Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

KHỔNG TỬ VỚI LUẬN NGỮ

KHỔNG TỬ VỚI LUẬN NGỮ

Cuốn sách Khổng Tử với Luận ngữ giúp bạn đọc tìm hiểu, nghiên cứu tinh hoa của nền cổ điển Trung Hoa.

Cuốn sách Khổng Tử với Luận ngữ giúp bạn đọc tìm hiểu, nghiên cứu tinh hoa của nền cổ điển Trung Hoa.

Luận Ngữ là bộ sách kinh điển của Nho gia được biên soạn vào khoảng đầu thời kỳ Chiến Quốc, ghi lại những lời nói và việc làm của Khổng Tử cùng một số môn đồ khác. Phái Tăng Tử cùng với các môn đệ góp nhặt những lời giảng dạy của Khổng Tử xếp thành sách để truyền lại cho đời sau. Sách này do các môn đệ của Khổng Tử ai nhớ được điều gì thì chép ra, rồi góp lại mà thành, cho nên không có thứ tự gì cả. Có chỗ là đồng môn với Tăng Tử chép ra, có chỗ lại là học trò của Tăng Tử và Hữu Tử chép thêm vào. Vì thế các học trò của Khổng Tử đều để chữ Tử lên trên tự, như: Tử Lộ, Tử Trương, Tử Du, Tử Hạ, Tử Cống… duy chỉ có Tăng Tử và Hữu Tử thì để chữ Tử xuống dưới tên của mình, là để tỏ lòng tôn kính. Trong sách Luận Ngữ cùng một chữ Nhân, chữ Hiếu, chữ Chính, mà mỗi nơi nói mỗi khác, là do phương pháp giảng dạy của Khổng Tử tùy tư cách, tùy trình độ của từng người mà dạy bảo, cho nên nghĩa không giống nhau. Về hình thức, sách Luận Ngữ không có trật tự phân minh. Toàn bộ sách chia thành hai mươi thiên, tên của các thiên đều lấy hai chữ đầu câu nói của Khổng Tử để đặt chứ không có ý nghĩa gì.

Luận Ngữ là bộ sách kinh điển của Nho gia được biên soạn vào khoảng đầu thời kỳ Chiến Quốc, ghi lại những lời nói và việc làm của Khổng Tử cùng một số môn đồ khác. Phái Tăng Tử cùng với các môn đệ góp nhặt những lời giảng dạy của Khổng Tử xếp thành sách để truyền lại cho đời sau. Sách này do các môn đệ của Khổng Tử ai nhớ được điều gì thì chép ra, rồi góp lại mà thành, cho nên không có thứ tự gì cả. Có chỗ là đồng môn với Tăng Tử chép ra, có chỗ lại là học trò của Tăng Tử và Hữu Tử chép thêm vào. Vì thế các học trò của Khổng Tử đều để chữ Tử lên trên tự, như: Tử Lộ, Tử Trương, Tử Du, Tử Hạ, Tử Cống… duy chỉ có Tăng Tử và Hữu Tử thì để chữ Tử xuống dưới tên của mình, là để tỏ lòng tôn kính. Trong sách Luận Ngữ cùng một chữ Nhân, chữ Hiếu, chữ Chính, mà mỗi nơi nói mỗi khác, là do phương pháp giảng dạy của Khổng Tử tùy tư cách, tùy trình độ của từng người mà dạy bảo, cho nên nghĩa không giống nhau. Về hình thức, sách Luận Ngữ không có trật tự phân minh. Toàn bộ sách chia thành hai mươi thiên, tên của các thiên đều lấy hai chữ đầu câu nói của Khổng Tử để đặt chứ không có ý nghĩa gì.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

PDF CHÂN LÝ VÀ THỰC TẠI - Krishnamurti - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Sinh ra gần THÀNH PHỐ MADRAS, Miền nam Ấn Độ, Jiddu Krishnamurti (1895 – 1986). Năm mười bốn tuổi sống dưới quyền giám hộ của Bà Annie Besan, người theo chủ nghĩa xã hội, nhà cải cách, và chủ tịch của Hội Quốc Tế Thông Thiên Học tại Adyar, gần thành phố Madras. Bà và người cộng sự, G,W, Leadbeater tin tưởng rằng Krishnamurti là phương tiện của đấng cứu thế đang giáng lâm như người hội viên Thông Thiên Học đã báo trước. Hội Cứu Tinh Đông Phương, một tổ chức được dành riêng để chuẩn bị cho nhân loại về sự giáng lâm của Đấng Giáo Chủ Thế giới, đã được thành lập năm 1911 với Krishnamurti là người lãnh đạo. Cùng trong năm này, ông được mang sang Anh quốc để được giáo dục riêng và được huấn luyện đảm nhận vai trò sắp tới của mình.Tuy nhiên vào năm 1929, ông đã tuyên bố giải tán Hội Cứu Tinh và từ bỏ tiền bạc và tài sản đã được tích trữ nhân danh ông. Ông đã tuyên bố rằng không thể tìm thấy chân lý thông qua bất kỳ môn phái, phe phái hay tôn giáo nào mà chỉ bằng cách tự giải thoát mình khỏi mọi hình thái qui định tù ngục. “Bạn có thể thành lập một tổ chức khác và kỳ vọng ở người khác”, ông nói, “Điều đó tôi không quan tâm, cả việc tạo ra những chuồng giam mới… Mối quan tâm duy nhất của tôi là giúp con người tự do một cách tuyệt đối, vô điều kiện”. Đã được nhìn nhận từ lâu như một nhà giáo về mặt tâm linh hàng đầu thế giới, Krishnamurti đã cống hiến trọn đời mình cho việc diễn thuyết khắp nơi trên thế giới. Không ở nơi nào lâu quá vài tháng, ông tự nhận mình không thuộc chủng tộc hay quốc gia nào. Nhiều năm qua, các cuộc họp mặt hàng năm ở Ấn Độ, tại Ojai, California, ở Seanen, Thụy Sĩ và Brockwood Park ở Hampshire đã thu hút nhiều ngàn người quốc tịch, nghề nghiệp, nhân sinh quan khác nhau.
PDF CÂU CHUYỆN TRIẾT HỌC - Will Durant (Dịch giả Trí Hải và Bửu Đích) - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Nếu bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa trung hải. Phía nam là hòn đảo Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch (tTL) đó là nơi khởi đầu của văn minh nhân loại. Về phía đông là lãnh thổ thuộc về Á châu tuy ngày nay có vẻ lạc hậu nhưng dưới thời Platon là một lãnh thổ rất trù phú với một nền thương mãi, kỹ nghệ cực thịnh và một nền văn hoá phong phú. Về phía tây là nước Ý giống như một toà lâu đài ở giữa biển, các đảo Sicile và nước Y-pha-nho (Tây Ban Nha). Tại những nơi đó có những nhóm người Hy lạp sinh sống; cuối cùng là xứ Gibraltar, nơi đầy nguy hiểm cho các thuỷ thủ mỗi khi muốn vượt eo biển này. Về phía bắc là những xứ man rợ như Thessaly, Epirus và Macédonie. Từ những xứ ấy nhiều bộ lạc xuất phát và mở những cuộc tấn công về phía nam, những trận đánh do những văn nhân Hy lạp như Homère kể lại mà những chiến sĩ như Périclès chỉ huy. Hãy nhìn một lần thứ hai vào bản đồ, bạn sẽ thấy nhiều chỗ lồi lõm ở bờ biển và núi đồi trong đất liền, đâu đâu cũng có những vịnh nhỏ và những mỏm đá trồi ra biển. Nước Hy lạp bị chia cắt và cô lập bởi những chướng ngại thiên nhiên đó. Sự đi lại và liên lạc ngày xưa khó khăn hơn bây giờ rất nhiều. Do đó mỗi vùng tự phát triển lấy nền kinh tế, tự thành lập lấy nền hành chánh chính trị, tự phát huy tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ của mình. Những quốc gia như Locris, Etolia, Phocis, Béothia v.v. Hãy nhìn vào bản đồ một lần thứ ba và quan sát vị trí của tiểu quốc Athènes: đó là một tiểu quốc nằm về phía cực đông của Hy lạp. Đó là cửa ngõ của Hy lạp để giao thiệp với các quốc gia thuộc vùng Á châu, đó là cửa ngõ để Hy lạp thu nhận những sản phẩm và ánh sáng văn hoá từ bên ngoài. Ở đây có một hải cảng rất tiện lợi, hải cảng Pirus, rất nhiều tàu bè đến trú ẩn để tránh những lúc sóng to gió lớn. Ngoài ra Pirus còn là nơi xuất phát một hạm đội chiến tranh hùng mạnh.
PDF CÁC TRIẾT THUYẾT LỚN - Dominique Folscheid (HUYỀN GIANG DỊCH) - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Người ta không thể đặt toàn bộ nền triết học lên cái giường Procuste' của loại sách bỏ túi mà không gặp phải những nguy hiểm và không bị những lời trách cứ. Nhưng những thách đố được tạo ra là để được đáp ứng. Bài toán sơ đẳng nhất này đặt chúng tôi trước những trách nhiệm của mình và đặt con dao kề cổ: nếu phải nhắc tới khoảng ba chục thuyết triết học, thì mỗi thuyết cũng chỉ được dành có ba trang và mấy dòng mà thôi. Còn nếu phải nhắc tới tất cả các thuyết ấy, ta sẽ rất dễ trở thành lúng túng nực cười.Ý tưởng muốn chỉ giữ lại những triết thuyết “lớn” và loại ra những triết thuyết bị coi là “nhỏ”, bằng cách đưa chúng vào thứ văn hoá uyên bác và chuyên môn hoá, cũng không phải là một sự đảm bảo. Trong triết học, hơn bất cứ đâu, sự phân biệt /ớn và nhở thật đáng nghi ngờ. nó bao hàm một sự chẩn đoán triết học, một quan điểm triết học - thậm chí một sự lựa chọn lập trường triết học - luôn luôn có thể bị phê phán và tranh cãi về mặt triết học. Về mật này, không có một trọng tài nào đứng trung lập cả. Hơn-nữa, theo những giới hạn không chắc chắn của sự suy nghĩ, lại còn phải lựa chọn để đưa vào hay loại ra một số tác phẩm nào đó khói bản hợp tấu của các triết học.