Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Con Của Thời Tiết

Tình thơ, gặp gỡ và chia ly là những vòng sóng đồng tâm trong thế giới Shinkai Makoto. Từng có cô Yuki chia tay Takao ở Khu vườn ngôn từ để đến dạy văn cho Mitsuha ở Your Name. Nay lại có Mitsuha và Taki chia tay Your Name. để sang ĐỨA CON CỦA THỜI TIẾT, gặp gỡ các tâm sóng mới là Hina và Hodaka.   Đứa con của thời tiết phác ra thương yêu cô đọng giữa hoang mang của đô thị lớn và ngặt nghèo hơn, là giữa hoang mang của một thời đại biến đổi khí hậu bấp bênh.   Vì một sự cố tình cờ, Hina được tạo hóa ban cho năng lực đặc biệt: làm nắng. Năng lực ấy càng thêm nhiệm màu khi đặt vào bối cảnh Nhật Bản hứng mưa triền miên, mưa đến mức vòm trời âm u trở thành cơm bữa, nước dâng gặm dần các đảo, và Tokyo có nguy cơ biến thành đô thị kênh đào.   Nhưng đến đây, phong cách song hành nhất quán của Shinkai lại trỗi dậy. Trong lạc có bi, trong hạnh phúc sẵn chia ly, được ban phép màu ắt phải đánh đổi. Đứa con của thời tiết cũng không thể tùy ý tắt bật nắng mưa mà không phải trả giá gì. Theo sau một lần làm nắng, là chất chứa hàng chuỗi ăn mòn, hối hận, mạo hiểm, giải cứu, và đằng đẵng cách xa.   Cũng như Your Name, ĐỨA CON CỦA THỜI TIẾT tiếp tục đan cài giữa truyền thống và hiện đại, huyền thoại và thực tế, nguy cơ và mộng ước, thiên tai và con người… nhưng có điểm khác là, lần đầu tiên hạnh phúc cá nhân đã được nhấn mạnh, nhân vật đã bứt mình khỏi tâm thế bao la vì mọi người. *** SHINKAI MAKOTO Sinh năm 1973 ở Nagano. Là đạo diễn phim hoạt hình. Năm 2002, bộ phim ngắn Tiếng gọi từ vì sao xa do anh tự thực hiện đã thu hút rất nhiều sự chú ý. Sau đó các tác phẩm Bên kia mây trời, là nơi hẹn ước, 5 centimet trên giây, Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, Khu vườn ngôn từ, Your Name. lần lượt ra đời và nhận được khá nhiều giải thưởng trong nước. Tiểu thuyết do anh chấp bút, dựa trên nội dung của những bộ phim anh đạo diễn như 5 centimet trên giây, Khu vườn ngôn từ, Your Name. cũng được đánh giá cao.   IPM xuất bản: • 5 centimet trên giây • Khu vườn ngôn từ • Your Name. • Tiếng gọi từ vì sao xa (Shinkai Makoto, Ooba Waku) • Bên kia mây trời, là nơi hẹn ước (Shinkai Makoto, Kanoh Arata) • Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú (Shinkai Makoto, Akisaka Asahi) *** Chuyện cậu kể Tiếng còi ngân dài dưới màn mưa tháng Ba báo hiệu phà sắp rời bến. Rung động mạnh khi thân phà to lớn rẽ biển băng về phía trước lan từ mông lên khắp cơ thể. Vé của tôi là vé phòng hạng hai, nằm sát đáy phà. Chuyến hải trình tiến ra Tokyo kéo dài hơn mười tiếng đồng hồ, đến tối phà mới cập bến. Đây là lần thứ hai trong đời tôi đón chuyến phà này ra Tokyo. Tôi đứng dậy, bước tới cầu thang dẫn lên boong. “Hình như tên đó có tiền sự…” “Nghe đâu cậu ta vẫn bị cảnh sát theo dõi…” Sau vụ việc xảy ra tại Tokyo cách đây hai năm rưỡi, tôi bắt đầu nghe mấy lời đồn như thế ở trường. Bị nói này nói nọ cũng chẳng hề gì (thật ra tôi còn thấy đồn đại là tất nhiên), song tôi vẫn không hé răng với ai trên đảo về vụ việc xảy ra ở Tokyo hè năm đó. Tôi từng đề cập vài chi tiết, nhưng chưa bao giờ nhắc đến phần quan trọng nhất, kể cả với bố mẹ, bạn bè hay cảnh sát. Một mực giữ riêng câu chuyện của mùa hè ấy, tôi tìm đến Tokyo lần thứ hai. Giờ tôi đã 18 tuổi. Lần này đi là để sống tại thành phố ấy. Và để gặp lại người ấy. Cứ nghĩ đến đây là ngực tôi lại nóng ran, mặt như có lửa đốt. Tôi leo nhanh hơn để mau ra hứng gió biển. Đặt chân lên boong, tôi liền bị gió lạnh và mưa quất mạnh vào mặt. Như muốn thu hết chúng vào người, tôi hít thở thật sâu. Gió vẫn lạnh nhưng đã nức hơi xuân. Cuối cùng cũng tốt nghiệp cấp ba… Giờ này cảm giác đó mới rộn lên trong lòng tựa bản thông báo đến muộn. Chống khuỷu tay lên thanh vịn, tôi trông về phía hòn đảo đang dần lùi xa rồi ngước nhìn vùng trời cuồn cuộn gió. Vô vàn hạt mưa nhảy múa nơi xa hút tầm mắt. Vào khoảnh khắc ấy, tôi bỗng rùng mình, toàn thân nổi gai ốc. Lại nữa rồi. Tôi bất giác nhắm chặt mắt, bất động. Nước mưa táp vào mặt, tiếng mưa không ngừng dội vào màng nhĩ. Mưa vẫn rơi ở đó suốt hai năm rưỡi nay. Tựa nhịp đập con tim không thể lặng im dù có cố nín thở. Tựa đôi mắt không bao giờ chìm hẳn vào bóng tối dù gắng nhắm thật chặt. Tựa cõi lòng không cách nào bình yên dù nỗ lực trấn tĩnh. Tôi chậm rãi thở ra và mở mắt. Mưa. Mưa liên tục bị hút xuống mặt biển đen thẫm, nhấp nhô như hít thở. Chẳng khác nào trời và biển bắt tay nhau, nghịch ngợm xô đẩy mặt nước. Tôi bỗng thấy sợ. Từng đợt run rẩy dâng lên từ thẳm sâu cơ thể. Tôi ngỡ mình sắp bị xé rách, sắp rã thành từng mảnh. Bám chặt thanh vịn, tôi hít vào thật sâu qua mũi. Hình ảnh người ấy lại hiện về như mọi khi. Cô gái với đôi mắt to, biểu cảm sinh động, tông giọng biến hóa liên tục và mái tóc dài buộc thành hai chùm. Rồi tôi nghĩ, “Sẽ ổn thôi.” Cô ở đó. Cô đang sống ở Tokyo. Chừng nào còn có cô, tôi còn được gắn kết với thế giới. “… Vậy nên Hodaka à, đừng khóc.” Đêm ấy, trong khách sạn ở Ikebukuro nơi chúng tôi ẩn nấp, cô đã nói thế. Tiếng mưa giội xuống trần nhà nghe như tiếng trống vọng tới từ xa. Tóc cô thơm mùi dầu gội hai đứa dùng chung, giọng nói dịu dàng như thể sẵn sàng thứ tha tất cả, làn da ánh sắc trắng xanh giữa bóng tối. Tất cả quá đỗi sống động, đến độ tôi bỗng có cảm giác lúc này mình vẫn đang ở đó. Phải chăng chúng tôi quả thật vẫn ở khách sạn, và tôi chỉ tình cờ gặp hiện tượng kí ức ảo giác mà tưởng tượng cảnh bản thân ở tương lai đi phà? Phải chăng lễ tốt nghiệp hôm qua lẫn chuyến phà hôm nay đều là ảo giác, còn tôi thực sự vẫn nằm trên giường khách sạn? Rồi sớm mai thức dậy, mưa đã tạnh, cô vẫn ở bên tôi, diện mạo thế giới vẹn nguyên như trước giờ, và một ngày như mọi ngày lại bắt đầu? Còi hú vang. Không, không đúng. Tôi xác nhận xúc giác khi nắm lấy thanh vịn sắt, xác nhận mùi thủy triều, xác nhận hòn đảo dần khuất bóng nơi chân trời. Nhầm rồi, giờ không phải buổi tối. Chuyện đã lùi xa vào quá khứ. “Tôi” đang lắc lư trên phà này là tôi thực sự. Ngẫm kĩ đi. Nhớ lại từ đầu đi. Tôi vừa nhìn màn mưa chăm chăm vừa nghĩ. Trước khi gặp lại cô, phải hiểu hết những việc đã xảy đến với hai đứa. Không, dẫu không hiểu cũng phải suy nghĩ cho cặn kẽ. Chuyện gì đã xảy đến với chúng tôi? Chúng tôi đã lựa chọn gì? Còn tôi, sắp tới nên nói gì với cô? Căn nguyên của mọi việc… Phải, có lẽ là hôm đó. Ngày cô chứng kiến hiện tượng kia lần đầu tiên. Sự việc mà sau này cô kể tôi nghe chính là khởi đầu của tất cả. * Mẹ cô hôn mê suốt nhiều tháng nay. Trong phòng bệnh nhỏ chỉ có âm báo điện từ đều đặn phát ra từ màn hình theo dõi bệnh nhân, tiếng tút dài của máy thở và tiếng mưa dai dẳng đập vào cửa sổ. Cùng với đó là bầu không khí tách biệt đặc trưng của những phòng bệnh có bệnh nhân nằm lâu ngày. Ngồi trên ghế đẩu cạnh giường bệnh, cô nắm chặt bàn tay chỉ còn da bọc xương, dõi theo chiếc mặt nạ oxy đều đặn chuyển màu trắng mờ theo nhịp thở, đăm đăm ngắm hàng mi khép chặt của mẹ. Dầu bị nỗi bất an đè nặng, cô vẫn một lòng cầu nguyện. Cầu cho mẹ tỉnh lại. Cầu cho gió mạnh thổi tới như vị anh hùng xuất hiện giữa lúc nguy nan, quét sạch những thứ u ám và nặng nề, bất kể u uất, lo lắng hay mây đen, rồi gia đình ba người lại có thể tươi cười sánh bước dưới trời quang. Tóc cô chợt lay động. Tiếng nước tong tong nho nhỏ vẳng vào tai. Cô ngẩng đầu. Cửa sổ vốn khép chặt, vậy mà rèm vẫn khẽ đung đưa. Ánh mắt cô bị hút về phía khoảng trời ngoài khung cửa. Vầng dương đã chiếu rọi tự khi nào. Mưa chưa ngừng, nhưng một khe hở nhỏ đã xuất hiện giữa tầng mây. Những tia sáng mảnh lách qua khe hở, soi sáng một điểm trên mặt đất. Cô căng mắt nhìn. Vô số tòa nhà trải dài hút tầm mắt. Duy có sân thượng của một trong số đó bừng sáng tựa diễn viên đứng dưới ánh đèn sân khấu. Như thể nghe ai gọi, cô chạy ào khỏi phòng bệnh. Cô dừng bước trước một tòa nhà bỏ hoang. Các kiến trúc lân cận đều mới toanh, riêng tòa nhà phức hợp này mục nát, xám xịt như bị thời gian lãng quên. Hàng loạt biển hiệu gỉ sét phai màu, nào “Bi-a”, “Cửa hàng kim khí”, nào “Lươn”, “Mạt chược”… treo tứ phía. Cô ngẩng đầu, nhìn qua lớp ô nhựa trong suốt. Nắng quả thật đang rọi xuống sân thượng. Liếc sang hông tòa nhà, cô thấy bãi đỗ xe nhở cùng cầu thang thoát hiểm hoen gỉ cũ kĩ dẫn lên sân thượng. Hệt một vũng ánh sáng. Leo hết cầu thang, cô sững lại giây lát, mê mẩn ngắm cảnh sắc trước mắt. Sân thượng có lan can bao quanh, rộng chừng phân nửa hồ bơi dài 25 mét. Gạch lát nền vỡ gần hết, phủ một lớp cỏ dại xanh mướt. Ở góc sân có một cổng torii[1] nhỏ đứng im lìm như nằm trong lòng bụi cây. Nắng xuyên qua tầng mây, chiếu thẳng xuống cổng. Dưới chùm nắng, màu đỏ tươi ánh lên lấp lánh bên những hạt mưa. Đây là nơi duy nhất rạng rỡ giữa thế giới mưa phủ mờ này. Cô chậm rãi băng qua sân, tiến về phía cổng. Cứ mỗi bước giẫm trên lớp cỏ mùa hè đẫm mưa, âm thanh loạt soạt êm tai lại vang lên cùng cảm giác đàn hồi dễ chịu. Những tòa cao ốc trắng đục vươn mình thẳng tắp sau màn mưa. Không gian ríu rít tiếng chim non. Dường như đâu đây có tổ chim. Thoảng trong đó là âm thanh tuyến Yamanote xa xôi tựa hồ vẳng đến từ thế giới khác. Cô đặt ô xuống đất. Cái lạnh của cơn mưa ve vuốt đôi gò má mịn màng của cô. Sau cổng torii có một ngôi miếu nhỏ bằng đá, hoa tím li ti mọc kín xung quanh. Không biết ai đã đặt hai cỗ xe ngựa vong hồn[2] dùng cho lễ Obon[3] tại đó. Trông chúng như bị vùi vào vạt hoa. Một bằng cà tím, một bằng dưa chuột, đứng trên bốn que tre mảnh. Gần như vô thức, cô chắp tay, khẩn thiết cầu nguyện. Cầu cho mưa tạnh. Cô chậm rãi khép mi, vừa cầu nguyện vừa bước qua cổng. Cầu cho mẹ tỉnh lại và cùng cô bước đi dưới trời quang. Qua khỏi cổng torii, không khí lập tức thay đổi. Tiếng mưa ngừng bặt. Và rồi cô mở mắt… giữa bốn bề là trời xanh. Gió lớn thổi cô bay bồng bềnh trên tầng không cao vời vợi. Không, chính xác là cô đang rẽ gió rơi xuống. Tiếng gió hú trầm thăm thẳm chưa từng nghe trong đời cuộn xoáy xung quanh. Cứ mỗi nhịp thở ra, hơi thở lại đông trắng, lấp lánh bay lượn giữa vùng trời xanh thẳm. Vậy mà cô không hề sợ hãi, cảm giác kì lạ như thể đang mơ trong khi vẫn tỉnh táo. Dưới chân là những cột mây vũ tích trông như cây súp lơ khổng lồ trôi lơ lửng. Mỗi đám mây phải rộng đến mấy kilomet, tạo nên một khu rừng trên không tráng lệ. Cô chợt nhận thấy sắc mây đang biến đổi. Từng đốm xanh nối nhau xuất hiện trên đỉnh những đám mây, nơi bằng phẳng như đồng bằng và tiếp giáp với không khí. Cô mở to mắt theo dõi cảnh tượng ấy. Giống thảo nguyên quá. Những chấm màu xanh lục nhộn nhịp hiện ra rồi biến mất trên đỉnh mây, nơi mà người dưới đất chắc chắn không thể nhìn thấy. Để ý kĩ, cô còn thấy thứ gì đó bé xíu tựa sinh vật sống tập trung thành đàn khắp bốn bề. “… Cá?” Quần thể khoan thai uốn lượn thành hình xoáy ấy giống hệt đàn cá. Cô vừa rơi vừa nhìn không chớp mắt. Vô số cá đang bơi lội giữa bình nguyên trên mây. Đột nhiên, ngón tay cô chạm phải thứ gì đó. Cô kinh ngạc nhìn xuống tay. Quả nhiên là cá. Những chú cá nhỏ với cơ thể trong suốt bơi qua ngón tay và tóc cô như những cơn gió có trọng lượng. Có con vây dài ve vẩy, có con tròn như sứa, có con lại mảnh dẻ như cá sóc. Bầy cá trong suốt muôn hình muôn vẻ lấp lánh như lăng kính dưới nắng. Chẳng rõ tự khi nào, cô đã bị vây giữa đàn cá trời. Trời xanh, mây trắng, màu xanh lục lao xao, đàn cá ánh sắc cầu vồng. Cô đang hiện diện giữa thế giới trên không đẹp đẽ và kì lạ, chưa từng nghe qua mà cũng chưa từng tưởng đến. Cuối cùng, mây đen vần vũ dưới chân cô dần biến mất như thể tan chảy. Phố phường Tokyo mênh mông hiện ra dưới tầm mắt. Từng tòa nhà, từng chiếc xe, từng tấm kính cửa sổ tắm mình dưới nắng, kiêu hãnh rực sáng. Cô cưỡi gió, chầm chậm đáp xuống thành phố vừa tái sinh sau khi được mưa gột rửa. Cảm giác hợp thể lạ lùng từ từ lan đi khắp người. Bằng một dạng giác quan tồn tại trước cả ngôn từ, cô hiểu rằng mình là một phần của thế giới. Mình là gió, là nước, là xanh, là trắng, là trái tim, là nguyện ước. Niêm hạnh phúc cùng nỗi day dứt lạ thường xâm chiếm châu thân. Và rồi, ý thức dần tan biến tựa hồ lún sâu vào tấm đệm dày.. * “Cảnh tượng đó… Có thể những gì tớ thấy khi ấy đều là mơ…” Cô từng nói với tôi như thế. Song đó không phải mơ. Giờ đây chúng tôi đã biết đó là thật. Sau ngày cô kể tôi nghe, hai đứa còn tận mắt chiêm ngưỡng khung cảnh tương tự một lần nữa, chiêm ngưỡng thế giới trên trời không ai biết đến. Vào mùa hè tôi cùng cô trải qua năm ấy, trên bầu trời Tokyo, chúng tôi đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách Đứa Con Của Thời Tiết của tác giả Shinkai Makoto & Mỹ Trinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hãy Để Ngày Ấy Lụi Tàn - Gerald Gordon
“Hãy để ngày ấy lụi tàn”, tựa tiếng Anh Let the day perish của Gerald Gordon được ra đời năm 1952. Tác phẩm là sự lên án gay gắt cái thiên kiến màu da phi nhân tính tại Nam Phi đã đưa đẩy con người đến bên bờ vực thẳm. Gerald Gordon khơi gợi niềm thương cảm sâu sắc của mỗi người đọc dành cho những nạn nhân của chế độ Apartheid. Không đánh đập, không ngược đãi nhưng “Hãy để ngày ấy lụi tàn” là một loạt những khinh miệt rẻ rúng, sự hắt hủi xem thường của giới quý tộc đối với người da màu. Đến với một trong những thời kì đen tối nhất trong lịch sử loài người, “Hãy để ngày ấy lụi tàn” có sức chinh phục trái tim người đọc bởi hình ảnh cao đẹp, đầy tấm lòng vị tha của Steve luôn dõi theo bước anh trai Antoine, dù rằng anh đã quay lưng lại với dân tộc mình. Dưới ngòi bút của tác giả, tâm hồn và trái tim luôn hướng về cội nguồn của Steve – người em da màu dám hiên ngang ngẩng cao đầu đấu tranh, cất lên tiếng lòng của dân tộc mình – toả sáng hơn bao giờ hết… Có cay đắng, ngậm ngùi; có xót thương, day dứt, “Hãy để ngày ấy lụi tàn” đã khắc hoạ nỗi đau trong cuộc sống và bi kịch tình yêu mà hàng ngàn số phận bất hạnh đã nếm chịu trong xã hội oan nghiệt thời bấy giờ. Người phụ nữ da màu xinh đẹp nhưng khốn khổ Merry đem lòng yêu anh lính người Anh Geogio. Kết quả của cuộc hôn nhân không được ủng hộ này là 2 người con trai – Antoine, cậu bé da trắng khoẻ mạnh, và người em trai da đen của cậu bị xã hội lúc bấy giờ ruồng rẫy – Steve – lần lượt chào đời. Số phận trớ trêu đã buộc Steve không được học cùng trường với anh trai Antoine, bởi xã hội không chấp nhận em, bởi lẽ em là người da màu. Cái thiên kiến màu da độc địa kia đã chia rẽ gia đình họ, làm Merry quyết định đưa Steve theo mình rời xa Antoine. Hơn ai hết, cô biết rằng mình không thể mạo hiểm về tương lai của Antoine, đứa con da trắng đáng được hưởng những thứ tốt đẹp chứ không phải sự hắt hủi mà chính cô, chính màu da của cô đã mang lại cho cả gia đình. Con Steve ư, đứa con trai bất hạnh phải sống cuộc đời cay đắng như của cô ư? Không, cô không thể để cho Steve cản trở tương lai của Antoine. Antoine con cô. Antoine da trắng… Những đẩy đưa của cuộc sống khiến Antoine xa lánh mẹ và em, bỏ lại phía sau gốc gác đáng hổ thẹn của mình. Mỗi khi nghĩ về nó, anh luôn tìm cách chạy trốn chính con người của anh. Thế nhưng, như một trò đùa của số phận, anh gặp lại người con gái anh yêu Ren – đứa con của những người da trắng. Tình yêu với Ren ngày càng sâu đậm khiến Antoine không thôi nghĩ về nguồn gốc của mình. Định kiến da màu ngày nào quay trở lại trong anh, gặm nhấm, day dứt tâm hồn anh. Anh yêu Ren, họ sẽ lấy nhau ư? Liệu đứa con đầu lòng của anh sẽ may mắn giống bố mẹ nó, hay sẽ giống như Steve em trai anh? Bí mật đắng lòng về con người thực sự của anh sẽ vẫn mãi nằm trong bóng tối nếu không có một ngày… Antoine lỡ tay ngộ sát kẻ thù anh vì muốn che giấu Steve, che giấu thân phận của anh – trong cái đêm mà Steve đến thăm anh. Bên bờ vực thẳm, anh có hai lựa chọn, hoặc là bị kết tội trong thân phận giả dối bấy lâu nay của mình, hoặc chấp nhận em ruột Steve làm chứng cho anh; và “anh sẽ trắng án trong 1 phiên tòa hình sự, nhưng sự kết án của cuộc đời này là điều anh không thể tránh khỏi” Và Ren – người duy nhất anh tin tưởng rằng sẽ ủng hộ anh cho đến hết cuộc đời này cuối cùng cũng chỉ như bao người da trắng khác, cũng mang trong máu thịt mình sự khinh miệt rẻ rúng đối với người da màu, dẫu đó có là người cô yêu mãnh liệt, yêu tha thiết đi chăng nữa. Cuối cùng thì tình yêu chân thực vẫn không thắng nổi cái định kiến nghiệt ngã đã tồn tại từ bao đời nay. Anh, suy cho cùng, cũng chỉ là một đứa con da màu đã quay lưng lại với dân tộc. *** - Cho tôi rượu seri[1], thưa ông. Từ sau quầy bàn, Ôttô Hunđơ quan sát người đàn ông có nước da nâu sẫm vừa bước vào, y ra lệnh, giọng cộc cằn: - Bỏ mũ ra! - Ja[2], thưa ông chủ. - người khách hàng lúng túng bỏ mũ. - Tóc gã này xoăn tít mà. - Hunđơ vừa nói, vừa chỉ những vòng tóc xoăn dựng đứng, đặc trưng, nằm trên đầu người đàn ông đó. - Mày là một tên Caphia[3]. Tao không bán cho mày. Cút đi! Người đàn ông đưa mấy ngón tay vuốt đầu - Không phải thưa ông chủ, tôi là người da màu[4], không phải Caphia đâu. Thưa ông chủ, cho tôi mua một cốc seri. Ánh mắt mang vẻ van nài, người đàn ông đó đặt một đồng nửa silinh[5] lên mặt quầy. Hunđơ đảo mắt quanh quầy rượu. Y gọi to: - Giôn, lại đây! Một thổ dân cao lớn đặt chiếc cốc đang rửa xuống, bước tới chỗ chủ tiệm. Hunđơ trỏ khuôn mặt lo âu bên kia quầy rượu: - Nó là một tên Caphia hay một gã da màu? Giôn chột mắt chằm chằm nhìn người kia một lát. - Thưa ông chủ, một tên Caphia đấy. Chủ của hắn, vóc người to lớn, nét mặt cáu kỉnh, trông hãm tài, có bộ ria oai vệ nhìn trừng trừng một cách tàn nhẫn. - Tao không bán cho mày, xéo mau đi! - Hunđơ chỉ ra cửa. Người đàn ông đó đứng yên, vẻ cau có giận dữ thoáng qua trên mặt anh ta. Hunđơ cúi xuống nắm lấy chiếc roi da nặng trịch để giữa các chai rượu. Y giơ chiếc roi cao quá vai và đập đen đét trên quầy. Người đàn ông đó bước lùi lại, hai tay che mặt, miệng há hốc sợ hãi. - Xéo đi! - Hunđơ thét lên. - Này, cầm lấy tiền của mày, cút đi mau! Mắt vẫn theo dõi chiếc roi da đã lại vung lên, người đàn ông rón rén tiếng về phía trước, chộp lấy đồng tiền của mình và lui ra cửa, đến đây anh ta trừng mắt nhìn Giôn trước khi lén bước ra. Hunđơ ném lại chiếc roi da xuống dưới quầy. - Chắc hẳn chúng lại muốn giở trò! - Y càu nhàu với Giôn khi quay nhìn các khách hàng khác đang ở trong gian hàng dành cho khách không phải người Âu. Rót ra thứ rượu vang Kêp rẻ tiền, y nhăn mũi và quay đầu tránh cái hơi người ấm và ẩm của khách. Những người da màu không quan tâm đến thái độ khinh miệt của “ông chủ Hunđơ” đối với họ. Khi họ đứng đợi, háo hức, mắt thao láo và thèm khát nhìn rượu chảy ồng ộc vào các cốc thì điều quan trọng đối với họ là rượu khách sạn Đại Bàng này không có vị nhạt như pha nước lã. Khi họ đã trả tiền và ra về hết, Hunđơ mệt mỏi lui vào căn phòng của y ở phía sau quầy rượu. Y nói với mụ vợ cao kều, xương xẩu: - Bọn quỷ ấy bốc mùi hôi thối quá! ... Mời các bạn đón đọc Hãy Để Ngày Ấy Lụi Tàn của tác giả Gerald Gordon.
Điều Bí Mật - Julie Garwood
Cuối thế kỷ XXII, khi người Anh và người Scotland được sinh ra để làm kẻ thù của nhau... Cô tiểu thư xinh đẹp đáng yêu Judith Hampton lên kế hoạch rời khỏi ngôi nhà lạnh lẽo, ảm đạm ở nước Anh để dấn thân vào một cuộc hành trình đầy nguy hiểm đến Scotland. Cô quyết tâm thực hiện lời hứa với người bạn thân thiết từ thời thơ ấu, Frances Catherine, là sẽ có mặt vào thời điểm cô bạn sinh đứa con đầu lòng. Nhưng Judith còn mang trong mình một lý do đặc biệt khi đến với vùng đất cao nguyên: cô muốn tìm kiếm người cha lãnh chúa mà mình chưa từng được gặp mặt. Thế nhưng, Judith không hề được chuẩn bị tinh thần khi giáp mặt anh chồng của Frances Catherine, người chiến binh - vị lãnh chúa Scotland tự mình đến đất Anh để hộ tống cô đến với lãnh địa của mình. Lãnh chúa Iain là người đàn ông đẹp trai nhất, lôi cuốn nhất mà Judith từng gặp trong đời. Cuộc phiêu lưu của cô ở vùng đất cao nguyên càng lúc càng ly kỳ hơn với hàng loạt những sự kiện bất ngờ ngoài dự kiến. Đối với Iain, anh chưa từng gặp cô gái nào vừa ngang bướng lại vô cùng quyến rũ như cô gái của mảnh đất thù địch đang làm khách trên lãnh địa của mình. Những cuộc cãi vã, những cơn thịnh nộ chứa đựng đầy đam mê bùng nổ giữa họ ngay từ nụ hôn đầu tiên, rồi dần dần chuyển thành một tình yêu sâu đậm và mãnh liệt đến nỗi anh bắt đầu cảm thấy lo sợ cho tương lai của hai người... vì thân thế của cha Judith là một bí mật khủng khiếp có thể đập tan quan hệ liên minh táo tợn nhất giữa các thị tộc vùng cao nguyên, cũng như tàn phá mối tình đã trở nên son sắt giữa vị lãnh chúa trẻ tuổi và cô gái người Anh đầy cá tính. Bí mật trong "Điều bí mật” là nền tảng cho câu chuyện về tình bạn, tình yêu, tình thân gia đình, tình người trong xã hội với chất lãng mạn cổ tích làm cho tinh thần thư thái, như một luồng gió mới mát lành thổi vào cuộc sống còn đầy những hoài nghi, toan tính. Câu chuyện mang đến cho người đọc niềm tin mãnh liệt vào tình yêu lãng mạn và cái kết có hậu của những câu chuyện cổ tích không bao giờ kết thúc. *** Đôi điều về tác giả: Julie Garwood là một tác giả người Mỹ khá thành công ở thể loại tiểu thuyết lãng mạn với hơn 27 đầu sách, 35 triệu bản in được phát hành trên khắp thế giới. Các tác phẩm của Julie thường xuyên góp mặt trong danh sách best-seller của New York Times. Julie viết cả tiểu thuyết lịch sử - lãng mạn lẫn hiện đại lãng mạn pha trộn sự hồi hộp, gay cấn. Bên cạnh Gentle warrior (Chiến binh nhân từ); A girl named summer (Cô nàng mùa hè); Prince Charming (Hoàng tử trong mơ); các series: Crown's Spies (Những chàng điệp viên hoàng gia); Lairds' Brides (Những nàng dâu quý tộc); Highlands' Lairds (Những quý tộc miền cao nguyên)...The Secret (Điều bí mật) là một trong những tác phẩm xuất sắc của Julie Garwood. *** Sách đã xuất bản và dịch tại Việt nam: Món Quà Tình Yêu Lâu Đài Hạnh Phúc Thiên Thần Hộ Mệnh Danh Dự Huy Hoàng Cô Nàng Sư Tử Rebellious Desire Kẻ Phá Đám Điều Bí Mật Sizzle The Ideal Man Shadow Music *** “Judith, dậy thôi. Đến lúc lên đường rồi.” Iain nhẹ nhàng lay cô tỉnh dậy. Cô mở mắt và thấy chồng mình đang ngồi trên mép giường. Chỉ cần nhìn vào vẻ mặt tối sầm của anh là đầu óc cô ngay lập tức tỉnh táo. Cô ngồi dậy, kéo chăn lại quanh người và nhìn anh chằm chằm. “Lên đường?” Cô thì thào hỏi, cố hiểu ý anh. “Em sẽ lên đường bây giờ ư?” “Phải.” Giọng anh chắc nịch, vẻ mặt kiên quyết không kém. Sao anh lại tỏ ra lạnh lùng như vậy? Judith túm lấy tay anh khi anh đứng dậy. “Sớm thế này ư, Iain?” “Phải”, anh trả lời. “Trong vòng một giờ nữa, nếu được.” Anh gỡ tay cô ra, cúi xuống hôn lên trán cô, rồi đứng dậy và bước về phía cửa. Cô gọi với theo anh. “Em muốn nói lời tạm biệt với Frances Catherine.” “Không có thời gian đâu”, anh bảo cô. “Chỉ xếp một vali thôi. Đem nó ra chuồng ngựa. Anh sẽ gặp em ở đó.” Cửa đóng lại sau lưng chồng cô. Ngay lập tức cô òa lên khóc. Cô biết lúc này trông mình rất đáng thương, nhưng cô chẳng quan tâm, cũng chẳng thể suy nghĩ mạch lạc được nữa. Cô đã nói với Iain rằng mình không muốn ở lại đây. Anh chỉ đơn giản trao cho cô những gì cô muốn. Mẹ kiếp, làm sao anh có thể để cô đi được chứ? Anh không nhận ra cô yêu anh nhiều đến nhường nào sao? Judith làm vệ sinh cá nhân, rồi mặc vào chiếc váy dài màu lam sẫm. Cô chải đầu, xếp đồ vào vali, và cuối cùng khi đã sẵn sàng để lên đường, cô nhìn một lần cuối quanh căn phòng của mình. Chiếc áo choàng đang treo trên mắc ở gần cửa ra vào. Cô không muốn để nó lại, liền gấp tấm áo và nhét vào trong vali. Cô thôi không khóc nữa. Cô cũng thôi không cảm thấy thương hại bản thân mình nữa. Chúa ơi, lúc này cô đang đấu tranh với nỗi tức giận. Một người chồng thực sự yêu vợ sẽ không để cô ấy rời xa mình. Cô cần phải nói với Iain như thế. Anh thực lòng yêu cô. Cô không nghi ngờ chút nào về điều đó. Kể cả chuyện hành động của anh làm cô vô cùng khó hiểu cũng chẳng quan trọng. Cô sẽ chỉ bắt anh giải thích mình đang làm gì… và vì sao. Cô không thể hình dung ra cuộc sống không có anh. Judith chạy qua ngưỡng cửa và lao xuống cầu thang, chiếc vali giữ chặt trong tay. Graham đang đứng trên cửa ra vào, tay giữ cánh cửa. Judith có thể thấy đám đông rất lớn đang tập trung ở bên kia sân. Cô cố bước qua ông già mà không liếc nhìn ông. Ông chạm vào vai cô để làm cô chú ý. Cô dừng lại, nhưng bướng bỉnh giữ nguyên ánh mắt nhìn xuống. “Sao cô không nhìn tôi, cô gái?” Graham hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Điều Bí Mật của tác giả Julie Garwood.
Ba... Ngàn Lẻ Một Đêm - Mạc Can
Là những truyện ngắn liên hoàn về chuyện ngàn lẻ một đêm được viết theo lối hiện đại qua giọng kể của Bác Ba Phi Mạc Can. Những câu chuyện trong cung đình, trong đời sống được các cận thần của vua chuyển thành những câu chuyện hài, chuyện phiếm đầy dí dỏm và rất nhân văn. Những nhân vật nhà vua, nàng Xêrênát, quan Ngự Y, quan Thừa Tướng được đặc tả với một giọng điệu rất Ba Phi. *** Mạc Can tên thật là Lê Trung Can, sinh năm 1945, trong một gia đình nghèo, lại đông anh em. Các anh em ông mỗi người mỗi cảnh, vất vả mưu sinh bằng trăm thứ nghề và người nào cũng nghèo rớt. Ông là một nghệ sỹ, nhà văn Việt Nam. Ông nổi tiếng là một nghệ sỹ đa tài, tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động nghệ thuật như đóng hài, đóng phim, biểu diễn ảo thuật và viết văn. Tháng 3/2011, “nhà văn trẻ” Mạc Can trở về Sài Gòn sau gần 2 năm sống ở Mỹ để lấy cảm hứng viết cuốn sách dạng hồi ký mang tên Nhớ (NXB Trẻ và Tủ sách Tuổi trẻ ấn hành). Có thông tin cho biết, khoảng đầu năm 1980, có một đoàn làm phim của Nhật đến Sài Gòn ghi hình. Mạc Can được mời vào vai người đi chợ để giới thiệu các sản vật Việt Nam. Khởi đầu sự nghiệp viết văn ở tuổi 60 bằng tiểu thuyết “Tấm ván phóng dao”, cứ ngỡ Mạc Can chỉ ghé qua khu vườn văn chương thoáng chốc rồi đi. Thế nhưng 9 năm qua, ông đã lần lượt cho ra đời nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn được bạn đọc yêu thích. Ông được giải của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2005, ông cũng được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn TP.HCM. *** Tác phẩm tiêu biểu: Truyện, tập truyện: Món nợ kịch trường (1999) Tờ 100 đôla âm phủ (2004) Cuộc hành lễ buổi sáng (2005) Người nói tiếng bồ câu (2006) Ba…ngàn lẻ một đêm (2010) Nhớ (2011) Mạc Can – Truyện ngắn chọn lọc (2013) Tiểu thuyết: Tấm ván phóng dao (2004) Phóng viên mồ côi (2007) Những bầy mèo vô sinh (2008) Quỷ với bụt và thần chết (2010 Tạp bút: Tạp bút Mạc Can (2006) Mời các bạn đón đọc Ba... Ngàn Lẻ Một Đêm của tác giả Mạc Can.
Cuối Trời Hợp Tan - Anne Tyler
Pauline và Michael yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên, nhưng sau khi kết hôn, do có quá nhiều sự khác biệt về tính cách, sở thích, thói quen... nên cuộc sống lứa đôi của họ xảy ra liên tiếp những mâu thuẫn, điều này đã làm tình yêu mãnh liệt thuở ban đầu của họ phai nhạt dần. Những cuộc cãi vã bất tận, những lời đay nghiến nhau, nước mắt, chiến tranh lạnh, làm lành rồi lại cãi vã... Họ cứ sống mệt mỏi trong cái vòng luẩn quẩn đó mà không sao tìm được mệt mỏi trong cái vòng luẩn quẩn đó mà không sao tìm được hạnh phúc thực sự, vì cái tôi của cả hai đều quá lớn. Sau ba mươi năm chung sống, cuối cùng họ đã chia tay nhau..., bởi họ nhận ra rằng, dù sống bên nhau nhưng họ không cùng nhìn về một hướng mà vẫn là những kẻ xa lạ trong đời sống hôn nhân, không thể hiểu và dung hòa được với người bạn đời của mình. Tiểu thuyết là một món quà ý nghĩa dành tặng riêng cho những ai đã, đang sắp bước vào đời sống hôn nhân. Từ câu chuyện của hai nhân vật chính, độc giả sẽ có thêm những kinh nghiệm sống quý báu, giúp hóa giải mâu thuẫn không thể tránh khỏi trong đời sống vợ chồng.. Cuối trời hợp tan là cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội thứ 16 của Anne Tyler, từng lọt vào top 10 cuốn sách bán chạy nhất ở Mỹ vào năm 2004 và nằm trong danh sách những cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất do tạp chí "New York Times" bình chọn năm 2005. *** Anne Tyler sinh năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota (Mỹ). Là con cả trong một gia đình có bốn anh em, cha là nhà hóa học, mẹ tham gia công tác xã hội, những năm tháng ấu thơ của Anne trôi qua trong cộng đồng những tín đồ giáo phái Quaker trên những dãy núi ở Bắc Carolina và Raleigh Anne Tyler sinh năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota (Mỹ). Là con cả trong một gia đình có bốn anh em, cha là nhà hóa học, mẹ tham gia công tác xã hội, những năm tháng ấu thơ của Anne trôi qua trong cộng đồng những tín đồ giáo phái Quaker trên những dãy núi ở Bắc Carolina và Raleigh. 11 tuổi Tyler mới được đến trường. Chính điều kiện giáo dục như vậy khiến cô bé Tyler lúc đó nhìn thế giới xung quanh với rất nhiều ngạc nhiên, lạ lẫm. Anne Tyler sinh năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota (Mỹ). Là con cả trong một gia đình có bốn anh em, cha là nhà hóa học, mẹ tham gia công tác xã hội, những năm tháng ấu thơ của Anne trôi qua trong cộng đồng những tín đồ giáo phái Quaker trên những dãy núi ở Bắc Carolina và Raleigh. 11 tuổi Tyler mới được đến trường. Chính điều kiện giáo dục như vậy khiến cô bé Tyler lúc đó nhìn thế giới xung quanh với rất nhiều ngạc nhiên, lạ lẫm. Tuy nhiên, năng khiếu văn chương của Tyler được bộc lộ khá sớm. 7 tuổi Tyler đã bắt đầu viết những câu chuyện đầu tiên cho riêng mình. The Little House (Virginia Lee Burton) - cuốn sách yêu thích nhất của Tyler đã dạy cô bé rất nhiều điều về cuộc sống. Nhưng mơ ước lớn nhất của Tyler lúc bấy giờ là trở thành bác sĩ. Cô bé Anne Tyler có thể bỏ ra hàng giờ ngồi tưởng tượng mình là bác sĩ, trò chuyện với bệnh nhân như thế nào, bệnh tật và cuộc sống của họ ra sao, tự nghĩ ra những vở kịch nho nhỏ xung quanh những nhân vật này và thì thầm một mình trong đêm. “Những câu chuyện tưởng tượng thời thơ bé đã giúp tôi trở thành tác giả được yêu mến như ngày hôm nay”, Anne Tyler chia sẻ.   Trong thời gian học trung học tại Đại học Duke, Tyler từng hai lần đoạt giải Anne Flexner Award về sáng tác. Truyện ngắn đầu tay mang tên Laura được đăng trên tạp chí văn học của trường. Tốt nghiệp trung học, Tyler tiếp tục thực hiện đề tài nghiên cứu về nướcNga tại Đại học Columbia, New York. Trước khi chuyển đến Maryland, bà làm công việc của người sưu tầm tư liệu tại Đại học Duke, sau đó là thủ thư tại thư viện luật của Đại học McGill. Năm 1963, Tyler kết hôn và có hai con gái. Kể từ đó, bà định cư ở Baltimore, bang Maryland và chuyên tâm sáng tác. Những câu chuyện lấy bối cảnh ở Baltimore của Anne Tyler khắc họa cuộc sống của những gia đình trung lưu nơi đây với những bí mật, hoài bão, ước mơ và có cả những khủng hoảng họ phải đối mặt.   Năm 1977, bà giành giải thưởng của Viện Hàn Lâm với tác phẩm Earthly Possessions.   Breathing Lessons, tiểu thuyết thứ mười một mang về cho bà giải thưởng Pulitzer năm 1989. The Accidental Tourist (Du khách bất đắc dĩ) được trao giải National Book Critics Circle Award năm 1985; có mặt trong danh sách đề cử giải thưởng Pulitzer năm 1986 và đứng đầu danh sách những cuốn sách bán chạy nhất của The New York Times. Du khách bất đắc dĩ cũng đã được chuyển thể thành phim năm 1988 với sự góp mặt của hai diễn viên William Hurt and Geena Davis. Đây cũng là hai tác phẩm nổi tiếng nhất của Anne Tyler.   Ngoài ra, bà còn biên tập cho ba tuyển tập: The Best American Short Stories 1983, Best of the Southvà Best of the South: The Best of the Second Decade. Trong số những nhà văn đương đại sở hữu những cuốn sách bán chạy nhất, Anne Tyler sống giản dị, khép kín nhất. Rất ít khi bà xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn, hiếm khi thực hiện những chuyến đi quảng bá sách và hầu như không lộ diện trước đám đông. Các cuộc phỏng vấn Anne Tyler chủ yếu được thực hiện qua email.  *** Tất cả những người hàng xóm đều có thể miêu tả lại cảnh gặp nhau lần đầu giữa Michael và Pauline. Đó là một buổi chiều thứ hai đầu tháng 10 năm 1941. Con đường St. Cassians vẫn nhỏ hẹp như ngày nào. Nó nằm ở phía Đông thành phố Baltimore, hai bên đường là những dãy nhà bé nhỏ chật hẹp san sát nhau, chen lẫn ở giữa là những cửa hàng rộng chỉ bằng phòng khách. Cặp song sinh nhà Golka đội khăn trùm đầu gần như giống nhau, đang đứng bàn luận về những hộp phấn hồng để trong tủ kính hiệu thuốc của nhà Sweda; bà Pozniak tay cầm gói giấy nhỏ màu nâu bước ra khỏi cửa hiệu ngũ kim; chiếc xe hơi Ford đời B của ông Kostka vừa chạy tới, tiếp đến là một chiếc Cadillac hào nhoáng cũng phóng vèo qua; một lúc sau, anh Ernie Moskowicz hàng thịt cọc cạch đạp chiếc xe cũ kỹ chạy ngang qua. Cửa hiệu tạp hóa nhà Anton nhỏ hẹp và mờ tối chất đầy hàng hóa. Trong đó, có một quầy hàng bằng gỗ đặt theo hình chữ L, còn hàng hóa trên giá xếp cao đụng cả trần nhà thấp bé. Mẹ Michael đang gói hai hộp đậu rồi đưa cho bà Brunek với vẻ mặt lạnh như tiền, thậm chí chẳng thèm nói lấy một câu “Hẹn gặp lại quý khách”. Con bà Brunek - chẳng biết là Carl, Paul hay Peter, bởi chúng giống nhau như khuôn đúc. Một miếng ván bên cạnh chỗ để thực phẩm ngũ cốc kêu ken két, toàn bộ khung sườn của căn nhà cũ kỹ này lại vùi sâu dưới đó. Michael đang đứng phía sau quầy hàng khá dài bên trái, bận rộn chất từng cục xà phòng hiệu Woodbury lên giá. Lúc đó anh vừa tròn 20 tuổi, dáng người cao cao, quần áo không vừa người, tóc đen nhánh và cắt hơi ngắn, khuôn mặt trông rất gầy guộc, râu ria đen sì, cho dù ngày nào anh cũng cạo nhưng chân râu vẫn lộ ra. Lúc này, anh đang chất xà phòng thành hình kim tự tháp, tầng dưới cùng xếp 5 cục, kế tiếp 4 cục, rồi 3 cục... Mặc cho mẹ anh đã nói nhiều lần rằng, bà không thích kiểu thiết kế giàu tính sáng tạo này, mà chỉ sắp xếp làm sao trông cho vững là được. Một lát sau, ngoài cửa nghe tiếng leng keng, leng keng. Bất chợt, rầm một tiếng, bốn cô gái xộc vào, tốc độ nhanh như dòng nước xiết, mang theo mùi mồ hôi và mùi khói xe. “Giúp chúng tôi với!”, Wanda Bryk kêu lên. Cô bạn thân Katie Vilna đang khoác vai dìu một cô gái mặc áo khoác đỏ lạ mặt, đồng thời đè chặt chiếc khăn tay trên huyệt thái dương bên phải của cô ta. “Cô ấy bị thương! Cần được cấp cứu!”. Wanda gào to. Michael dừng công việc đang làm. Bà Brunek hoảng sợ dùng một tay che mặt. Carl, Paul hay Peter “huýt” một tiếng dài. Nhưng bà Anton lại nói không chớp mắt: “Sao lại đưa cô ta đến đây?”, bà hỏi, “Phải đưa đến trạm y tế chứ”. ... Mời các bạn đón đọc Cuối Trời Hợp Tan của tác giả Anne Tyler.