều cũng nên ghi nhớ thông tin bệnh nhân đang nhập viện điều trị chứ.” “Viện phó…?” Nhìn kiểu gì thì Fukuhara cũng chỉ tầm ba mươi mấy tuổi. Nếu đặt vào vị trí người đảm nhận chức vụ Viện phó của một bệnh viện lớn thì anh còn quá trẻ. Con trai bác Hashida tròn mắt ngỡ ngàng. “Chúng tôi nghe nói khoa Ngoại bệnh viện Shichijuuji có một bác sĩ kỳ diệu. Nhờ liên tiếp cứu sống nhiều bệnh nhân nguy kịch cùng thành tích quá xuất sắc nên đã được đề bạt thành Viện phó?” “Không phải đâu, tôi vẫn còn phải học tập nhiều lắm ạ. Bố tôi là Viện trưởng, từ nhỏ bố đã định hướng cho tôi học hành. Mà tôi làm phiền mọi người lâu quá rồi. Tôi sẽ cho tư vấn lại trường hợp của bác nhà ngay. Em ơi, gọi giúp anh bác sĩ phụ trách ca này được không? Bác sĩ Akazono khoa Huyết học ấy.” Sau khi gọi y tá đi ngang qua, Fukuhara đỡ bác Hashida ngồi xuống xe lăn. Y tá gật đầu, nhanh nhẹn đi vào phòng trục của y tá. Fukuhara đứng dậy. Anh cao ráo đến mức người khác phải ngước nhìn, dáng vẻ khiến người ta tin cậy. “Tôi cũng sẽ tham gia tư vấn. Tôi ở khoa Ngoại, tuy chuyên môn khác nhưng biết đâu có thể giúp ích được gì đó. Để tôi cùng mọi người chiến đấu với bệnh tật.” Fukuhara nhìn bác Hashida, ánh mắt cương quyết. “Bác Hashida, chúng cháu không bỏ cuộc đâu ạ. Làm bác sĩ, cháu từng chứng kiến nhiều kỳ tích rồi. Kỳ tích có xảy đến đấy ạ. Không, chúng ta hãy cùng nhau tạo nên kỳ tích nhé.” Cánh cửa sau lưng Fukuhara mở ra. Kiriko Shuuji rời phòng tư vấn. Kẹp giấy tờ vào dưới cánh tay, anh nhè nhẹ nhìn lướt qua bác Hashida ngồi trên xe lăn, người nhà của bác và Fukuhara. “Xin hãy giữ gìn sức khỏe ạ.” Chỉ nói vậy rồi Kiriko xoay gót bỏ đi. Tiếng bước chân đều đều, nhịp nhàng như đồng hồ quả lắc xa dần. Chỉ vào lưng Kiriko, vợ bác Hashida nghẹn ngào. “Chính… chính cậu ta. Nói toàn những điều kinh khủng.” “Cháu rất, rất xin lỗi bác ạ.” “Cậu ta là ai thế? Bác sĩ kiểu gì vậy?” Nhăn nhó như ăn phải thuốc đắng, Fukuhara đáp. “Kiriko Shuuji khoa Da liễu ạ. Cậu ta là nhân vật chuyên gây rối của bệnh viện chúng cháu đấy bác à.”   Mời các bạn đón đọc Bác Sĩ Cuối Cùng Dưới Tán Hoa Anh Đào của tác giả Atsuto Ninomiya & Mai (dịch).