Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mật mã Maya tập 1 - Brian D Amato

Tên ebook: Mật Mã Maya tập 1(full prc, pdf, epub) Nguyên tác: In The Courts Of The Sun Bộ sách: Mật Mã Maya Tác giả: Brian D’Amato Thể loại: Kỳ ảo, Mạo hiểm, Phiêu lưu, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Dịch giả: Phong Diệp Nhà xuất bản: Trẻ Số trang: 836 Kích thước: 16x24cm Ngày xuất bản: 2010 Trọng lượng: 1450 gram Giá bìa: 179.000 VNĐ Chụp ảnh – tạo bìa - chỉnh sửa hình ảnh: Yew Chế bản PRC: Chút Sửa lỗi chính tả - chỉnh sửa bản word: apple-socola, may&nui, phượng xồ, giangcoi163 Đánh máy: jik2040, nph268, to_you, lananha1, jella, hongleo, phượng xồ, tinh251993, Smilehd, hanhung3012, ndviet, svcntnk42a1, nguyen_ly, iamvltt2, minh_trang, Iris, doushite, greengrass2709, tulipden112, TT8571, hakhanhbk2010, Ella_mEn, Ddeath, mainame, rouge2011, o0tinhtritam0o, hoangha2192, SmallEgg, Mr.Cent, winki, phamdung90, Chinh phục ™, to_you, rkj, MatTo89, thuanga, kdungrau, ghostgirl_12606, bluesky29, Tyty1803, Nerissa, thuy_trang89, Vanessa1811 Ngày hoàn thành: 09/09/2010 Nguồn: vhproject.hnsv.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Ebook Mật mã Maya Giới thiệu: Mật mã Maya tập hợp những phẩm chất làm nên một cuốn sách hay như sự ly kỳ liên quan đến ngày tận thế, phiêu lưu mạo hiểm ở quá khứ và hiện tại, nền văn minh ít người biết tới, sự lãng mạn. Jed Delanda là hậu duệ người Maya sinh tại Guatemala, có tài năng thiên bẩm về toán học. Khi còn nhỏ, Jed đã được người mẹ truyền dạy một trò chơi của người Maya: cờ Hiến tế. Đây là cách đặc biệt sử dụng linh tính để dự đoán các sự việc sẽ diễn ra, hay nói cách khác là một kiểu tiên tri. Sau khi đến Utah làm con nuôi trong một gia đình người Mỹ theo đạo Mormon, anh ta được phát hiện là có năng khiếu thiên tài về lịch học; cùng với những hiểu biết về cờ Hiến tế, anh ta đã thu hút được sự chú ý của giáo sư Taro Hyaku, chuyên gia về lý thuyết trò chơi. Sau một chuyện hiểu nhầm, Jed đã ngừng cộng tác nghiên cứu với Taro, quay sang dùng cờ Hiến tế để đầu tư chứng khoán và vớ được những món hời lớn tới hàng triệu USD. Cuộc đời Jed rẽ sang một hướng mới khi anh ta được biết nhóm nghiên cứu của Taro đã giải mã được một cuốn sách cổ của người Maya mà chính anh ta cũng rất muốn xem. Anh ta liên lạc lại với vị giáo sư (lúc này đang làm việc cho tập đoàn Warren) và được biết họ đang lập trình cho Leon - một chiếc máy tính để nó có thể chơi cờ Hiến tế. Taro giới thiệu Jed với “sếp lớn” là Marena Park, một phụ nữ thông minh và đầy bí ẩn. Tại đây, Jed đã chơi cùng Leon và hé lộ tài dự đoán của anh ta về thảm họa sắp xảy ra tại một nơi được coi là biểu tượng của nước Mỹ. Sau sự kiện đó, Jed gia nhập dự án nghiên cứu của tập đoàn Warren để tìm hiểu và ngăn chặn thảm họa sẽ xảy đến vào ngày 21/12 theo lời tiên đoán của người Maya cổ. Jed được chọn làm người tình nguyện trở về quá khứ để học cách chơi cờ Hiến tế đỉnh cao và gửi những gì học được về hiện tại. Cuộc hành trình trở về quá khứ của anh ta được các nhà khoa học tiến hành dưới hình thức sao chép ký ức và gửi đến bộ óc của một người Maya cổ sống vào năm 664 sau công nguyên. Theo kế hoạch, ký ức của Jed sẽ được chuyển vào bộ não của một vị vua đang trị vì vào năm 664 CE. Nhưng mọi việc không như dự tính, thay vì trở thành vua, một sự nhầm lẫn lớn đã biến Jed trở thành Chacal - một người hiến tế mạng sống của mình bất đắc dĩ. Điều này dẫn tới tình cảnh anh ta phải chia sẻ ý thức với Chacal và dấn thân vào nhiều cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm. Đến phần kết của cuốn sách, nhân vật chính Jed đã biết mình phải làm gì. Nhưng liệu anh ta có làm điều đó thật hay không? *** Tôi nhìn thấy là một chấm màu đỏ trên nền xanh lơ. Rồi một chấm nữa xuất hiện phía trên, lệch về bên trái, chấm thứ ba hiện ra ngay sát dưới chấm thứ hai, và một chấm nữa, một chấm nữa, năm, rồi chín, rồi mười ba. Những chấm đỏ lớn dần lên và loang ra, khi gặp nhau, chúng hòa vào làm một, chảy thành dòng, và tôi nhận ra đó chính là máu từ lưỡi tôi nhỏ xuống tờ giấy tế lễ màu xanh. Quỷ thần ơi, - tôi thầm nghĩ, - nó có tác dụng thật. Bây giờ không còn là năm 2012 nữa. Mà là năm 664. Ngày 20 tháng 3 năm 664 Công nguyên theo Tây lịch. Hay theo cách tính của người Maya, hôm nay là ngày Rắn đất 3, ếch mưa 5 của uinal (Cách tính thời gian của người Maya, 1 uinal có 20 ngày) 11, tun (1 tun gồm 360 ngày) 11, k’atun (1 k’atun gồm 7.200 ngày, tương ứng với gần 20 năm theo Tây lịch) 11, b’ak’tun (1 b’ak’tun gồm 144.000 ngày, tương ứng với 394.52 năm theo Tây lịch) 10. Lúc này khoảng 4 giờ 48 phút sáng. Chủ nhật. Hừm. Tôi có cảm tưởng việc này cũng giống như một biến cố lớn nào đó xảy ra trong đời mà người ta chỉ có thể nhận biết sau khi đã đờ người ra một lúc lâu, kiểu như: “Chúa ơi, mình bị bắt thật!”, hay “Chúa ơi, mình vừa bị đâm một nhát!”, hay “Chúa ơi, mình lấy vợ thật rồi!”, hay “Chúa ơi, mình có con rồi!”, hay “Chúa ơi, mình bị chơi khăm đến ba lần!”, hay “Chúa ơi, tòa nhà kia đang sập thật kìa!”, và mỗi lần như vậy, người ta đều có cảm giác rằng chưa từng có chuyện gì nghiêm trọng đến thế xảy ra với mình. Hijo de pita (Chết tiệt! – tiếng Tây Ban Nha)! Tôi ngước lên và nheo mắt nhìn qua ô cửa hình thang nhỏ xíu. Bầu trời đã phớt màu tím xanh nhưng không hiểu sao tôi vẫn nhìn thấy rất nhiều sao, nhiều chưa từng thấy, độ sáng và độ phân tán của những ngôi sao đã giảm xuống cấp thứ tư (Mức độ sáng của các ngôi sao được những người Hy Lạp cổ đại chia thành 6 cấp, cấp sáng nhất là cấp 1). Chúng đã di chuyển vị trí, dĩ nhiên, nhưng Taro đã tính toán dung lượng tải xuống trên máy tính sao cho đầu điếu xì gà của Mèo Rừng 1, tương ứng với vị trí của ngôi sao Algenib thuộc chỏm Thiên Mã, vẫn nằm ở vị trí gần như lúc trước trong ô hình thang, ngay bên phải trung điểm. Có một ngôi sao lạ nằm bên trái nó và bên phải ngôi Homam (Tên gọi cổ xưa của ngôi Zeta Pegasi thuộc chỏm Thiên Mã), nó sáng đến mức có thể sánh ngang với ngôi Gamma Andromedi (Ngôi sao sáng thứ ba trong chòm Tiên Nữ). Ngôi sao đó ắt hẳn sẽ tắt khoảng một trăm năm gì đó sau thời điểm này, bằng không nó đã được al-Khawarzimi (al-Khawarzimi: Nhà thiên văn học người Ba Tư(khoảng 780 – 850)đặt tên. Không thể tin được, - tôi nghĩ, - họ làm được điều đó thật. Vẫn cùng vị trí đó, chỉ có thời gian là khác đi. Tôi không hẳn vẫn ở nguyên vị trí trong vũ trụ, đương nhiên, mà điều đó cũng chẳng có gì quan trọng. Hệ mặt trời đã dịch chuyển rất nhiều trong 1347 năm. Nhưng tôi vẫn đứng ở nguyên vị trí cũ trên trái đất. Tôi vẫn đứng trong căn phòng nhỏ sát đỉnh kim tự tháp cao nhất của thành Ix mà trong tương lai chính là tỉnh Alta Verapaz thuộc miền trung Guatemala. Nhưng vào lúc này, căn điện thờ đang nhuốm một màu vàng cam bởi ánh sáng sáng từ những ngọn đuốc; những chuỗi chạm trổ hình bọ cạp trên tường nhẵn bóng, không hề tróc lở, với nhiều màu sắc pha trộn: đen, xanh lam và đỏ son. Và thành phố này đang sống. Tôi có thể nghe thấy tiếng của đám đông bên ngoài, hay nói đúng hơn, qua bức tường đá tôi có thể cảm nhận được những tiếng cầu nguyện rầm lầm của họ. Tôi cho rằng vị trí trong không gian của tôi không thay đổi, nhưng tôi đã... Hừm. Tôi suýt định nói rằng tôi đã được đưa về quá khứ. Nhưng tôi không muốn bắt đầu câu chuyện theo cách đơn giản hóa đi như thế. Vấn đề nằm ở chỗ việc đi xuyên thời gian là không thể. Tôi muốn nói đến việc đi ngược về quá khứ. Nếu muốn đến tương lai một cách chóng vánh hơn, anh chỉ việc tự đóng băng mình (Người ta cho rằng có thể đưa một người đến tương lai bằng cách đóng băng, hay nói cách khác là làm đông lạnh anh ta. Rồi vào một thời điểm nào đó, rất lâu sau, khi khoa học tiến bộ hơn, người đó sẽ được rã đông, sống lại và như thế là anh ta đã đến tương lai). Nhưng đi về chiều ngược lại là không thể, chắc chắn không bao giờ làm được vì những lý do hiển nhiên ai cũng biết. Đầu tiên là thuyết nghịch lý “Ông nội” (Học thuyết do tiểu thuyết gia viễn tưởng Rene Barjuvel đề xuất năm 1943), nghĩa là anh có thể trở lại quá khứ, giết ông nội mình và ắt sẽ không bao giờ có mặt trên đời để thực hiện hành vi lúc đầu. Thứ hai là cho dù anh không làm gì lúc ở quá khứ đi chăng nữa, thì cũng xảy ra mâu thuẫn là trong cơ thể anh sẽ tồn tại những phân tử đã tồn tại trong chính anh ở quá khứ, hoặc những phân tử đó phải di chuyển trong không gian và tái hợp thành cơ thể anh. Như vậy, các phân tử đó sẽ phải ở hai nơi cùng một lúc. Mà điều đó thì không thể xảy ra. Lý do thứ ba là vấn đề cơ học đơn thuần. Cách duy nhất để về quá khứ mà ai cũng từng nghe là hành trình hố giun (Hố giun: Đây là một khái niệm trong vật lý, “hố giun” là một không-thời gian tạo nên đường đi tắt trong không gian và thời gian)nổi tiếng qua một lỗ hổng hoàn toàn trống rỗng. Nhưng đưa vật chất qua lỗ hổng này chẳng khác gì đút một cái bình Meissen (Bình Meissen: Một loại bình gốm ở châu Âu)qua máy cắt mì sợi. Mọi thứ đi qua nó và ra ở đầu kia đều bị nghiền vụn, nát tung và chẳng được tích sự gì nữa. Thế nhưng... thế nhưng... thế nhưng... vẫn còn một cách khác. Sự nhìn xa trông rộng của những người ở phòng thí nghiệm Warren là ở chỗ họ biết nếu không đưa được vật chất về quá khứ thì điều đó không có nghĩa là mọi khả năng khác đều bị loại bỏ. Nếu anh không đưa được gì, thì anh có thể đưa “không gì cả”. “Không gì cả” ở đây bao gồm cả sóng điện từ. Họ đã phát triển một phương thức để đưa các chùm năng lượng qua một ống Krasnikov (Ống Krasnikov: Là một đường đi xuyên không – thời gian được giả định tạo thành bằng cách uốn cong không – thời gian, từ đó tạo ra các con đường siêu quang)nhân tạo. Họ tính toán rằng hành trình của các chùm năng lượng có thể truyền đi một số thông tin. Và quả đúng thế, nó đã truyền được rất nhiều thông tin. Trong tín hiệu họ chuyển về quá khứ có mã hóa toàn bộ ký ức đã được cô đọng lại, chính là tất cả những gì tạo thành một ảo giác mà người ta gọi là nhận thức về bản thân. Mà trong trường hợp này chính là tôi. Vấn đề tiếp theo đương nhiên là phải có ai đó hay thứ gì đó nhận và lưu trữ ký ức ấy ở đầu bên kia. Nhưng ở thời đại chúng tôi cần quay về lại chưa có bất cứ thứ gì kiểu như chảo ra-đa, ổ đĩa, chíp silicôn, ăng ten thu phát tín hiệu hay radio tinh thể. Vào khoảng năm 664, chỉ có một thứ duy nhất có thể nhận và lưu giữ nhiều thông tin đến thế. Một bộ não. Tôi bắt đầu cử động được con ngươi. Tôi bắt đầu nhận thấy tay phải đang nắm một sợi thừng gai của mình mới to lớn, rắn chắc làm sao và chỗ lòng bàn tay sát cổ tay chai sần ghê tởm đến mức nào. Những cái móng dài, sắc, nạm đá đỏ hình chữ T, những ngón tay xăm trổ nhiều vằn dài màu đỏ và đen nom như hình rắn san hô. Một vòng xuyến xếp vảy màu ngọc bích quấn từ cổ tay lên tới gần khuỷu. Cũng giống như một phần của bộ ngực trần mà tôi có thể nhìn thấy, đầu gối trái nổi chai sần của tôi trát đầy một thứ đất sét màu xanh lam sáng. Điểm đầu tiên cho nhóm Thứ Sáu Kỳ Quặc – tôi nghĩ. Tôi đang thực sự sống trong cơ thể một người khác. Chính xác thì tôi đang ở trong bộ óc của một người có cái tên Chim Ruồi Có Nanh 9. Chúng tôi – tức là những người tham gia dự án Warren – có biết đôi chút về ông ta. Ôngta là tù trưởng của thị tộc Mèo Rừng, là ahau, tức là vua, hay chúa tể, hay chiến binh đứng đầu của thành Ix và gần hai ngàn đô thị, thôn làng khác quanh Ix. Ông ta là con trai của vị ahau thứ mười hai, người được gọi là Rừng Cháy 22, và hoàng hậu Tiếng Gió Lốc. Hôm nay, ông ta tròn 48 tuổi 6 ngày. Ông ta đang ngồi đó, nhịn ăn đã bốn mươi hai giờ liền. Và ông ta đang chuẩn bị đứng lên, vào đúng phút rạng đông để nhận ngôi vị ahau lần thứ hai, sau hai mươi năm trị vì lần thứ nhất. Cách đầu gối trái tôi khoảng năm inch (1 inch = 2.54 cm) về hướng bắc có một chảo than hồng. Một cách vô thức, tôi bóc tờ giấy hình chữ nhật thấm đầy máu khỏi chiếc chiếu sậy, giơ nó lên trên chảo than nóng. Ánh sáng của đám than hồng hắt le lói qua tờ giấy một lúc lâu và tôi có thể nom thấy những hình vẽ trang trí ở mặt bên kia, thấy dòng chữ “hãy trông nom, che chở chúng con”, và cuối cùng là thấy hình vẽ nhìn nghiêng của một con đại bàng. Chính xác hơn đó là con yêu quái đại bàng Harpy. Thrasyaetus harpyia (Con yêu quái được thể hiện bằng hình ảnh một phụ nữ mình người cánh chim). Trong tiếng Tây Ban Nha, nó được gọi là arpion, còn trong ngôn ngữ của người Maya, nó được gọi là hunk’uk, tức “kẻ đào vàng”. Những người Aztec (Aztec: Một bộ tộc da đỏ cư trú ở miền Trung Mexico) thì gọi nó là “sói có cánh”. Đó là biểu tượng của một thị tộc, thị tộc của tôi, tức thị tộc của người mà tôi đang nắm quyền điều khiển bộ óc. Tờ giấy đó chính là một bức thư, là lời thỉnh cầu mà thị tộc tôi muốn gửi tới Mèo Rừng 1 đang ngự trên đỉnh bầu trời. Một cách vô thức, tôi gập tờ giấy dính nham nháp đó thành một khối hình tam giác – đó là một chuỗi thao tác phức tạp, giống như thao tác xếp hình một con sếu origami (Nghệ thuật xếp giấy của người Nhật Bản), mà tôi, hay đúng hơn là người chủ cũ của thân xác tôi, hẳn đã thực hành hàng trăm lượt – và đặt nó vào chảo than. Tờ giấy chắc đã được ngâm tẩm một thứ muối đồng nào đó vì nó kêu xèo xèo và bốc lên ngọn lửa màu xanh lá cây. Lưỡi tôi giật giật. Tôi rụt nó lại... không, chờ đã. Tôi rụt lại... Hừ. Chẳng có gì xảy ra sất. Tôi ra sức nuốt vào để cố ngậm miệng lại. Mặt tôi cứ như thể bị đóng băng vậy. Không có một chuyển động nào. M’AX ECHE? – Tôi nghĩ trong đầu bằng tiếng Ch’olan Mayan, - Ngươi là ai? (Ch’olan Mayan: Phiên bản tiếng Maya hiện đại được những người Ix và một số dân tộc Maya khác sử dụng ở thế kỉ 21) Không, khoan đã. Đó không phải ý nghĩ của tôi. Đó là tiếng của một ai đó khác. Có vẻ như tôi đã nghe thấy một giọng nói, nhưng tôi biết thực ra tôi không nghe thấy gì cả ngoài tiếng lao xao của đám đông trên quảng trường bên dưới và âm thanh trầm trầm, đùng đục của những chiếc trống hở làm từ thân cây tuyết tùng đang vang lên dai dẳng theo nhịp 5/4 kỳ dị. Có lẽ sẽ đúng hơn nếu diễn tả là tôi có cảm giác như đã đọc câu nói đó từ một hàng tít chạy ngang trước mắt. Và mặc dù nó không gây tiếng động, nhưng nó vẫn vang lên, hay chính xác hơn là gây ấn tượng như thể được viết bằng chữ hoa. Cứ như thể chính tôi đã nghĩ nó mà không nghĩ... -M’ax eche? Ôi, quỷ sứ ơi. Không chỉ có mình tôi trong cái xác này. Tôi chỉ có một mình trong căn phòng, nhưng trong bộ óc thì không. Ôi, cái đồ chết toi! Đáng ra bước đầu tiên trong kế hoạch Thứ Sáu Kỳ Quặc là phải tẩy sạch trí nhớ của đối tượng và để lại cho ý thức của tôi một tờ giấy trắng tinh mà hoạt động chứ. Nhưng rõ ràng là bước đầu của kế hoạch đã không đạt, hay chí ít là chưa đạt như mong muốn. Ông ta vẫn biết mình là mình. - M’ax eche? Mời các bạn đón đọc Mật mã Maya của tác giả Brian D’Amato

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngài Tổng Thống
"Ngài Tổng thống" là sự sáng tạo của nhà văn tiểu thuyết Asturias Guatemala, là một trong những tiểu thuyết quan trọng của Asturias. Cuốn sách năm 1898 ~ 1920 của chọn quản Estrada Cabrera như một nguyên mẫu, với một phim hoạt hình theo phong cách cường điệu một mùa nhựa thô tục, kỳ lạ khung, xảo quyệt, tàn ác bạo chúa hình ảnh, trong khi mô tả trong Người dân ở đây ly hợp chiếm ưu thế, trong đó sự thiếu hiểu biết rộng rãi, nghèo đói, đau khổ, bầu không khí khủng khiếp. Dựa trên nghiên cứu này cho thấy thực tế sâu sắc về các vấn đề xã hội hơn so với phạm vi bảo hiểm rộng điển hình của nghệ thuật, trong việc giảm gần nửa thế kỷ sau khi công bố mặc ngày hôm nay, công tác này vẫn còn nhận ra rằng không có thiếu ý nghĩa xã hội quan trọng. "Ngài Tổng thống", với Ust Lal 彼特里 các "đám tang của nhà độc tài", Gabriel Garcia Marquez của "Phụ huynh của suy giảm", Jose Luis Garcia Sanchez " Tyrant Banderas 'đồng gọi là "chống độc tài bốn tiểu thuyết Mỹ Latinh." Miguel Angel Asturias, 1967 người chiến thắng của giải Nobel Văn học. *** Văn học Mỹ Latin được giới thiệu ở miền Bắc Việt Nam trước hết bởi tính chất cách mạng (xã hội) của nó. Đó là thơ văn từ nền văn học Cuba: Thơ An-giê-ri – Quy-ba (nhiều dịch giả, NXB Văn học, 1960; về sau, riêng tác giả Nicolas Guillén còn được Xuân Diệu tuyển dịch một tập: Thơ Nicôla Ghiden, NXB Văn học, 1981), tiểu thuyết Béc-ti-li-ôn 166 [Bertillion 166], Giải nhất về tiểu thuyết do cơ quan trao đổi văn hoá giữa các nước châu Mỹ Latin, của José Soler Puig (Đức Ngọc dịch, NXB Văn học, 1962), kịch Đồng mía, Giải nhất văn học Cuba, của Paco Alfonso (Trần Công Tá dịch, NXB Văn học, 1965), truyện ngắn nhiều tác giả: Truyện ngắn Cuba (Lê Xuân Vũ dịch, NXB Văn học, 1964), về sau, còn hai tuyển tập truyện ngắn Cuba khác cũng được tuyển dịch: Giờ thì em không còn sợ nữa (nhiều người dịch, NXB Văn học, 1980) và Mặt đất và bầu trời (nhiều người dịch, NXB Lao động, 1984). Ngoài nền văn học dân tộc Cuba, thời gian này còn xuất hiện tác phẩm của các tác giả Mỹ Latin khác. Từ nền văn học Chile, thơ của Pablo Neruda (Thơ Pabơlô Nêruđa, Đào Xuân Quý dịch, NXB Văn học, 1961). Từ nền văn học Brazil, tiểu thuyết Những con đường đói khát của Amado (Huy Phương dịch, NXB Văn hóa, 1960). Từ nền văn học Guatemala, tiểu thuyết Ngài tổng thống của Asturias (Đặng Thế Bính, Vũ Cận dịch, NXB Văn học, 1964). Và, từ nền văn học Venezuela, tiểu thuyết Năm người im lặng của Miguel Otero Silva (Vũ Chính dịch, NXB Văn học, 1968)... *** MIGUEL ANGEL ASTURIAS (19/10/1899 – 09/06/1974) Giải Nobel Văn chương 1967 Miguel Angel Asturias là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch người Guatemala gốc Indian Bắc Mỹ, học luật tại Đại học Guatemala, dân tộc học và thần học ở Sorbon, làm báo và dạy học, sớm tiếp xúc với các đại diện của phong trào siêu thực; năm 1929 công bố tập thơ trữ tình đầu tiên Ánh sao, năm 1933 viết Ngài Tổng thống, một tác phẩm u ám về chế độ độc tài ở Châu Mỹ Latinh. Trong những năm tình hình chính trị ở Guatemala tương đối dễ thở, M. Asturias vào ngành ngoại giao, làm tham tán Đại sứ ở Mexico, Argentina, đại sứ ở Salvador… Năm 1946, ông xuất bản cuốn Những người Maya được coi là tác phẩm lớn nhất của ông. Năm 1956, tổng thống than Hoa Kỳ lên nắm quyền đã tước quyền công dân của M. Astuiras và buộc ông phải di tản sang Buenos Aires, sau đó sang châu Âu. Ông vẫn tiếp tục hoạt động báo chí và sáng tác văn học. Năm 1966 lại xảy ra đảo chính ở Guatemala, bạn của M. Asturias trở thành Tổng thống, ông được chỉ định làm Đại sứ ở Pháp. Cùng năm này M. Asturias được trao tặng giải thưởng Lenin “Vì hoà bình giữa các dân tộc”, và năm sau ông được trao giải Nobel vì những tác phẩm xuất sắc bám rễ sâu xa vào những truyền thống văn hoá và huyền thoại của dân tộc Maya và thổ dân Mỹ Latinh. Asturias được coi là người mở đầu chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh. Năm 1970, trong bối cảnh chế độ chính trị bắt đầu siết chặt lại, M. Asturias từ chức Đại sứ và tập trung thời gian, sức lực cho các hoạt động văn học cho đến cuối đời. Tác phẩm của M. Asturias đến với độc giả miền Bắc Việt Nam từ trước khi ông đoạt giải Nobel. Tiểu thuyết Ngài Tổng thống được các dịch giả Đặng Thế Bính và Vũ Cận chuyển ngữ, nxb Văn học xuất bản năm 1964. Ở Miền Nam, tạp chí VĂN số 109 ngày 01/07/1968 dành riêng để viết về M. Asturias và đăng các tác phẩm của ông; năm 1969, nxb Phù Sa (Sài Gòn) xuất bản tiểu thuyết Ngài Tổng thống qua bản dịch của Tâm Linh. Sau 1975, tác phẩm Mắt những người đã khuất (2 tập) của ông được nxb Văn học ấn hành năm 1986 qua bản dịch của Nguyễn Vĩnh. Ngoài ra một số truyện ngắn của ông cũng được dịch và đăng rải rác trong các tuyển tập và tạp chí Văn học nước ngoài. *** "Kêu vang kêu vang kêu vang ...... ......" Kinh Chiều chuông thì thầm như một lời cầu nguyện vang lên trên thành phố, đám đông người ăn xin cầu xin cuối ngày, kéo cơ thể kiệt sức mình để buộc các vuông, tập hợp dưới mái hiên của nhà thờ qua đêm. Xung quanh quảng trường được bao phủ bởi lính gác, bảo vệ an ninh của Tổng thống Cộng hòa. Trong bóng tối, Pala Đại tá Les quan hệ cha con, thậm chí, lỏng lẻo dưới hiên nhà, dừng lại ở một người ăn xin bên cạnh một 名叫佩莱莱, học trò đùa lời nói bậy của ông kêu lên: Carter, Pellet "Mẹ!" Levin từ mặt đất như Fengleyiban nhảy về phía đại tá, bột đá là kết quả của cuộc đời. Đại tá lỏng Caliente là tâm tình của tổng thống, cái chết đột ngột của ông cho tổng thống để loại trừ bất đồng chính kiến ​​cung cấp một cơ hội tốt. Vì vậy, dưới thời Tổng thống sắp đằng sau hậu trường, một khung-up âm mưu chính trị bắt đầu. Đầu tiên, khi cảnh sát bắt giữ tại hiện trường của những người ăn xin tội, tra tấn, buộc họ phải thừa nhận rằng kẻ giết người là không Peilai Lai Adams tướng và rau quả nhưng Fabio Carvajal Masters. Sau đó, Chủ tịch triệu tập một tâm Angel, nói cho anh ta vì một số lý do đặc biệt, các nhà chức trách sẽ bất tiện uy tín đạo đức Qana món ăn Adams tướng trong tù, vì vậy số phận của Tổng Thiên thần Canales lặng lẽ tiết lộ gió thúc đẩy anh ta bỏ trốn. Thiên thần lâu dài với một khuôn mặt thiên thần, đẹp trai, làm việc như hiệu trưởng, nhà ngoại giao, nghị sĩ, thị trưởng, và sau đó trở thành chủ tịch của những tên côn đồ thuê côn đồ. Ông đã ra lệnh cho Canales trở về nhà và thấy rằng có đã được giám sát chặt chẽ Phi hiến binh. Khi anh lang thang nhân dịp ngần ngại ngần ngại, tôi đột nhiên thấy một căn phòng đi ra một cô gái trẻ xinh đẹp, đó là những gì con gái nói chung Camilla Canales. Thiên thần đã có cơ hội đến trong một từ, về cha cô đã gặp, ông nói với các nhà chức trách sẽ bắt giữ ông vào ngày thứ hai, khuyên anh suốt đêm. Canales cân lại chấp nhận đề nghị của Angel. Vào ban đêm, với một vài tên côn đồ Thiên thần Canales đến gần nhà phục kích, ông đã có hai mục đích này đi, đầu tiên chuẩn bị một dòng, giám đốc một nhà riêng để ăn cắp một trò hề đêm đột kích, bao gồm các tướng bỏ chạy: và thứ hai ý định Jiaxizhenzuo, bắt cóc con gái của chung, vì ông nhận chung của ân sủng, và do đó con gái của ông cũng được hưởng các quyền nhất định. Tuy nhiên, xung quanh điệp viên gendarme tìm thấy tăng lên rất nhiều so với ngày khi họ tiếp cận các thiên thần nhà chung thức tỉnh này, tổng thống đã gửi cho anh bí mật mách không thực sự muốn đưa Fabio món ăn Adams là một lối thoát, nhưng bỏ chạy khi ông dự định sẽ tận dụng lợi thế nó giết công cụ trong âm mưu này, ông cũng là một bị khai thác. Đối với điều này không hạnh phúc hạnh phúc trong tâm trí của mình, xác định theo kế hoạch ban đầu để hoạt động bất kể hậu quả, để giúp sự nguy hiểm nói chung. Ông dẫn đầu đám đông leo trên mái nhà của các tướng nhà, cắt điện. Camilla thấy rằng phong trào, hét lên "kẻ trộm," điệp viên cảnh sát quân sự xung quanh nhà, nghe nói đến họ chỉ đơn giản là cướp phá tài sản trong phòng tối, Canales tướng bỏ chạy trong tình trạng lộn xộn, nhưng Thiên thần đưa thẻ Mira chuyển đến một căn phòng bí mật. Camilla bởi các kích thích, một số ngày trong Thông Thiên Học nhầm lẫn giữa Awoke sau đó khóc. Thiên thần đã nói với cô ấy để giữ không tự nhiên, vì vậy cô không thể không nhìn thấy lòng từ bi và sự dịu dàng. Ông đã cẩn thận để chăm sóc an ủi cô ấy, và sau đó đi cùng mình để tìm nơi ẩn náu với một số người chú của mình, nhưng các tướng Canales anh trai của anh liên quan vì sợ hãi, không có ai sẵn sàng chấp nhận cô. Desperate Camilla bệnh nặng, sắp chết. Thiên thần chỉ trong vài ngày đã được sản xuất cho các cô gái tình yêu chân thành vô tội của Chúa, cảm thấy rằng cuộc sống của họ không thể sống thiếu cô ấy. Ngày của ông canh gác Camilla xung quanh, và cuối cùng theo người hiểu biết lời khuyên Thaumaturgy già trước khi đám cưới của cô với giường của Camilla, hy vọng bởi sức mạnh của tình yêu vượt qua cái chết. Chắc chắn, một phép lạ đã xảy ra. Camilla ngày một tốt hơn với nhau, và cuối cùng đã hồi phục hoàn toàn. Chủ tịch triệu tập thiên thần nghe tin, một mặt ông đã cảnh báo thảm họa gây tử vong, mặt khác cho phép các tờ báo lớn đăng tải tin tức về đám cưới, và nói dối với họ trong dinh tổng thống được tổ chức đồ dùng cá nhân chủ trì của ông Chủ tịch một buổi lễ lớn. Thiên thần đã làm cho nó tất cả bằng cách nào đó. Tổng Canales lớn lên ở vùng nông thôn sau khi chạy trốn biểu ngữ thành công của sự công chính, đề xuất ý tưởng của một loạt các cải cách dân chủ, đa số người nghèo khổ nhận được phản ứng nhiệt tình, các thành phần của quân nổi dậy. Nhưng một ngày kia tướng cuộc hôn nhân đọc bài báo tin tức được công bố, cao chót vót cơn giận dữ hết hạn, các phiến quân cũng sẽ sụp đổ. Thạc Carvajal tại thủ đô là phí và bị kết án bị bắn vu. Chủ tịch ác người nước ngoài cốt lung lay tất cả thành công, nhưng anh không bỏ cuộc. Ngay Thiên thần nghe nhiều tin đồn rằng ông đã bí mật chống lại tổng thống, hỗ trợ cuộc cách mạng nói chung Canales. Thiên thần đã nghe rất đáng lo ngại, và nhanh chóng đi đến chủ tịch Bianbai. Tổng thống nói rằng nó thậm chí không nghe lời vu khống, ngược lại, vẫn nghĩ rằng đánh giá cao anh ấy, và quyết định gửi đại sứ của mình tại Hoa Kỳ. Thiên thần vui mừng rằng điều này là để thoát khỏi đất nước, đi từ chủ tịch của trời cho con thú. Ông và chia tay vợ, đồng ý và sớm đoàn tụ ở nước ngoài, họ hào hứng đi xe lửa đến bài mới của mình. Hóa ra ngay khi anh ta sắp rời đi, một nhóm binh lính lên tàu ông bị bắt, đưa vào ngục tối. Thiên thần tôi phát hiện ra rằng đây là một cái bẫy do tổng thống. Tin tức của chồng Thời gian bay của mình, Camilla buồn bã ở nhà, kết quả là luôn luôn tin tức. Ngay sau đó cô đã sinh ra một cậu bé, cuộc sống không có nơi nương tựa do, cô đã buộc phải chuyển nơi ở đến các vùng nông thôn. Thiên thần đã bị tra tấn trong ngục tối chỉ có một hơi thở, mỗi ngày suy nghĩ Camilla, nhờ sức mạnh của tình yêu kiên trì sống sót. Tuy nhiên, các nhà chức trách để gửi một giả ra một tù nhân và Angel cùng một tế bào, sau khi lừa đảo niềm tin của mình, nói với anh một tin nhắn giả mạo: Camilla vì chồng bị bỏ rơi, lòng hận thù, bất đắc dĩ cho tình nhân của tổng thống. Thiên thần nghe tuyệt vọng, Qijueshenwang. Hoạt động đánh giá cao Theme Điều này, hơn 20 triệu từ tiểu thuyết của phương tiện biểu hiện nghệ thuật chủ đề chống độc tài, phong cách thể hiện tư tưởng và nghệ thuật của tác giả. Chế độ độc tài châu Mỹ Latin trong lịch sử hiện đại là một trong những hiện tượng xã hội nổi bật nhất. Kể từ những năm 1920, các nước Mỹ Latinh có để thoát khỏi ách thuộc địa từ độc lập cho đến khi bắt đầu của văn học Asturias, gần 100 năm, "caudillos học thuyết" (hùng quân sự cai trị độc tài) như bệnh dịch hạch thường phổ biến ở mảnh Continental, một trở ngại nghiêm trọng đối với tiến bộ xã hội và phát triển kinh tế của quốc gia. Asturias bản địa của Guatemala, đã bị tàn phá bởi một số nhà độc tài. Các nhà văn tự là trong quy tắc tối Cabrera trải qua tuổi thơ và tuổi trẻ của mình trong. Để sử dụng cảnh sát thảm sát thám tử độc tài, bỏ tù và đàn áp của người dân, gây khủng bố trên khắp cả nước, Asturias cha vì ông từ chối phản bội lương tâm của họ bị bệnh, thấy nhẹ nhõm trở lại với nhiệm vụ luật sư làng, tất cả để Asturias trẻ Asturias lại ấn tượng khó quên. Sau đó, ông bước vào trường đại học tích cực tham gia cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài, buộc phải lưu vong ở châu Âu vào năm 1932, khi hành lý của mình điền vào "người ăn xin chính trị" bản thảo. Asturias và những kẻ độc tài tử, và văn chương là vũ khí hữu ích nhất mà ông đã tham gia cuộc đấu tranh cuộc sống. Tuy nhiên, tiểu thuyết của ông không vì thế dòng chảy trong chính trị đơn giản. Các tác giả có mô tả này "Ngài Tổng thống", mục đích sáng tạo: "Có những tiểu thuyết chính trị phơi bày, tuy nhiên, tất cả mọi thứ có thể thấy rõ phía sau hình ảnh của một Tổng thống sống của Cộng hòa Mỹ Latinh, để xem loại trông giống như một thực tế hiện đại tôn thờ sức mạnh ma thuật cổ đại. (Tổng thống) là một người đàn ông của Thiên Chúa, Superman (không phân biệt có hay không điều này là đúng, chúng tôi miễn cưỡng), ông đã thay thế các chức năng của các tù trưởng bộ tộc trong xã hội nguyên thủy, với một số vị thần, như Thiên Chúa và đôi mắt trần nhìn thấy không nhìn thấy. "Đó không phải là quan niệm chung của các tác phẩm của một nhà độc tài bị buộc tội vi phạm cá nhân, nhưng sự phê phán nhân đạo với sự kết hợp của phân tích xã hội, cố tình tạo ra một tác phẩm văn học bạo chúa độc tài điển hình Mỹ Latinh. Ông là chuyên quyền và kẻ phản bội, mà còn cho hàng ngàn năm để đánh lừa các lực lượng của mê tín và sức mạnh siêu nhiên của quần chúng trong ngụy trang. Công việc là như một trung tâm, một phân tích sâu sắc về nguyên nhân gốc rễ của ý thức xã hội và bản chất của chế độ độc tài. Nghệ thuật Cuốn tiểu thuyết mang tên "Ngài Tổng thống", trên thực tế các công trình chỉ chơi năm lần con số này, tác giả phác thảo một mực mưu ngấm ngầm rất hạn chế, khuôn mặt kiêu ngạo độc ác, và trong nhiều chương, người đọc chỉ từ các nhân vật khác lời nói và hành động, tâm lý và mô tả số phận của họ để xác định chúng như ma quái độc tài bí mật thống trị bóng tối. Ông là vô hình, nhưng ở khắp mọi nơi, tất cả mọi người đang sống trong trái tim của các vị thần. Với cuốn tiểu thuyết này để trở thành thạc sĩ, với tình hình thực tế cách này, hình ảnh của bạo chúa bỏ sương mù bí ẩn. Hơn nữa, để làm nổi bật công việc của đề tài này, nhà văn dành rất nhiều sự khéo léo. Hoàng hôn cuốn tiểu thuyết giống như một câu thần chú như chuông nhà thờ bắt đầu đáng sợ, làm cho bầu không khí tôn giáo mạnh mẽ, một thảm họa trên là màn đêm buông xuống. Nhiều người trong khóc bút của tác giả, rên rỉ, khóc, chiến đấu, nhưng vẫn không thể phá vỡ bầu không khí ngột ngạt của khủng bố. Nhà độc tài vẫn tuyệt vời, thái quá khát máu, nạn nhân vô tội vẫn không được trợ cấp. Là kinh chiều chuông, câu chuyện đã kết thúc. Cuốn sách này được thiết kế giống như một bầu không khí ảm đạm của sự đàn áp dưới sự cai trị của ma quỷ của địa ngục. Fiction là một nhân vật quan trọng Cara de Angel, tên của ông có nghĩa là "thiên thần mặt" các tác giả đã viết thường, ông luôn luôn nhắc nhở "Anh ấy là như thế, như Sa-tan, xuất hiện xinh đẹp, trái tim nham hiểm" hàm ý Thiên thần có một tính cách kép, như Kinh Thánh rằng đối với "thượng đế" không trung thành "ma quỷ." Với sự phát triển của cốt truyện, một chút của nhân loại Thiên thần phục hồi trong tâm trí, anh bắt đầu mơ về cuộc sống của một con người thực sự, và nhà độc tài không rõ ràng, bị mất điều khiển chương trình, đã được đưa vào một hầm ngục cho đến khi chết. Điều này cũng giống Kinh Thánh rằng Thiên Chúa sẽ thiên thần nổi loạn đã giảm xuống địa ngục, để những câu chuyện của bản án cấp phát diệt vong gần như giống hệt nhau. Asturias Kinh Thánh ám chỉ khéo léo vay thể hiện ý nghĩa nhất định, viết nổi loạn của nhân loại chống lại cái ác, làm sâu sắc hơn rất nhiều các tác phẩm chủ đề. Cuốn sách tác giả lặng lẽ về tất cả mọi thứ trên bề mặt, trên thực tế, mỗi từ của mỗi câu với một thích mạnh mẽ và không thích là. Tiểu thuyết kết thúc bi thảm mọi người đọc làm dấy lên sự phẫn nộ chống lại chế độ độc tài, mà còn làm cho mọi người nhận thức được để chống chọi lại số phận, Gan Đặng Nucai là không có lối thoát. Để diệt trừ bệnh ung thư Fengyun chế độ độc tài ở châu Mỹ Latinh, chúng ta phải đập tan xiềng xích của sự mê tín và thuyết định mệnh. Đây là nghệ thuật của những lời nói dối thành công của cuốn tiểu thuyết. *** Miguel Angel Asturias (Miguel Ángel Asturias 1899-1974) nhà văn Guatemala và nhà thơ. Sinh ra tại Guatemala. Cuộc sống của ông đã viết được mười tiểu thuyết, bốn bài thơ và một số vở kịch, cũng như ở Guatemala trong lịch sử văn học hiện đại đóng một vai trò quan trọng ở châu Mỹ Latinh. Năm 1899, Asturias sinh ra ở Guatemala City. Sinh ra và lớn lên ở các cư dân lục địa Ấn Độ đã trải qua thời thơ ấu và thanh niên. Sau đó, trở về thủ đô, học nghề luật sư là một luật sư sau khi tốt nghiệp đại học. Mời các bạn đón đọc Ngài Tổng Thống của tác giả Miguel Ángel Asturias & Đặng Thế Bính (dịch) & Vũ Cận (dịch).
Kẻ Lừa Dối
Hai cái xác không quần áo trong phong cô gái gọi cao cấp cùng những cuốn băng video hành nghề của cô ta liên quan gì tới một tài liệu quân sự tuyệt mật và thời kỳ Đông – Tây Đức còn chìa cắt ? Tại sao nguyên một con tàu vũ khí của nhóm khủng bố IRA khét tiếng bị “bắt sống” giữa biển khơi ? Và ai dám mạo nhận Nữ Hoàng Anh ban sắc chỉ tự phong cho mình chức Thống đốc một vùng lãnh thổ. Sau khi đã làm tan rã một tập đoàn ma tuý Columbia ? Chỉ một người trả lời được những câu hỏi ấy. Đó là Sam McCready. Kẻ Lừa Dối khét tiếng trong nghề song lại trung hậu, đáng yêu nhất trong đời. Và số phận của con người ấy ra sao !!?? ***   Mời các bạn đón đọc Kẻ Lừa Dối của tác giả Frederick Forsyth & Trần Hưng (dịch).
Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith
Cuốn sách Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith bao gồm các bình luận xã hội đáng kể về tình trạng và triển vọng của y học ở Hoa Kỳ trong những năm 1920. Arrowsmith là một người tiến bộ, thậm chí là một kẻ nổi loạn, và thường thách thức tình trạng hiện có của mọi thứ khi anh ta thấy nó muốn. Cuốn tiểu thuyết Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith này đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ sinh viên tiền y và y khoa. Có rất nhiều đau khổ trên đường đi liên quan đến các quyết định sự nghiệp và cuộc sống. Trong khi kể chi tiết việc Arrowsmith theo đuổi những lý tưởng cao đẹp của nghiên cứu y học vì lợi ích của nhân loại và lòng tận tụy quên mình trong việc chăm sóc bệnh nhân, Lewis đã ném ra nhiều cám dỗ và sự tự lừa dối ít cao thượng hơn trong con đường của Arrowsmith. Sự hấp dẫn của sự an toàn tài chính, sự công nhận, thậm chí cả sự giàu có và quyền lực khiến Arrowsmith rời khỏi kế hoạch ban đầu để theo bước người cố vấn đầu tiên của mình, Max Gottlieb, một nhà vi khuẩn học tài giỏi nhưng có tính mài mòn. Trong cuốn tiểu thuyết, Lewis mô tả nhiều khía cạnh của đào tạo y tế, thực hành y tế, nghiên cứu khoa học, gian lận khoa học, đạo đức y tế, sức khỏe cộng đồng và xung đột cá nhân / nghề nghiệp vẫn còn phù hợp cho đến ngày nay. Sự ghen tuông nghề nghiệp, áp lực thể chế, lòng tham, sự ngu ngốc và sự cẩu thả đều được miêu tả một cách châm biếm, và bản thân Arrowsmith cũng đang bực tức tự cho mình. Nhưng cũng có sự cống hiến không mệt mỏi, và tôn trọng phương pháp khoa học và trí tuệ trung thực. *** Sinclair Lewis sinh ở Sauk Centre, Minnesota trong gia đình một bác sĩ. Học tiểu học tại Minnesota, sau đó học Đại học Yale. Tại đây Lewis in thơ và tham gia vào ban biên tập tạp chí văn học của trường. Trong kì nghỉ hè rảnh rỗi, Lewis viết cuốn tiểu thuyết The Village Virus (Virus nhà quê), mười lăm năm sau được phát triển thành tác phẩm danh tiếng Main Street (Phố chính). Năm 1912, cuốn sách đầu tiên của Lewis Hike and the Aeroplane (Cuộc dạo bộ và chiếc máy bay) được in dưới bút danh Tom Grame. Năm 1914, ông in tiểu thuyết Our Mr. Wrenn: The Romantic Adventures of a Gentle Man (Ông Wren của chúng ta) và tiếp tục viết nhiều truyện giải trí nhưng không được chú ý. Trong 15 năm sau đó, ông lang thang qua 40 tiểu bang nước Mỹ và nhiều nước trên thế giới để kiếm sống, tìm việc làm và thu thập tài liệu viết văn. Nguồn cảm hứng sáng tạo thực sự của Sinclair Lewis được khơi dậy chính là từ những ngày tháng sống trong toa xe ngủ tại nông trại Vermont ở Minnesota và các nhà trọ ở thành phố Kansas hoặc Savannah. Tất cả sự phong phú của cuộc sống qua các câu chuyện kể và sự tiếp xúc với giới bình dân và nhiều tầng lớp xã hội khác đã mang lại cho nhà văn nguồn tư liệu vô tận để miêu tả cuộc sống thật sinh động. Sinclair Lewis trở nên nổi tiếng thật sự bắt đầu từ tiểu thuyết Main Street (Phố chính, 1920) - cuốn sách gây nên hai luồng dư luận trái ngược nhau: một bên ca ngợi hết lời, một bên phê bình kịch liệt. Tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông là Babbitt (1922). Với hai cuốn tiểu thuyết này Lewis đã tạo ra hai hình tượng điển hình trong văn học cận đại Mỹ: Babbitt điển hình cho người Mỹ tiểu tư sản tầm thường, nhạt nhẽo, ba hoa, và hám lợi; Main Street điển hình cho cuộc sống tỉnh lẻ, hẹp hòi, ngột ngạt ở các thị trấn, thành phố nhỏ của nước Mỹ. Năm 1925 cuốn Arrowsmith được trao giải Pulitzer nhưng ông không nhận. Còn giải Nobel năm 1930 dành cho Sinclair Lewis bị một số báo chí Mỹ phản ứng, coi là không xứng đáng vì cho rằng Lewis bôi nhọ nước Mỹ trong các tác phẩm của mình. Tiểu thuyết World So Wide (Thế giới quả là rộng lớn, 1951) là tác phẩm cuối cùng của ông. Cuối đời nhà văn nghiện rượu nặng và mất tại Roma ở tuổi 65. HARRY SINCLAIR LEWIS là con một bác-sĩ ở vùng quê, sinh tại Sauk Centre, Minnesota, năm 1885. Thuở thơ- ấu và niên-thiếu, ông ở Middle West và sau học tại Đại Học Đường Yale; ở đây ông làm chủ bút tờ văn-học tập-san. Sau khi tốt-nghiệp năm 1907 ông đến New York viết báo một thời-gian, rồi làm việc trong bộ biên-tập của nhiều tờ báo ở nhiều nơi từ East Coast tới California. Sau khi đã viết một số truyện đăng trong các tạp chí và xuất-bản được cuốn truyện đầu tay, Our Mr. Wrenn (1914) ông bỏ nghề viết báo. Tuy nhiên, Main Street (1920) mới thực là tác-phẩm thành công đầu tiên của ông, và cuốn Babbitt (1922) làm cho ông nổi danh thêm. Năm 1926, ông được thưởng giải Pulitzer về cuốn Arrowsmith (1925) , nhưng ông từ chối danh-dự này. Tuy nhiên, ông nhận giải Nobel người ta tặng ông năm 1930 và ông chính thức đến Stockholm để lãnh thưởng. Trong khoảng cuối đời ông, ông thường hay ở tại Âu-Châu và tiếp-tục viết cả hai thứ tiểu-thuyết và kịch. Năm 1950, sau khi hoàn thành cuốn truyện cuối cùng, World so Wide (1951) , ông dự định làm một vòng du-lịch xa rộng, nhưng ông bị đau và bắt buộc phải ở tại Rome mấy tháng để làm thơ. Ông mất tại đây năm 1951.   *** Một buổi chiều tháng Năm, nghị- sĩ Almus Pickerbaugh đương dùng cơm chiều với Tổng-Thống Hoa-Kỳ. Tổng-Thống nói, “Khi tuyển-cử xong rồi, tôi mong Bác-sĩ sẽ nhận một chức trong nội-các... chức Bộ- Trưởng Y-Tế đầu tiên của Hoa-Kỳ!" Chiều hôm đó, Bác-sĩ Holabird đọc diễn-văn trong một cuộc hội-họp những tư-tưởng-gia trứ danh do Hội Liên-Hiệp Văn-hóa tổ- chức. Trong số những “Nhân Vật Chỉ Vui có Hạn" lên diễn đàn có Bác-sĩ Aaron Sholtheis, Tân Giám-Đốc Viện McGurk và Bác-sĩ Angus Duer, Giám-đốc Dưỡng-đường Duer kiêm Giáo-sư giải-phẫu tại Y-Khoa Đại-Học-Đường Fort Dearbron. Bài diễn-văn lịch-sử của Bác-sĩ Holabird được vô-tuyến truyền-thanh đi cho hàng triệu thính-giả nhiệt-thành yêu khoa-học nghe. Cũng chiều hôm ấy, Bert Tozer ở tại Wheatsylvania tại North Dakota, đương dự một khóa lễ bán tuần. Chiếc xe hơi mới hiệu Buick của ông đậu bên ngoài nhà thờ đợi ông, và ông hoan-hỷ một cách khiêm-nhường, nhũn-nhặn nghe mục-sư giảng: "Thượng-đế đã dạy rằng: những kẻ chính-trực, ngay cả những ‘Đứa Con Của Ánh Vinh-Quang’, sẽ được thưởng một phần thưởng vĩ-đại và sẽ đi trên đường hỷ- lạc, còn những kẻ hay nhạo báng, những ‘Đứa Con của Ác Quỷ’ sẽ bị sát hại và quăng xuống hang sâu vực thẳm, và bị quên lãng trong chốn chợ đời tấp nập". Cũng chiều hôm ấy, Gottlieb ngồi im một mình không nhúc-nhích, trong một căn buồng tối tăm bé nhỏ trên lầu cao một ngôi nhà trong con đường ồn-ào nhộn-nhịp. Chỉ có đôi mắt của Ông là còn linh-động. Cũng chiều hôm ấy, một làn gió nóng miền nhiệt-đới thổi vật-vờ trong kẽ lá của dặng cây gồi nơi mà di-hài của Gustaf Sondelius đã tan ra cùng than bụi, và một quãng đất lún xuống trong một mảnh vườn ghi dấu mộ phần của Leora. Cũng chiều hôm ấy, sau một bữa cơm chiều vui vẻ khác thường với Latham Ireland, Joyce thú-nhận, "Vâng, nếu em ly-dị hẳn với anh ấy rồi, có lẽ em sẽ lấy anh. Em biết! Chẳng bao giờ anh ấy nhận thấy anh ấy có tính tự- tôn tự- đại kinh-khủng, tự cho mình là con người duy nhất ở đời bao giờ cũng có lý, không bao giờ lầm-lẫn cả!" Cũng chiều hôm đó, Martin Arrowsmith và Terry Wickett nằm dài trên một con thuyền xấu xí, một con thuyền bất tiện hết chỗ nói, trôi xa-xa ra giữa hồ. Martin nói, “Tôi cảm thấy như bây giờ tôi mới thật sự bắt tay vào làm việc. Cái thuốc ký-ninh mới này có lẽ khá lắm. Chúng mình còn phải vất-vả vài ba năm nữa may ra mới chế được thứ thuốc hoàn hảo – mà cũng rất có thể chúng mình sẽ thất bại!”   Mời các bạn đón đọc Cuộc Đời Bác Sĩ Arrowsmith của tác giả Sinclair Lewis & Bảo Sơn (dịch).
Những Lá Thư Ngày Thứ Tư
Sau cái chết bất ngờ của vợ chồng Jack và Laurel, các con của họ đã tìm được những lá thư mà Jack từng viết cho Laurel vào mỗi ngày thứ Tư hàng tuần trong suốt những năm dài họ chung sống. Đó là những bài thơ dễ thương Jack dành riêng cho vợ, là lời xin lỗi chân thành của Jack về tính khí nóng nảy của mình, là tình cảm không thể thành lời đối với những đứa con, là những buồn vui trong cuộc sống thường ngày... Những lá thư thấm đẫm tình yêu thương ấy đã giúp họ vượt qua sóng gió trong cuộc sống, khiến tình yêu của họ được thắt chặt và bền vững đến tận ngày cả hai cùng nhắm mắt lìa đời. Chính những lá thư vừa hóm hỉnh vừa sâu sắc ấy đã giúp con trai họ là Malcolm lần ra được bí mật lớn nhất của đời mình, đồng thời chúng còn là cầu nối để anh tìm lại tình yêu đích thực với Rain. Những lá thư ngày thứ Tư khắc họa nên một câu chuyện đời thường dễ thương và gần gũi, qua đó Jason F. Wright đã gửi gắm những thông điệp chân thành về tình yêu thương gia đình, về nét đẹp của những điều giản dị trong cuộc sống và về giá trị của lòng vị tha. Khép lại câu chuyện, độc giả sẽ bắt đầu muốn viết “Những lá thư ngày Thứ Tư” của riêng mình bởi những giá trị thiêng liêng mà quyển sách mang lại. *** NHỮNG LÁ THƯ NGÀY THỨ TƯ: "NƠI HỒI SINH TÌNH YÊU SAU CÁI CHẾT…" Jason Wright là tác giả của tiểu thuyết Christmas Jars bán chạy nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết: Những lá thư ngày thứ tư ẩn chứa thông điệp về lòng vị tha, tình yêu thương, kể cả khi họ không còn trên thế gian này nữa. Trong cuộc sống, điều gì tạo nên mật ngọt nuôi dưỡng tình yêu và cuộc hôn nhân của những đôi vợ chồng đã bước sang tuổi xế chiều? Tình yêu và sự mãnh liệt của tình yêu có thể hồi sinh sau cái chết? Thông điệp: “Những lá thư ngày thứ tư kể về một câu chuyện ấm nồng, nhân văn như thế. Jack và Laurel là cặp vợ chồng hạnh phúc trong suốt nhiều năm trời. Mỗi ngày sống bên nhau Jack đều viết cho vợ những bức thư tràn đầy tình yêu thương, sự lãng mạn, ngọt ngào. Những bức thư viết tay ấy không được gửi đi cho đến khi cả hai người đột ngột qua đời. Tình yêu làm cho con người luôn cảm giác về sự bất tận của khoảng cách. Rồi một ngày thật hi hữu, Laurel lên cơn đau tim và đột tử. Jack trong nỗi đau mất vợ, nỗi đau của căn bệnh ung thư giai đoạn cuối, cũng vô tình mất trong ngày định mệnh ấy. Nhưng điều kì lạ, Jack và Laurel mất đi, vẫn đầy ắp tình thương yêu của của họ hiện hữu trong cuộc sống của những đứa con khi bất chợt tìm thấy những lá thư họ viết cho nhau. Những bức thư lúc ấy không chỉ là thông điệp về tình yêu mà còn là bài học sâu sắc, vô giá cho họ phải biết trân trọng từng giá trị bé nhỏ của cuộc sống khi còn được bên nhau, còn được yêu thương trên thế gian này. Và tình yêu khác mất đi, một tình yêu sau này sẽ hồi sinh và sẽ gìn giữ những giá trị quý giá đó. Bức thư “Mùa thứ 5” có thể nói lên tình yêu rút ruột mà Jack dành cho vợ yêu quý của mình: 24 tháng Mười Hai, 1958 Mùa Thứ Năm Gửi vợ của anh, Lauren nhân dịp Giáng sinh lần thứ mười chúng ta ở bên nhau, 1958 Mỗi mùa xuân mang đến cuộc sống mới, năng lượng và cây cối sinh sôi. Mùa hạ mang đến ánh nắng, sự ấm áp, dễ chịu, và dài lâu. Mùa thu mang đến bức tranh sơn dầu với màu sắc tinh tế chuyển biến nhẹ nhàng Mùa đông mang đến sức mạnh thủy chung, vẻ đẹp của màu trắng tinh khiết. Và mang em đến với anh. Em là tất cả những gì Thiên nhiên ban tặng, là một ơn lành, một món quà từ Thượng đế. Em là mùa thứ năm. Bức thư “Mùa thứ 5” có thể nói lên tình yêu rút ruột mà Jack dành cho vợ yêu quý của mình: 24 tháng Mười Hai, 1958 Mùa Thứ Năm Gửi vợ của anh, Lauren nhân dịp Giáng sinh lần thứ mười chúng ta ở bên nhau, 1958 Mỗi mùa xuân mang đến cuộc sống mới, năng lượng và cây cối sinh sôi. Mùa hạ mang đến ánh nắng, sự ấm áp, dễ chịu, và dài lâu. Mùa thu mang đến bức tranh sơn dầu với màu sắc tinh tế chuyển biến nhẹ nhàng Mùa đông mang đến sức mạnh thủy chung, vẻ đẹp của màu trắng tinh khiết. Và mang em đến với anh. Em là tất cả những gì Thiên nhiên ban tặng, là một ơn lành, một món quà từ Thượng đế. Em là mùa thứ năm. Những bức thư viết tay thấm đẫm yêu thương ấy được đặt vào câu chuyện như một điểm nhấn tạo nên những giá trị nhân văn cho câu chuyện cảm động trên. Nội dung cuốn tiểu thuyết được mô tả trong một khung cảnh đẹp đẽ, thơ mộng của vùng thung lũng Shenandoah, bang Virginia khi nhà văn Jason đang tìm cảm xúc để viết tiểu thuyết Những Lá thư ngày Thứ Tư.  *** Nhận xét “Jason là một tài năng thiên phú trong việc sáng tác ra những tiểu thuyết hấp dẫn. Dĩ nhiên tôi sẽ viết thư cho người vợ 44 tuổi của tôi vào mỗi ngày Thứ Tư” ––Kieth Merrill, đạo diễn điện ảnh đạt giải OSCAR “Một câu chuyện đáng yêu: đầy tính khích lệ, trong sáng, khôi hài, lôi cuốn cùng một kết thúc có hậu làm thỏa mãn độc giả.” ––Nhà xuất bản Weekly “Đó là một câu chuyện tình yêu lãng mạn với những giá trị tuyệt vời. Qua câu chuyện của họ, chúng ta sẽ thấy phép màu vẫn tồn tại!” –– Glenn Beck, phát thanh viên của chuyên mục trò truyện trên radio và đài CNN *** Lời cảm ơn   Xin được gửi lời cảm ơn đến những người luôn toàn tâm vì công việc: Kodi, Beverly, Sandi Lou, Sterling, Ann, Jeff, Terilynne, John, Adrienne, Lauren, Jon, Wilma, Stephanie, Amanda, Marshall, Katy, Emma, Ethan và Bailey. Cũng xin cảm ơn Monica, Kerri, Caren, Kalley, Nancy, Taylor, Ramona, Jeanette, Laurel, Matt, Christa, Laura, Janeal, Randa, Nicole, Cammy, Amanda, Cindy và Kathi. Thêm một lời cảm ơn đặc biệt đến Allyson Condie vì đã kiên nhẫn xem những trang bản thảo chưa hoàn chỉnh của tôi. Xin được chân thành cảm ơn sự giúp đỡ hết lòng của các anh chị em tại Nhà xuất bản Shadow Mountain, điển hình là Chris Schoebinger vì đã có một tầm nhìn chiến lược; Lisa Mangum vì phần biên tập tinh tế; Sheryl Dickert Smith vì kiểu thiết kế trang bìa đầy sáng tạo; Gail Halladay vì một khả năng tiếp thị đáng kinh ngạc; Tonya Facemyer vì tài năng đánh máy lão luyện; Angie Godfrey vì đã giữ cho tâm trí tôi luôn gắn bó với công việc và cuối cùng là Sheri Dew vì đã chấp nhận rủi ro đề xuất việc xuất bản. Cảm ơn người quản lý của tôi, Laurie Liss, vì những điều cô đã chia sẻ và tình bạn đáng quý mà cô dành cho tôi. Xin được dành lòng biết ơn vô hạn đến gia đình Schwartz và Faulkner vì đã cho tôi mượn nhà trong những ngày cuối tuần khi tôi cần sự yên tĩnh để sáng tác. Cảm ơn những con người tuyệt vời của Woodstock, bang Virginia, vì đã nhiệt tình hỗ trợ tôi trong công tác nghiên cứu và vì đã nồng nhiệt chào đón gia đình tôi gia nhập vào cộng đồng của họ. Xin gửi lời cảm ơn đầy yêu thương đến những đứa con của cha là Oakli, Jadi, Kason và Koleson vì đã chịu hy sinh “những ngày vui vẻ của cha và con” khi cha đang vật lộn để hoàn thành quyển tiểu thuyết này. Hẹn gặp các con ở Công viên W.O. Riley. Cảm ơn người vợ yêu dấu và tận tụy của anh, Kodi, vì đã luôn ở bên anh, kiên nhẫn đọc những bản thảo chưa hoàn chỉnh của anh, thay anh nhận phần lớn trách nhiệm nuôi dạy con cái, và vì hình ảnh em luôn nhắc nhớ trong anh để xây dựng nên nhân vật Laurel Cooper một cách chân thực nhất. Mời các bạn đón đọc Những Lá Thư Ngày Thứ Tư của tác giả Jason F. Wright.