Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mật mã Maya tập 1 - Brian D Amato

Tên ebook: Mật Mã Maya tập 1(full prc, pdf, epub) Nguyên tác: In The Courts Of The Sun Bộ sách: Mật Mã Maya Tác giả: Brian D’Amato Thể loại: Kỳ ảo, Mạo hiểm, Phiêu lưu, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Dịch giả: Phong Diệp Nhà xuất bản: Trẻ Số trang: 836 Kích thước: 16x24cm Ngày xuất bản: 2010 Trọng lượng: 1450 gram Giá bìa: 179.000 VNĐ Chụp ảnh – tạo bìa - chỉnh sửa hình ảnh: Yew Chế bản PRC: Chút Sửa lỗi chính tả - chỉnh sửa bản word: apple-socola, may&nui, phượng xồ, giangcoi163 Đánh máy: jik2040, nph268, to_you, lananha1, jella, hongleo, phượng xồ, tinh251993, Smilehd, hanhung3012, ndviet, svcntnk42a1, nguyen_ly, iamvltt2, minh_trang, Iris, doushite, greengrass2709, tulipden112, TT8571, hakhanhbk2010, Ella_mEn, Ddeath, mainame, rouge2011, o0tinhtritam0o, hoangha2192, SmallEgg, Mr.Cent, winki, phamdung90, Chinh phục ™, to_you, rkj, MatTo89, thuanga, kdungrau, ghostgirl_12606, bluesky29, Tyty1803, Nerissa, thuy_trang89, Vanessa1811 Ngày hoàn thành: 09/09/2010 Nguồn: vhproject.hnsv.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Ebook Mật mã Maya Giới thiệu: Mật mã Maya tập hợp những phẩm chất làm nên một cuốn sách hay như sự ly kỳ liên quan đến ngày tận thế, phiêu lưu mạo hiểm ở quá khứ và hiện tại, nền văn minh ít người biết tới, sự lãng mạn. Jed Delanda là hậu duệ người Maya sinh tại Guatemala, có tài năng thiên bẩm về toán học. Khi còn nhỏ, Jed đã được người mẹ truyền dạy một trò chơi của người Maya: cờ Hiến tế. Đây là cách đặc biệt sử dụng linh tính để dự đoán các sự việc sẽ diễn ra, hay nói cách khác là một kiểu tiên tri. Sau khi đến Utah làm con nuôi trong một gia đình người Mỹ theo đạo Mormon, anh ta được phát hiện là có năng khiếu thiên tài về lịch học; cùng với những hiểu biết về cờ Hiến tế, anh ta đã thu hút được sự chú ý của giáo sư Taro Hyaku, chuyên gia về lý thuyết trò chơi. Sau một chuyện hiểu nhầm, Jed đã ngừng cộng tác nghiên cứu với Taro, quay sang dùng cờ Hiến tế để đầu tư chứng khoán và vớ được những món hời lớn tới hàng triệu USD. Cuộc đời Jed rẽ sang một hướng mới khi anh ta được biết nhóm nghiên cứu của Taro đã giải mã được một cuốn sách cổ của người Maya mà chính anh ta cũng rất muốn xem. Anh ta liên lạc lại với vị giáo sư (lúc này đang làm việc cho tập đoàn Warren) và được biết họ đang lập trình cho Leon - một chiếc máy tính để nó có thể chơi cờ Hiến tế. Taro giới thiệu Jed với “sếp lớn” là Marena Park, một phụ nữ thông minh và đầy bí ẩn. Tại đây, Jed đã chơi cùng Leon và hé lộ tài dự đoán của anh ta về thảm họa sắp xảy ra tại một nơi được coi là biểu tượng của nước Mỹ. Sau sự kiện đó, Jed gia nhập dự án nghiên cứu của tập đoàn Warren để tìm hiểu và ngăn chặn thảm họa sẽ xảy đến vào ngày 21/12 theo lời tiên đoán của người Maya cổ. Jed được chọn làm người tình nguyện trở về quá khứ để học cách chơi cờ Hiến tế đỉnh cao và gửi những gì học được về hiện tại. Cuộc hành trình trở về quá khứ của anh ta được các nhà khoa học tiến hành dưới hình thức sao chép ký ức và gửi đến bộ óc của một người Maya cổ sống vào năm 664 sau công nguyên. Theo kế hoạch, ký ức của Jed sẽ được chuyển vào bộ não của một vị vua đang trị vì vào năm 664 CE. Nhưng mọi việc không như dự tính, thay vì trở thành vua, một sự nhầm lẫn lớn đã biến Jed trở thành Chacal - một người hiến tế mạng sống của mình bất đắc dĩ. Điều này dẫn tới tình cảnh anh ta phải chia sẻ ý thức với Chacal và dấn thân vào nhiều cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm. Đến phần kết của cuốn sách, nhân vật chính Jed đã biết mình phải làm gì. Nhưng liệu anh ta có làm điều đó thật hay không? *** Tôi nhìn thấy là một chấm màu đỏ trên nền xanh lơ. Rồi một chấm nữa xuất hiện phía trên, lệch về bên trái, chấm thứ ba hiện ra ngay sát dưới chấm thứ hai, và một chấm nữa, một chấm nữa, năm, rồi chín, rồi mười ba. Những chấm đỏ lớn dần lên và loang ra, khi gặp nhau, chúng hòa vào làm một, chảy thành dòng, và tôi nhận ra đó chính là máu từ lưỡi tôi nhỏ xuống tờ giấy tế lễ màu xanh. Quỷ thần ơi, - tôi thầm nghĩ, - nó có tác dụng thật. Bây giờ không còn là năm 2012 nữa. Mà là năm 664. Ngày 20 tháng 3 năm 664 Công nguyên theo Tây lịch. Hay theo cách tính của người Maya, hôm nay là ngày Rắn đất 3, ếch mưa 5 của uinal (Cách tính thời gian của người Maya, 1 uinal có 20 ngày) 11, tun (1 tun gồm 360 ngày) 11, k’atun (1 k’atun gồm 7.200 ngày, tương ứng với gần 20 năm theo Tây lịch) 11, b’ak’tun (1 b’ak’tun gồm 144.000 ngày, tương ứng với 394.52 năm theo Tây lịch) 10. Lúc này khoảng 4 giờ 48 phút sáng. Chủ nhật. Hừm. Tôi có cảm tưởng việc này cũng giống như một biến cố lớn nào đó xảy ra trong đời mà người ta chỉ có thể nhận biết sau khi đã đờ người ra một lúc lâu, kiểu như: “Chúa ơi, mình bị bắt thật!”, hay “Chúa ơi, mình vừa bị đâm một nhát!”, hay “Chúa ơi, mình lấy vợ thật rồi!”, hay “Chúa ơi, mình có con rồi!”, hay “Chúa ơi, mình bị chơi khăm đến ba lần!”, hay “Chúa ơi, tòa nhà kia đang sập thật kìa!”, và mỗi lần như vậy, người ta đều có cảm giác rằng chưa từng có chuyện gì nghiêm trọng đến thế xảy ra với mình. Hijo de pita (Chết tiệt! – tiếng Tây Ban Nha)! Tôi ngước lên và nheo mắt nhìn qua ô cửa hình thang nhỏ xíu. Bầu trời đã phớt màu tím xanh nhưng không hiểu sao tôi vẫn nhìn thấy rất nhiều sao, nhiều chưa từng thấy, độ sáng và độ phân tán của những ngôi sao đã giảm xuống cấp thứ tư (Mức độ sáng của các ngôi sao được những người Hy Lạp cổ đại chia thành 6 cấp, cấp sáng nhất là cấp 1). Chúng đã di chuyển vị trí, dĩ nhiên, nhưng Taro đã tính toán dung lượng tải xuống trên máy tính sao cho đầu điếu xì gà của Mèo Rừng 1, tương ứng với vị trí của ngôi sao Algenib thuộc chỏm Thiên Mã, vẫn nằm ở vị trí gần như lúc trước trong ô hình thang, ngay bên phải trung điểm. Có một ngôi sao lạ nằm bên trái nó và bên phải ngôi Homam (Tên gọi cổ xưa của ngôi Zeta Pegasi thuộc chỏm Thiên Mã), nó sáng đến mức có thể sánh ngang với ngôi Gamma Andromedi (Ngôi sao sáng thứ ba trong chòm Tiên Nữ). Ngôi sao đó ắt hẳn sẽ tắt khoảng một trăm năm gì đó sau thời điểm này, bằng không nó đã được al-Khawarzimi (al-Khawarzimi: Nhà thiên văn học người Ba Tư(khoảng 780 – 850)đặt tên. Không thể tin được, - tôi nghĩ, - họ làm được điều đó thật. Vẫn cùng vị trí đó, chỉ có thời gian là khác đi. Tôi không hẳn vẫn ở nguyên vị trí trong vũ trụ, đương nhiên, mà điều đó cũng chẳng có gì quan trọng. Hệ mặt trời đã dịch chuyển rất nhiều trong 1347 năm. Nhưng tôi vẫn đứng ở nguyên vị trí cũ trên trái đất. Tôi vẫn đứng trong căn phòng nhỏ sát đỉnh kim tự tháp cao nhất của thành Ix mà trong tương lai chính là tỉnh Alta Verapaz thuộc miền trung Guatemala. Nhưng vào lúc này, căn điện thờ đang nhuốm một màu vàng cam bởi ánh sáng sáng từ những ngọn đuốc; những chuỗi chạm trổ hình bọ cạp trên tường nhẵn bóng, không hề tróc lở, với nhiều màu sắc pha trộn: đen, xanh lam và đỏ son. Và thành phố này đang sống. Tôi có thể nghe thấy tiếng của đám đông bên ngoài, hay nói đúng hơn, qua bức tường đá tôi có thể cảm nhận được những tiếng cầu nguyện rầm lầm của họ. Tôi cho rằng vị trí trong không gian của tôi không thay đổi, nhưng tôi đã... Hừm. Tôi suýt định nói rằng tôi đã được đưa về quá khứ. Nhưng tôi không muốn bắt đầu câu chuyện theo cách đơn giản hóa đi như thế. Vấn đề nằm ở chỗ việc đi xuyên thời gian là không thể. Tôi muốn nói đến việc đi ngược về quá khứ. Nếu muốn đến tương lai một cách chóng vánh hơn, anh chỉ việc tự đóng băng mình (Người ta cho rằng có thể đưa một người đến tương lai bằng cách đóng băng, hay nói cách khác là làm đông lạnh anh ta. Rồi vào một thời điểm nào đó, rất lâu sau, khi khoa học tiến bộ hơn, người đó sẽ được rã đông, sống lại và như thế là anh ta đã đến tương lai). Nhưng đi về chiều ngược lại là không thể, chắc chắn không bao giờ làm được vì những lý do hiển nhiên ai cũng biết. Đầu tiên là thuyết nghịch lý “Ông nội” (Học thuyết do tiểu thuyết gia viễn tưởng Rene Barjuvel đề xuất năm 1943), nghĩa là anh có thể trở lại quá khứ, giết ông nội mình và ắt sẽ không bao giờ có mặt trên đời để thực hiện hành vi lúc đầu. Thứ hai là cho dù anh không làm gì lúc ở quá khứ đi chăng nữa, thì cũng xảy ra mâu thuẫn là trong cơ thể anh sẽ tồn tại những phân tử đã tồn tại trong chính anh ở quá khứ, hoặc những phân tử đó phải di chuyển trong không gian và tái hợp thành cơ thể anh. Như vậy, các phân tử đó sẽ phải ở hai nơi cùng một lúc. Mà điều đó thì không thể xảy ra. Lý do thứ ba là vấn đề cơ học đơn thuần. Cách duy nhất để về quá khứ mà ai cũng từng nghe là hành trình hố giun (Hố giun: Đây là một khái niệm trong vật lý, “hố giun” là một không-thời gian tạo nên đường đi tắt trong không gian và thời gian)nổi tiếng qua một lỗ hổng hoàn toàn trống rỗng. Nhưng đưa vật chất qua lỗ hổng này chẳng khác gì đút một cái bình Meissen (Bình Meissen: Một loại bình gốm ở châu Âu)qua máy cắt mì sợi. Mọi thứ đi qua nó và ra ở đầu kia đều bị nghiền vụn, nát tung và chẳng được tích sự gì nữa. Thế nhưng... thế nhưng... thế nhưng... vẫn còn một cách khác. Sự nhìn xa trông rộng của những người ở phòng thí nghiệm Warren là ở chỗ họ biết nếu không đưa được vật chất về quá khứ thì điều đó không có nghĩa là mọi khả năng khác đều bị loại bỏ. Nếu anh không đưa được gì, thì anh có thể đưa “không gì cả”. “Không gì cả” ở đây bao gồm cả sóng điện từ. Họ đã phát triển một phương thức để đưa các chùm năng lượng qua một ống Krasnikov (Ống Krasnikov: Là một đường đi xuyên không – thời gian được giả định tạo thành bằng cách uốn cong không – thời gian, từ đó tạo ra các con đường siêu quang)nhân tạo. Họ tính toán rằng hành trình của các chùm năng lượng có thể truyền đi một số thông tin. Và quả đúng thế, nó đã truyền được rất nhiều thông tin. Trong tín hiệu họ chuyển về quá khứ có mã hóa toàn bộ ký ức đã được cô đọng lại, chính là tất cả những gì tạo thành một ảo giác mà người ta gọi là nhận thức về bản thân. Mà trong trường hợp này chính là tôi. Vấn đề tiếp theo đương nhiên là phải có ai đó hay thứ gì đó nhận và lưu trữ ký ức ấy ở đầu bên kia. Nhưng ở thời đại chúng tôi cần quay về lại chưa có bất cứ thứ gì kiểu như chảo ra-đa, ổ đĩa, chíp silicôn, ăng ten thu phát tín hiệu hay radio tinh thể. Vào khoảng năm 664, chỉ có một thứ duy nhất có thể nhận và lưu giữ nhiều thông tin đến thế. Một bộ não. Tôi bắt đầu cử động được con ngươi. Tôi bắt đầu nhận thấy tay phải đang nắm một sợi thừng gai của mình mới to lớn, rắn chắc làm sao và chỗ lòng bàn tay sát cổ tay chai sần ghê tởm đến mức nào. Những cái móng dài, sắc, nạm đá đỏ hình chữ T, những ngón tay xăm trổ nhiều vằn dài màu đỏ và đen nom như hình rắn san hô. Một vòng xuyến xếp vảy màu ngọc bích quấn từ cổ tay lên tới gần khuỷu. Cũng giống như một phần của bộ ngực trần mà tôi có thể nhìn thấy, đầu gối trái nổi chai sần của tôi trát đầy một thứ đất sét màu xanh lam sáng. Điểm đầu tiên cho nhóm Thứ Sáu Kỳ Quặc – tôi nghĩ. Tôi đang thực sự sống trong cơ thể một người khác. Chính xác thì tôi đang ở trong bộ óc của một người có cái tên Chim Ruồi Có Nanh 9. Chúng tôi – tức là những người tham gia dự án Warren – có biết đôi chút về ông ta. Ôngta là tù trưởng của thị tộc Mèo Rừng, là ahau, tức là vua, hay chúa tể, hay chiến binh đứng đầu của thành Ix và gần hai ngàn đô thị, thôn làng khác quanh Ix. Ông ta là con trai của vị ahau thứ mười hai, người được gọi là Rừng Cháy 22, và hoàng hậu Tiếng Gió Lốc. Hôm nay, ông ta tròn 48 tuổi 6 ngày. Ông ta đang ngồi đó, nhịn ăn đã bốn mươi hai giờ liền. Và ông ta đang chuẩn bị đứng lên, vào đúng phút rạng đông để nhận ngôi vị ahau lần thứ hai, sau hai mươi năm trị vì lần thứ nhất. Cách đầu gối trái tôi khoảng năm inch (1 inch = 2.54 cm) về hướng bắc có một chảo than hồng. Một cách vô thức, tôi bóc tờ giấy hình chữ nhật thấm đầy máu khỏi chiếc chiếu sậy, giơ nó lên trên chảo than nóng. Ánh sáng của đám than hồng hắt le lói qua tờ giấy một lúc lâu và tôi có thể nom thấy những hình vẽ trang trí ở mặt bên kia, thấy dòng chữ “hãy trông nom, che chở chúng con”, và cuối cùng là thấy hình vẽ nhìn nghiêng của một con đại bàng. Chính xác hơn đó là con yêu quái đại bàng Harpy. Thrasyaetus harpyia (Con yêu quái được thể hiện bằng hình ảnh một phụ nữ mình người cánh chim). Trong tiếng Tây Ban Nha, nó được gọi là arpion, còn trong ngôn ngữ của người Maya, nó được gọi là hunk’uk, tức “kẻ đào vàng”. Những người Aztec (Aztec: Một bộ tộc da đỏ cư trú ở miền Trung Mexico) thì gọi nó là “sói có cánh”. Đó là biểu tượng của một thị tộc, thị tộc của tôi, tức thị tộc của người mà tôi đang nắm quyền điều khiển bộ óc. Tờ giấy đó chính là một bức thư, là lời thỉnh cầu mà thị tộc tôi muốn gửi tới Mèo Rừng 1 đang ngự trên đỉnh bầu trời. Một cách vô thức, tôi gập tờ giấy dính nham nháp đó thành một khối hình tam giác – đó là một chuỗi thao tác phức tạp, giống như thao tác xếp hình một con sếu origami (Nghệ thuật xếp giấy của người Nhật Bản), mà tôi, hay đúng hơn là người chủ cũ của thân xác tôi, hẳn đã thực hành hàng trăm lượt – và đặt nó vào chảo than. Tờ giấy chắc đã được ngâm tẩm một thứ muối đồng nào đó vì nó kêu xèo xèo và bốc lên ngọn lửa màu xanh lá cây. Lưỡi tôi giật giật. Tôi rụt nó lại... không, chờ đã. Tôi rụt lại... Hừ. Chẳng có gì xảy ra sất. Tôi ra sức nuốt vào để cố ngậm miệng lại. Mặt tôi cứ như thể bị đóng băng vậy. Không có một chuyển động nào. M’AX ECHE? – Tôi nghĩ trong đầu bằng tiếng Ch’olan Mayan, - Ngươi là ai? (Ch’olan Mayan: Phiên bản tiếng Maya hiện đại được những người Ix và một số dân tộc Maya khác sử dụng ở thế kỉ 21) Không, khoan đã. Đó không phải ý nghĩ của tôi. Đó là tiếng của một ai đó khác. Có vẻ như tôi đã nghe thấy một giọng nói, nhưng tôi biết thực ra tôi không nghe thấy gì cả ngoài tiếng lao xao của đám đông trên quảng trường bên dưới và âm thanh trầm trầm, đùng đục của những chiếc trống hở làm từ thân cây tuyết tùng đang vang lên dai dẳng theo nhịp 5/4 kỳ dị. Có lẽ sẽ đúng hơn nếu diễn tả là tôi có cảm giác như đã đọc câu nói đó từ một hàng tít chạy ngang trước mắt. Và mặc dù nó không gây tiếng động, nhưng nó vẫn vang lên, hay chính xác hơn là gây ấn tượng như thể được viết bằng chữ hoa. Cứ như thể chính tôi đã nghĩ nó mà không nghĩ... -M’ax eche? Ôi, quỷ sứ ơi. Không chỉ có mình tôi trong cái xác này. Tôi chỉ có một mình trong căn phòng, nhưng trong bộ óc thì không. Ôi, cái đồ chết toi! Đáng ra bước đầu tiên trong kế hoạch Thứ Sáu Kỳ Quặc là phải tẩy sạch trí nhớ của đối tượng và để lại cho ý thức của tôi một tờ giấy trắng tinh mà hoạt động chứ. Nhưng rõ ràng là bước đầu của kế hoạch đã không đạt, hay chí ít là chưa đạt như mong muốn. Ông ta vẫn biết mình là mình. - M’ax eche? Mời các bạn đón đọc Mật mã Maya của tác giả Brian D’Amato

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ở Lại Đây Với Anh - Ann Major
Connor choàng tỉnh trên chiếc giường xa hoa của khách sạn. Ví tiền, máy tính, giấy tờ đã biến sạch. Đến áo quần lót trên người anh cũng chẳng còn. Sau hai tuần lễ mặn nồng và một đêm tân hôn nóng bỏng, cô dâu xinh đẹp tự nhiên cao chạy xa bay, để lại chú rể nhẵn nhụi như ngày mới chào đời. Mười tám tháng sau, Connor phát hiện được tung tích của nàng, đã đổi tên và đang sống lặng lẽ ở một vùng hẻo lánh. Anh lập tức lên đường truy tìm, quyết khiến cô dâu của mình phải trả giá cho hành động dại dột đã qua. Cuộc báo thù của ái tình này hứa hẹn sẽ không khiến Connor dễ chịu, bởi ngọn lửa khát khao tưởng đã tắt lịm sau chuyện cũ, lại bắt đầu âm ỉ nhen lên theo mỗi bước chân gần lại phía nàng... *** Margaret Major Cleaves là nhà văn nổi tiếng của hơn 45 tiểu thuyết lãng mạn kể từ năm 1980 như tên thật của cô và với bút danh Ann Major.  *** Nông trại Golden Spurs Ngày lễ lao động cuối tuần Chuông reo báo giờ ăn tối khi những tia sáng cuối cùng của ánh mặt trời quét qua đồng cỏ, chiếu sáng lên những chiếc đinh thúc ngựa treo trên các nhánh cây mesquite khẳng khiu. Cái cây mesquite này thật là đặc biệt. Những chiếc đinh thúc ngựa được treo trên đó chứa đựng ý nghĩa huyền thoại khiến cho những thành viên trong gia đình tụ tập lại quanh nó. “Đã đến giờ ăn tối rồi”, giọng một phụ nữ la lên một cách giục giã từ nhà lớn vọng ra. Bữa ăn tối được dọn ra ngoài hiên bên trong những chiếc lều được dựng lên phía sau nhà lớn để ăn mừng sự trở về của Becky. Tất cả các chủ trang trại từ những quận gần đó cũng được mời đến. Hàng chục người bạn từ San Antonio và Austin đã bay đến để dự tiệc và ngay cả thống đốc cũng góp phần tham dự. Cô công chúa lạc mất từ lâu của nông trại cuối cùng đã trở về nhà. ... Mời các bạn đón đọc Ở Lại Đây Với Anh của tác giả Ann Major.
Cái Đầu Tội Lỗi - Romain Gary
Cái Đầu Tội Lỗi được tác giả viết bằng tiếng Pháp và tiếng Anh (Pháp: La Tête Coupable; Anh: The Guilty Head) năm 1969. R.Gary và vợ là diễn viên điện ảnh Jean Séberg tự sát tại Paris năm 1980. Bản tiếng Việt dịch từ bản tiếng Anh, New American Library, 1970 *** Romain Gary, Sinh ngày 8-5-1914 tại Vilnius, Litva, Romain Gary lớn lên dưới sự nuôi dạy của mẹ. Ông chuyển đến sống tại Nice, Pháp, năm 14 tuổi. Sau khi theo học ngành Luật, ông đăng ký gia nhập Không quân Pháp. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông là sĩ quan chỉ huy và từng được thưởng Bắc đẩu bội tinh. Với tiểu thuyết đầu tay Giáo dục châu Âu, ông được Giải thưởng phê bình năm 1945, trùng với thời điểm ông bắt đầu sự nghiệp tại Bộ Ngoại giao Pháp. Được cử đến Sofia (Bulgaria), Bern (Thuỵ Sỹ), New York (Mỹ), La Paz (Colombia) để làm việc, song Romain Gary vẫn không ngừng viết. Tiểu thuyết Les racines du ciel (Cội rễ bầu trời) đoạt giải Goncourt năm 1956, là một bức tranh toàn cảnh về đời sống một nước thuộc địa của Pháp ở vùng châu Phi xích đạo.  Năm 1961, ông rời bỏ ngành Ngoại giao. Sau tập truyện ngắn Gloire à nos illustres pionniers (Vinh quang cho những người tiên phong vĩ đại) (1962) và tiểu thuyết châm biếm Lady L. (1963), ông chuyển sang viết những câu chuyện phiêu lưu như: La comédie américaine (Vở hài kịch nước Mỹ) và Adieu Gary Cooper (Vĩnh biệt Gary Cooper) (1969),La danse de Gengis Cohn (Điệu nhảy của Gengis Cohn) (1967), La tête coupable (Cái đầu tội lỗi) (1968), Charge d'âme (Nhiệm vụ tinh thần) (1977).  Gary bắt đầu để lộ nỗi sợ tuổi già và sự hết thời của mình trong cuốn Au-delà de cette limite votre ticket n’est plus valable (Phía bên kia giới hạn tấm vé của anh không còn giá trị nữa) (1975) và Clair de femme (Sự thật về phụ nữ) (1977). Sau cái chết bi kịch của nữ diễn viên Jean Seberg, người là vợ ông từ năm 1962 đến 1970, ông viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng mang tên Les cerfs volants (Những cánh diều) không lâu trước khi ông tự vẫn vào năm 1980 ở Paris. Ông để lại chúc thư nêu rõ ông từng ẩn mình dưới cái tên Émile Ajar để viết các tiểu thuyết như Gros Câlin (Âu yếm) (1974), La vie devant soi (Cuộc sống trước mặt) - giải Goncourt năm 1975, Pseudo (Bút danh) (1976),L'angoisse de roi Salomon (Nỗi sợ của vua Salomon) (1979), đánh dấu sự cách tân trong bút pháp của ông.  Là một nhân cách đa diện: nhà văn, nhà ngoại giao, nhà làm phim, phi công thời chiến, Romain Gary thú nhận mình thích diễn những vai nhập nhằng khó hiểu; thích làm người điểu khiển rối, nắm trong tay những sợi dây điều khiển nhưng vẫn giữ một khoảng cách đủ xa để đánh giá được hiệu ứng mà ông tạo ra. Ông đã đẩy trò tung hứng ảo thuật lên tới mức tự tạo ra một phiên bản khác của chính mình - Émile Ajar, và trở thành nhà văn duy nhất hai lần nhận giải Goncourt, dưới hai cái tên khác nhau. *** Lão Chong Mập ngắm nhìn cái gã ngoài lề xã hội đó mà lòng buồn não nuột. Đó là tình cảm huynh đệ bất đắc dĩ mà ai cũng phải cảm thấy khi chứng kiến hành vi sa đọa của người khác khiến lòng tự trọng của chính mình bị xúc phạm: gã người Mỹ nọ đầu cúi thấp, cóm róm theo đúng cái tư thế điển hình để bày tỏ lòng hổ thẹn và tủi nhục. Thì Cohn chính là người yêu thích tinh thần cổ điển kia mà. Tuy chẳng có thể rặn ra một giọt nước mắt nào nhưng y vẫn cố xử sự sao cho rõ ra là đang mang một tâm lý tội lỗi. Tóm tắt, tư thế y biểu đạt nói lên rằng y đã mất quyền mang cái danh từ kiêu hãnh mà tự điển Larousse đã định nghĩa: Con người, động vật đứng thẳng. Lão người Hoa bắt y quả tang. Cohn đã nạy cửa sổ leo vào phòng bếp và người chủ danh giá của “quán ăn Paul Gauguin - Thức ăn chính hiệu ở Tahiti” - tức Chong - tất trụt xuống mắt cá, nút quần chưa kịp gài, đã bắt gặp cái gã người Mỹ tồi tệ này đang ngồi chồm hổm trên sàn nhà, thè lưỡi liếm đĩa sữa y vừa trộm trong tủ chén bát của nhà hàng. Dẫu chưa hề đọc Sự Suy Tàn Của Tây Phương của Spengler, lão người Hoa cũng thấy đau buồn sâu sắc trước cảnh tượng một công dân Hoa Kỳ trong hoàn cảnh tủi hổ như vậy. “Ông Cohn ạ, đáng lẽ ông phải xấu hổ. Hoa Kỳ là một quốc gia vĩ đại. Một người Hoa Kỳ mà có hành vi tồi tệ đến thế ở vùng Thái Bình Dương này trong khi quốc gia anh ta đang chiến đấu oai hùng đến vậy để ngăn chặn hiểm họa Đỏ...” - Vàng chứ, Cohn lẩm bẩm. - Ảo, người Trung Hoa cãi lại. Chong Mập là một người Pháp gốc Hoa, một kẻ theo chủ nghĩa De Gaulle nhiệt thành, một người Hoa nói tiếng Pháp theo âm sắc xứ Corse mà nhiều thế hệ lính sen đầm và lính đoan đã gieo xuống miền đất Tahiti này. “Ông Cohn này, tất cả chúng tôi đều hổ thẹn về ông. Tương lai của thế giới tự do tùy thuộc vào thể giá của Hoa Kỳ. Ông phải biết điều đó chứ.” Đầu cúi gầm, ngón chân vẽ những vòng tròn vơ vẩn trên sàn nhà, Cohn biểu đạt một niềm tủi nhục hoàn hảo cho đất nước Cờ Hoa. Thì bạn phải tỏ ra kính trọng cái vũ trụ đạo đức của kẻ khác, nhất là khi bạn mới trộm tiền trong tủ két của người ta chứ. Số tiền chôm trong tủ của lão Chong, Cohn nhét vào túi sau quần jean. Y cẩn thận đứng quay đít vào tường. Hồi nãy, y vừa kịp giấu tiền xong thì nghe tiếng Chong Mập đi xuống cầu thang, y chỉ kịp thì giờ chạy sang nhà bếp, ngồi xổm xuống sàn và chụp lấy chai sữa dành cho mèo. ... Mời các bạn đón đọc Cái Đầu Tội Lỗi của tác giả Romain Gary.
Chó Trắng - Romain Gary
Ra đời trong bối cảnh tại Mỹ đang diễn ra những cuộc bạo động phản đối nạn phân biệt chủng tộc, Chó Trắng còn đi xa hơn thế. Một cách không khoan nhượng, với sự sáng suốt và tinh tế, tác giả của Lời hứa lúc bình minh đã xử lý một chủ đề đạo đức với sự thấu cảm văn chương tuyệt vời. Tác phẩm dựa trên câu chuyện có thật về quãng thời gian chú chó Batka xuất hiện trong cuộc đời Romain Gary, để rồi sau đó ông đau đớn nhận ra: chú chó thông minh, hiền dịu, “rất tôn trọng bọn mèo, và là một con vật lương thiện có giáo dục” của mình lại là một trong những chú chó được huấn luyện đặc biệt để tấn công người da đen. Chó trắng mở đầu với hình ảnh một chú chó xám, giống béc giê Đức, tạo cảm giác mạnh mẽ và thông minh, khoảng bảy năm tuổi đi theo Sandy - chú chó dòng Đan Mạch - của Romain Gary về nhà. Và như thế, chú chó Batka vô tình bước vào cuộc đời của nhà văn, mau chóng chiếm được tình yêu của ông. Gắn bó với chú chó là vậy, Romain Gary đau đớn khi phát hiện ra rằng Batka là một con Chó Trắng - một trong những chú chó được huấn luyện đặc biệt để tấn công người da đen. Không muốn giải quyết đời chú bằng một mũi tiêm thuốc độc, Romain Gary quyết tâm “chữa” cho Chó Trắng. Nhưng rồi Batka sẽ ra sao khi rơi vào tay một người huấn luyện da đen? Với Chó Trắng, Romain Gary gửi đến người đọc câu chuyện về người da đen Mỹ, về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một cách không khoan nhượng, với sự sáng suốt và tinh tế, tác giả của Lời hứa lúc bình minh đã xử lý một chủ đề đạo đức với sự thấu cảm văn chương tuyệt vời. Với Romain Gary, viết không giúp tìm ra câu trả lời, nhưng viết giúp giải tỏa nỗi đau trước sự ngu ngốc của con người.  *** Romain Gary, Sinh ngày 8-5-1914 tại Vilnius, Litva, Romain Gary lớn lên dưới sự nuôi dạy của mẹ. Ông chuyển đến sống tại Nice, Pháp, năm 14 tuổi. Sau khi theo học ngành Luật, ông đăng ký gia nhập Không quân Pháp. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông là sĩ quan chỉ huy và từng được thưởng Bắc đẩu bội tinh. Với tiểu thuyết đầu tay Giáo dục châu Âu, ông được Giải thưởng phê bình năm 1945, trùng với thời điểm ông bắt đầu sự nghiệp tại Bộ Ngoại giao Pháp. Được cử đến Sofia (Bulgaria), Bern (Thuỵ Sỹ), New York (Mỹ), La Paz (Colombia) để làm việc, song Romain Gary vẫn không ngừng viết. Tiểu thuyết Les racines du ciel (Cội rễ bầu trời) đoạt giải Goncourt năm 1956, là một bức tranh toàn cảnh về đời sống một nước thuộc địa của Pháp ở vùng châu Phi xích đạo.  Năm 1961, ông rời bỏ ngành Ngoại giao. Sau tập truyện ngắn Gloire à nos illustres pionniers (Vinh quang cho những người tiên phong vĩ đại) (1962) và tiểu thuyết châm biếm Lady L. (1963), ông chuyển sang viết những câu chuyện phiêu lưu như: La comédie américaine (Vở hài kịch nước Mỹ) và Adieu Gary Cooper (Vĩnh biệt Gary Cooper) (1969),La danse de Gengis Cohn (Điệu nhảy của Gengis Cohn) (1967), La tête coupable (Cái đầu tội lỗi) (1968), Charge d'âme (Nhiệm vụ tinh thần) (1977).  Gary bắt đầu để lộ nỗi sợ tuổi già và sự hết thời của mình trong cuốn Au-delà de cette limite votre ticket n’est plus valable (Phía bên kia giới hạn tấm vé của anh không còn giá trị nữa) (1975) và Clair de femme (Sự thật về phụ nữ) (1977). Sau cái chết bi kịch của nữ diễn viên Jean Seberg, người là vợ ông từ năm 1962 đến 1970, ông viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng mang tên Les cerfs volants (Những cánh diều) không lâu trước khi ông tự vẫn vào năm 1980 ở Paris. Ông để lại chúc thư nêu rõ ông từng ẩn mình dưới cái tên Émile Ajar để viết các tiểu thuyết như Gros Câlin (Âu yếm) (1974), La vie devant soi (Cuộc sống trước mặt) - giải Goncourt năm 1975, Pseudo (Bút danh) (1976),L'angoisse de roi Salomon (Nỗi sợ của vua Salomon) (1979), đánh dấu sự cách tân trong bút pháp của ông.  Là một nhân cách đa diện: nhà văn, nhà ngoại giao, nhà làm phim, phi công thời chiến, Romain Gary thú nhận mình thích diễn những vai nhập nhằng khó hiểu; thích làm người điểu khiển rối, nắm trong tay những sợi dây điều khiển nhưng vẫn giữ một khoảng cách đủ xa để đánh giá được hiệu ứng mà ông tạo ra. Ông đã đẩy trò tung hứng ảo thuật lên tới mức tự tạo ra một phiên bản khác của chính mình - Émile Ajar, và trở thành nhà văn duy nhất hai lần nhận giải Goncourt, dưới hai cái tên khác nhau. *** Đó là con chó xám với một mụn hạt cơm bên phía phải mõm trông như cái nốt ruồi và một túm lông hung quanh mũi, khiến nó trông giống lão nghiện thuốc lá thâm căn cố đế trên tấm biển của hiệu Con chó hút thuốc, một quán rượu có bán thuốc lá ở Nice, không xa trường trung học thời nhỏ của tôi. Nó dõi theo tôi, đầu hơi ngả về một bên, ánh nhìn căng thẳng và chăm chú, lối nhìn của bọn chó hoang bị thu nhốt lại một chỗ trông chừng ta đi qua với một hy vọng đầy lo sợ và không thể chịu nổi. Nó có bộ ức của gã đô vật, và nhiều lần về sau khi con Sandy già của tôi trêu chọc nó, tôi thấy nó đẩy lùi kẻ quấy rầy chỉ bằng sức mạnh của lồng ngực, như một chiếc xe ủi. Đấy là một con chó béc giê Đức. Nó bước vào cuộc sống của tôi ngày 17 tháng Hai năm 1968 ở Beverly Hills, nơi tôi vừa đến đoàn tụ với vợ là Jean Seberg, trong lần quay một bộ phim. Hôm đó, một trận mưa rào quá cỡ như phần lớn những hiện tượng thiên nhiên ở Mỹ mỗi khi chúng ra tay ập xuống Los Angeles, trong vài phút biến nơi đây thành đô thị ao hồ nơi những chiếc Cadillac bị giáng truất bò đi thật thảm hại, bì bõm trong nước; thành phố mang cái dáng vẻ chẳng hợp lề thói tí nào của những thứ nhằm dùng vào việc khác hẳn, mà các nhà siêu thực từ lâu đã khiến chúng ta quen thuộc rồi. Tôi lo lắng cho con chó Sandy của mình, ngày hôm trước nó đã làm một cuộc chạy rông của anh chàng độc thân ở phía Sunset Strip và bây giờ vẫn chưa về. Sandy cho đến năm bốn tuổi vẫn còn là trai tân, nhờ ảnh hưởng của môi trường vốn chú trọng đạo đức của gia đình chúng tôi, nhưng một ả chó ở Doheny Drive đã khiến nó cuống cuồng lên. Bốn năm giáo dục tư sản và những tôn chỉ mẫu mực bị vứt vèo qua cửa sổ. Con chó này vốn bản chất thật thà, dễ tin, không được trang bị tốt để đương đầu với môi trường điện ảnh Hollywood. Chúng tôi đã mang từ Paris đến toàn bộ cái vườn thú thường ngày của chúng tôi. Có con mèo Miến Điện, Bruno, và cô bạn gái Thái Lan của nó, tên là Maï; thực ra Maï là một con mèo đực, nhưng chẳng hiểu vì sao chúng tôi luôn coi nó là một cô nàng, hẳn là vì nó có hàng kho mơn trớn dịu dàng mà nó ban phát cho chúng tôi xả láng. Còn có một mụ mèo già chuyên ở máng xối, Bippo, yếm thế và hoang dã, sẵn sàng cào cho anh một phát khi anh định vuốt ve mụ ta; một con chim tu-căng, Billy-Billy, mà chúng tôi nuôi từ hồi ở Colombia, và tôi vừa mới đem cho vườn thú riêng của Jack Carruthers ở San Fernando Valley, một con trăn tuyệt đẹp dài đến bảy mét, có biệt danh là Pete Kẻ Siết cổ, mà tôi đã bắt gặp trên đường trong rừng ở Colombia, cùng thời với con chim tu-căng. Tôi đành chia tay Pete vì các bạn tôi từ chối chăm nó khi, phải cái thói lang bạt của kẻ mà cái thân xác trong đó anh ta bị nhốt gây ra những cơn khủng hoảng của bệnh sợ chỗ kín, tôi đột ngột bỏ chạy từ lục địa này sang lục địa khác, đi tìm một ai hay một cái gì đó khác, cũng chẳng biết là cái gì. Thôi thì tốt hơn là tôi nên nói ngay là tôi chẳng tìm ra được cái gì khác trong các cuộc chạy đuổi của mình cả, ngoài thứ xì gà khá kỳ lạ ở Madras, một trong những bất ngờ lớn và đẹp của đời tôi. Thỉnh thoảng, tôi đến thăm con trăn của tôi. Tôi vào trong khu đất rào đặc biệt mà Jack Carruthers dành cho nó vì quý trọng các nhà văn. Tôi ngồi xếp bằng, trước mặt nó, và chúng tôi nhìn nhau rất lâu, ngạc nhiên, sửng sốt vô hạn, mỗi bên đều bất lực không cắt nghĩa được chút nào về những gì đã xảy đến cho mình và làm cho bên kia được chia sẻ đôi chút hiểu biết rút ra từ kinh nghiệm của mình. Mang kiếp trăn hay kiếp người là một nỗi bất hạnh khiến ta ngơ ngác đến mức nỗi hốt hoảng được chia sẻ này trở thành mối tình bằng hữu thật sự. Đôi lúc Pete lấy tư thế hình tam giác - bọn trăn không quấn lại thành cục tròn, chúng dựng thân lên thành hình thước thợ; lúc đó tôi có cảm giác bằng cách ấy nó làm một dấu hiệu gì đấy mà tôi cần diễn giải. Từ đó, tôi biết được tư thế hình thước thợ đối với con trăn là tư thế tự vệ, trước một mối hiểm nguy, và như thế tôi biết rằng Pete Kẻ Siết cổ và tôi quả có một điều chung: cẩn trọng cao độ trong các quan hệ với con người. Tầm trưa, trong khi nước ồ ạt tuôn trên các đại lộ, tôi nghe thấy một tiếng sủa giọng trung đẹp mà tôi đã quá biết và đi ra mở cửa. Sandy là con chó vàng cao lớn, chắc hẳn là hậu duệ rất gián tiếp một dòng chó Đan Mạch xa xôi nào đó, nhưng do mưa và bùn, bộ lông nó đã bắt màu sô cô la nghiền. Nó đứng ở cửa, đuôi cụp, mõm sát đất, dùng tài năng dối trá tuyệt hảo để ra bộ chịu tội, xấu hổ và có dáng đứa con hư trở về nhà. Không biết bao nhiêu lần tôi bảo nó là không được lê lết ngoài đường ban đêm; sau khi đã đưa ngón tay dọa nó và mắng đi mắng lại nó mấy lần là bad dog tôi đã sẵn sàng tận hưởng trọn vẹn cái vai trò lãnh chúa cùng ông chủ được sùng bái và kính sợ, kẻ nắm uy quyền tuyệt đối của mình, thì con chó của tôi kín đáo quay đầu lại để chỉ cho tôi biết rằng không chỉ có mỗi hai chúng tôi. Quả là nó đã dẫn về một cậu bạn tình cờ gặp ngoài đường. Đó là một con béc giê Đức lông xám, chừng sáu hay bảy năm tuổi, con vật đẹp đẽ tạo cảm giác mạnh mẽ và thông minh. Tôi để ý nó không có vòng cổ, điều hiếm thấy ở một con chó nòi. Tôi cho anh chàng đểu của mình vào nhà, nhưng con béc giê Đức không bỏ đi, và mưa to đến nỗi bộ lông ướt dính chặt vào da khiến nó trông giống con hải cẩu. Nó vẫy đuôi, dựng hai tai lên, mắt long lanh linh lợi, với vẻ chờ đợi căng thẳng của lũ chó đang đón một cử chỉ quen thuộc hay một mệnh lệnh. Rõ ràng là nó chờ một lời mời, đòi cái quyền được cho trú ẩn vẫn khắc ghi bao đời nay trong quan hệ giữa con người với bạn hữu đang hoạn nạn. Tôi mời nó vào. Khá dễ biết tính cách một con chó, trừ với giống doberman*, ở giống này tôi luôn gặp những phản ứng bất ngờ. Con chó xám khiến tôi chú ý ngay vì tâm trạng vui vẻ của nó. Vả lại, ai đã từng sống chung với loài chó đều biết rằng khi một con tỏ ra mến một con khác, thì gần như ta luôn có thể tin đánh giá của nó. Con Sandy của tôi tính rất ôn hòa, và cảm tình tự phát của nó dành cho anh chàng khổng lồ được cứu khỏi cơn mưa rào này là sự tiến cử tốt nhất đối với tôi. Tôi điện thoại cho Hội bảo vệ động vật báo là tôi đã đón nhận một con béc giê Đức lang thang, báo số điện thoại của tôi, phòng trường họp chủ nó xuất hiện, và tôi nhẹ lòng khi nhận thấy vị khách của mình rất tôn trọng bọn mèo, và là một con vật lương thiện có giáo dục. Những ngày tiếp sau đó, tôi có nhiều người đến thăm, và con béc giê mà tôi đặt tên là Batka - trong tiếng Nga có nghĩa là Bố cưng, hay là Lão to sụ - được các bạn tôi rất thích, sau khi đã qua phút e sợ đầu tiên. Ngoài cái ức đ vật và cái mõm to đen sì, quả là Batka còn có bộ răng nanh giống như sừng của loài bò tót nhỏ mà ở Mexico người ta gọi là Machos. Tuy nhiên nó rất hiền dịu; nó hít hít các vị khách để nhận dạng rồi sau đó, ngay từ cái vuốt ve đầu tiên, bắt tay, bằng cách đưa chân ra cho khách như muốn bảo họ: “Tôi biết là tôi có vẻ hung tợn, nhưng tôi rất tử tế.” Ít ra thì đó cũng là cách tôi diễn giải những cố gắng của nó để làm yên lòng các vị khách của tôi, nhưng dĩ nhiên một người viết tiểu thuyết dễ bị nhầm về bản chất con người và sự vật hơn người khác, vì anh ta tưởng tượng ra họ. Tôi luôn tưởng tượng về những người tôi gặp trong đời hay sống gần tôi. Đối với một kẻ tưởng tượng chuyên nghiệp, điều ấy dễ hơn và đỡ mệt. Anh chẳng cần phải tốn thì giờ tìm hiểu những người thân của mình, chăm chú đến họ, thật sự chú tâm đến họ. Anh bịa ra họ. về sau, khi gặp điều bất ngờ, anh giận họ kinh khủng: họ đã lừa dối anh. Tóm lại, họ không xứng đáng với tài năng của anh. Chẳng ai đòi lại con chó, và tôi thấy nó đã trở nên một thành viên quen thuộc của gia đình tôi. Ngôi nhà của tôi ở Arden vốn sẵn có bể bơi, và công ty bảo dưỡng mỗi tháng hai lần cử người đến kiểm tra bộ phận lọc nước. Một buổi chiều, tôi đang ngồi viết, bỗng ở phía bể bơi có tiếng gầm dài rồi tiếp sau là những tiếng sủa giật từng hồi, nhanh và giận dữ mà bọn chó sủa để báo hiệu có kẻ lạ lẻn vào và chúng sắp tấn công ngay lập tức trong vài giây tới. Thường thì đó chỉ là lối nói trong ngôn ngữ loài chó cái câu tương đương với câu nói trong ngôn ngữ của chúng ta: “Hãy giữ tôi lại không thì tôi gây tai họa đến nơi đây này”, nhưng ở những con chó giữ nhà được huấn luyện tốt thì đó chẳng phải là chuyện làm ra vẻ bề ngoài. Tôi chưa từng biết thứ gì gây căng thẳng thần kinh hơn là những cơn kịch phát bất ngờ và hung dữ ấy mà mục đích là chôn đứng chân anh tại chỗ, trong khi chờ dịp tốt hơn. Tôi chạy ra sân. Bên kia hàng rào sắt là anh chàng làm công người da đen đến kiểm tra bộ phận lọc nước bể bơi, còn Batka thì lao ra phía cổng chính, bọt sùi đầy mõm, trong cơn thù hận tột đỉnh kinh hoàng đến nỗi con Sandy trung hậu của tôi vừa bò vừa rên hư hử lẩn vào một bụi cây và biến thành tấm thảm chân giường. Anh da đen đứng sững, tê liệt vì sợ. Chẳng phải chuyện đùa. Con béc giê hiền từ của tôi, luôn nhã nhặn với khách khứa của chúng tôi, đã biến thành cơn thịnh nộ súc sinh, tìm lại được trong đáy họng nó những tiếng hú của loài ác thú đang đói trông thấy thịt mà không với tới được. Có một điều gì đó thật hết sức đáng nản lòng và gây bối rối trong cái cách thay đổi đột ngột của một con vật hiền lành anh tưởng đã hiểu rõ thành con thú tàn bạo và chừng như hoàn toàn khác. Đây là sự biến đổi thật sự về bản chất, gần như là về tầm vóc, một trong những khoảnh khắc nặng nề khi những sắp xếp nhỏ nhặt vốn đã làm anh yên lòng và những phạm trù quen thuộc vỡ vụn tan tành. Kinh nghiệm khiến người ta phải nản lòng dành cho những kẻ chuộng các niềm tin chắc chắn. Bỗng nhiên tôi đối mặt với hình ảnh một thú tính khởi nguyên, nấp kín trong lòng tự nhiên, mà người ta thích quên đi sự có mặt ngầm của nó giữa hai lần bộc lộ chết người. Cái mà ngày trước người ta gọi là chủ nghĩa nhân ái luôn bị mắc kẹt trong cái song đồ đó, giữa tình thương lũ chó và sự kinh tởm tính chất chó má. Tôi cố kéo con Batka lại và bắt nó vào nhà, nhưng quả là nó có ý thức nghĩa vụ, cái con khốn kiếp ấy. Nó không cắn tôi, nhưng hai bàn tay tôi đầy những nước bọt, và nó giật ra khỏi tôi, lao về phía cổng, nhe nanh ra. Anh da đen đứng bên kia cổng, dụng cụ cầm ở tay. Đó là một chàng trai trẻ. Tôi nhớ rất rõ nét mặt anh ta, bởi đây là lần đầu tiên tôi thấy một người da đen đứng trước sự căm thù thú tính. Anh ta có cái vẻ buồn thường thấy trên một số khuôn mặt người khi họ sợ. Trong chiến tranh, tôi thường thấy vẻ mặt ấy ở các bạn trong phi đội của tôi. Tôi nhớ hôm trước ngày phải thực hiện một nhiệm vụ bay là sát mặt đất đặc biệt nguy hiểm, đại tá Fourquet đã bảo tôi: “Trông cậu buồn thế, Gary.” Lúc đó tôi sợ. Tôi bảo anh thanh niên đi đi, bỏ chuyện súc bể bơi tuần này. Ngày hôm sau lại tái diễn cảnh tượng ấy với người làm công của công ty Liên hiệp Miền Tây mang đến cho tôi một bức điện tín. Buổi chiều, mấy người bạn đến thăm chúng tôi và, mặc dầu tôi lo lắng, Batka đã đón tiếp họ hết sức thân tình. Họ là người da trắng. Bấy giờ tôi mới nhớ ra là người làm công của Liên hiệp Miền Tây cũng là người da đen.   Mời các bạn đón đọc Chó Trắng của tác giả Romain Gary.
Mình Về Nhà Thôi! - Catherine Ryan Hyde
Cô bé Angie mười bốn tuổi và mẹ lại phải chuyển chỗ ở lần nữa, vì Sophie, em gái nhỏ của Angie, mắc chứng bệnh giống như tự kỉ, và lúc nào cũng chực rít lên. Dù họ chuyển đến sống ở đâu, thì tổ ấm luôn là thứ tạm bợ. Một ngày nọ, ba mẹ con chuyển tới sống cùng Dì Vi và gặp cô chó Rigby to lớn của nhà hàng xóm. Cô chó đã làm thay đổi tất cả. Sophie đã yêu mến và bắt đầu bắt chước nội tâm của nó ngay từ khi mới gặp. Thật may mắn là Rigby rất trầm tĩnh nên Sophie ngừng la hét, và mọi người lại có thể thở phào. Cho tới khi Paul, ông chủ luôn gắt gỏng và ghét tiếp xúc với mọi người của cô chó, chuyển tới sống trên núi, Sophie lại bắt đầu rền rĩ. Angie phải học cách xoay xở trước quá nhiều rối rắm: gia đình, tình bạn, những cảm xúc kì lạ của tuổi mới lớn, và những ước mơ của chính mình. Nhưng điều quan trọng nhất là, cô bé luôn giữ một trái tim đầy tình yêu thương và tin vào chính mình, cho dù niềm tin đó bị mọi người phản đối hay cho là kì quặc. Được chắp bút bởi tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất: Pay it forward, Don’t let me go, When I found you, When you were older,… Mình về nhà thôi! (Where we belong) là câu chuyện xúc động, chân thành, và tràn đầy hy vọng về hành trình tìm kiếm mái ấm của mỗi người, không chỉ là một ngôi nhà, mà còn là tổ ấm tinh thần thực sự trong trái tim mỗi chúng ta. *** Hyde đặc biệt sâu sắc trong vai trò người kể chuyện. Bằng lối viết gãy gọn, cô tạo nên những nhân vật hoàn hảo và những cuộc đối thoại đầy tinh tế.” - Library Journal “Cách tiếp cận xúc cảm trái tim của Hyde vô cùng tinh tế.” - Publishers Weekly *** Tới năm bảy tuổi, tôi đã sở hữu tận hai mươi hai bộ bài. Những hai mươi hai bộ cơ đấy. Tôi thậm chí còn chẳng bao giờ chơi bài ấy chứ. Mấy trò bài bạc chán òm. Tôi dùng mấy lá bài đó để xếp nhà. Mọi chuyện bắt đầu từ ngôi nhà thẻ bài đầu tiên ba dạy tôi xếp, ngay trước khi ba cho tay vào túi áo lục tìm thuốc lá. Nhưng trong túi áo ba chẳng còn lại điếu nào, thế nên ba đành tới cửa hàng tạp hóa góc phố mua thuốc, rồi bị bọn cướp giết chết ngay tại đó. Khi ấy tôi mới sáu tuổi. Bọn chúng giết ba để lấy chiếc đồng hồ đeo tay, ví tiền và nhẫn cưới của ông. Dù chiếc đồng hồ Timex ba đeo chỉ là loại rẻ tiền, chiếc nhẫn bạc mỏng tang cũng chẳng có giá trị gì cả. Thậm chí ba còn chẳng mang theo nhiều tiền, bởi trước giờ ông làm gì có nhiều tiền đâu. Sau khi đã xếp nhà thuần thục, tôi tiếp tục xếp những công trình khác bằng thẻ bài: khu chung cư, khu phức hợp, nông trại, cung điện,... Tôi tốn rất nhiều công sức cho những công trình đó, dù đến cuối cùng chúng đều sụp đổ hết. Nhưng mọi thứ trên đời này đều như vậy mà. Phải không? Giống như ba tôi ấy. Lúc đó ba đang dạy tôi rằng khoảnh khắc tuyệt vời nhất chính là khi tòa nhà dần cao lên. Đó là khi bạn đã xây được khoảng ba hay bốn tầng nhà, và mỗi lần xếp thêm bài đều khiến bạn nín thở. Bạn phải hết sức kiên nhẫn. Bạn nghĩ, công trình của mình chắc chắn sẽ sụp đổ mất thôi, nhưng hóa ra không phải. Cảm giác nín thở chờ đợi ấy thật kì lạ, giống như thời gian ngưng lại vậy. Và khoảnh khắc ấy chính là lí do khiến tôi xếp tiếp những lá bài chết tiệt đó. “Ba thú thực với con điều này nhé, Angie,” ba tôi nói. “Khoảnh khắc chờ đợi ấy khiến con bạc trong ba bừng tỉnh.” ... Mời các bạn đón đọc Mình Về Nhà Thôi! của tác giả Catherine Ryan Hyde.