Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Mưa - Nevil Shute

Tác giả Nevil Shute đã mất năm 1960, nhưng dự báo của Ông về một nước Anh hùng cường trong Khối Thịnh Vượng Chung đã thấy rõ. Đấy cũng là nhờ sự đóng góp tích cực của Vương Triều qua hình ảnh sống động, đầy gan dạ, mưu trí và đầy lòng nhân đức của Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị và lòng trung thành của người dân Anh trong 50 năm qua, trước bao thử thách. Câu chuyện tình lãng mạn của một phi công người Úc lai một phần tư da đen với cô thư ký của Nữ Hoàng, tuy có hơi ước lệ trong khung cảnh của Hoàng Gia, nhưng đầy kịch tính của một xã hội nền nếp, gia phong của nước Anh, cộng với sự khoáng đạt, đầy nhiệt tình của một nước Úc đang trên đà phát triển. Chọn tác phẩm “Mùa Mưa” (In the wet) để dịch, Tôi muốn kêu gọi lòng thương yêu, đùm bọc trong Hoàng Gia Nguyễn Phước trước những thành quả lịch sử hết sức vĩ đại của Tiên Đế. Còn gì nữa mà chia năm xẻ bảy, còn gì nữa mà tranh phần, đoạt lợi, để con cháu nghìn đời mai mỉa !. Tôi lại muốn kêu gọi sự đoàn kết tôn giáo để nhân loại tránh đi bao nỗi thống khổ, chết chóc triền miên. Còn hình ảnh nào đẹp bằng một vị Cha Xứ của Thiên Chúa Giáo La Mã và một Mục Sư Tin Lành đều được người dân Úc trọng nễ như nhau như là những vị Thừa Sai của Chúa mang đến hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài ra trong một xã hội dân chủ pháp trị, thì quyền bầu cử của người dân là quan trọng hơn cả, nó định đoạt tương lai và vận mạng của một dân tộc. Vậy 7 quyền bấu cử Quốc Hội của nước Úc cũng đáng cho ta học hỏi, rút kinh nghiệm để làm cho đất nước phồn vinh. Và nếu chúng ta có được cái “Tâm Bồ Đề”, tâm Từ Vô Lượng, quả đất này sẽ không còn cảnh tranh bá đồ vương, tàn sát lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng một “thiên đàng hạ giới”, cõi Nát Bàn ngay trong tim mình. *** Trước đây tôi chưa bao giờ chịu khó ngồi viết những chuyện dài dòng như thế này, tuy cũng đã viết nhiều những bài giảng đạo hay những đề tài khác cho các tạp chí trong họ đạo. Nói thật tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện hay cần viết dài hay ngắn như thế này cho thích hợp, nhưng chẳng có ai ngoài tôi ra đọc truyện này nên chẳng lấy đó làm quan trọng. Tuy vậy, sự thật là tôi cũng đã băn khoăn lo nghĩ từ khi ở Blazing Downs trở về nên cũng thường xuyên bị mất ngủ và không thể làm việc hết mình cho họ đạo, tuy rằng các buổi lễ ở nhà thờ vẫn tiến hành như thường lệ và máy móc. Tôi nghĩ rằng nếu cố gắng viết ra thì tâm hồn cũng nhẹ nhõm phần nào, điều mà từ lâu tôi vẫn đè nặng trong tâm tư, hơn nữa, sau khi viết, tôi sẽ gởi cho ngài Giám mục đọc qua. Điều băn khoăn của tôi, có lẽ tôi cảm thấy mình càng ngày càng già đối với công việc của họ đạo có hơi kỳ lạ này và điều đó chứng tỏ là trường hợp này tôi phải chấp nhận bất cứ điều gì khi bề trên đã quyết định. Viết tư liệu không phải dễ dàng gì ở nơi đây vì Landsborough là một thị trấn nhỏ. Chốc nữa tôi sẽ đi xuống cửa hàng sách Duncan để mua ít giấy viết, nhưng cửa hàng chỉ có những tập giấy mỏng để viết thư và những tập vở mà cô giáo Foster dùng cho các học sinh lớn tuổi hơn khi các em đã qua thời kỳ dùng bảng viết. Tôi mua sáu tập và hy vọng còn cần nhiều hơn nữa khi đã viết xong những điều cần nói ra, nhưng trong cửa hàng chỉ còn vỏn vẹn chín tập vở nên không muốn làm họ kẹt. Tôi đã yêu cầu họ mua thêm, và họ đã đặt hàng ở Townsville, chuyến máy bay tuần tới mới có. Để trung thực với những ai đọc tác phẩm của tôi viết, tôi nghĩ là nên nói thật về mình, ngõ hầu sẽ được đánh giá chính xác và có được tín nhiệm về những điều tôi viết hay không. Tôi tên là Roger Hargreaves, đã được thụ phong mục sư thuộc giáo hội nước Anh bốn mươi mốt năm qua, tháng trước đây tôi đã qua tuổi sáu mươi ba. Tôi sinh năm 1890 ở Portsmouth thuộc miền Nam nước Anh và đã tôt nghiệp trường cấp ba Portsmouth. Tôi đã được thụ phong vào năm 1912 và trở thành mục sư của nhà thờ Thánh Mark, thành phố Guildford. Năm 1914, thế chiến bùng nổ, tôi vào quân đội với chức vụ Tuyên uý. Tôi đã làm chủ lễ ở Gallipoli và ở Pháp. Trong chiến tranh tôi rất may mắn, bởi vì tuy bị một quả pháo dập ở Delville Wood trong suốt cuộc chiến Somme, tôi chỉ nằm bệnh viện vài tuần lễ và chỉ bốn tháng sau là trở ra tiền tuyến ngay. Sau chiến tranh tôi vẫn chưa có chỗ cố định và không muốn trở về với công tác giáo xứ trong một thị trấn nước Anh. Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, chưa có gia đình và cũng chẳng có gì phải vướng bận nhiều khiến giữ chân tôi ở lại Anh. Theo tôi trong lúc còn trẻ trung và sức lực cũng nên hiến cuộc đời mình cho việc phụng vụ đến nhiều nơi khó khăn hơn và sau khi thảo luận với cha Giám mục, tôi sang Uùc theo chương trình huynh đệ Bush ở Queensland. Tôi đã phục vụ cho chương trình này bốn mươi năm, đi lại rất nhiều nơi từ Cloncurry đến Toowoomba, từ Birdsville đến Burdekin. Trong suốt mười bốn năm, tôi chưa có chỗ ở cố định và thường không ngủ quá hai đêm ở cùng một nơi. Chương trình huynh đệ này trả cho tôi mỗi năm năm mươi Anh kim, số tiền này cũng đủ để may mặc và chi tiêu cá nhân. Tôi cũng được cung cấp một số tiền nhỏ để chi phí cho việc đi lại nhưng tôi chưa phải dùng tới. Dân chúng ở vùng xa xôi hẻo lánh hầu hết đều có lòng tốt muốn giúp tôi đi lại từ nơi này đến nơi khác trong các lễ nghi tôn giáo, cưới hỏi hay ma chay. Họ thường lấy xe hơi chở tôi đến một địa điểm tiếp theo. Vào mùa mưa, khi ngập bùn, xe hơi không đi được, họ lại cho tôi mượn một con ngựa, khoảng chừng ba tháng để tôi có tiếp tục công việc cho hết mùa mưa. Năm 1934 tôi bị đau ruột thừa ở một nơi tên là Goodwood gần Boulia; cách Longreach ba trăm dặm về phía tây có một bệnh viện. Vào thời ấy, chưa có bác sĩ lưu động bằng máy bay. Tôi được họ chở trên xe tải trong hai ngày. Thời tiết thì quá nóng nực, đường đi thì gập ghềnh, khó khăn lắm mới tới được bệnh viện. Đến được đấy, tôi bị viêm màng bụng và gần chết. Tôi nghĩ mình cũng sẽ chết thôi nếu không nhờ công ty xe hơi Billy Shaw ở Goodwood chở tôi chạy suốt đêm. Sau khi phẫu thuật, thằng tôi trông thật thảm thương và khó mà bình phục trở lại. Vì vậy tôi miễn cưỡng xin thôi việc chương trình huynh đệ và trở về nước Anh. Đức giám mục hết sức nhân từ và sắp xếp cho tôi một đời sống khá thoải mái ở nhà thờ Thánh Peter thuộc địa phận Godalming và tôi đã định cư ở đây, rồi kết hôn với cô Ethel. Những năm mới lập gia đình, chúng tôi sống rất hạnh phúc và tôi đã dằn lòng chứ không đã viết ra tất cả. Ethel chết năm 1943, lúc chúng tôi chưa có con. Vào thời chiến, ở nước Anh, một mục sư có nhiều việc phải làm và tôi không cảm thấy tiếng gọi phục vụ quan trọng hơn khi chiến tranh chưa chấm dứt. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng miền Godalming cần một mục sư có gia đình hơn là một người goá vợ và còn rất nhiều miền ở Queensland cần một người đàn ông có kinh nghiệm như tôi, dầu người đó đã năm mươi sáu tuổi. Tôi đã từ bỏ giáo khu và trở lại Uùc như là một mục sư trên một chiếc tàu biển di dân, và tôi thật sự nhận ra rằng chương trình huynh đệ còn muốn nhận tôi trở lại công tác dầu tôi đã lớn tuổi. Chẳng bao lâu sau, tôi cũng nhận ra rằng công tác ở vùng xa xôi hẻo lánh dễ hơn nhiều trước đây mười năm. Chiến tranh đã làm đường sá thay đổi và cải tiến, có một điều là các đài thu và phát vô tuyến đã được sử dụng đại trà ở các nhà ga xa xôi hẻo lánh, do đó sự liên lạc đã dễ hơn nhiều. Điều quan trọng hơn cả là đã có nhiều người sử dụng máy bay, hầu như đâu cũng có phi trường, và những dịch vụ cho khách thường xuyên đã được mở. Tất cả những sự cải tiến này đã tạo thuận lợi cho một vị mục sư muốn phục vụ hết mình cho các tín đồ hơn là trước đây. Tôi cũng nhận ra rằng nhiều nơi ở trong quận của tôi ở có thể đến thăm dễ dàng, có thị trấn cứ sáu tháng tôi có mặt một lần, khác với trước đây phải mất hai năm mới tới được một lần như lúc tôi mới đến nước Úc lần đầu. Năm 1950 ở xứ Tân Guinea bị khan hiếm trầm trọng các nhà truyền giáo. Có một lúc người ta bỏ đi hay vì bệnh tật nên chỉ còn một mục sư của Giáo hội nước Anh ở đấy mà phải phục vụ một miền rộng một trăm tám mươi mốt ngàn dặm vuông ở Papua và lãnh thổ Ủy trị. Hình như tôi cũng đã nghĩ đến những nhu cầu quá lớn của họ so với nhu cầu ở Queensland và được sự thoa? thuận của chương trình huynh đệ, tôi đã tự nguyện đi đến đó một vài tháng để giúp đỡ họ giải quyết những khó khăn. Khi tôi đi máy bay đến cảng Moresby, tôi đã năm mươi chín tuổi, đối với công việc như thế này, tôi cảm thấy mình quá già, vì chẳng có ai khác dám đi. Trong một năm, tôi đã đi đến nhiều nơi trong xứ, từ con sông Fly đến Rabaul, từ các mỏ vàng ở Wau đến các đồn điền Samarai. Bây giờ tôi mới lo là mình quá bất cẩn không mang theo Paludrine vì vào tháng chín năm 1951 tôi bị bệnh sốt rét nặng ở Saramaua và phải nằm viện đến mấy tuần lễ ở cảng Moresby, do đó cũng chấm dứt luôn công tác của tôi ở Tân Guinea. Sở dĩ tôi nói đến chứng sốt rét bởi vì sau này tôi còn bị tái đi tái lại nhiều lần nữa, tuy có phần nhẹ hơn. Có một địa điểm mà trong các phần này tôi đã nói đến. Có người nói với tôi rằng khi chứng sốt rét đã bị một lần, vài năm sau có thể bị tái lại, trước khi dứt hẳn và lần tái phát này không mấy trầm trọng như cơn bệnh tôi đã bị lần đầu ở Salamaua. Tôi cũng biết là mình điều hành công việc tạm ổn tuy đang bệnh; nhất là vấn đề đi lại, có khi tôi cũng hoãn hành lễ trong một ngày và nằm cho mồ hôi toát ra. Tuy nhiên cơn đau đầu tiên quá nặng làm tôi yếu người hẳn đi, nên rời bỏ Tân Guinea mà chẳng mấy tiếc nuối, để trở về sống với các bạn hữu ở trên đồi Atherton Tableland phía sau Cairns thuộc miền Bắc Queensland, mong bình phục và khỏe mạnh trở lại. Đức Giám mục vào thời ấy, vẫn đi lại đều trong Quận và Ngài đã viết thư đề nghị là sẽ đến thăm tôi và bàn bạc những chuyện mà tôi thấy chưa xứng đáng được Ngài quan tâm như thế. Tôi đi xuống Innisfail để gặp Ngài ở đấy vì tôi cảm thấy đã bình phục nhiều. Qua câu chuyện thân mật, Ngài đã đề cập đến tuổi tác của tôi và mong muốn tôi tiếp tục làm việc nhưng ít năng nổ hơn. Ngài nói là Ngài nóng lòng mở lại nhà thờ Giáo xứ Landsborough và muốn cử một Mục sư lo việc họ đạo tại địa phương. Ngài đã đề cập đến kinh nghiệm của tôi ở vùng nông thôn và hỏi nếu tôi bằng lòng sẽ cử tôi đến đấy vài năm để xây dựng lại tinh thần Giáo hội ở trong Quận ấy. Ngài cũng không mong tôi đi hết họ đạo rộng gần hai mươi tám ngàn dặm vuông, trong một vùng mà dân cư thưa thớt, vì Ngài hy vọng trong một năm thôi là có một mục sư trẻ về thay thế. Dĩ nhiên vấn đề tài chính là một vấn đề khó khăn cho nhà thờ, nhưng Ngài nói là sẽ gởi cho tôi một chiếc xe tải trong vài tháng tới, mặc dầu nó đã hơi cũ. Xe chẳng thấy tới, nhưng tôi đã điều hành tốt mà không có xe. Landsborough là một thị trấn nằm phía trên vịnh Carpentaria, người ta thường gọi là Gulf Country. Cách đây năm mươi năm, thị trấn rộng hơn bây giờ. Thời săn vàng bùng nổ, cả thị trấn có chừng hai mươi lăm khách sạn, hầu hết là quán nhậu, nhưng bây giờ chỉ còn lại hai. Có chừng tám mươi cư dân da trắng ở đấy gồm cả đàn ông, đàn bà và trẻ em và một số dân da đen độ hai ba trăm người trồi sụt bất thường, họ sống trong điều kiện đáng thương, trong các túp lều che bằng các tấm sắt rỉ, ở ngoại ô thành phố. Nơi ấy cách Cloncurry hai trăm dặm và cách Cairns và thị trấn Townsville về phía biển năm trăm dặm bằng đường hàng không. Ở đấy có một bệnh viện điều hành bởi hai chị em cô y tá và một nhà riêng cho bác sỹ mặc dầu từ trước tới giờ chẳng có bác sỹ nào bị lôi cuốn về thực tập ở đấy. Gặp trường hợp khẩn cấp, người ta gọi về Cloncurry và bác sỹ cứu hộ sẽ đến bằng máy bay. Trong chiến tranh người ta xây ở đấy một phi trường thật tốt và mỗi tuần một lần cũng có máy bay chở thư và đồ tiếp tế đến. Nhà thờ ở Landsborough thuộc loại kiến trúc rất đơn giản, phía ngoài đóng bằng cây, mới được xây dựng lại cách đây ba mươi năm sau một vụ cháy rừng. Tôi thấy nhà thờ được trang bị quá sơ sài nên định bụng nếu nhận được chút ít tiền là tôi sẽ sơn trong và ngoài luôn thể. Nhà thờ chỉ có ghế dựa chứ không có ghế dài hành lễ và đây cũng có cái lợi vì cứ hai hay ba tháng một lần, chúng tôi có đoàn chiếu bóng lưu động ở Landsborough và chúng tôi có thể đem những ghế dựa này ra khỏi nhà thờ đặt trong sảnh Shire hay trước sân nhà sách Duncan vào mùa nắng. Cá nhân tôi cũng thấy tiện lợi nữa, vì trong tòa Cha sở chẳng có ghế bàn gì cả, nếu có ai đó muốn đến gặp tôi, tôi có thể đến nhà thờ mượn ghế và trả lui cho buổi lễ sau. Cả nhà thờ và tòa Cha sở chẳng được ai ngó ngàn tới, bởi vì vị mục sư cuối cùng bị rắn cắn chết năm 1935 và từ đấy chẳng có mục sư sở tại nào ở Landsborough cho tới khi tôi tới nhận việc vào mùa thu 1952. Dĩ nhiên, nhà thờ thỉnh thoảng cũng được sử dụng để làm lễ do các Mục sư vãng lai. Còn chính bản thân tôi sử dụng nhà thờ trong rất nhiều dịp khi tôi có mặt ở trong Quận, để mong tìm hiểu những gì thuộc địa phương Landsborough. Tôi rất hoan hỉ được đi trên đó, bởi vì tùy theo những chuẩn mực của nước Anh, nhưng không còn nhiều đối với một giáo xứ. Có lẽ theo chuẩn mục của nước Anh, tôi không mấy giống một mục sư. Theo tôi đó là một nơi tôi có thể tiếp tục tiến hành công tác đã quen thuộc và cũng từ đấy tôi có thể góp nhặt một số sách mới, cũng như được sống thoải mái và tương đối tiện nghi. Dầu cho đã trình bày với đức Giám mục, tôi cũng phải nhận ra rằng, cá nhân tôi không còn là người đàn ông trước khi bị bệnh sốt rét. Tôi hy vọng cơn bệnh sẽ qua đi và thể lực sẽ được phục hồi. Tôi hy vọng như thế vì có quá nhiều việc để làm mà quỹ thời gian chẳng còn bao năm nữa. ... Mời các bạn đón đọc Mùa Mưa của tác giả Nevil Shute.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Thu Lá Bay
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Lãng mạn Mùa Thu Lá Bay của tác giả Quỳnh Dao. Tóm tắt Mùa Thu Lá Bay là một tiểu thuyết lãng mạn của tác giả Quỳnh Dao, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1966.  Review Mùa Thu Lá Bay là một câu chuyện tình yêu đầy đau khổ và bi kịch. Tuy nhiên, câu chuyện cũng mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Đánh giá Mùa Thu Lá Bay là một câu chuyện tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy đau khổ và bi kịch. Câu chuyện mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Đây là một câu chuyện đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại ngôn tình. Về mặt nghệ thuật, Mùa Thu Lá Bay được viết bằng một văn phong lãng mạn, sâu lắng. Quỳnh Dao đã rất thành công trong việc khắc họa tâm lý nhân vật, đặc biệt là tâm lý của những người đang yêu. Câu chuyện cũng có nhiều tình tiết bất ngờ, hấp dẫn, khiến người đọc không thể rời mắt. Tuy nhiên, Mùa Thu Lá Bay cũng có một số hạn chế. Câu chuyện có quá nhiều nhân vật, khiến cho mạch truyện đôi khi bị rối. Ngoài ra, kết thúc của câu chuyện cũng có phần hơi vội vàng, chưa được giải quyết thỏa đáng. Nhìn chung, Mùa Thu Lá Bay là một tiểu thuyết lãng mạn đáng đọc. Câu chuyện mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thực, sâu sắc về tình yêu và cuộc sống. *** Một buổi chiều mùa đông tại thị xã Đài Bắc. Mẫn Vân Lâu thẩn thờ lê bước. Mưa rơi trên mái tóc, trên mặt, trên áo, thấm qua làn vải tê buốt thịt da. Những bước chân hoang bật định, chàng không muốn nghĩ đến bất cứ một cái gì! Những vũng nước dưới chân, những chiếc xe phóng vút qua, tiếng còi, tiếng người chửi rửa... Mặc, đầu óc chảng bây giờ là một khoảng trốn tối mò! Gió rít bên tai, ánh đèn màu chói chang trước mắt... Tất cả đều vô nghĩa trước một bóng dáng, một tiếng gọi buồn buồn Hàn Ni và tiếng dương cầm không bao giờ dứt... Đôi tay thon gầy trắng xanh khẽ nhấn phím đàn, âm thanh trong sáng nhẹ nhàng, nhạc khúc "Người Thợ Rèn" của Handel. "U Mặc Khúc" của Tchaikovsky, "Người Thiếu Nữ Tóc Nâu" của Debussy, và "Bi Khúc" của Mozart... Những âm thanh lúc vội vã, lúc trầm buồn, khi mơ mộng, như khuân mặt của Hàn Ni, như tiếng hát, như những lời thì thầm tình tự Hàn Ni, Hàn Ni! Những âm thanh hổn dộn, những tiếng gọi mời, những lời thương nhớ chất ngất Hàn Ni! Mẫn Vân Lâu cắn môi, bao âm thanh hỗn dộn như xoắn lấy óc chàng, Hàn Ni! Hàn Ni! Vân Lâu đụng vào một người khách qua đường. Lập tức có tiếng hét bên tai chàng: - Có say chưa mà đi đứng chẳng trông thấy ai hết vậy! Đúng, Vân Lâu có uống rượu thật, nhưng chàng thấy mình đâu có say. Ta chưa say mà, hình bóng của Hàn Ni vẫn ngời ngời trong trí ta mà! Hàn Ni, Hàn Ni, Hàn Ni em! Vân Lâu loạng choạng bước, chàng không còn thiết đến gì ngoài tiếng gọi tuyệt vọng như vang bên tai. Hàn Ni! Hàn Ni! Hai ngọn đều thật sáng, rồi có tiếng xe thắng gấp. Vân Lâu ngỡ ngàng đứng lại, nhìn vào xe, tên tài xế này lải nhải cái gì thế? Mặc, ta không cần nghe, không cần biết, vì đầu óc chàng ngập đầy bóng dáng Hàn Ni và tiếng đàn... Hình như có đám người bu quanh, có người giữ lấy chàng. - Hắn say mèm rồi, đưa hắn đến bót đi! A, họ định làm gì thế? Vân Lâu vùng vẫy cố thoát ra. Chàng đẩy đứng đám đông sang một bên, rồi cắm đầu cắm cổ chạy, mặc cho tiếng hét phía sau đuổi tới: - Bắt lấy hắn! Bắt thằng say rượu lại đi!  Có những bước chân dồn dập đuổi theo, Vân Lâu chạy bán sống bán chết. Có tiếng còi xe cảnh sát, tiếng còi inh ỏi, tiếng người... Tất cả như một bản nhạc đại hợp tấu với những nhịp trống dồn dập. Đúng rồi đây là khúc nhạc cuồng nhiệt của Hung Gia Lợi. Những ngón tay lướt nhẹ trên phím ngà! Vân Lâu vẫn chạy, chàng có cảm tưởng như mình đang đuổi theo khúc nhạc. Đột nhiên, một bức tường chắn ngang trước mắt, Vân Lâu tối sầm mặt mũi. Như chiếc bóng xì hơi chàng ngã nhào xuống. Mặt chàng úp xuống mặt đất lạnh!... Mưa vẫn rơi nhưng lòng Vân Lâu có những ánh lửa cháy sáng không bao giờ bị dập tắt. Chàng mở mắt ra, đất đen và ẩm kề bên môi, ánh đèn màu phản chiếu trên giòng nước lấp lánh! Đẹp tuyệt, Vân Lâu hé miệng ra với nụ hôn đầm ấm. - Hàn Ni em! Hàn Ni? Nhưng Hàn Ni bây giờ ở đâu? Hình như... Đầu chàng đau như búa bổ. Vân Lâu cố gắng đừng lên, tựa người vào tường. Rồi chàng thảng thốt gọi lớn: - Hàn Ni! Mời các bạn mượn đọc sách Mùa Thu Lá Bay của tác giả Quỳnh Dao.
Hư Ảo Một Cuộc Tình
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Lãng mạn Hư Ảo Một Cuộc Tình của tác giả Quỳnh Dao. Như các bạn đã viết tác giả Quỳnh Dao là một cây bút ngôn tình luôn diễn tả sâu sắc nội tâm của các nhân vật, cuộc tình dù có ra sao, dù đó là tình yêu dang dở hay tình yêu trọn việc chắc hẳn những người khi yêu luôn có kỷ niệm đẹp. Hư Ảo Một Cuộc Tình cho dù đã qua người trong cuộc sẽ mãi khắc sâu, lúc yêu cuộc sống xung quanh tràn đầy màu xanh, còn lúc đánh mất tình yêu cuộc đời như địa ngục. Cùng dõi theo bước chân của tác giả để biết thế nào là tình cuộc tình vô thường. Mong các bạn luôn biết quý trọng tình yêu để khi mất đi không phải hối hận với những điều đã làm. Để tiếp nối cảm xúc, truyện Anh Chàng Ngọt Ngào cũng được đánh giá cao về mặt nội tâm và nội dung truyền đạt.  *** Tóm tắt Hư Ảo Một Cuộc Tình là một tiểu thuyết lãng mạn của tác giả Quỳnh Dao, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1966. Câu chuyện kể về mối tình tay ba giữa hai người bạn thân, cùng với một chàng trai. Review Hư Ảo Một Cuộc Tình là một câu chuyện tình yêu đầy đau khổ và bi kịch. Tuy nhiên, câu chuyện cũng mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Trước hết, câu chuyện cho thấy rằng tình yêu là thứ vô thường, có thể đến và đi bất cứ lúc nào. Thứ hai, câu chuyện cho thấy rằng chúng ta cần biết trân trọng những gì mình đang có.  Cuối cùng, câu chuyện cho thấy rằng tình yêu có thể vượt qua mọi trở ngại, kể cả thời gian và khoảng cách. Điều này cho thấy rằng tình yêu là thứ có thể tồn tại mãi mãi, bất chấp mọi thử thách. Kết luận Hư Ảo Một Cuộc Tình là một câu chuyện tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy đau khổ và bi kịch. Câu chuyện mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Đây là một câu chuyện đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại ngôn tình. Đánh giá Hư Ảo Một Cuộc Tình là một câu chuyện được viết rất thành công của Quỳnh Dao. Câu chuyện có cốt truyện hấp dẫn, tình tiết lôi cuốn, và nhân vật được xây dựng rất sinh động. Đặc biệt, Quỳnh Dao đã thể hiện rất xuất sắc nội tâm của các nhân vật, khiến cho người đọc có thể cảm nhận được nỗi đau khổ và bi kịch của họ. Về mặt nội dung, Hư Ảo Một Cuộc Tình mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Câu chuyện cho thấy rằng tình yêu là thứ vô thường, có thể đến và đi bất cứ lúc nào; chúng ta cần biết trân trọng những gì mình đang có; và tình yêu có thể vượt qua mọi trở ngại, kể cả thời gian và khoảng cách. Về mặt nghệ thuật, Hư Ảo Một Cuộc Tình được viết bằng một văn phong lãng mạn và sâu lắng. Quỳnh Dao đã sử dụng rất nhiều ngôn từ miêu tả nội tâm, khiến cho người đọc có thể cảm nhận được những cung bậc cảm xúc của các nhân vật. Nhìn chung, Hư Ảo Một Cuộc Tình là một câu chuyện tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy đau khổ và bi kịch. Câu chuyện mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Đây là một câu chuyện đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại ngôn tình. Mời các bạn mượn đọc sách Hư Ảo Một Cuộc Tình của tác giả Quỳnh Dao.
Số Đen
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Số Đen của tác giả Camilo José Cela & Trương Võ Anh Giang (dịch). Số đen là câu chuyện về cuộc đời của anh nông dân người Tây Ban Nha là Pascual Duarte sinh ra trong một thế giới khắc nghiệt đầy trụy lạc, thù hận và đói nghèo. Câu chuyện được Pascual kể lại từ trong nhà tù nơi anh bị giam giữ chờ ngày hành quyết vì những tội giết người mà anh đã thực hiện trong suốt cuộc đời mình. Mặc dù đã có những động lực độc ác và dã man, Pascual vẫn giữ lại được cái nhìn đầy thơ trẻ về thế giới và niềm khao khát cháy bỏng để hiểu được số phận nào đã đưa anh vào con đường đầy máu. *** Thỉnh thoảng, không đều đặn và như thể bất ngờ, đã xuất hiện những cuốn tiểu thuyết mà tầm quan trọng không chỉ ở phẩm chất văn chương của tác phẩm, nhưng còn do tính độc đáo của đề tài và tính mới mẻ trong hình thức những tác phẩm đó. Như vậy, những tác phẩm này đã tạo một ảnh hưởng đáng kể đến một số đông các nhà văn, sau đó ảnh hưởng đến thị hiếu của quần chúng, và về lâu về dài cuối cùng tác phẩm đã có tác động làm thay đổi đường hướng của những trào lưu văn chương của cả một thời kỳ. Sẽ có những độc giả sành sỏi cho rằng nói như vậy, tôi muốn ám chỉ tới những tác phẩm rất khác biệt nhau về kỹ thuật cấu thành tác phẩm, về quan niệm cũng như về số độc giả đặc trưng của những tác phẩm đó vào thời điểm chúng xuất hiện…   Tuy nhiên, đôi khi vì những tình huống lịch sử, chính trị hoặc kinh tế, một số xứ sở tạm thời buộc phải đứng bên lề dòng tiến hóa không thể cưỡng lại được của toàn nhân loại. Bấy giờ, đời sống văn hóa của những xứ sở ấy phải cam chịu một thứ thoái hóa làm tê liệt trong một mức độ nào đó những biểu hiện tinh thần của đời sống văn hóa của nhân loại. Nhưng dẫu vậy, cuộc sống vẫn tiếp diễn, và một người quan sát chuyên chú và kiên trì sẽ chẳng hề chậm trễ để nhận ra những trăn trở dù yếu ớt, những vận động đầu tiên nhằm báo hiệu sự phục hưng của một nền văn hóa, một nền nghệ thuật và một nền văn học mà tiến trình đã bị ngăn chặn trong một thời gian bởi những tình huống bên ngoài…   Trong lĩnh vực tinh thần, những chấn động của cuộc nội chiến đã để lại những hậu quả bị đát, không thể cứu vãn được. Khi cuộc nội chiến kết thúc, một số khuôn mặt đáng kể nhất của nền văn hóa Tây Ban Nha biến mất…, hầu như trong toàn đất nước Tây Ban Nha không còn lấy một nhà trí thức có tầm cỡ. Đa số những nhà trí thức đã chọn lựa cuộc sống lưu vong, và thế hệ những nhà văn mới ở Tây Ban Nha - những người lẽ ra là bậc thầy của họ hoặc đã chết hoặc vắng mặt - bị bỏ mặc cho số phận… - Cela là một khuôn mặt lớn đầu tiên nổi lên sau cuộc nội chiến, và trong không khí nghèo nàn của văn học Tây Ban Nha, những tác phẩm của ông đã gây được tiếng vang lớn, không chỉ vì ông làm chủ được ngôn ngữ - điều này được chứng tỏ qua các tác phẩm đó - mà còn vì những tác phẩm của Cela đã thể hiện qua nội dung cũng như hình thức một nét độc đáo tương đối, nét độc đáo làm kinh ngạc đa số độc giả của ông, bởi họ tuyệt đối không biết những đổi mới trong nền tiểu thuyết thế giới, điều này tự nhiên thôi, vì sự cô lập của Tây Ban Nha đối với cộng đồng quốc tế trong hơn mười năm sau cuộc nội chiến, và còn vì những khó khăn mà thể chế chính trị ở Tây Ban Nha đã gây ra cho sự phát triển tinh thần ở đất nước này - một cơ chế chính trị mang màu sắc văn hóa khá đặc biệt và thù địch với sự tiến bộ, đã hoành hành bên trong xứ sở Tây Ban Nha.   - Thực vậy, với Số đen, công lao của Cela là gấp đôi: trước hết vì ý muốn lồng những tác phẩm của ông vào bối cảnh của tinh thần Âu châu mà không khước từ bất kỳ một nét đặc trưng nào của Tây Ban Nha… Qua nhân vật Pascual Duarte, Cela trình bày một quan điểm duy sinh hầu như thuần túy sinh học, nối kết hơn nữa với cái “hành xử” Tây Ban Nha nguyên sơ nhất. Trong mọi trường hợp, trong toàn cảnh văn hóa - và cả chính trị - của Tây Ban nha, tác phẩm Số đen đã giữ vai trò của sự truyền máu, đã vạch một con đường cho những kinh nghiệm của tương lai…   J.M. CASTELLET  *** Nhà văn Tây Ban Nha Camilo José Cela sinh trong một gia đình thượng lưu bản sứ, học nghành y nhưng thường xuyên nghe các bài giảng văn tại khoa Triết Đại học Madrid. Những năm 30, Camilo José Cela tham gia nội chiến Tây Ban Nha nhưng bị lao phổi nặng. Khỏi bệnh ông chuyển sang học Luật ở Madrid, và bắt đầu viết văn.  Năm 1934, ông viết bài thơ đầu tiên Đám tang tôi và từ đó cái chết là đề tài ám ảnh trong các tác phẩm của ông; Năm 1942, ông xuất bản cuốn tiểu thuyếtGia đình Pascual Duarte và nhanh chóng trở lên nổi tiếng; đuợc đánh giá là cuốn tiểu thuyết hay nhất Tây Ban Nha kể từ thời Don  Kihote. Camilo José Cela sáng tác rất nhiều thể loại: Tiểu thuyết, truyện dài, truyện ngắn, kí, kịch, thơ, truyện dịch, Ông còn soạn Từ điển bí mật, 11 tập, gồm những từ vựng kiêng húy, bị cấm đoán, tiếng lóng đường phố…, và Bách khoa tình dục, song tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết Tổ ongkể về cuộc sống của dân chúng ở thủ đô Madrid sau khi kết thúc nội chiến. Năm 1983 ông cho ra đời tiểu thuyết được coi là “Trào phúng đen” – Bản Mazurca cho hai người chết. Năm 1989, Camilo José Cela là nhà văn đầu tiên của Tây Ban Nha được tặng giải Nobel văn học cho những tác phẩm được viết theo lối văn súc tích, cô đọng thể hiện lòng trắc ẩn vô hạn đối với những phận người cay đắng và hoang mang trong cuộc chiến phi lí. Ông được coi là nhà văn nổi bật nhất của Tây Ban Nha sau chiến tranh.  *** Tóm tắt Tiểu thuyết Số đen kể về câu chuyện của anh nông dân người Tây Ban Nha là Pascual Duarte sinh ra trong một thế giới khắc nghiệt đầy trụy lạc, thù hận và đói nghèo. Câu chuyện được Pascual kể lại từ trong nhà tù nơi anh bị giam giữ chờ ngày hành quyết vì những tội giết người mà anh đã thực hiện trong suốt cuộc đời mình. Mặc dù đã có những động lực độc ác và dã man, Pascual vẫn giữ lại được cái nhìn đầy thơ trẻ về thế giới và niềm khao khát cháy bỏng để hiểu được số phận nào đã đưa anh vào con đường đầy máu. Pascual Duarte sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Tây Ban Nha. Anh sớm mồ côi cha và phải sống với người mẹ tàn nhẫn, người luôn đánh đập và hành hạ anh. Pascual lớn lên trong sự căm thù và bất mãn, và anh sớm trở thành một kẻ hung bạo, sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết mọi vấn đề. Pascual có một mối tình với Lola, một cô gái xinh đẹp nhưng lại bị bệnh tâm thần. Pascual yêu Lola tha thiết, nhưng anh cũng biết rằng mối quan hệ của họ là không thể. Lola đã giết chết mẹ mình, và Pascual bị buộc phải giết chết Lola để bảo vệ chính mình. Pascual tiếp tục giết người, lần lượt là người yêu cũ, cha dượng và một người bạn. Mỗi lần giết người, Pascual lại càng trở nên xa cách với thế giới xung quanh. Anh không còn biết phân biệt đúng sai, thiện ác. Cuối cùng, Pascual bị bắt và bị kết án tử hình. Anh bị hành quyết trong nhà tù, trong sự hả hê của đám đông. Review Số đen là một tiểu thuyết mang tính hiện thực tàn khốc, phản ánh một phần thực trạng xã hội Tây Ban Nha thời bấy giờ. Tiểu thuyết cũng là một tác phẩm tâm lý sâu sắc, khám phá bản chất của con người và những động lực dẫn đến tội ác. Nhân vật Pascual Duarte là một nhân vật phức tạp và đầy mâu thuẫn. Anh là một người tốt bụng, lương thiện, nhưng cũng là một kẻ hung bạo, tàn ác. Pascual là nạn nhân của hoàn cảnh, nhưng cũng là người tự đẩy mình vào con đường tội lỗi. Pascual là một nhân vật điển hình cho kiểu nhân vật anh hùng bi kịch của văn học thế kỷ 20. Anh là một kẻ thất bại, nhưng cũng là một kẻ đáng thương. Pascual là một hiện thân của những bi kịch của con người trong cuộc sống. Tác phẩm đã đạt được nhiều thành công và được đánh giá là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Tây Ban Nha. Điểm cộng Nội dung hấp dẫn, lôi cuốn Nhân vật phức tạp, đầy mâu thuẫn Ngôn ngữ mộc mạc, chân thực Đánh giá chung 5/5 sao Một số ý kiến đánh giá khác về tiểu thuyết Số đen "Số đen là một tiểu thuyết xuất sắc. Tiểu thuyết mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về bản chất của con người và những động lực dẫn đến tội ác." "Số đen là một tiểu thuyết bi kịch. Tiểu thuyết kể về câu chuyện của một con người bị đẩy vào con đường tội lỗi bởi hoàn cảnh và chính bản thân mình." "Số đen là một tiểu thuyết đáng đọc. Tiểu thuyết mang đến cho người đọc những cảm xúc mạnh mẽ và những suy ngẫm sâu sắc." Mời các bạn mượn đọc sách Số Đen của tác giả Camilo José Cela & Trương Võ Anh Giang (dịch).
Anh Chồng Của Vợ Tôi
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Anh Chồng Của Vợ Tôi của tác giả Luigi Pirandello & Quỳnh Dung (dịch). Luigi Pirandello (1867 - 1936) là một trong những nhà văn đặc sắc nhất của phương Tây nửa đầu thế kỷ này. 15 cuốn sách tập hợp những truyện ngắn và truyện vừa đã nhấc ông lên vị trí cây bút số một của đất nước Italia hiện đại. Tiếp đó những vở kịch độc đáo đã đem vinh quang cho ông trên khắp châu Âu. Đến năm 1934 giải thưởng Nôben về văn học lại đưa tên tuổi ông ra toàn thế giới. Mỗi khi bàn đến văn học Italia hiện đại, người ta không thể bỏ qua Pirandello. Ảnh hưởng của ông vô cùng to lớn. Có thể nói toàn bộ nền văn học Italia thế kỷ 20 đã phát triển dưới bóng của cây đại thụ này. Tuy nhiên văn chương Pirandello không dễ mà hiểu được ngay như ở nhiều cây bút cùng thời với ông. Sự đánh giá của giới phê bình văn học, của công chúng rộng rãi đối với ông cũng lại hết sức khác nhau. Xưa nay người ta thường xếp ông vào dòng hiện thực phê phán. Nhà sáng lập Đảng Cộng sản và lãnh tụ của giai cấp công nhân Italia Antôniô Gramsi (1891 - 1937) đã viết vào năm 1917 những dòng nhận xét như sau: “Những vở kịch của ông (củaPirandello - N.D) chính là những trái lựu đạn tạo nên tiếng nổ trong trí óc người xem, phá hủy những ý nghĩ và tình cảm đê hèn”. Muốn hiểu đúng nhà văn độc đáo này, chúng ta nên biết qua về tình hình văn học và các trào lưu của Tổ quốc ông thời cuối thế kỷ 19 đầu 20. Italia bước vào giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sớm hơn các nước, nhưng đến thời kỳ này lại bị một loạt nước châu Âu khác vượt lên trên, đẩy Italia xuống hàng những quốc gia lạc hậu và trì trệ, do những giáo lý của Tín ngưỡng cơ đốc còn quá mạnh ở bán đảo này. Nền văn hóa Italia nổi lên rực rỡ vào những thế kỷ 15 - 18 thì nay mờ nhạt. Cuối thế kỷ 19 văn học Italia bắt đầu khởi sắc. Xuất hiện trào lưu “duy thực”. Các nhà văn thuộc dòng văn học này hướng ngòi bút vào việc miêu tả cuộc sống tăm tối, đơn điệu, bất hạnh của dân nghèo nông thôn và thành thị theo kiểu tự nhiên chủ nghĩa. Họ khai thác những sự kiện tủn mủn trong cuộc đời, thậm chí những tin vặt vãnh trên báo chí. Khi mới cầm bút, Pirandello chịu ảnh hưởng của dòng văn học này. Nhưng chỉ ít lâu sau, không thỏa mãn với cương lĩnh của nó, ông tách khỏi và đề ra hướng đi khác mà ông mệnh danh là chủ nghĩa “duy hài” và viết cả một cuốn sách để trình bày quan điểm của mình. Ông cho rằng dòng “duy thực” mới thể hiện vẻ ngoài của cuộc sống, chưa khám phá được bản chất. Nhà văn cần sử dụng thủ pháp phóng đại hài hước và miêu tả cuộc sống dưới hình dạng một tấn hài kịch đáng buồn. Những truyện của Pirandellochế giễu sâu cay cả nhưng sự vô lý, bất công trong xã hội, đặc biệt những định kiến tôn giáo hạn chế quyền được hưởng hạnh phúc của mỗi con người  Dưới ngòi bút hài hước của ông, các nhân vật hiện ra vừa đáng thương vừa đáng giận. Một cô gái hy sinh gần hết cuộc đời, tận tụy chăm lo cho đứa em trai, mãi đến khi em đã thành đạt, mới nhận một mối tình. Nhưng do những định kiến tôn giáo, cô đã tự dằn vặt mình và chịu một cái chết bi thảm. (Chiếc khăn choàng đen). Một ông chồng sắp chết rồi vẫn băn khoăn khi mình chết vợ sẽ lấy ai và đau khổ với ý nghĩ kẻ cướp quyền của mình sẽ là ông giáo dạy nhạc (Anh chồng của vợ tôi). Một giáo viên cần cù tận tụy suốt đời chỉ biết nhẫn nhục chịu đựng mọi tai họa, không dám phản kháng bao giờ. (Thôi cũng được). Một thanh niên thông minh, tài giỏi, đẹp trai, trung thực chỉ vì sợ hãi dư luận độc miệng mà trở thành kẻ vô ơn đối với thầy giáo đồng thời là ân nhân của mình. (Hãy suy nghĩ đi, Giacôminô!” v.v… Pirandello bao giờ cũng đặt nhân vật của ông vào những tình huống oái ăm, hết sức khác thường, nhằm làm nổi bật hiệu quả tương phản và hài hước. Ông ít khi miêu tả một vài sự việc mà thường nêu cả một số phận, một cuộc đời. Chính vì vậy mà ông hay nói đến cái chết, thích miêu tả quãng đời cuối cùng của nhân vật, như để người đọc thấy rõ hơn đâu là ý nghĩa cuộc sống, sự khờ dại của những kẻ đặt thứ gì đó cao hơn hạnh phúc trần tục. Có những cái chết do dại dột, do bị cầm tù bởi những định kiến tôn giáo, nhưng không phải không có những người, sắp rời khỏi cõi đời đã nhận ra được sự thật và đã được hưởng hạnh phúc trong thời gian cuối cùng. Đó là Ađriana, một phụ nữ nhẫn nhục, cam chịu, theo đúng mọi quy tắc đạo đức nghiệt ngã nơi tỉnh nhỏ, đến lúc bị bệnh nặng, biết không thể qua khỏi, mới nhận ra được vẻ đẹp của thế giới, mới dám tự cho phép mình hưởng tình yêu, mà lại là một tình yêu tuyệt đẹp tràn đầy hạnh phúc và niềm cuồng nhiệt (Chuyến viễn du). Hoặc một cô gái xinh đẹp, mơ mộng, giàu có, sau khi chồng chưa cưới bị tai nạn chết, nhất quyết giữ “chung thủy” với người đã khuất, tự nguyện giam mình trong ngôi biệt thự tuyệt đẹp mà người yêu đã tậu dành cho cuộc sống của họ sau này. Cô thích thú “phóng đại” nỗi đau khổ của mình, cảm thấy trong hành động điên rồ ấy một vẻ “cao thượng”! May thay một họa sĩ khôn khéo và thực dụng đã thức tỉnh cô ra khỏi mơ tưởng hão huyền kia, trở về với cuộc đời vốn tươi đẹp (Nữ thần sống khỏa thân). Trong truyện vừa dẫn, tác giả chế giễu cả quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” của anh bạn nhân vật chính, cũng là một họa sĩ điêu khắc. Đây là một thí dụ rõ ràng, chứng tỏ những ai bảoPirandello bi quan là không đúng. Ông tin cuộc đời là đẹp, tin rằng ai tỉnh táo và sáng suốt sẽ được hưởng bao niềm vui của cuộc sống. Cách nhìn đời của Pirandello tràn đầy nhân đạo, và rất gần với cách nhìn đời của Sêkhốp, Lỗ Tấn, Brét. Cả bốn văn hào này cũng như nhiều nhà văn nhân đạo khác luôn dùng ngòi bút kêu gọi con người nâng cao hiểu biết, tự giải phóng bản thân mình ra khỏi xích xiềng của những định kiến tôn giáo tai hại, hoặc nói như Sêkhốp, hãy “nặn hết chất nô lệ còn sót lại trong cơ thể mỗi chúng ta, nặn từng giọt, từng giọt”. Chất nô lệ này tích tụ trong đầu óc mỗi chúng ta, do quá lâu phải sống trong xiềng xích của những giáo điều hủ lậu, những huyền thoại bịp bợm và nguy hiểm về tình yêu mơ mộng, về nghệ thuật cao siêu vân vân và vân vân, những thứ cản trở con người phát huy hết năng lực của bản thân, đồng thời hưởng đầy đủ những niềm vui lành mạnh và hợp lý mà cuộc đời ban cho. Pirandello chế giễu cả thói sùng bái sự thật. Sự thật đáng quý nhưng phải được sử dụng hợp lý. Lời nói thật không đúng chỗ có thể dẫn đến những tai họa khôn lường. Ông già Phiorinanxi cả đời thờ phụng sự công bằng. Mỗi lần nhìn thấy hiện tượng gì không hợp lý, ông rất khổ tâm, nhưng với bản chất nhút nhát ông không dám nói ra. Một lần ông quyết định phải tố cáo một “sự thật” xấu xa. Ông chuẩn bị cực kỳ chu đáo, tỷ mỷ để có đủ sức thuyết phục với người sẽ nghe. Không ngờ, người nghe ông tố giác lại đã biết cái sự thật ấy rồi, thậm chí còn biết rõ ràng, và đầy đủ hơn ông nhiều! (Cái khuy áo khoác). Hoặc trong truyện ngắn khác, việc nói ra sự thật không phải do tôn thờ nó, mà là do ngây thơ. Bác Tarara chất phác kia đã phải trả giá cho điều bác nói toạc ra bằng 13 năm tù! (Điều nói trắng ra). Văn hào Sếchxpia đã có lần viết, cuộc đời là một bi kịch với những ai sống bằng trái tim, là một hài kịch với những ai sống bằng khối óc! Pirandello là người có trí tuệ nên ông nhìn đời bằng cặp mắt hài hước. Nhưng ông cũng sống bằng cả trái tim, cho nên ông đau xót cho những con người do dại dột, u mê nên phải chịu đau khổ. Pirandello là nghệ sĩ, không phải nhà lý luận. Do đấy đọc tác phẩm, chúng ta dễ hiểu ông hơn khi ta đọc lý luận của ông. Bởi một lẽ đơn giản là nhà văn, nghệ sĩ rất ít khi đánh giá được chính xác và thật khách quan những sáng tạo của bản thân họ. Trong cuốn Chủ nghĩa duy hài ông có trình bày quan điểm và phương châm của mình. Ông tiếp nhận khái niệm về “mặt nạ” của dòng “duy thực” nhưng phát triển thêm khá nhiều. Sống trong xã hội, mỗi con người đều mang một mặt nạ. Công việc nhà văn là lật cái mặt nạ ấy ra để người đọc thấy được bản chất của nhân vật. Ngay cái gọi là bản chất ấy cũng không nhất quán, mỗi lúc mỗi khác, bởi vì con người là một hiện tượng phức tạp, chịu tác động cùng một lúc của nhiều nhân tố, trước hết là lý trí và tình cảm, mà hai thứ này ở mỗi con người lại khác nhau và liên tiếp xung đột với nhau. Pirandello xứng đáng được xếp vào loại nhà văn triết gia. Tác phẩm của ông bao giờ cũng gợi lên những suy nghĩ về cuộc đời và con người. Tính triết lý đậm đà nhất, sâu sắc và cũng xót xa nhất nằm trong truyện ngắn Hơi thổi, có thể coi là viên ngọc sáng chói trong toàn bộ sáng tác của ông. Truyện được viết bằng giọng điệu đùa cợt, nhưng nâng lên đến mức truyền thuyết. Đến truyện này, chúng ta thấy Pirandello không còn rơi rớt chút vết tích nào của phương pháp “duy thực” mà ông chịu ảnh hưởng trong thời non trẻ. Nhân vật chính trong truyện có được một phép lạ: chỉ cần thổi phù nhẹ một cái cũng đủ khiến một con người phải chết. Anh ta cứ thổi, và người xung quanh cứ chết. Chẳng luật pháp nào kết án anh ta được. Và bản thân anh ta cũng chẳng áy náy gì, bởi vì “mình có làm gì đâu? Chỉ thổi phù một cái thôi mà! Bao nhiêu người vẫn thường thổi phù một cái nhẹ nhàng như thế!”. Phải chăng tác giả muốn nói rằng, trên đời có những người chỉ làm vài động tác rất đơn giản, nói một câu, giơ tay một cái, luật pháp không thể căn cứ vào đó mà trừng trị, bản thân họ cũng chẳng băn khoăn, chẳng thấy lương tâm cắn rứt gì hết, nhưng câu nói ấy, cái giơ tay ấy lại gây ra chết chóc cho bao nhiêu kẻ khác! Truyện này ông viết vào những năm 30 khi nạn phát xít đã xuất hiện và bắt đầu đe dọa nhân loại, như một lời nhắn nhủ trách nhiệm của mỗi chúng ta… Rất đáng tiếc trong tập sách này chúng tôi chưa giới thiệu được một kịch bản nào của Pirandello. Trong sáng tác của ông, những vở kịch chiếm phần quan trọng, và được chú ý nhiều hơn. Những kiệt tác như Hăngri IV, Sáu nhân vật đi tìm tác giả… đã trở thành kinh điển trong kho tàng kịch bản thế giới. Vở Sáu nhân vật… trong những thập kỷ 20 và 30 của thế kỷ này đã được hầu hết những Đoàn sân khấu nổi tiếng nhất của phương Tây dàn dựng và biểu diễn. Những năm đó tên tuổi củaPirandello đặc biệt lừng lẫy. Cũng chính thành công lớn lao này đã quyết định việc ông được tặng giải Nôben về văn học ở giữa thập kỷ 30. Cuối cùng xin được phép nói đôi chút về bản dịch.Pirandello chuyên viết bằng thổ ngữ miền Nam nước Italia. Ngay bản in bằng tiếng Italia cũng chỉ là bản dịch. Bên cạnh đó, văn phong của ông rất dân dã và khó truyền đạt sang một thứ tiếng khác. Chúng tôi đã cố gắng rất nhiều để bản dịch giữ được phong vị độc đáo của ngòi bút tác giả. Nhưng khả năng có hạn, chúng tôi vẫn còn thấy bản dịch này còn xa mới đạt tới mục tiêu chúng tôi tự đề ra. Rất mong bạn đọc lượng thứ.   NGƯỜI DỊCH *** Tập sách này gồm có: Tấm khăn choàng màu đen Điều không nói trắng ra Chuyến viễn du Chiếc khuy áo khoác Nữ thần sống khỏa thân Hãy suy nghĩ đi, giacômô! Đêm tân hôn Thôi cũng được! Anh chồng của vợ tôi Người đang sống và người đã chết Con rùa Hơi thổi   *** Tóm tắt Tiểu thuyết Anh Chồng Của Vợ Tôi kể về câu chuyện của một người đàn ông tên là Mattia Pascal, người đã sống một cuộc sống bình thường và hạnh phúc với vợ và con trai. Tuy nhiên, một ngày nọ, Mattia vô tình phát hiện ra rằng anh ta đã được tuyên bố là đã chết trong một vụ tai nạn tàu hỏa. Mattia quyết định tận dụng cơ hội này để bắt đầu một cuộc sống mới. Anh lấy một cái tên mới, gia nhập một gia đình mới và bắt đầu một công việc mới. Tuy nhiên, Mattia sớm nhận ra rằng việc sống một cuộc sống giả tạo là không thể. Anh bắt đầu cảm thấy cô đơn và lạc lõng, và anh bắt đầu nhớ về gia đình và bạn bè của mình. Cuối cùng, Mattia quyết định quay trở lại cuộc sống cũ của mình. Tuy nhiên, anh nhận ra rằng mọi thứ đã thay đổi. Vợ anh đã tái hôn và con trai anh đã quên mất anh. Mattia đau đớn nhận ra rằng anh đã mất tất cả những gì anh yêu thương. Review Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết có nội dung hấp dẫn, lôi cuốn. Tiểu thuyết khám phá các chủ đề về bản sắc, nhận thức và thực tại. Pirandello sử dụng các kỹ thuật như hiện thực, chủ nghĩa hiện sinh và phi lý để khám phá các chủ đề này. Ông cho thấy cách nhận thức của chúng ta về bản thân và thế giới có thể khác với thực tế. Mattia Pascal là một nhân vật phức tạp và hấp dẫn. Anh là một người đàn ông tốt bụng và lương thiện, nhưng anh cũng là một người dễ bị cám dỗ. Mattia bị thu hút bởi ý tưởng bắt đầu một cuộc sống mới, nhưng anh cũng bị ám ảnh bởi quá khứ của mình. Pirandello đã tạo ra một câu chuyện đầy kịch tính và cảm động. Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tác phẩm kinh điển của văn học thế giới. Điểm cộng Nội dung hấp dẫn, lôi cuốn Khám phá các chủ đề về bản sắc, nhận thức và thực tại Nhân vật phức tạp và hấp dẫn Điểm trừ Một số tình tiết có thể hơi phi lý Đánh giá chung 4/5 sao Một số ý kiến đánh giá khác về tiểu thuyết Anh Chồng Của Vợ Tôi "Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết tuyệt vời. Tiểu thuyết khám phá các chủ đề sâu sắc về bản sắc, nhận thức và thực tại. Tôi rất ấn tượng với cách Pirandello đã sử dụng các kỹ thuật hiện thực, chủ nghĩa hiện sinh và phi lý để khám phá các chủ đề này."  "Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết phức tạp và cảm động. Nhân vật Mattia Pascal là một nhân vật đáng nhớ. Tôi rất thích cách Pirandello đã khám phá các mâu thuẫn nội tâm của Mattia." "Anh Chồng Của Vợ Tôi là một tiểu thuyết có thể gây khó hiểu cho một số người đọc. Tuy nhiên, nếu bạn có thể tiếp cận được với các chủ đề của tiểu thuyết, bạn sẽ tìm thấy nó rất đáng đọc." Mời các bạn mượn đọc sách Anh Chồng Của Vợ Tôi của tác giả Luigi Pirandello & Quỳnh Dung (dịch).