Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kiến - Bernard Werber

Tên Sách: Kiến (Full PRC, EPUB) Tác Giả: Bernard Werber   Thể Loại: Giả Tưởng, Tiểu Thuyết, Văn học phương Tây   Dịch Giả: Lê Thu Hằng   Đánh Máy: Mọt Sách   Nguồn: vnthuquan.net   Ebook: http://www.dtv-ebook.com   Kiến - Bernard Werber (full prc, epub)   Giới Thiệu: Trong vài giây bạn đọc những dòng này, trên Trái đất có bốn mươi người được sinh ra nhưng có tới bảy trăm triệu con kiến ra đời. Từ hơn trăm triệu năm trước chúng ta, chúng đã ở đó, được chia thành nhiều đội, nhiều tổ, nhiều đế chế trên toàn bề mặt trái đất. Chúng đã tạo ra một nền văn minh song song, xây dựng những vương quốc thực sự, phát minh ra vũ khí tối tân, thiết kế cả nghệ thuật chiến tranh, làm chủ một nền công nghệ đáng kinh ngạc. Chúng có những Attila, Christophe Colomb, Jules César, Machiavel hay Léonard de Vinci của chính mình. Khi bước vào kho chứa đồ trong ngôi nhà mà ông bác nhà côn trùng học già di tặng, Jonathan Wells còn lâu mới nghĩ rằng anh sẽ gặp chúng. Theo chân anh, chúng ta sẽ khám phá thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, khổng lồ và quyến rũ của những “người dưới đất” này trong một câu chuyện ly kỳ độc nhất vô nhị, nơi ở từng trang sự hồi hộp và ghê rợn đều được xây dựng dựa trên những cứ liệu khoa học chính xác nhất. Đọc "Kiến" rồi sau bị ám ảnh, nhìn thấy kiến không dám dí tay xuống nữa, không bởi vì bỗng dưng trở nên nhân từ không muốn sát sinh mà vì... sợ, hay nể thì đúng hơn cái giống loài bé tí... như mình đã biết vô cùng đơn giản, vô cùng trật tự và đạt hiệu quả cao trong mọi việc.   Bernard Werber sinh năm 1961 tại Toulouse, Pháp. Ngay từ khi mười bốn tuổi, anh đã viết truyện cho một tập san nhỏ về khoa học viễn tưởng. Sau khi học luật tại Toulouse và báo chí tại Pháp, Bernard Werber dành hơn mười năm làm nhà báo khoa học và đã từng cộng tác với rất nhiều tờ có tên tuổi như Nouvel Observateur, Le Point, Ça m'intéresse. Sau đó, anh tập trung vào viết văn. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên xuất bản năm 1992,Kiến, nhà văn này đã nổi tiếng với một phong cách viết độc đáo, pha trộn giữa loại truyện phiêu lưu, khoa học viễn tưởng và triết lý.Kiến đã giành giải thưởng của độc giả tờ Khoa học và Tương lai (Sciences et Avenir). Cuốn thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết về kiến,Le jour des fourmis (Ngày của kiến), ra đời ngay sau đó, đã được nhận giải thưởng lớn của độc giả tờ Elle. Các tác phẩm của Bernard Werber đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng. Với 15 triệu bản bán được trên toàn thế giới, cùng với Marc Levy, Bernard Werber là một trong những nhà văn Pháp đương đại nổi tiếng nhất. Ngoài tiểu thuyết, Bernard Werber còn được biết đến với truyện ngắn, truyện tranh, kịch và phim. Chú ý chỗ bạn đặt chân. Sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết quyến rũ này, bạn dám không nhìn thực tế theo cùng cách hiện giờ nữa. *** Một nền văn minh đầy kinh ngạc của loài kiến, một thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, ly kỳ, rùng rợn và đáng sợ - đó là thế giới khắc nghiệt và kỳ diệu của những chú kiến bé nhỏ. Kiến không thuộc hàng tiểu thuyết khoa học kinh điển nhưng được xem là dấu son đỏ cho tiểu thuyết khoa học đương đại. Con người hoàn toàn có thể mường tượng ra tương lai không giống như hiện tại chút nào, một tương-lai-của-kiến. ----------------- Trong vài giây bạn đọc những dòng này, trên Trái đất có bốn mươi người được sinh ra nhưng có tới bảy trăm triệu con kiến ra đời. Từ hơn trăm triệu năm trước chúng ta, chúng đã ở đó, được chia thành nhiều đội, nhiều tổ, nhiều đế chế trên toàn bề mặt trái đất. Chúng đã tạo ra một nền văn minh song song, xây dựng những vương quốc thực sự, phát minh ra vũ khí tối tân, thiết kế cả nghệ thuật chiến tranh, làm chủ một nền công nghiệp đáng kinh ngạc. Chúng có những Attila, Christophe Colomb, Jules César, Machiavel hay Léonard de Vinci của chính mình. Khi bước vào kho chứa đồ ngôi nhà mà ông bác là nhà côn trùng học giả di tặng, Jonathan Wells còn lâu mới nghĩ rằng anh sẽ gặp... kiến, cùng cái thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, ly kỳ, rùng rợn của chúng... Hãy chú ý nơi bạn đặt chân. Đọc xong cuốn tiểu thuyết này rồi, bạn sẽ không còn nhìn thực tế theo cách hiện giờ nữa. Kiến đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, giành giải thưởng của độc giả tờ Sciences et Avenir, và là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bernard Werber, nhà văn Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. - “Trong Kiến, Bernard Werber đã làm được cho loài kiến những gì Richard Adams đã làm cho loài thỏ trong đồi thỏ…” – Bantam Doubleday Dell Publishing - “Đây là tiểu thuyết đầu tiên mà nhân vật chính là… kiến.” – Albin Michel - “Bernard Werber đã sáng tạo nên một thế giới loài vật gần gũi và chi tiết đến mức mỗi người đọc đều cảm thấy như mình là một phần của nó” – Kevin Grandfield. *** A nh sẽ thấy, không hoàn toàn như anh mong đợi đâu. Công chứng viên giải thích rằng tòa nhà được xếp hạng di tích lịch sử và nhiều nhà hiền triết thời Phục hưng đã từng sống ở đây, nhưng ông không nhớ là những ai. Họ xuống cầu thang, bước vào một hành lang tối om nơi công chứng viên dò dẫm hồi lâu, uổng công bật một cái nút trước khi thở dài: - Ái chà! Nó không chạy nữa. Họ tiến trong bóng tối, lộp cộp lần theo các bức tường. Khi cuối cùng công chứng viên tìm thấy cái cửa, mở nó và nhấn, lần này thì thành công, trúng cái công tắc, ông thấy khách hàng của mình mặt mày biến sắc. - Không ổn à, ông Wells? - Một chứng sợ thôi. Không sao đâu. - Sợ bóng tối? - Vâng. Nhưng đã khá hơn rồi. Họ xem xét mọi ngóc ngách. Đó là tầng hầm rộng hai trăm mét vuông. Dù nó chỉ mở ra phía ngoài bằng vài ô cửa tầng hầm hiếm hoi, bé xíu và sát trần, Jonathan vẫn hài lòng về căn hộ. Các bức tường được dán giấy xám đơn điệu, và bụi phủ khắp nơi… Nhưng anh sẽ không tỏ ra khó tính hơn. Căn hộ của anh hiện nay chỉ rộng bằng một phần năm căn hộ này. Hơn nữa, anh không còn khả năng để trả tiền thuê; nhà máy khóa nơi anh làm mới đây đã quyết định bỏ qua công đoạn của anh. Món thừa kế của bác Edmond đúng là của trời cho không tin được. Hai ngày sau, anh dọn đến số 3, phố Sybarites với vợ mình là Lucie, cậu con trai Nicolas và con chó bông lùn cụt đuôi Ouarzazate của họ. - Mấy bức tường xám này không làm em ngại đâu, Lucie vừa nói vừa lấy tay nâng mái tóc đỏ dày của cô. Chúng mình có thể trang trí như chúng mình muốn. Mọi thứ ở đây đều phải làm lại hết. Như kiểu mình biến nhà tù thành khách sạn đấy. - Phòng của con ở đâu ạ? Nicolas hỏi. - Phía cuối, bên phải. - Ẳng ẳng, con chó sủa, và nó bắt đầu nhay nhay bắp chân Lucie mà không biết là cô đang bưng chồng bát đĩa đám cưới trong tay. Kết cục, nó nhanh chóng bị nhốt vào nhà vệ sinh; khóa hẳn hoi, vì nó biết nhảy tới tận tay nắm cửa và biết xoay để mở cửa. - Anh có biết rõ ông bác hào phóng của anh không? Lucie tiếp tục. - Bác Edmond? Thực ra, tất cả những gì anh nhớ, chỉ là bác nhấc anh lên giả làm máy bay, lúc anh còn rất nhỏ. Một lần anh sợ đến nỗi anh đã tè dầm lên bác ấy. Họ cười. - Đã nhát gan thế cơ à? Lucie trêu. Jonathan làm ra vẻ không nghe thấy gì. - Bác ấy không trách anh về chuyện đó. Bác chỉ nói với mẹ anh: “Được rồi, chúng ta biết là sẽ không cho nó thành phi công…” Sau đó, mẹ nói rằng bác theo sát suốt cuộc đời anh, nhưng anh không gặp lại bác từ ấy. - Bác làm nghề gì? - Đó là một nhà bác học. Một nhà sinh học, hình như thế. Jonathan trở nên trầm tư. Cuối cùng, thậm chí anh cũng không biết ân nhân của mình. Cách đó 6 km: BEL-O-KAN, Cao một mét. 50 tầng dưới lòng đất. 50 tầng trên mặt đất. Thành phố lớn nhất của vùng. Dân số ước tính: 18 triệu. Sản lượng hàng năm: - 50 lít mật rệp. - 10 lít mật sâu yên chi. - 4 kilô nấm mũ. - Đá được dũi: 1 tấn. - Số km hành lang đi lại được: 120. - Diện tích trên mặt đất: 2m2. Một tia sáng vụt qua. Một cái chân vừa nhúc nhích. Cử động đầu tiên từ đợt bắt đầu ngủ đông, cách đây ba tháng. Một cái chân khác từ từ tiến, kết thúc là hai cái chân dần dần tách ra. Một cái chân khác duỗi ra. Rồi đến bộ ngực. Rồi một cái thân. Rồi mười hai cái thân. Chúng rùng mình để giúp dòng máu trong suốt lưu thông trong các động mạch của mình. Máu chuyển từ trạng thái sền sệt sang nhão rồi lỏng. Dần dần van tim bắt đầu hoạt động trở lại. Nó đẩy máu tới tận cuối các chi. Các cơ sinh học nóng dần lên. Các khớp siêu phức tạp xoay từ từ. Khắp nơi, xương bánh chè với các mảng bảo vệ cố tìm thấy cực điểm xoắn của chúng. Chúng tỉnh dậy. Cơ thể lấy lại hơi. Các động tác của chúng rời rạc. Như vũ điệu quay chậm. Chúng lắc nhè nhẹ, vẩy vẩy. Chân trước chúng chập lại trước miệng như kiểu đang cầu nguyện, nhưng không phải, chúng làm ướt các chân của mình để đánh bóng râu. Mười hai con vừa thức dậy xoa cho nhau. Sau đó chúng tìm cách đánh thức những con bên cạnh. Nhưng chúng mới chỉ có đủ sức để nhúc nhích mỗi cơ thể mình, chúng không còn năng lượng để cho đi. Chúng bỏ cuộc. Rồi chúng khó nhọc tiến đến giữa những cơ thể cứng như tượng của các chị em mình. Chúng hướng về bên Ngoài rộng lớn. Toàn bộ cơ thể máu lạnh của chúng cần phải hứng lấy năng lượng mặt trời. Chúng tiếp tục tiến lên, mệt nhoài. Mỗi bước đi là cả một sự đau đớn. Chúng muốn nằm lại đến chừng nào và muốn được yên tĩnh như hàng triệu bạn đồng loại của chúng! Nhưng không. Chúng là những người đầu tiên thức tỉnh. Bây giờ chúng phải đánh thức toàn thành phố. Chúng qua thành phố. Ánh sáng mặt trời làm chúng chói mắt, nhưng tiếp xúc với năng lượng trong lành sảng khoái đến nhường nào. Mặt trời rọi chiếu trên cơ thể gầy của chúng ta, Lay tỉnh những cơ bắp đau nhức Và hợp nhất các suy nghĩ tản mát.   Mời các bạn đón đọc Kiến của tác giả Bernard Werber.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Người Tạo Ra Hiện Thực Tập 1 - Olivier Lockert
"Người biết tự làm cho mình hạnh phúc với một ảo tưởng đơn giản khôn ngoan hơn nhiều lần so với người tuyệt vọng với thực tại." - Alphonse Allais "[..] Thật ra, anh chỉ biết có một hiện thực. Chỉ có hiện thực của Anh. Cảm nhận này, còn gọi là Hiện-thực-cảm-nhận, là một thứ rất riêng cho anh, là kết quả của việc anh bóp méo Hiện-thực-thực theo cách nào. Không có cái Hiện-thực-cảm-nhận nào là đúng hơn cái nào, của người khác hay của anh đều vậy. Mỗi Hiện thực là thực đối với người cảm nhận nó [...]" - Olivier Lockert - Những người tạo ra hiên thực, tập 1 Tiểu thuyết Những Người Tạo Ra Hiện Thực dẫn dắt bạn cùng  thực hiện cuộc hành trình với Marc, Elean, Jonathan và Lehya, bốn số phận sẽ đan xen nhau từ khắp những thành phố lớn Châu Âu, đến tận cùng sâu thẳm đồi núi vùng Kamtchaka (Viên Đông nước Nga). Câu chuyện hé lộ cho ta một cách tiếp cận toàn diện về cuộc sống và sự Thay đổi, về những bí mật trong kỹ thuật Thôi miên nhân văn, cùng những sự thay đổi ngoạn mục đúc kết từ công trình thực tế của tác giả. Độc giả sẽ được mở rộng tâm thức, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, sẽ hiểu và nhớ trước khi kịp nhận thấy mình được hỗ trợ như thế nào qua giọng văn thôi miên của tác giả. *** Olivier Lockert làm việc từ hơn hai mươi lăm năm nay trong lĩnh vực Con người, hướng đến Sức khỏe, cải thiện Chất lượng cuộc sống và Sự tiến hóa của con người nói chung, dưới rất nhiều hình thức. Là nhà trị liệu và giảng viên, người sáng lập của Thôi miên nhân văn, giảng viên quốc tế về Thôi miên trường phái Erickson và Lập trình ngôn ngữ - tư duy, Chủ tịch hội Thôi miên Pháp: Thôi miên trường phái Erickson và Thôi miên nhân văn, ông được tán thưởng bởi sự nhiệt tình, đơn giản và sự thấu hiểu về cuộc đời. Sách của Olivier Lockert hiện đã có mặt tại trên 60 quốc gia. *** Những trải nghiệm đa dạng, những suy ngẫm và phát hiện của cá nhân, tổng hòa với những kiến thức cốt lõi truyền đời – đôi khi được soi sáng bởi những kiến thức khoa học hiện đại nhất về vũ trụ và não bộ con người, tất cả đã được kết hợp để cho ra đời “Core Gem”, triết lý sống nền tảng của quyển sách mà bạn sắp đọc. Thôi miên nhân văn chính là thế giới quan nói trên thể hiện cụ thể thành trị liệu. Quyển sách này có hai cách tiếp cận bổ sung cho nhau: - Khía cạnh trị liệu, với những ví dụ minh họa cho những kỹ thuật căn bản của Thôi miên nhân văn (Trị liệu biểu tượng). - Khía cạnh triết lý, cho phép những độc giả có quan tâm hiểu hơn về cách vận hành của Sự sống và mục đích của nó, tất cả nhắm đến một ứng dụng cụ thể: trở thành Người sáng tạo ra chính cuộc đời mình. *** “Người biết tự làm cho mình hạnh phúc với một ảo tưởng đơn giản khôn ngoan hơn nhiều lần so với người tuyệt vọng với thực tại.” Alphonse Allais. Tất  cả những chuyện này làm tôi nhớ đến câu chuyện xưa… một người một bướm gặp nhau trong cùng một giấc mộng. Điều mà các bạn sắp khám phá đây có tên là Core Gem. Đó là một ly rượu pha hảo hạng trong đó bạn có thể tìm thấy những hiểu biết thông tuệ cổ xưa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và cả những khám phá hiện đại. Tôi đã được truyền thụ bởi một con người… rất kỳ lạ. Mục tiêu của Core Gem (dịch từng chữ thì ta có thể gọi là Viên ngọc nội tâm) là cho phép ta đạt tới một khả năng siêu phàm can thiệp trên Hiện thực, một cách đơn giản, tức thì và hiệu quả. Mục tiêu tối hậu là gì? Hiện thực hóa những ước mơ của bạn và sáng tạo cuộc đời của chính bạn trong nhận thức sáng suốt, từng ngày từng ngày. Bạn sẽ nói rằng điều này có vẻ không tưởng… và bạn có lý. Nếu bạn không điều chỉnh những niềm tin của mình, tất cả những điều này sẽ hoàn toàn là tưởng tượng thuần túy. Và rồi, cuối cùng, bạn sẽ nhận ra rằng Core Gem gợi bạn nhớ về một điều gì đấy. Một điều mà bạn đã biết từ rất lâu, mà bạn đã từng biết sử dụng…  Bởi vì Core Gem sẽ chỉ là một lý thuyết vô nghĩa nếu như nó không dựa trên những trải nghiệm rất thật của biết bao nhiêu người như bạn, từ khi Sự sống bắt đầu tồn tại. Tất cả những điều này dường như là không thể… nhưng lại thật sự tồn tại. Thế thì? Core Gem tuôn trào theo Sự sáng tạo. Core Gem không nói lý thuyết, chỉ bao gồm toàn những tiến trình. Nó hành động hơn là lý luận. Khả năng sử dụng của nó có thể là khôn cùng, dĩ nhiên vượt xa những gì bạn có thể tưởng tượng vào lúc này. Nhiều hơn cả những gì tôi có thể tưởng tượng. Bạn sẽ không tìm thấy những giải thích về Core Gem, hay những luận giải hay bằng chứng khoa học của những kỹ thuật của nó. Bởi Core Gem sử dụng chính những gì bạn suy nghĩ, và bạn có thể suy nghĩ mà không cần chứng minh bất cứ điều gì. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Tạo Ra Hiện Thực Tập 1 của tác giả Olivier Lockert.
Người Thứ 41 - Boris Lavrenyov
Tôi biết đến Người thứ 41 lần đầu tiên vào một buổi chiều mùa hè của vài năm trước. Gần đây, dọn lại tủ sách tôi có dịp đọc lại. Tuy cảm xúc của lần đọc thứ hai đã khác lần đầu tiên, nhưng câu chuyện tình ngang trái trong truyện luôn luôn khiến người ta day dứt và mãi mãi chẳng thể nào quên Câu chuyện xuất hiện trong bối cảnh nội chiến của nước Nga Xô Viết giữa hai phe Bonsevic đại diện cho tầng lớp lao động và phe Mensevic đại diện cho tầng lớp quý tộc. Đại diện của hai phe này, hay  nhân vật chính trong truyện là hai thanh niên nam-nữ còn rất trẻ, nữ hồng quân Maria Filatovna và sĩ quan bạch vệ Govorukha Otrok. Lẽ ra anh chàng sĩ quan kia đã trở thành kẻ tử trận thứ bốn mươi mốt dưới tay súng thiện xạ của cô gái nhưng cuối cùng, anh lại trở thành người mà cô yêu tha thiết và có lẽ cô sẽ không bao giờ quên được anh.   Câu chuyện khép lại với một kết thúc buồn thảm với mối tình dở dang của cô gái. Cô đã phải tự tay giết chết người mình yêu thương để bảo vệ cho lý tưởng giải phóng giai cấp cao đẹp mà cô chọn lựa, nhưng có lẽ đó sẽ là sự ám ảnh suốt đời cho người trong cuộc. Hình ảnh đôi mắt của nhân vật chính xuất hiện hầu như xuyên suốt trong tác phẩm, như một sự khẳng định về tâm hồn viên sĩ quan Bạch vệ. Đôi mắt xanh trong veo như màu nước biển Aran, hay là màu của sự hy vọng, của những điều tinh khiết nhất mà anh còn giữ lại được không bị ảnh hưởng của chiến tranh. Đôi mắt ấy đã thu hút tâm hồn Marjutca để rồi cuối cùng nhìn cô với vẻ băn khoăn, ai oán. Đây là một trong số ít những tiểu thuyết buồn mà tôi rất thích. Vượt lên trên chiến tranh và sự ngăn trở của thân phận, cuộc tình ngắn ngủi đầy kỳ lạ giữa hai con người khác biệt về giai cấp ấy vẫn là một bản tình ca đẹp ngân nga trong lòng người đọc qua năm tháng. *** Thời gian trước, bộ phim "Sắc, Giới" (Lust, Caution) của Lý An ra đời đã gây ít nhiều sóng gió và xôn xao dư luận, khi nó mong manh giữa ranh giới nghệ thuật và sự câu khách rẻ tiền. Xem xong bộ phim về mối tình éo le và bi thảm giữa tên trùm mật vụ và một cô gián điệp trẻ tuổi, chẳng hiểu sao tôi lại nghĩ mãi về một quyển truyện vừa của dòng văn học Xô Viết, cũng cùng mô-típ mâu thuẫn giữa tình yêu và lí tưởng như thế nhưng kết thúc và tư tưởng tác phẩm lại khá khác biệt. Đó là truyện Người thứ 41 của Boris Lavrenhjov viết năm 1924. Trong Sắc, Giới, cô gái vì yêu mà không giết kẻ thù nhưng kẻ thù đã giết cô cho trọn chức trách; còn Người thứ 41 thì "phe địch" phải chết... Người thứ 41 lấy bối cảnh là cuộc nội chiến ở Trung Á, câu chuyện tình giữa một nữ chiến sĩ Hồng quân Marjutca và một tên bạch vệ Gơvorukha - một cô gái quê mùa ít học và 1 tên quý tộc trí thức. Trên đường áp giải gã sĩ quan về căn cứ, đội quân của Marjutca bị đắm thuyền, chỉ còn mình cô và gã sĩ quan sống sót, trôi dạt vào 1 hòn đảo. Giữa những ngày tháng miễn cưỡng sống tựa vào nhau, những câu chuyện về cuộc sống ở hai thái cực đối lập của họ, những bất đồng giai cấp sâu sắc, kì lạ thay, không ngăn được tình yêu nảy nở. Và ngược lại, cái tình yêu ấy cũng chẳng xoá nhòa hay khoả lấp được những hố sâu cách biệt về ý thức hệ giữa họ. Kết thúc chuyện tình éo le này cũng là cái chết, đó là khi Marjutca, với phản xạ của một chiến sĩ hơn là suy nghĩ của một cô gái đang yêu, đã bắn chết tên sĩ quan - người tình của mình, khi anh ta chạy đến thuyền của phe bạch vệ vừa cập bến... Cái vấn vương người đọc ở câu chuyện này là, nếu như họ không kẹt giữa cuộc chiến ấy, giữa sự phân cực hệ tư tưởng và giai cấp, thì làm gì có bi kịch, mà ngẫm lại, không còn bi kịch thì cũng chẳng phải là cuộc sống! Khi gã sĩ quan đề nghị cô gái quên chiến tranh đi, cùng hắn đi đến một nơi thật xa xây tổ ấm, chắc ít nhiều bạn đọc cũng thầm nói "ừ chịu đi cho hết chuyện với kết thúc có hậu"! Nói thẳng ra, hắn ta cũng chẳng phải là kẻ ác đại ác ôn gì, hoặc giả là "chưa kịp ác" cho đến tận lúc người đọc chứng kiến hắn chết! Nhưng chính cái kết thúc bi thảm và ngang trái của câu chuyện này rất hay: người ta có thể cảm nhận một tình yêu thực sự giữa tinh thần cách mạng triệt để, cái kết thúc "rất Bôn-sê-vich" ấy hoá ra lại làm cho chuyện tình của họ "tình" và buồn hơn bao giờ hết... Ôi, cái anh chàng mắt xanh biêng biếc lạ kì, hay tình yêu cũng là một thứ lạ kì như vậy, chẳng có lí do gì cụ thể nhưng dường như là tất cả, có thể bị nhuộm màu máu như nó phải thế, nhưng màu xanh ấy dường như vẫn còn... Về mặt nghệ thuật thì truyện vừa này không phải là quá xuất sắc, nhất là khi nó ra đời tại một nền văn học vĩ đại với nhiều tác phẩm xuất sắc là văn học Xô Viết. Có thể cảm nhận được tư tưởng tác giả khá "tả khuynh", nhưng đặt trong bối cảnh ra đời của truyện thì lại hoàn toàn chấp nhận được. Điểm ấn tượng của truyện chính là phần kịch tính của câu chuyện ở cách tác giả xử lí đoạn kết, sau trăm trang viết giản dị, mộc mạc tưởng chừng như sẽ "rất có hậu"... Chỉ có thể nói truyện "vương vấn một cách nhẹ nhàng nhất" đối với người đọc!   Mời các bạn đón đọc Người Thứ 41 của tác giả Boris Lavrenyov.
Nero Nhà Thơ Bạo Chúa - Kosztolányi Dezső
Tôi đến với Nerô - Nhà thơ bạo chúa một cách tình cờ. Một đợt bán sách giảm giá của Fahasa, một chồng sách ít ai chú ý. Tôi lật vài trang và thực sự bị hút vào thế giới ấy. Tôi không phải nhà chính trị, đọc Nerô để tìm bằng chứng về chế độ độc tài; càng không phải là nhà nghiên cứu văn học để tìm trong Nerô quan điểm, tâm hồn hay bút pháp tiểu thuyết của Kosztolányi Dezső. Tôi đến với Kosztolányi Dezső, đơn giản với tư cách một độc giả, và viết về tác phẩm của ông bằng những cảm nhận, có thể sai lệch, của cá nhân mình. Nerô dưới mắt của các nhà sử học là nhà thơ giả - bạo chúa thật, kẻ đã đốt cả thành La Mã để tìm thi hứng. Thế nhưng qua góc nhìn của Kosztolányi Dezső vẫn là một con người, một con người trẻ có khao khát, có đam mê và nỗ lực thực hiện những ước mơ của mình. Ước mơ của Nerô đẹp đấy chứ, có thể nói là rất đẹp kia: trở thành một nhà thơ, một nghệ sĩ thực thụ. Và nỗ lực của ngài đã mấy ai làm được? “… Ngài đã từ bỏ những thú vui ở đời, đã dành từng hơi thở cho nghệ thuật. Tuy nhiên, ngài thiếu một cái gì đó, rất ít thôi, để có thể trở thành nhà thơ thực thụ. Chỉ có điều cái rất ít này hóa ra lại rất nhiều. Ngài không tìm được nó.” Bạn đã bao giờ trải qua cái cảm giác ước mơ ngoài tầm với chưa? Và bạn sẽ làm gì khi rơi vào trường hợp đó? Bạo chúa Nerô không chịu từ bỏ ước mơ của mình, ngày đêm ông nỗ lực, vẫy vùng trong điên cuồng, tuyệt vọng để tìm con đường đến với ước mơ. Niềm khao khát được làm một nhà thơ nổi tiếng cháy bỏng trong Nerô như một ngọn lửa dữ dội,  thôi thúc vị hoàng đế lao vào ước mơ như một con thiêu thân. “Những nhà thơ thật thì được nữ thần nghệ thuật hôn lên trán… Nerô đã hôn trán nữ thần nghệ thuật. Ông ấy đã cưỡng hiếp nữ thần.” Có nhà thơ đích thực nào lại tìm thi hứng cho mình bằng cách ấy? Khi nguồn động lực cũng là liều thuốc độc, nó đã thiêu đốt Nerô bằng những mặc cảm cùng khát vọng của chính mình. Qua từng trang sách, cuộc đời Nerô đã bật lên, bằng cách này hay cách khác. Nerô không phải một nhà thơ, chưa bao giờ là một nhà thơ chân chính nhưng chính cuộc đời ngài đã là một bài thơ gần như bất hủ. Những kẻ cơ hội vây lấy ngài, vuốt ve, bợ đỡ; những người được nữ thần nghệ thuật hôn lên trán cười cợt ngài, khinh thường ngài nhưng ngoài Britannicuxt, có ai rời mắt được khỏi ngài đâu! Nerô là nhà chính trị tồi, là thằng hề với những hành động vị kỉ, lố bịch, là con bướm đêm khát khao lao vào vòng lửa sáng dù biết chắc chắn đôi cánh của mình sẽ trở thành tro bụi. Ngài thành công vì quyền lực chứ không vì tài năng đích thực. Ngài nhận biết điều đó và chạy trốn sự thật. Ngài trở thành bạo chúa, ngài tàn sát những nhà thơ thật sự để được bước chân lên con đường nghệ thuật tôn quý kia. Đau đớn thay, cuối cùng, ngài vẫn chỉ là một con bướm đêm vẫy vùng trước ánh lửa với đôi cánh cháy xém, lại khát khao lao vào lần nữa! “Điều người Hi Lạp làm thật dể dàng, người La Mã lại phải đánh đổi bằng những cái dữ dội nhất.” Kosztolányi Dezső đã viết lời ai điếu về Nerô: “Ngài đã từng trải, đã làm những chuyện lẽ ra chỉ được phép nằm mơ. Hiển nhiên, những nhà thơ thật thì khác. Các vị ấy mơ những điều họ không thể trải qua, không thể làm…” “Lẽ ra bây giờ ngài ba mươi mốt tuổi… Ngài không có con… Nhưng ngài đã sống nhiều biết bao.” Đâu là phán xét, đâu là cảm thông cho một Nerô, một hoàng đế dùng cả cuộc đời mình để viết nên vài dòng dữ dội? Và đâu mới đích thực là giá trị của một con người, một mơ ước dở dang? Chỉ là gấp trang sách lại, suy tư với những câu hỏi của riêng mình. *** Kosztolányi Dezső là một nhà thơ và nhà văn Hungary. Kosztolányi sinh ra tại Szabadka, Đế quốc Áo-Hung (nay là Subotica, Serbia) vào năm 1885. Thành phố này đóng vai trò như là hình mẫu của thị trấn hư cấu Sárszeg mà ông lấy làm bối cảnh trong cuốn tiểu thuyết Skylark cũng như Con diều vàng. Ông là con của Árpád Kosztolányi (1859-1926), giáo sư vật lý và hóa học và là hiệu trưởng của một trường học và Eulália Brenner (1866-1948) gốc Pháp. Ông bắt đầu học trung học ở Szabadka nhưng vì mâu thuẫn với giáo viên trong lớp nên bị đuổi học và vì vậy mà đành phải tốt nghiệp tại một trường tư ở Szeged. Kosztolányi chuyển đến Budapest vào năm 1903 theo học tại trường Đại học Budapest, cũng chính tại đây ông đã gặp các nhà thơ Mihály Babits và Gyula Juhász, và sau đó có một thời gian ngắn ở Vienna trước khi bỏ học và trở thành một nhà báo - nghề nghiệp mà ông tiếp tục theo đuổi trong suốt phần đời còn lại. Năm 1907, Kosztolányi cho xuất bản tập thơ Giữa bốn bức tường báo hiệu một bước tiến mới của nền thơ Hungary thời đó. Năm 1908, ông thế chỗ nhà thơ Endre Ady đã bỏ sang Paris làm phóng viên cho tờ nhật báo Budapest. Năm 1910, tập thơ đầu tiên của ông mang tên Những lời oán trách của chú bé nghèo khổ mang lại thành công trên toàn quốc và đánh dấu sự khởi đầu của một thời kỳ thăng hoa trong sự nghiệp sáng tác văn học, mà tác giả đã cho xuất bản một tác phẩm gần như mọi năm. Kosztolányi tình cờ gặp nữ diễn viên Ilona Harmos vào mùa đông năm 1910; họ kết hôn vào ngày 8 tháng 5 năm 1913. Năm 1936, ông qua đời vì bệnh ung thư vòm họng.   Mời các bạn đón đọc Nero Nhà Thơ Bạo Chúa của tác giả Kosztolányi Dezső.
Mũi Tên Đen - Robert Louis Stevenson
 Có một miền đất nhiều vách đá, khô cằn và khắc nghiệt ở bắc đảo Briland, đất nước Scotland. Nó không lớn và cũng ít người. Dân ở đấy nghèo nhưng can đảm và chuộng tự do.  Người Scotland thường thêu trên lá cờ của mình những bông hoa nhỏ màu tím hồng của bụi trường xuân và cúc gai. Trường xuân là vật trang sức khiêm tốn của các sườn núi và bãi trống ven biển Scotland, còn cúc gai là hiện thân của sức sống kiên cường và mãnh liệt. Cũng như những cây ngưu bàng đã gợi cho Lép Tônxtôi, nhà văn Nga, suy nghĩ về những con người ở miền núi Đaghextan, những bụi trường xuân và cúc gai chính là tượng trưng của sức sống dẻo dai của người Scotland. Người Anh đã chiếm Scotland, nhưng không chỉ ở những thế kỷ trước, ngày nay người Scotland vẫn đấu tranh đòi tách đất nuớc mình ra khỏi Vương quốc Anh. Mặc dù giai cấp thống trị Scotland thoả hiệp và đầu hàng, có kẻ còn quên cả tiếng mẹ đẻ nhưng dân tộc Scotland vẫn không đầu hàng. Trong cuốn "Những người con của thuyền trưởng Grant", Giuyn Vécnơ, nhà văn Pháp đã ca ngợi những người Scotland thường luôn hướng về tổ quốc mình. Nghệ thuật Scotland không tàn lụi. Các bài ca của nó đã dược Beethoven, nhạc sĩ thiên tài người Đức nâng niu, được Oante Xcot, nhà văn Scotland đưa vào tiểu thuyết của mình. R.L Stevenson đã thừa hưởng tất cả tính cách mạng của dân tộc mình. Ông chỉ thiếu sức chịu đựng dẻo dai như ở cơ thể của những người đồng hương. Sinh năm 1850, ông xuất thân từ gia đình kỹ sư xây dựng đèn biển. Chính ông đã dự định trở thành hoa tiêu, đã viết một tác phẩm về những người thắp đèn chỉ đường cho những con tàu lách qua sương mù và ghềnh đá. Nhưng bệnh tật đã buộc ông từ bỏ ý định của mình. Ông tới miền nam nuớc Pháp, nương nhờ khí hậu ấm áp nơi đây để chữa bệnh. Sau khi sức khoẻ khá hơn, ông làm một cuộc hành trình theo sau một con lừa thồ hàng đi khắp nước Pháp, rồi cùng con thuyền bơi khắp các dòng sông và kênh đào ở Bỉ và Hà Lan. Những chuyến đi đó in dấu trong tác phẩm của Stevenson. Sau đó ông lại sang Bắc Mỹ, điều này giải thích vì sao Stevenson thường viết các tiểu thuyết phiêu lưu. Nhưng các tác phẩm xuất sắc của ông thường liên quan đến biển và gợi lại không gian Scotland. Stevenson rất yêu mến trẻ em và say mê các trò chơi của các em nhỏ. Ông chơi trận giả với con trên tầng gác chật chội và tối tăm, say mê như tham gia những chiến dịch lớn. Sàn nhà đầy bản đồ với các nét vẽ núi non, sông ngòi, đầm lầy, biển cả. Một trong các bức bản đồ đó đã được phong phú lên thêm bằng câu chuyện tưởng tượng về bọn cướp biển, sau đó trở thành tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stevenson: "Đảo giấu vàng". Nghề cướp biển hồi đó rất thịnh hành. Bọn cướp biển người Anh đặc biệt đặc biệt hăng hái trong việc cướp bóc các thương thuyền của Ý chở vàng từ Mêhicô, Pêru và Ấn Độ. Các tàu cướp được hợp pháp hoá, được phép treo cờ Anh. Vua Anh sẵn sàng tiếp nhận của cải của bọn hải tặc dâng lên song cũng phẩy tay quay đi khi chúng rơi vào tai họa. "Đảo giấu vàng" phê phán nạn cướp biển, ca ngợi chiến thắng của cái thiện đối với cái ác. "Mũi tên đen" được viết muộn hơn khi Stevenson đã trở nên nổi tiếng. Câu chuyện lùi lại những sự kiện xảy ra vào thế kỷ XV, thời kì đuợc gọi là cuộc chiến tranh Hoa Hồng Trắng và Hoa Hồng Đỏ của hai dòng họ lớn đều có tham vọng giành ngai vàng của nuớc Anh: York và Lancaster. Cuộc tranh giành kéo dài ba mươi năm này đã cuốn vào khói lửa không biết bao nhiêu con người và làm cho nứơc Anh kiệt quệ. Nhân dân không chờ mong điều gì tốt lành của những bên tham chiến, họ đã tự tổ chức phòng thủ hoặc trả thù các lãnh chúa phong kiến cưỡng bức mình. Họ trở thành các cung thủ tự do, thành "Jhon - trả - thù - cho - tất cả". Họ lập đảng "Mũi Tên Đen". Những người ban đầu bị cuốn hút vào chiến tranh như tiểu công tử Dick Shelton cũng mau chóng tỉnh ngộ và rời bỏ cái ác. Stevenson phê phán các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông tạo dáng ghê sợ cho những kẻ làm điều ác. Tên Silver thọt chân trong "Đảo giấu vàng", gã người gù khắc nghiệt và khát máu Richard York trong "Mũi Tên Đen".   Cái ác bị vạch trần đến tận cùng trong tiểu thuyết chín muồi nhất của Stevenson: "Master of Ballantrae". Vẻ ngoài của nó cũng là một tiểu thuyết phiêu lưu. Các cuộc mạo hiểm trên biển, chuyến du lịch tới Ấn Độ, Bắc Mỹ… làm hấp dãn người đọc. Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của nó là phô bày sự phân hoá của một gia đình Scotland. Vinh quang đến với Stevenson nhưng bệnh tật ngày càng trầm trọng. Một lần nữa nhà văn lại tìm đến nơi khí hậu dễ chịu hơn, đó là Xamoa, một hòn đảo nằm giữa mênh mông trùng sóng Thái Bình Dương. Tại đây ông đứng về phía người bản xứ, bảo vệ họ và chống lại bọn thực dân xâm lược người Anh, Mỹ, Đức. Nhân dân Xamoa gọi ông bằng cái tên kính trọng: "Người viết ra lịch sử".   Tác phẩm của Stevenson đầy lạc quan, sự sảng khoái, vui vẻ, đầy chiến thắng. Có độc giả nghĩ ông là một anh chàng phong lưu, lớn lên bằng bí-tết và dồi, lúc nào cũng khoác áo đuôi tôm màu đỏ rong ruổi trong rừng, đi săn không biết mệt. Sự thực, sức khoẻ của ông ông mỗi lúc một suy sụp. Chính ở Xamoa, Stevenson đã trút hơi thở cuối cùng, vào ngày 03 tháng 12 năm 1894 khi mới bốn mươi lăm tuổi. Ngừơi ta mai táng ông trên một quả đồi nhỏ, trên mộ ghi những dòng kết của bài thơ "Khúc tưởng niệm" mà ông đã viết, trong đó có đoạn: Xin viết những dòng để nhớ về tôi: "Ông ta nằm đây, nơi ông ta muốn Người thuỷ thủ trở về từ biển lớn Người đi săn trở về từ giữa núi đồi". Stevenson hằng mơ ước những quyển sách của mình là bạn đường yêu quí của mỗi thuỷ thủ, mỗi người lính, mỗi nhà du lịch để họ thêm can đảm và có niềm vui, có chuyện kể cho nhau nghe trong những đêm dài trực canh, hay bên đống lửa xua tan gió rét. Mơ ước của nhà văn thật giản dị và ấm cúng. Trong các cuốn sách hay nhất của mình - trong đó có "Mũi Tên Đen" - Stevenson đã thực hiện được điều đó. *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. *** - Tôi cũng muốn được như ngài nói. Tôi đồng ý câu nói của ngài. Ở ngài, lòng nhiệt tình của tuổi trẻ có nhiều hơn tội ác. Giá nếu mà hiệp sĩ Daniel không phải là một thế lực hùng mạnh của bên chúng tôi, thì tôi sẽ bảo vệ được ngài. Tôi đã dò hỏi và nhận bằng chứng rằng người ta sẽ xử sự khắc nghiệt với ngài. Tôi phải xin lỗi ngài về việc đó. Nhưng thưa ngài, tôi là lãnh tụ của phái ủng hộ nhà vua, nên dù cho tôi là một người công bằng, thậm chí có khuynh hướng thiên về tha thứ, bây giờ tôi cũng cần phải hành động theo quyền lợi của phe đảng mà giữ ngài Deniel bên phía chúng tôi. - Thưa đại nhân - Dick đáp lời - Ngài đừng cho tôi là hỗn láo và cho phép tôi đưa lời cảnh báo ngài. Chẳng lẽ ngài tin tưởng vào sự trung thực của Daniel hay sao? Theo tôi, hắn ta quá nhiều lần đổi chỗ từ phe này sang phe nọ. - Phải, người ta thừơng hay hành động như vậy ở nước Anh, vậy ngài muốn thế nào? - Bá tước hỏi. - Có điều ngài đã đánh giá không công bằng với hiệp sĩ vùng Tunstall, ông ta trung thành với chúng tôi, với phe Lancaster ở chừng mực thích ứng với thời dại không đáng tin hiện nay. Ông ta không phản bội ngay cả trong các thất bại nặng nề gần đây nhất của chúng tôi. - Nếu Bá tước cho là như thế thì mời Bá tước hãy xem lá thư này. Ngài sẽ thay đổi được chút ít trong nhận xét của mình - Dick chìa cho Bá tước lá thư của Daniel gửi cho Whensleydale. Khuôn mặt của Bá tước thay đổi. Ông trở nên dữ tợn như một con sư tử đang điên khùng, bàn tay thì nắm vào cán dao găm một cách không tự nhiên. - Anh cũng đã đọc lá thư này? - ông hỏi. - Tôi đã đọc, ngài thấy đấy, ông ta đề nghị cầu hoà bằng toàn bộ lãnh địa của ngài cho Whensleydale. - Đúng, anh nói đúng, bằng lãnh địa của tôi! - Bá tước đáp - Tôi là con nợ của anh qua lá thư này. Nó đã chỉ ra cho tôi cái hang cáo. Anh hãy ra lệnh cho tôi đi, tiểu công tử Shelton! Tôi sẽ không chậm trễ đáp lại ơn anh - dù cho anh là York hay Lancaster, dù cho anh là người lương thiện hay tên trộm cắp thì tôi cũng sẽ bắt đầu bằng việc trả lại tự do cho anh. Anh hãy đi đi vì danh sáng của Đức Mẹ! Nhưng anh đừng có tiếc rằng tôi sẽ giữ lại và treo cổ anh bạn Lawless của anh. Tội ác đã thực hiện trước công chúng, thì sự trừng phạt vẫn cần phải thi hành trước công chúng. - Thưa đại nhân, đây là đề nghị thứ nhất của tôi đối với ngài. Ngài hãy tha thứ cả cho anh ta - Dick yêu cầu. - Đó là một tên lưu manh già đời, tên lang thang và trộm cắp, anh Shelton ạ! - Bá tước nói - Từ lâu giá treo cổ đã chờ đợi hắn. Nếu người ta không treo cổ hắn sáng ngày mai thì hắn cũng sẽ được treo cổ muộn hơn một chút mà thôi. Thế thì tại sao lại không treo cổ hắn lên vào ngay ngày mai đi? ... Mời các bạn đón đọc Mũi Tên Đen - Robert Louis Stevenson