Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả

Tác phẩm - Năm 1989, Những cậu bé kẽm lần đầu được xuất bản - Tháng 7 năm 1992, những đơn kiện Những cậu bé kẽm và S. Alexievich đầu tiên được gửi đi - Ngày 20 tháng 1 năm 1993, phiên xử đầu tiên diễn ra - Ngày 10 tháng 8 năm 2015, giải Nobel Văn học thứ 112 trong lịch sử gọi tên Svetlana Alexievich, dư luận một lần nữa lại dậy sóng… Vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Những cậu bé kẽm là thiên thứ ba trong loạt năm quyển của bộ Những giọng nói không tưởng gồm: Những nhân chứng cuối cùng, Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Lời nguyện cầu Chernobyl và Thời second hand. Những cậu bé kẽm, một nhan đề khốc liệt – những xác người trong quan tài kẽm – những cái xác vừa mới mười tám đôi mươi – những cậu bé đẹp đẽ rạng ngời, vừa rời vòng tay cha mẹ, người thương để rồi trở về trong những cỗ quan tài kín bưng – “hàng vận chuyển 200”. Được viết bằng thể loại văn xuôi tư liệu cùng với tâm thế của một con người vị nhân phản chiến, cuốn sách đã khuấy lên một giai đoạn lịch sử đầy những tổn thương đau đớn, đã phác họa một bối cảnh, đã soi chiếu bằng một góc nhìn trước nay chưa từng được công bố. Những cậu bé kẽm là lời bộc bạch của những người sống sót trở về từ chiến tranh Afghanistan và của thân nhân những người đã mất. Đó là những dòng hồi ức khốc liệt, đẫm máu, thống khổ và vĩnh viễn làm thương tổn không chỉ thân thể mà còn tinh thần con người. Nó phơi bày cái phi nghĩa, vô nhân của một cuộc chiến tranh vô vọng. Những “Afghan” – những người Nga tham gia chiến tranh ở Afghanistan 1979 – 1989, những người ra đi trên danh nghĩa làm “nghĩa vụ quốc tế” rồi rút về trong thất bại, không bao giờ được biết niềm tự hào của thế hệ cha ông trong cuộc chiến tranh Vệ Quốc vĩ đại. Người “may mắn” nằm lại trong những chiếc quan tài kẽm, số khác thân xác lang bạt nơi chiến trận. Kẻ sống sót trở về cũng không bao giờ có thể quay lại cuộc sống của một người bình thường bởi những sang chấn khủng khiếp mang tên hội chứng Afghanistan. Người ngoài cuộc nhìn nhận họ như những kẻ sát nhân, kẻ bại trận, còn chính họ cũng quên mất phải sống bình thường là thế nào! Hơn năm trăm cuộc phỏng vấn đã được Svetlana Alexievich thực hiện để tạo nên bức tranh toàn cảnh về những góc khuất của chiến tranh. Cũng chính những trang tư liệu về nỗi đau của những nỗi đau này, ngày 20 tháng 1 năm 1993, cuốn sách của Svetlana Alexievich bị đưa ra tòa xét xử bởi những người cung cấp tư liệu đâm đơn kiện với lý do phỉ báng danh dự và ngụy tạo lời kể. Phiên tòa kéo theo sự chú ý của chính quyền và công chúng tạo thành làn sóng dư luận ở cả hai phía, ủng hộ và chống đối Svetlana Alexievich. Ở những lần tái xuất bản sau, Svetlana Alexievich đã đồng ý thêm vào toàn bộ biên bản vụ kiện cùng những sự kiện có liên quan. Vậy, vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Có lẽ câu trả lời sẽ nằm trong suy nghĩ mỗi người khi bước vào thế giới của Những cậu bé kẽm. “Tôi tự hỏi Svetlana Alexievich có cần phải viết một cuốn sách về những điều kinh khủng của chiến tranh không? Có! Những bà mẹ có cần phải bảo vệ con trai mình không? Có! Và những “người Afghan” có cần phải bảo vệ đồng đội mình không? Lại một lần nữa - có! …Các đạo diễn và nhạc trưởng, các chính khách và nguyên soái, những kẻ tổ chức cuộc chiến tranh này, không có mặt trong phòng xử án. Ở đây chỉ toàn những phía bị hại: là tình yêu, không chấp nhận sự thật cay đắng về chiến tranh; là sự thật, cần phải được nói ra mặc cho tình yêu thế nào chăng nữa; là danh dự, không thể chấp nhận tình yêu lẫn sự thật...” Pavel Shetko Một “cựu Afghan” Tác giả Nhà văn Svetlana Alexievich tại Ukraine trong một gia đình công chức. Năm 2015, bà được trao giải Nobel Văn học. Theo Viện Hàn lâm Thụy Điển, giải thưởng này được trao cho bà để “tôn vinh những dòng văn phức điệu của bà. Văn của bà là tượng đài tri ân sự đau khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta.” Sau khi tốt nghiệp khoa Báo chí Đại học Tổng hợp Quốc gia Belarus, bà làm việc cho tờ Báo nông nghiệp và tạp chí Neman ở Minsk. Trong suốt vài thập niên bà đã viết biên niên tư liệu – nghệ thuật Những giọng không tưởng – gồm năm quyển sách (Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ - 1983, Những nhân chứng cuối cùng - 1985, Những cậu bé kẽm - 1989, Lời nguyện cầu từ Chernobyl - 1997, Thời second-hand - 2013) và để những “con người nhỏ bé” đích thân kể về số phận của mình. Thực chất, đây là một thể loại đặc biệt, một loại tiểu thuyết chính trị đa giọng, trong đó những câu chuyện nhỏ bé hợp thành một lịch sử lớn. Các tác phẩm của Svetlana Alevievich đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng, là nền tảng cho hằng trăm bộ phim điện ảnh, kịch sân khấu và truyền thanh trên khắp thế giới, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. *** LỜI GIỚI THIỆU “Văn chương đang ngạt thở trong những biên giới của mình”. Với tâm tình đó, nữ nhà văn Svetlana Alexievich đã quyết định chọn hình thức “truyện vừa tư liệu” cho cuốn sách Những cậu bé kẽm, được in lần đầu tiên năm 1989. Hai mươi sáu năm sau, cuốn sách đã góp phần đưa bà đến giải Nobel văn học năm 2015, cùng với bốn quyển sách khác trong loạt sách Những giọng nói không tưởng: Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ (1983), Những nhân chứng cuối cùng (1985), Lời nguyện cầu từ Chernobyl (1997) và Thời second hand (2013). Nhưng cũng chính thể loại truyện vừa tư liệu của Những cậu bé kẽm đã khiến bà phải ra tòa (phần cuối quyển sách đã giới thiệu tiến trình tố tụng này). Phiên tòa mà, từ một phía bà bị cáo buộc là “xúc phạm danh dự và phẩm giá” của những người lính đã chết trong cuộc chiến tranh Afghanistan, của những người mẹ vẫn còn đang ngồi bên mộ chí con mình. Còn từ phía những người ủng hộ nữ nhà văn, đó là phiên tòa “xử án văn chương”, “xử án một quyển sách”, “xử án sự thật”. Cuộc tranh cãi đó, cuối cùng được cố gắng ngã ngũ ở việc thế nào là thể loại truyện vừa tư liệu; vẫn chưa giải đáp được câu hỏi “sự thật là sự thật nào”, khi chính nữ nhà văn cũng hoài nghi như Pilatus đặt câu hỏi về sự thật trong phiên tòa xử Chúa. Phiên tòa đã khép lại đầu những năm 1990. Nhưng cuộc tranh cãi về sự nghiệp của nữ nhà văn Belarus viết bằng tiếng Nga một lần nữa được nhắc lại nhân Nobel 2015. Nếu bà được ngợi khen trên báo chí phương Tây như một “bậc thầy xuất sắc trong lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật tư liệu”(Frankfurter Allgemeine), thì nhà phê bình Nga Olga Tukhanitsa, lại nhận xét vào tháng 12-2015: “Một mặt, Alexievich khăng khăng biện hộ mình không phải là nhà văn nhưng lại chứng minh những gì bà đang làm trong thế giới hiện đại là văn học chân chính; mặt khác, bà - như một nữ sinh, đoàn viên Komsomol, cố nhồi vào thông điệp của mình tất cả những khuôn mẫu định kiến về nước Nga…” Dẫu sao, chúng ta sẽ không thể tranh luận với cả hai ý kiến trên nếu chưa đọc hết Những cậu bé kẽm. Bản dịch tiếng Việt dựa trên nguyên bản tiếng Nga đã được tác giả hiệu đính và NXB Vremya (Moskva) phát hành năm 2017. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả, và thành thật cảm ơn bà Marina Vladimirovna Sharoiko (Giảng viên Bộ môn Lý luận Văn học Nga, Đại học Tổng hợp Kuban) và bà Irina Letiagina (cựu biên tập viên NXB Cầu vồng, và NXB Tiến bộ - Liên Xô cũ) đã giúp chúng tôi hoàn thành bản dịch này. Phan Xuân Loan 10-2017 *** LỜI MỞ ĐẦU Tôi đi một mình. Giờ đây tôi sẽ phải đi một mình. Nó giết người. Con trai tôi. Bằng cái rìu nhà bếp tôi dùng xẻ thịt. Nó quay về từ trận chiến và giờ thì giết người. Buổi sáng nó mang cái rìu đặt về chỗ cũ, trong tủ bếp, nơi tôi cất chén dĩa. Hình như ngày hôm đó tôi còn làm cho nó món sườn hầm. Một lúc sau ti vi và báo buổi chiều đưa tin các ngư dân vớt được một thi thể từ dưới hồ. Từng mảnh. Bạn tôi gọi điện: - Chị đọc báo chưa? Một vụ giết người chuyên nghiệp. Kiểu Afghanistan. Con trai tôi đang ở nhà, nằm đọc sách trên xô pha. Tôi không biết và cũng chẳng đoán ra gì, nhưng chẳng hiểu sao sau những lời ấy tôi lại nhìn nó. Trái tim người mẹ. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Không à? Còn tôi thì nghe đấy, vừa bắt đầu kể chuyện này là tôi đã nghe tiếng chó sủa. Lũ chó đang chạy. Ở đó, nơi con trai tôi đang ngồi tù có những con bẹc giê lớn. Và mọi người mặc toàn đen, rặt một màu đen. Tôi trở về Minsk, đi ngang qua cửa hàng bánh mì, qua vườn trẻ, tay cầm ổ bánh mì với sữa và nghe thấy tiếng sủa. Tiếng sủa chói tai. Nó làm tôi như đui mù. Có lần tôi suýt lọt vào gầm xe. Tôi sẵn sàng ở rịt bên mộ con mình, sẵn sàng nằm cạnh nó. Nhưng tôi không biết… không biết sẽ sống thế nào với chuyện này. Đôi khi tôi sợ xuống bếp, sợ nhìn thấy cái tủ bếp đó, nơi cất cái rìu. Cô không nghe thấy gì hết à? Không à? Giờ đây tôi không biết nó sẽ ra sao, con trai tôi. Tôi sẽ đón nó về thế nào sau mười lăm năm nữa. Nó bị tuyên mười lăm năm khổ sai. Tôi đã nuôi dạy nó thế nào? Nó mê khiêu vũ. Tôi và nó đã đến bảo tàng Hermitage ở Leningrad. Chúng tôi đã đọc sách cùng nhau. (Khóc.) Chính Afghanistan đã cướp mất con trai tôi. …Tôi nhận được điện tín từ Tashkent: “Hãy đón chuyến bay số…” Tôi lao ra ban công, gào to hết sức: - Còn sống! Con tôi còn sống! Cuộc chiến khủng khiếp này kết thúc với tôi rồi. Rồi tôi ngất đi. Dĩ nhiên chúng tôi đã ra sân bay trễ, chuyến bay đã hạ cánh từ lâu, tôi tìm thấy con trai mình trong vườn hoa. Nó nằm trên đất và níu lấy cọng cỏ, ngạc nhiên sao cỏ xanh đến thế. Nó không tin mình có thể trở về. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi tối những người láng giềng kéo sang nhà chúng tôi, họ có một cô con gái nhỏ, bé thắt một cái nơ xanh trên tóc. Nó đặt con bé ngồi lên gối, ôm vào lòng và khóc, nước mắt cứ thế lã chã tuôn rơi. Bởi ở đó chúng đã giết người, cả nó. Mãi sau này tôi mới hiểu ra. Ở biên giới, hải quan đã “tỉa” quần lót của nó. Hàng Mỹ. Không được phép. Vì thế nó về nhà mà không có đồ lót. Nó mang về cho tôi cái áo choàng, cái áo cũng bị tịch thu. Nó mang cho bà ngoại cái khăn trùm đầu, họ cũng lấy mất. Nó đành về với những bông hoa lay ơn. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi sáng thức dậy nó còn bình thường: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”. Đến chiều mặt nó tối dần, khóe mắt nặng trĩu. Tôi không thể tả nổi điều đó. Lúc đầu nó chẳng uống giọt nào. Nó ngồi quay vào tường rồi bật dậy khỏi xô pha, với lấy cái áo khoác. Tôi đứng ngay cửa: - Con đi đâu, Valyushka? Nó nhìn tôi như nhìn vào thinh không. Rồi bỏ đi. Tối muộn tôi đi làm về, nhà máy ở xa, lại làm ca hai, tôi gọi cửa nhưng nó không mở. Nó không nhận ra giọng tôi. Chuyện đó thật kỳ quặc, ừ thì giọng bạn bè có thể không nhận ra, nhưng đây là giọng mẹ nó! Hơn nữa, lại là “Valyushka” - chỉ có tôi mới gọi nó như thế. Dường như lúc nào nó cũng đang đợi ai đó, sợ sệt. Tôi mua cho nó cái sơ mi mới, ướm thử và thấy trên tay nó có những vết cắt. - Cái gì đây? - Chuyện nhỏ mà mẹ. Sau đó tôi mới biết. Sau phiên tòa. Trong thời gian huấn luyện nó đã cắt cổ tay. Trong một giờ diễn tập, nó là nhân viên điện đài, nhưng không kịp ném điện đài xách tay lên cây đúng lúc, không hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định nên thượng sĩ phạt nó múc 50 thùng chất thải từ nhà vệ sinh diễu qua đội hình. Nó đã xách và ngất xỉu. Bệnh viện chẩn đoán: chấn động tâm thần nhẹ. Đêm đó nó đã cắt ven tay. Lần thứ hai là ở Afghanistan. Trước cuộc bố ráp, họ kiểm tra và điện đài không hoạt động. Thiếu một số phụ kiện khan hiếm khi đó. “Kẻ nào đã lấy trộm chúng. Ai?” Chỉ huy cáo buộc nó hèn nhát giấu các chi tiết đó đi để không phải hành quân cùng mọi người. Mà ở đó trộm cắp như rươi, thậm chí các bộ phận ô tô cũng bị tháo rời đem bán cho các dukan*. Để mua ma túy, thuốc lá, thức ăn. Họ lúc nào cũng đói. Trên truyền hình đang có chương trình về Edith Piaf*, chúng tôi luôn xem cùng nhau. - Mẹ, - nó hỏi, - mẹ có biết ma túy là gì không? - Không. - Tôi nói dối, còn chính mình bắt đầu dõi theo nó: nhỡ nó hút thì sao? Tôi không phát hiện ra dấu vết nào. Nhưng ở đó họ sử dụng ma túy - tôi biết điều này. - Ở Afghanistan thế nào hở con? - Có lần tôi hỏi. - Thôi mà mẹ! Khi nó đi khỏi nhà, tôi đọc lại hết những bức thư từ Afghanistan của nó, tôi muốn đào xới, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với nó. Tôi không tìm thấy gì đặc biệt, nó viết buồn nhớ cỏ xanh, bảo bà ngoại chụp hình trên nền tuyết rồi gởi cho nó. Nhưng tôi đã nhận ra, cảm thấy đã có gì đó xảy ra với nó. Họ đã trả về cho tôi một con người khác. Đó không phải là con tôi. Mà chính tôi đã đưa con vào quân ngũ, nó vốn được hoãn nghĩa vụ. Tôi muốn nó thành người dũng cảm. Tôi thuyết phục con và chính mình rằng quân đội sẽ trui rèn nó tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Tôi tiễn nó đi Afghanistan với tiếng ghi-ta cùng một bữa tiệc ngọt chia tay. Nó mời bạn bè và các cô gái… Tôi nhớ đã mua tới mười cái bánh kem. Chỉ có một lần nó nói về Afghanistan. Vào một buổi tối. Nó ghé vào bếp, lúc tôi đang làm thịt thỏ. Cái bát đầy máu. Nó nhúng các ngón tay vào máu rồi nhìn cái bát. Nhìn chằm chằm. Rồi nói với chính mình: - Họ chở cậu ấy về với cái bụng bị thủng. Cậu ấy đề nghị mình bắn. Và mình đã bắn. Những ngón tay đầy máu thỏ. Với những ngón tay dính máu đó nó vớ lấy điếu thuốc rồi bỏ ra ban công. Tối hôm đó nó không nói thêm với tôi một lời nào. Tôi tìm tới các bác sĩ. “Hãy trả lại con trai cho tôi! Xin cứu giúp!” Tôi kể lại tất cả… Họ kiểm tra nó, thăm khám, nhưng ngoài chứng đau thần kinh tọa, họ chẳng phát hiện gì. Một lần nọ về nhà, tôi thấy bốn cậu trai lạ ngồi sau bàn. - Mẹ, họ từ Afghanistan về. Con gặp họ ở nhà ga. Họ chẳng có chỗ nào để qua đêm cả. - Tôi sẽ nướng một cái bánh ngọt cho các cậu. Nhanh lắm. - Chẳng hiểu sao tôi lại mừng rỡ. Chúng sống ở nhà tôi một tuần lễ. Tôi không đếm, nhưng tôi nghĩ chúng uống cỡ bốn thùng vodka. Mỗi tối tôi lại gặp ở nhà năm người lạ, người thứ năm là con tôi. Tôi không muốn nghe những câu chuyện của chúng, tôi sợ lắm. Nhưng vì ở chung một nhà nên tôi tình cờ nghe thấy. Chúng kể suốt hai tuần mai phục, chúng được phát thuốc kích thích để bạo gan hơn. Nhưng tất cả những chuyện đó được giữ kín. Vũ khí nào giết người hiệu quả hơn. Từ khoảng cách nào… Sau này tôi mới nhớ lại những câu chuyện đó, khi sự việc đã xảy ra. Chỉ sau đó tôi mới nghĩ ra, hoảng hốt nhớ lại. Còn trước đó chỉ có nỗi sợ: “Ôi,” tôi nói thầm, “chúng điên làm sao. Tất cả đều dở người”. Ban đêm. Trước cái ngày nó giết người. Tôi nằm mơ thấy mình đang đợi con nhưng mãi vẫn không thấy nó. Thế rồi người ta đưa nó về. Bốn “người Afghan” đó đưa về. Và họ ném nó xuống sàn xi măng dơ dáy. Cô hiểu không, sàn xi măng trong gian bếp chúng tôi ấy…* Cái sàn như sàn nhà tù. Lúc đó nó đã vào học khoa dự bị trường Đại học Kỹ thuật Phát thanh. Nó viết tốt bài luận. Nó hạnh phúc và mọi việc đều ổn. Tôi đã nghĩ nó đang nguôi ngoai. Sẽ đi học. Rồi cưới vợ. Nhưng cứ tối đến, tôi sợ những buổi tối, nó ngồi và nhìn chằm chằm vào vách rồi thiếp ngủ trên ghế bành. Tôi muốn nhào tới, lấy thân mình che chở và không thả cho nó đi đâu nữa hết. Bây giờ tôi nằm mơ thấy nó còn nhỏ và đòi ăn. Lúc nào nó cũng đói. Nó chìa hai tay. Trong mơ lúc nào tôi cũng thấy nó nhỏ bé và bị hạ nhục. Còn trong đời thật? Mỗi tháng hai cuộc gặp. Bốn tiếng chuyện trò qua lớp kính. Mỗi năm hai lần thăm nuôi, đó là khi tôi được mang gì đó cho nó ăn. Và tiếng chó sủa. Tôi nằm mơ thấy tiếng chó sủa. Chúng đuổi theo tôi khắp chốn. Có một người đàn ông tán tỉnh tôi. Tặng cả hoa. Khi ông ta mang hoa tới, “Ông tránh xa khỏi tôi,” tôi bắt đầu hét, “tôi là mẹ của tên giết người”. Thời gian đầu tôi sợ gặp những người quen, tôi trốn trong nhà tắm và chờ những bức tường đổ sập xuống người. Tôi ngỡ như người ngoài đường đều nhận ra tôi, chỉ trỏ nhau xem rồi xầm xì: “Nhớ vụ ghê rợn đó không? Chính con trai bà ta giết người đấy. Chặt làm tư. Kiểu Afghanistan”. Tôi chỉ ra đường vào buổi tối, tìm hiểu hết những loài chim đêm. Tôi nhận biết chúng qua tiếng hót. Vụ án được điều tra. Vài tháng trôi qua. Nó im lặng. Tôi đến quân y viện Burdenko ở Moskva. Ở đó tôi tìm được vài cậu trai từng phục vụ trong đội đặc nhiệm như nó. Tôi bộc bạch cùng họ. - Các cháu này, vì cái gì mà con trai bác giết người? - Hẳn là có chuyện gì đó. Tôi phải thuyết phục mình rằng con tôi có thể đã làm điều đó. Giết người. Tôi gặng hỏi họ rất lâu để hiểu ra rằng: nó có thể! Tôi hỏi họ về cái chết. Không, không phải về cái chết, mà về việc giết chóc. Nhưng cuộc trò chuyện đó không gợi được ở họ những cảm xúc đặc biệt nào, những cảm xúc mà bất kỳ việc giết chóc nào cũng đều có thể gợi lên ở một con người bình thường chưa từng thấy máu. Họ nói về chiến tranh như nói về một công việc, một công việc cần phải giết người. Sau đó tôi đến gặp những cậu trai cũng từng ở Afghanistan, và khi Armenia động đất họ đã tới đó cùng những đội cứu hộ. Tôi muốn biết, tôi bị ám ảnh vì chuyện đó: họ có sợ không? Họ cảm giác thế nào khi chứng kiến cái chết? Không, họ chẳng thấy sợ gì cả, thậm chí lòng thương hại ở họ cũng đã cùn mằn. Những hộp sọ vỡ tung, bẹp dí, những khúc xương người… Nhiều trường học bị vùi trong lòng đất. Những lớp học. Bọn trẻ ngồi học và cứ thế mà đi vào lòng đất. Còn họ thì nhớ và kể lại những chuyện khác, nào là họ đã đào được những kho rượu vang béo bở ra sao, họ đã uống những loại vang nào, loại cô nhắc nào. Họ đùa cợt: phải chi có thêm động đất ở đâu đó. Nhưng phải ở chỗ nào ấm áp cơ, nơi nho có thể mọc và làm được vang ngon. Họ sao thế? Tâm lý họ có bình thường không vậy? “Con căm thù cái đứa bị giết đó.” Nó viết cho tôi như thế cách đây không lâu. Sau năm năm. Chuyện gì đã xảy ra ở đó? Nó câm nín. Tôi chỉ biết, cậu trai đó tên Yura, khoác lác rằng đã kiếm chác được nhiều chi phiếu ở Afghanistan. Nhưng sau đó hóa ra cậu ta phục vụ ở Ethiopia, là chuẩn úy. Cậu ta đã nói dối về Afghanistan. Tại phiên tòa, chỉ một mình luật sư biện hộ nói rằng chúng ta đang xử án một người bệnh. Trên ghế bị can không phải là tội nhân, mà là bệnh nhân. Anh ta cần được điều trị. Nhưng đó là bảy năm về trước, khi sự thật về Afghanistan chưa được hé lộ. Và chúng ta đã gọi tất cả là anh hùng. Những chiến sĩ làm nghĩa vụ quốc tế. Còn con trai tôi là kẻ giết người. Bởi nó làm cái việc mà họ từng làm ở đó. Vì việc đó mà họ được trao mề đay và huân chương. Nhưng tại sao họ lại buộc tội mình con tôi? Tại sao không buộc tội những kẻ đẩy nó vào nơi đó? Dạy nó giết người! Tôi đâu có dạy con mình việc đó. (Bùng nổ và gào thét.) Nó giết người bằng cái rìu bếp của tôi. Rồi buổi sáng nó mang đặt cái rìu lại vào tủ bếp. Như một cái muỗng hay một cái nĩa bình thường. Tôi ganh tị với những bà mẹ có con trở về cụt cả hai chân. Cứ để nó căm thù mẹ mình sau khi đã nốc say. Căm thù cả thế giới. Cứ để nó lao vào bà ta, như lao tới kẻ thù. Bà ta sẽ trả tiền cho gái mại dâm, để nó không phát rồ. Bản thân bà ta từng một lần trở thành tình nhân cho nó, bởi nó đã trườn ra ban công và muốn lao xuống từ tầng mười. Tôi chấp nhận tất cả. Tôi ganh tị với tất cả những bà mẹ, kể cả những ai có con đã nằm trong huyệt mộ. Tôi sẽ ngồi bên mộ chí của con và hạnh phúc. Tôi sẽ mang hoa tới. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Nó đuổi theo tôi. Tôi nghe thấy chúng. Một bà mẹ Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả của tác giả  Svetlana Alexievich & Phan Xuân Loan (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vẫn Mãi Yêu Anh - Debbie Macomber
“Vẫn mãi yêu anh” của nữ nhà văn Debbie Macomber là cuốn truyện thứ 5 trong bộ tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ, đã được dịch ra hơn 23 thứ tiếng khác nhau, với hơn 100 triệu bản sách đã được bán và được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. Quá khứ có cách để song hành cùng hiện tại, “Vẫn mãi yêu anh” chứa đựng sự tương giao giữa rộng mở và bí ẩn. Lần đầu tiên trong cả series, người đọc thấy mình bị thách thức chứ không chỉ tận hưởng. Bởi khói ám của sự nghi ngờ bỗng nhen nhóm trong không gian tươi tắn thường thấy của Vịnh Cedar. Mọi việc bắt đầu khi những giỏ quà và bưu thiếp nặc danh thình lình xuất hiện một cách khó hiểu trước thềm nhà McAfee. Dò theo dấu vết của sự thách thức, Roy bị dẫn vào miền ký ức, với bao giằng co giữa hiện tại ấm áp và quá khứ chông chênh, với bao trăn trở giữa con người hưởng thụ và con người phấn đấu. “Vẫn mãi yêu anh”, như một dòng sông vừa nhận được thác nguồn bỗng phải đối mặt với một địa thế hiểm nghèo. Liệu Roy có vượt lên được dòng cuồng lưu nguy hiểm mà đầy cám dỗ ấy không? Tập truyện “Vẫn mãi yêu anh” là diễn biến của những va chạm, xung đột và thử thách, để các nhân vật tìm được tình yêu đích thực của mình. Đây còn là một câu chuyện đẹp, sâu sắc và cảm động trong mỗi cửa hàng của hiệu ở vịnh Cedar, khi luôn có bạn mới để gặp, còn những người bạn cũ thì luôn hân hoan chào đón... “Vẫn mãi yêu anh” chứa đựng vừa đủ tình yêu và tiếng cười, nỗi buồn và sự thanh thản của tâm hồn, sự lãng mạn và nồng nàn, thấm đẫm tình cảm gia đình. Người đọc như bị cuốn hút với diễn tiến của câu chuyện khi các nhân vật đi từ nỗi thất vọng cùng cực đến chỗ học cách để mỉm cười lần nữa. Còn những người phụ nữ trong truyện tìm thấy - nếu không phải tình yêu - thì chắc chắn là sự thanh thản trong tâm hồn để sống hạnh phúc mãi mãi về sau ... Cuộc sống với những câu chuyện tại vịnh Cedar thực sự là một thế giới tuyệt diệu, mà tác giả của nó, Debbie Macomber, nữ nhà văn hàng đầu ở thể loại tiểu thuyết dành cho phụ nữ, đã là một người dẫn đường tuyệt vời. Giọng văn tình cảm, lãng mạn và tinh tế của bà là lý do khiến bộ sách được hàng triệu phụ nữ trên thế giới yêu thích và đồng cảm. Cũng giống như các tập truyện khác của “Chuyện tình Vịnh Cedar”, “Vẫn mãi yêu anh” tiếp tục là một câu chuyện đẹp, nhẹ nhàng về về đề tài phụ nữ, trong đó mỗi người có những khát khao yêu thương và có bạn đồng hành, nương tựa lẫn nhau, giúp nhau tìm thấy mục đích sống trong mỗi cuộc đời. *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Corrie McAfee đang lo lắng và chị biết rằng Roy, chồng mình cũng vậy. Không biết đó là ai nhỉ? Từ tháng Bảy, thám tửRoy bắt đầu nhận được một loạt các tấm thiệp không đề tên người gửi mà nội dung không hẳn là những lời đe dọa, song rõ ràng nó khiến người nhận phải ăn không ngon ngủ không yên. Đầu tiên là thông điệp được gửi đến văn phòng nói về sự ăn năn hối tiếc. Tiếp theo là một vài thông điệp khác rải rác suốt tuần. Corrie đã đọc kỹ không sót một tấm thiệp nào đến mức chị có thể nhớ nội dung từng chiếc một. Tấm thiệp đầu tiên viết: “Ai cũng có điều gì đó phải ăn năn. Có điều gì anh đã làm và ước mình có thể làm lại không? Hãy nghĩ về điều đó”. Không bao giờ có chữ ký người gửi trên những tấm thiệp này và chúng được gửi rải rác từ các địa điểm khác nhau. Những thông điệp bí ẩn cứ vẩn vơ trong tâm trí chị. Thời gian trôi qua mà vẫn chẳng đi đến đâu, Corrie thấy mình dần chìm vào mông lung, y như hồi mới nhận tấm thiệp đầu tiên, dù bây giờ đã là tháng Mười. Tiếng những giọt cà phê tí tách rơi xuống cốc làm Corrie giật mình, tạm quên những lo âu - chị đưa mắt nhìn qua ô cửa rộng trông ra vịnh Cedar, Washington. Làm thư ký và trợ lý của Roy cũng có cái lợi riêng, nhưng trường hợp này lại có những bất lợi. Có những chuyện không biết lại tốt hơn, và điều đó đúng với Corrie lúc này. Hẳn chị đã không phải thao thức hằng đêm nếu không biết gì về những tấm thiệp bí ẩn kia. Cho dùRoy cố giấu thì chị vẫn có thể biết, vì tấm thiệp mới rồi được đưa tới tận cửa nhà của hai vợ chồng thay vì gửi tới văn phòng như mọi khi. Một buổi tối muộn, có người đã tới tận cửa nhà khi Roy và Corrie đang mời khách dùng cơm tối. Họ mở cửa và thấy có người nào đó đã để một giỏ hoa quả cùng lời nhắn. Một cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng Corrie khi chị nghĩ rằng kẻ giấu mặt đã biết nơi ở của hai vợ chồng. “Cà phê đã pha xong chưa em?”. Roy hỏi vọng ra từ trong văn phòng. Tất nhiên chị chưa thể pha xong nhanh như vậy. “Anh chờ chút đi chứ!”. Corrie không muốn gắt với chồng và chị vốn không phải người nóng nảy, song những điều bí ẩn gần đây khiến chị không khỏi bồn chồn. Corrie thở dài, rót cà phê ra tách và mang vào cho Roy, những làn khói bay lên nghi ngút. “Thôi được, chuyện là thế này”, chị vừa nói, vừa đặt tách cà phê lên góc bàn. “Chúng ta cần phải nói chuyện”. Như thể chẳng có gì phải lo nghĩ, Roy dựa vào ghế, tay đan vào nhau, đặt ở sau đầu. Họ đã cưới nhau được 27 năm, cho đến giờ Corrie vẫn thấy Roy hấp dẫn như hồi chị gặp anh ở trường đại học. Hồi đó Roy ở trong đội bóng của trường Đại học Washington và mọi người thường ca ngợi anh là chàng sinh viên của khu ký túc. Anh cao to, vai rộng, cơ bắp săn chắc và dáng người cứng cáp. Corrie cảm thấy hơi ghen tị vì dường như anh luôn giữ được vóc dáng như vậy mà chẳng cần chút nỗ lực kiêng khem gì. Mái tóc đen, mỏng của anh đã điểm bạc, nhưng điều đó càng làm tăng thêm vẻ đạo mạo cho người đàn ông điển trai này. Trong số tất cả những cô gái anh hẹn hò hồi ở đại học, anh đã phải lòng Corrie. Tuy vậy, chưa hề có một cuộc tán tỉnh dễ dãi nào. Họ chia tay hơn một năm và khi quay lại, cả hai đã nhận ra rằng họ yêu nhau và tình cảm của họ bền chặt biết nhường nào. Không lâu sau khi tốt nghiệp, hai người đã kết hôn và sau nhiều năm, tình yêu của họ đã nếm trải đủ cả thử thách lẫn niềm vui hạnh phúc. “Nói về điều gì cơ?”. Roythờ ơ hỏi. Sự thờ ơ đó không làm Corrie nản chí. Chồng chị đã biết rõ chị đang nghĩ gì. “Tin nhắn QUÁ KHỨ CÓ CÁCH ĐỂ SONG HÀNH CÙNG HIỆN TẠI có gợi cho anh điều gì không?”. Corrie ậm ừ, vừa nói vừa ngối xuống chiếc ghế dành cho khách hàng. Chị muốn chồng biết rằng mình không bỏ cuộc dễ dàng. Chị sợ rằng anh sẽ giả vờ tỏ ra không quan tâm lắm đến những tấm thiệp. Có vẻ như anh muốn ra sức làm chị nhụt chí, ngừng tìm hiểu về những rắc rối đang diễn ra.Roy nhíu mày: “Những thông điệp đó chẳng có gì liên quan đến em nên đừng để ý đến chúng làm gì”. ... Mời các bạn đón đọc Vẫn Mãi Yêu Anh của tác giả Debbie Macomber.
Số Phận Một Con Người - Mikhail Aleksandrovich Sholokhov
Số phận một con người là một truyện vừa của nhà văn Mikhail Sholokhov, ra đời năm 1956. Andrey Sokolov là chiến sĩ Hồng quân trong thời gian nổ ra cuộc Chiến tranh Vệ quốc. Chiến tranh tàn khốc đã đem tới cho cuộc đời anh những đau thương khôn xiết: Bản thân bị thương, bị tù đày, vợ và hai con gái chết vì bom đạn, con trai duy nhất hi sinh đúng vào ngày chiến thắng. Chiến tranh qua đi, Andrey xuất ngũ, không còn nơi nương tựa, anh phải đến ở nhờ nhà bạn và làm lái xe chở hàng. Trong những ngày chìm trong nỗi day dứt khôn nguôi về số phận mình, Andrey bắt gặp Vania - một chú bé mồ côi, bụi đời. Anh nhận chú bé làm con nuôi, bên nhau hai bố con đã sống thật hạnh phúc. Nhưng số phận cơ cực vẫn chưa buông tha họ. Trong một chuyến chở hàng, Andrey Sokolov gặp rủi ro, bị tước bằng lái xe. Thế là mất việc, hai bố con dắt nhau đi lang thang "khắp nẻo đường nước Nga" kiếm kế sinh nhai, dù phải vật lộn với muôn vàn khó khăn song những con người bị chiến tranh xô đẩy vẫn tràn trề niềm tin yêu cuộc sống, vào sức mạnh ý chí của con người. Và cho đến khi kết thúc câu chuyện, người cựu binh già Andrey Sokolov vẫn giấu không cho cậu con trai biết về những nỗi đau khổ riêng tư của mình. *** Mikhail Aleksandrovich Sholokhov (24/5/1905 - 21/2/1984) là một nhà văn Liên Xô nổi tiếng và là người được trao Giải Nobel Văn học năm 1965. Mikhail Sholokhov được biết tới nhiều nhất qua bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông Êm Đềm, tác phẩm được Jorge Amado cho rằng có thể sánh với Chiến Tranh Và Hòa Bình của Lev Tolstoy. Ngoài ra Sholokhov còn có nhiều sáng tác về những người Cozak vùng Sông Đông và về cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Sholokhov bắt đầu sáng tác ở tuổi 17. Ông cho ra đời tác phẩm đầu tiên, truyện ngắn Cái bớt năm 19 tuổi. Mikhail Sholokhov là một trong số ít nhà văn Xô viết được tặng thưởng Giải Nobel Văn học, ông được đánh giá cao cả trong và ngoài Liên Xô. Nhiều bức tượng của nhà văn đã được dựng lên ở các thành phố Nga trong đó bức tượng mới nhất được dựng ngày 25 tháng 4 năm 2007 ở Moskva. Tên của ông được dặt cho một tiểu hành tinh trong vành đai chính, 2448 Sholokhov. Tác phẩm: Những câu chuyện sông Đông (1925, tập truyện ngắn) Thảo nguyên xanh (1926, tập truyện ngắn) Sông Đông êm đềm (1928-1940, tiểu thuyết 4 tập) Đất vỡ hoang (1932-1960, tiểu thuyết 2 tập) Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc (1942, phần đầu tiểu thuyết) Khoa học căm thù (1942, tập truyện ngắn) Số phận một con người (1956-1957, truyện vừa) Sobranie Sochinenii (1956-1958, tuyển tập các tác phẩm gồm 8 tập) Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc (1959, phần tiếp theo) *** Số Phận Một Con Người gồm có: Cái bớt Người chăn bò Iliukha Trái lim Aliôsa Con đường Thằng con nhà hư đốn Chủ tịch hội đồng quân sự Chuyện về Ủy ban Lương thực sông Đông Con đường chông gai Gái hai chồng Một lần ức hiếp Đôi giầy cao su Câu chuyện về Kôntsác Cánh đồng xanh thẳm Những người cố nông Dòng máu lạ Chung một tiếng nói Yếu mềm Khoa học căm thù Số phận con người Mời các bạn đón đọc Số Phận Một Con Người của tác giả Mikhail Aleksandrovich Sholokhov.
Một Cây Cầu Quá Xa - Cornelius Ryan
Tác phẩm lấy bối cảnh là cuối cuộc thế chiến thứ hai. Quân Đức đã mất phần lớn lãnh thổ nước Pháp, và lực lượng quân Đồng Minh đã quyết định là sẽ tấn công cú chót. Quân Đồng Minh dự định thả hàng nghìn lính nhảy dù xuống Hà Lan và trấn giữ một vài vị trí trọng yếu ở đó, cho đến khi lực lượng yểm trợ đến. Điểm quan trọng nhất là cây cầy Arnhem. Một khi bị trấn giữ, cây cầu sẽ khóa mọi sự yểm trợ từ phía Tây Đức. *** Cố tác giả Cornelius Ryan là một trong những phóng viên chiến trường xuất sắc vào thời của ông. C. Ryan đã bay 14 phi vụ ném bom với Tập đoàn Không quân 8 và 9 Mỹ, theo dõi cuộc đổ bộ D-Day và bước tiến của Tập đoàn quân 3 dưới quyền tướng Patton vào Pháp và Đức. Ngoài “The Longest Day”, ông còn là tác giả của nhiều cuốn sách, bài báo và nhiều vở kịch, kịch bản phim, chương trình TV và phát thanh. Ryan sinh ra và học tập ở Dublin, Ireland. Tác phẩm: - Ngày dài nhất - The Longest Day, 1959. - Trận đánh cuối cùng - The Last Battle, 1966. - Một cây cầu quá xa - A Bridge Too Far, 1974. *** Lời giới thiệu về chiến dịch Market Garden (17 - 24/9/1944) Ngay sau 10 giờ sáng ngày chủ nhật 17/9/1944, từ các sân bay nằm ở khắp miền nam nước Anh, đội quân máy bay vận tải chở lính lớn nhất đã từng được tập trung cho một chiến dịch duy nhất bắt đầu cất cánh. Cùng với chúng, vào tuần thứ 263 của Thế chiến thứ hai, Tổng tư lệnh lực lượng Đồng Minh, tướng Dwight David Eisenhower, bật đèn xanh cho chiến dịch Market Garden, một trong những chiến dịch táo bạo và giàu sáng tạo nhất của cuộc chiến. Cũng thật ngạc nhiên, Market Garden, một chiến dịch phối hợp giữa đổ bộ đường không với tấn công mặt đất, lại được vạch ra bởi một trong những tư lệnh thận trọng nhất của Đồng Minh, thống chế Bernard Law Montgomery. Market, lực lượng đổ bộ đường không trong kế hoạch, là một đạo quân khổng lồ, bao gồm gần năm ngàn máy bay tiêm kích, ném bom, vận tải và hơn 2500 tàu lượn. Chiều ngày chủ nhật đó, vào đúng 1 giờ 30, trong một cuộc tấn công ban ngày chưa từng có tiền lệ, toàn bộ lực lượng quân dù của Đồng Minh, cùng với xe cộ trang bị, bắt đầu được thả xuống sau chiến tuyến của quân Đức. Mục tiêu của cuộc đổ bộ táo bạo và lịch sử này: nước Hà Lan đang bị quân đội nazi chiếm đóng. Trên mặt đất, triển khai dọc biên giới Bỉ - Hà Lan, là lực lượng Garden, gồm những đoàn tăng hùng hậu của đạo quân Anh số 2. Vào 2giờ 35 chiều, sau đợt pháo bắn mở đường và được máy bay phóng pháo yểm trợ, đoàn xe tăng bắt đầu tiến qua lãnh thổ Hà Lan theo tuyến đường chiến lược mà lực lượng dù đang đánh chiếm và giữ thông. Kế hoạch đầy tham vọng của Montgomery được xây dựng để đưa quân và chiến xa xuyên qua Hà Lan, vượt sông Rhine tiến thẳng vào chính nước Đức. Chiến dịch Market Garden, Montgomery lý luận, sẽ là đòn sét đánh để hạ gục Đế chế thứ ba và chấm dứt chiến tranh trong năm 1944. Mời các bạn đón đọc Một Cây Cầu Quá Xa của tác giả Cornelius Ryan.
Lão Goriot - Honoré De Balzac
  Tiểu thuyết Lão Goriot ra đời sau cách mạng tư sản Pháp năm 1789, khi mà sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản đã khiến đồng tiền ngự trị và biến đổi sâu sắc mọi mặt của xã hội. Trong hoàn cảnh đó, tiểu thuyết hiện thực phê phán góp một ý nghĩa quan trọng đối với xã hội Pháp lúc bấy giờ. Đây là một tác phẩm thuộc phần Những cảnh đời riêng(Scènes de la vie privée) của bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời(La Comédie humaine). Câu chuyện bắt đầu ở một nhà trọ bình dân, với bà chủ Vauquer và 7 người khách trọ. Trong đó, gây tò mò nhất là lão Goriot vì ban đầu người ta tưởng lão có nhiều tiền và nhìn lão cũng sang trọng. Nhưng sau đó lão sa sút dần, cùng lúc đó xuất hiện  bên cạnh lão những quý cô xinh đẹp, danh giá. Và người ta tưởng rằng đó là tình nhân của lão. Nhưng anh chàng sinh viên Luật Rastignac ở gần phòng lão mới là người phát hiện ra đó là hai cô con gái của lão Goriot tên là Anastasie và Delphine. Để bước chân vào xã hội thượng lưu, Rastignas đã nhờ cô em họ dẫn đường để tiếp cận với Delphine. Rastignas đem chuyện kể cho lão Goriot, lão rất cảm động và muốn giúp đỡ cho 2 người hạnh phúc. Mặt khác, ở nhà trọ bình dân, còn xuất hiện thêm tên tù vượt ngục đó là Vautrin. Lão ta rất xảo quyệt, lão đã chỉ đường cho Rastignac giàu sang bằng nhưng âm mưu độc ác. Lão Goriot rất chiều chuộng hai cô con gái, từ một người làm mì, lão đã tranh thủ cơ hội giàu có lên, và gả 2 cô con gái đến chỗ giàu sang danh giá, đưa hết tiền cho chúng sau đó bản thân mình thì đến nhà trọ bình dân. Hai cô con gái liên tục bòn rút, kể lể, than vãn với lão, trong một lần lão xúc động và sinh ốm nặng. Trong lúc đó chỉ có Rastignac và Bianchon chăm sóc cho lão. Ngay đến cuối đời, hai cô con gái của lão cũng không hề đến thăm, lão đã chết trong sự tủi hờn. Lễ tang của lão được tổ chức một cách sơ sài nhờ vào số tiền ít ỏi của Rastignac. Hôm đưa tang, người ta thấy có hai chiếc xe mang gia huy của hai dòng họ Restaud và Nucingen nhưng trên xe trống rỗng. Tác phẩm khép lại bằng cảnh Rastignac nhìn xuống phố phường Paris và thốt lên một câu đầy thách thức: "Bây giờ chỉ còn ta với mi" với dự định đến ăn tối ở nhà Nucingen Lão Goriot là một trong những tiểu thuyết thành công nhất của Honore’ de Balzac. Với ngòi bút hiện thực sắc sảo, Balzac đã trở thành một trong những đại diện xuất sắc nhất của tiêu thuyết hiện thực phê phán. Ông đã sử dụng thành công những thủ pháp ngệ thuật của tiểu thuyết hiện thực phê phán thể hiện tư tưởng của mình phơi bày hiện thực xã hội từ đó thức tỉnh con người, hướng họ tới những giá trị tốt đẹp hơn. *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. Mời các bạn đón đọc Lão Goriot của tác giả Honoré De Balzac.