Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sau Cánh Cửa Đóng

Jack tài năng và lịch lãm, còn Grace xinh đẹp và thành công. Trong mắt mọi người, họ là một cặp đôi hoàn hảo. Thậm chí, thử thách duy nhất cho mối quan hệ tưởng chừng không gì có thể hủy hoại của họ - sự xuất hiện của Millie, người em gái bị bệnh Down và hoàn toàn sống dựa vào Grace - dường như chỉ là chất xúc tác để họ nhận ra vẻ đẹp tâm hồn, sự bao dung và lòng vị tha vô bờ bến của nhau… Nhưng, liệu có thật là như thế, hay thực ra, cái tam giác Jack - Grace - Millie chính là căn nguyên cho một bi kịch khủng khiếp, là vỏ bọc hoàn hảo để kẻ ác tự do đùa giỡn và hành hạ con mồi của mình?  Và, có mấy ai biết đến sự tồn tại của những bí mật kinh khủng, trái ngang đằng sau cánh cửa luôn khép chặt của một gia đình lý tưởng, nơi hạnh phúc hoàn hảo và tội ác hoàn hảo nhiều khi chỉ cách nhau một cánh cửa đóng? *** HIỆN TẠI Chai sâm panh va vào bệ đá hoa cương trong bếp khiến tôi giật nẩy người. Tôi đưa mắt nhìn Jack, hy vọng anh không nhận thấy tôi đang căng thẳng đến nhường nào. Anh mỉm cười khi bắt gặp tôi đang nhìn. “Hoàn hảo,” anh nhẹ nhàng nói. Jack cầm tay tôi dắt ra chỗ khách khứa đang chờ. Trên đường đi qua hành lang, tôi thấy cây loa kèn đang nở hoa được Diane và Adam tặng để chúng tôi trồng trong vườn. Hoa màu hồng đẹp đến mức tôi hy vọng Jack sẽ trồng ở nơi tôi ngắm được từ cửa sổ phòng ngủ. Chỉ cần nghĩ tới khu vườn là nước mắt đã trào lên trong lòng, nhưng tôi vội nuốt xuống. Vào một đêm sống còn như đêm nay, tôi phải tập trung vào thực tại. Lửa đang cháy đều trong lò sưởi cổ tại phòng khách. Đã là cuối tháng Ba nhưng không khí vẫn tê cóng, mà Jack thì muốn khách khứa của chúng tôi được thoải mái hết mức. “Nhà cậu tuyệt thật đấy, Jack ạ,” Rufus ngưỡng mộ nói. “Em có thấy thế không, Esther?” Tôi không biết cả Rufus lẫn Esther. Họ mới chuyển tới khu này và đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, thành ra tôi càng căng thẳng. Nhưng vì không được phép để Jack thất vọng nên tôi phải cố nhoẻn miệng cười, thầm cầu nguyện họ sẽ quý mình. Esther không mỉm cười đáp lại, tôi đoán cô đang dè dặt phán đoán. Nhưng tôi không trách cô được. Kể từ tháng vừa rồi sau khi cô kết bạn với chúng tôi, tôi biết chắc cô đã được nghe đi nghe lại rất nhiều lần rằng Grace Angel, vợ của chàng luật sư sáng giá Jack Angel, là ví dụ hoàn hảo cho một phụ nữ có mọi thứ trên đời - ngôi nhà hoàn hảo, tấm chồng hoàn hảo, cuộc sống hoàn hảo. Nếu là Esther, tôi cũng sẽ dè dặt với tôi như thế. Ánh mắt tôi rơi xuống hộp kẹo sô cô la đắt tiền cô vừa lấy ra khỏi túi xách và một cảm giác kích động chợt dấy lên trong lòng. Không muốn cô đưa hộp kẹo cho Jack, tôi nhẹ nhàng đưa tay về phía cô và theo bản năng, cô chìa hộp kẹo cho tôi. “Cảm ơn cô, trông ngon quá,” tôi cảm kích nói, đặt hộp kẹo lên mặt bàn uống nước để lát nữa khi uống cà phê sẽ mở ra. Tôi thấy khoái Esther. Cô đối lập hoàn toàn với Diane - cao, tóc vàng, người mảnh dẻ, tính kín đáo - và tôi không thể không đánh giá cao cô vì cô là người đầu tiên bước vào nhà chúng tôi mà không nói mãi về vẻ đẹp của nó. Jack nhất quyết đòi tự chọn nhà, bảo ngôi nhà chính là quà cưới cho tôi, vậy nên mãi đến khi chúng tôi trở về sau tuần trăng mật, tôi mới thấy nó lần đầu tiên. Mặc dù Jack đã nói trước là ngôi nhà thực hoàn hảo cho chúng tôi, nhưng tôi không hoàn toàn hiểu hết ý anh, cho tới lúc tận mắt nhìn thấy nó. Nằm trên khu đất rộng lớn ở tận cuối làng, ngôi nhà mang lại sự riêng tư Jack hằng khao khát, đồng thời trao cho anh đặc quyền được làm chủ ngôi nhà đẹp nhất Spring Eaton. Và cũng là ngôi nhà an ninh nhất, được trang bị hệ thống báo động phức tạp, với những cánh cửa chóp bằng thép bảo vệ cửa sổ tầng trệt. Quả cũng kỳ quặc khi những cánh cửa này thường xuyên đóng im ỉm cả ngày, nhưng như Jack vẫn luôn nói mỗi khi có người hỏi đến, một trong những ưu tiên hàng đầu với một người làm công việc như của anh chính là an ninh. Tường phòng khách nhà chúng tôi treo rất nhiều tranh, nhưng mọi người thường bị thu hút bởi bức tranh vải bạt khổ lớn màu đỏ phía trên lò sưởi. Mặc dù đã từng thấy bức tranh này, Diane và Adam vẫn không cưỡng nổi mà phải bước lại gần ngắm thêm lần nữa, Rufus cũng theo họ, còn Esther thì ngồi xuống một trong những chiếc sofa da màu kem. “Thật kỳ diệu,” Rufus nói, mê mẩn ngắm hàng trăm đốm nhỏ li ti đã làm nên phần lớn bức tranh. “Tên tranh là Đom đóm,” Jack nói trong khi tháo sợi dây thép cột nút cổ chai sâm panh. “Tôi chưa từng thấy thứ gì tương tự thế này.” “Grace vẽ đấy,” Diane bảo anh ta. “Anh có tin được không?” “Anh phải xem các bức tranh khác của Grace mới được.” Jack bật nút chai rượu, chỉ làm vang lên một âm thanh nhỏ xíu. “Chúng thật sự ấn tượng lắm đấy.” Rufus nhìn quanh phòng vẻ hứng thú. “Trong phòng này hả?” “Không, chúng được treo ở những nơi khác trong nhà cơ.” “Chỉ để một mình Jack ngắm,” Adam đùa. “Và cả Grace nữa. Phải không, em yêu?” Jack nói, mỉm cười nhìn tôi. “Chỉ để hai ta ngắm.” “Vâng, đúng thế,” tôi đồng tình, quay đầu đi chỗ khác. Chúng tôi ra sofa ngồi cùng Esther và Diane thích thú reo lên khi Jack rót sâm panh vào những chiếc ly cao thành. Cô ta nhìn sang tôi. “Chị đã đỡ hơn chưa?” cô ta hỏi. “Hôm qua, Grace không đi ăn trưa cùng tớ được vì bị ốm,” Diane quay sang nhìn Esther giải thích. “Chỉ nhức đầu thôi mà,” tôi phản đối. “Thật không may, Grace rất hay bị nhức đầu.” Jack nhìn tôi thông cảm. “Nhưng ơn trời, chúng không bao giờ kéo dài quá.” “Lần này là lần thứ hai chị lỡ hẹn với em đấy nhé,” Diane nhận xét. “Tôi rất tiếc,” tôi xin lỗi. “Chậc, ít ra thì lần này không phải do chị quên,” cô ta đùa. “Sao ta không hẹn vào thứ Sáu tuần tới để bù lại nhỉ? Chị có rảnh không, Grace? Không có cuộc hẹn khám răng nào chị đột nhiên nhớ ra vào phút chót đấy chứ?” “Không, và hy vọng cũng sẽ không có cơn nhức đầu nào hết.” Diane quay sang Esther, “Cậu có muốn đi cùng không? Sẽ phải chọn quán trong thị trấn để tớ còn đi làm.” “Cảm ơn cậu, tớ rất thích.” Cô đưa mắt nhìn tôi, chắc để đảm bảo tôi không phiền khi có cô cùng tham dự, và khi mỉm cười đáp lại cô, tôi cảm thấy áy náy kinh khủng vì biết mình sẽ không đến được. Gọi to để mọi người chú ý, Jack đề nghị nâng ly chúc mừng Esther và Rufus, chào mừng họ tới sống trong khu. Tôi nâng cốc nhấp một ngụm sâm panh. Tăm rượu sủi trong miệng khiến cảm giác hạnh phúc chợt bừng lên và tôi cố níu giữ nó. Nhưng nó tan biến nhanh không kém gì lúc ùa tới. Tôi nhìn Jack đang sôi nổi chuyện trò với Rufus. Anh với Adam gặp Rufus tại câu lạc bộ golf hai tuần trước và đã mời Rufus chơi cùng. Khi phát hiện ra Rufus là một tay golf tuy cừ khôi nhưng chưa đủ để đánh bại mình, Jack bèn mời anh ta cùng Esther đến nhà ăn tối. Quan sát hai người họ, có thể thấy rõ mười mươi Jack đang cố gây ấn tượng với Rufus, có nghĩa tôi sẽ phải cố gắng lái Esther theo ý mình. Nhưng việc đó chẳng dễ chút nào; trong khi Diane đơn giản chỉ thán phục tất thảy mọi thứ, Esther lại có vẻ phức tạp hơn nhiều. Tôi cáo lỗi vào bếp để lấy món canapé[1] đã làm từ trước và hoàn thành những công đoạn cuối cùng cho bữa tối. Jack rất mô phạm với các phép tắc xã giao nên tôi không được phép vắng mặt quá lâu. Tôi nhanh tay đánh bông lòng trắng trứng đang chờ sẵn trong tô rồi đổ lên kem bánh souffle đã làm khi nãy. Vừa xúc hỗn hợp này vào từng chiếc khuôn, tôi vừa căng thẳng nhìn đồng hồ, sau đó đặt các khuôn bánh vào khay cách thủy và đưa vào lò nướng, ghi nhớ chính xác thời gian. Tôi thoáng hoảng hồn, sợ mình sẽ không làm xong mọi thứ, nhưng sau khi nhắc nhở bản thân rằng sợ hãi chính là kẻ thù, tôi cố bình tĩnh mang khay canapé quay lại phòng khách. Tôi mời mọi người, cảm kích đón nhận những lời khen ngợi của họ, vì Jack cũng nghe được chúng. Quả vậy, sau khi tặng tôi một nụ hôn lên đỉnh đầu, anh đồng ý với Diane rằng tôi đúng là một đầu bếp xuất sắc và tôi khẽ thở phào nhẹ nhõm. Kiên quyết tạo tiến triển với Esther, tôi ngồi xuống cạnh cô. Thấy thế, Jack liền đỡ khay bánh giùm tôi. “Em nên nghỉ một chút, em yêu, sau những vất vả suốt cả ngày hôm nay,” anh nói, những ngón tay thon dài thanh lịch giữ khay bánh thăng bằng. “Có vất vả gì đâu,” tôi phản đối, mặc dù đó là một lời nói dối và Jack biết rõ điều đó, vì chính anh đã lên thực đơn. Tôi bắt đầu hỏi Esther những câu hỏi hợp tình hợp lý: cô đã thấy hòa nhập với khu này chưa, có thấy tiếc vì đã bỏ Kent ra đi không, hai đứa nhỏ đã ổn định ở trường mới chưa. Chẳng hiểu vì sao, cô có vẻ khó chịu vì thấy tôi biết nhiều thế, vậy nên, tôi cố tình hỏi tên con trai và con gái cô, mặc dù đã biết thừa chúng là Sebastian và Aisling. Tôi còn biết chúng lên mấy nữa, một đứa lên bảy và một đứa lên năm, nhưng tôi vờ như chưa biết. Jack đang lắng nghe từng từ tôi nói nên tôi biết chắc anh sẽ tự hỏi tôi đang chơi trò gì. “Chị chưa có con, đúng không,” Esther nói, nghe như một lời khẳng định hơn là câu hỏi. “Chưa, vẫn chưa. Chúng tôi định dành hai năm đầu tiên cho riêng mình đã.” “Tại sao chứ, hai người đã kết hôn được bao lâu rồi?” Giọng cô biểu lộ sự ngạc nhiên. “Một năm,” tôi thú nhận. “Họ vừa kỷ niệm ngày cưới vào tuần trước,” Diane xen vào. “Và tôi vẫn chưa muốn chia sẻ cô vợ xinh đẹp của mình với ai hết,” Jack nói, rót thêm rượu vào ly cô ta. Nhất thời xao lãng, tôi nhìn một giọt rượu nhỏ xíu trượt khỏi miệng ly rơi xuống đầu gối chiếc quần chino mới tinh của Jack. “Tôi hy vọng hỏi thế này không làm chị khó chịu,” Esther lại nói, nỗi tò mò đã thắng thế, “nhưng đã ai trong hai người từng qua một lần đò chưa?” Có vẻ cô muốn câu trả lời là rồi, như thể một anh chồng cũ hoặc một cô vợ cũ đầy thù hận ẩn nấp trong lai lịch của Jack và tôi sẽ là bằng cớ chứng tỏ chúng tôi không hoàn hảo. “Chưa, cả hai chúng tôi đều kết hôn một lần,” tôi nói. Cô đưa mắt nhìn Jack và tôi biết cô đang băn khoăn tại sao một người đẹp trai như vậy lại có thể độc thân lâu đến thế. Cảm thấy ánh mắt cô đổ dồn vào mình, Jack mỉm cười thiện chí. “Phải thú nhận là ở tuổi bốn mươi, tôi đã bắt đầu tuyệt vọng nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ tìm được người phụ nữ hoàn hảo. Nhưng ngay khi thấy Grace, tôi đã biết cô ấy chính là người mình mong chờ bấy lâu nay.” “Lãng mạn thật,” Diane thở dài, biết rõ chuyện tôi với Jack gặp nhau thế nào. “Tớ không còn đếm được mình đã cố giới thiệu cho Jack bao nhiêu cô gái nữa, mối nào cũng không thành cho đến khi anh ấy gặp Grace.” “Còn chị thì sao, Grace?” Esther hỏi. “Với chị cũng là tình yêu sét đánh chứ?” “Đúng,” tôi nói và nhớ lại. “Đúng thế.” Choáng ngợp trước kỷ niệm, tôi đứng dậy hơi nhanh, Jack liền xoay đầu về phía tôi. “Món souffle,” tôi điềm tĩnh giải thích. “Chắc đã chín rồi. Mọi người sẵn sàng ngồi vào bàn chưa?” Được Diane hối thúc và giải thích rằng món souffle không đợi bất kỳ ai, mọi người uống cạn ly rồi ra bàn. Tuy nhiên, Esther đang đi thì dừng lại để nhìn kỹ bức Đom đóm hơn, và khi Jack tới ngắm cùng Esther thay vì giục cô vào bàn, tôi nhẹ nhõm thở hắt ra vì món souffle còn lâu mới chín. Nếu chúng đã chín thì chắc sự kề cà này sẽ khiến tôi phát khóc vì căng thẳng mất, đặc biệt là khi Jack bắt đầu giải thích vài kỹ thuật khác nhau tôi đã sử dụng để vẽ bức tranh. Năm phút sau, khi cuối cùng tất cả đã yên vị, món souffle cũng vừa chín đến độ hoàn hảo. Lúc Diane biểu lộ sự kinh ngạc, Jack mỉm cười nhìn tôi từ đầu bàn đối diện và bảo mọi người rằng tôi quả thực nấu nướng rất khéo. Chính những buổi tối thế này khiến tôi nhớ ra vì sao mình đem lòng yêu Jack. Quyến rũ, vui tính và thông minh, anh biết chính xác mình phải nói gì và nói ra sao. Vì Esther và Rufus mới chuyển đến nên Jack đảm bảo chúng tôi vừa ăn souffle vừa trò chuyện về những điều có ích cho họ. Anh gọi cho Diane và Adam kể ra những thông tin riêng có thể giúp ích cho hai người bạn mới của chúng tôi, chẳng hạn như họ mua sắm ở đâu và chơi môn thể thao nào. Mặc dù Esther lịch sự lắng nghe danh sách các trò tiêu khiển của họ, tên của những người làm vườn và các cô trông trẻ, hay nơi bán cá ngon nhất, nhưng tôi biết mình mới là chủ đề cô quan tâm, tôi cũng biết cô sẽ quay lại với chuyện Jack và tôi kết hôn khá muộn, hy vọng sẽ tìm ra điều gì đó - điều gì cũng được - giúp cô thấy mọi chuyện không hoàn hảo như vẻ bề ngoài. Không may cho Esther, rồi cô sẽ thất vọng thôi. Cô chờ Jack cắt xong miếng thịt bò Wellington rồi ăn cùng khoai tây bỏ lò và cà rốt láng mật ong. Còn có cả những hạt đậu Hà Lan bé xíu tôi đã nhúng vào nước sôi ngay trước khi lấy thịt bò ra khỏi lò. Diane kinh ngạc khi thấy tôi có thể thu xếp hoàn thành tất cả các món cùng lúc, rồi thú nhận rằng mình luôn chọn một món chính như cà ri để có thể nấu sẵn từ sớm và trước khi ăn chỉ việc hâm nóng lên là xong. Tôi muốn nói với cô ta rằng tôi cũng muốn làm như thế, rằng việc tính toán khó nhọc cùng những đêm mất ngủ chính là cái giá tôi phải trả để cho ra mắt một bữa tối hoàn hảo đến thế. Nhưng nấu một bữa ăn thiếu hoàn hảo không phải là lựa chọn dành cho tôi. Esther nhìn tôi từ phía bên kia bàn. “Thế chị với Jack gặp nhau ở đâu?” “Tại công viên Regent,” tôi đáp. “Vào một chiều Chủ nhật.” “Chị kể chi tiết cho cô ấy nghe đi,” Diane giục, làn da nhợt nhạt ửng hồng vì sâm panh. Tôi lưỡng lự trong giây lát vì trước đây đã từng kể chuyện này. Nhưng đó là câu chuyện Jack thích nghe tôi kể nên lặp lại lần nữa sẽ có lợi cho tôi. May thay, Esther giải vây cho tôi. Tưởng tôi lưỡng lự vì ngại, cô nhảy ngay vào. “Chị kể đi,” cô giục. “Chậc, rất có thể tôi sẽ khiến những người đã nghe chuyện này phát ngấy đấy nhé,” tôi bắt đầu với một nụ cười hối lỗi. “Lúc đó, tôi đang cùng em gái, Millie, chơi ngoài công viên. Chúng tôi thường ra công viên vào chiều Chủ nhật. Hôm ấy, tình cờ có một ban nhạc đang chơi. Millie rất thích âm nhạc, nó thích đến nỗi đứng dậy khỏi ghế rồi bắt đầu nhảy trước bục biểu diễn. Nó mới học nhảy valse nên vừa nhảy vừa dang tay ra trước mặt, hệt như đang khiêu vũ cùng ai đó.” Tôi thấy mình mỉm cười trước kỷ niệm này, tuyệt vọng ao ước cuộc đời tôi vẫn đơn giản và trong sáng như trước. “Mặc dù mọi người nói chung rất độ lượng và vui vẻ khi thấy Millie thích thú như thế,” tôi kể tiếp, “nhưng tôi có thể thấy một hai người khó chịu và tôi biết mình nên làm gì đó, tỷ dụ như gọi em mình quay lại ghế ngồi. Nhưng một phần trong tôi cảm thấy miễn cưỡng không muốn làm thế, vì…” “Em gái chị bao nhiêu tuổi?” Esther cắt ngang. “Mười bảy.” Tôi dừng lời một lát, không muốn đối diện với thực tại. “Gần mười tám.” Esther nhướn mày. “Thế thì con bé thuộc loại thích được chú ý rồi.” “Không, không phải vậy, chỉ là…” “Chớ còn gì nữa. Ý tôi là, chẳng ai tự nhiên lại đứng dậy khiêu vũ trong công viên, phải không?” Cô đắc thắng nhìn quanh bàn và khi ai cũng tránh ánh nhìn của cô, tôi không thể không thấy thương hại Esther. “Millie mắc hội chứng Down.” Giọng Jack phá tan sự im lặng khó xử đã buông xuống cả bàn. “Thế nên con bé thường có những hành động cực kỳ bột phát.” Nét mặt Esther ngập tràn vẻ bối rối và tôi thấy khó chịu khi mọi người kể lể đủ chuyện về tôi với cô mà không hề nhắc đến Millie. “Dù sao thì, trước khi tôi kịp quyết định nên làm gì,” tôi nói để giải vây cho Esther, “quý ông hoàn hảo đây bỗng đứng dậy, tới chỗ Millie đang khiêu vũ, cúi chào rồi đưa tay ra cho con bé. Chà, Millie thích lắm. Khi cả hai bắt đầu nhảy valse, mọi người cũng bắt đầu vỗ tay, sau đó vài cặp khác đứng lên và cũng bắt đầu khiêu vũ. Thực là một khoảnh khắc vô cùng, vô cùng đặc biệt. Và tất nhiên rồi, tôi yêu Jack ngay lập tức vì anh ấy đã khiến chuyện đó xảy ra.” “Lúc ấy, Grace không hề biết rằng tôi vốn đã thấy cô ấy cùng Millie trong công viên từ tuần trước và ngay lập tức đem lòng yêu cô ấy. Cô ấy vô cùng ân cần với Millie, không một chút vị kỷ. Tôi chưa bao giờ chứng kiến một tấm lòng tận tụy đến thế và nhất quyết phải làm quen với cô ấy.” “Còn Jack lúc ấy lại không biết một điều,” đến lượt tôi nói, “rằng tôi đã chú ý đến anh ấy từ tuần trước nhưng không bao giờ nghĩ anh ấy lại để ý đến một người như tôi.” Thấy mọi người gật đầu tán thành, tôi thích lắm. Mặc dù tôi là một cô gái hấp dẫn, nhưng vẻ ngoài điển trai như ngôi sao điện ảnh của Jack khiến mọi người nghĩ rằng tôi thật may mắn khi anh muốn kết hôn với tôi. Nhưng ý tôi không phải thế. “Grace không còn anh chị em nào khác nên cô ấy cứ nghĩ vì một ngày nào đó cô ấy rồi sẽ trở thành người duy nhất chăm sóc cho Millie, nên hẳn tôi sẽ mất hết hứng thú,” Jack giải thích. “Như đã xảy ra với những người khác,” tôi bổ sung. Jack lắc đầu. “Ngược lại, khi biết Grace sẽ làm bất cứ điều gì cho Millie, tôi nhận ra cô ấy chính là người phụ nữ tôi đã tìm kiếm cả đời. Với nghề nghiệp của tôi, người ta rất dễ mất niềm tin vào con người.” “Hôm qua, tôi đọc báo thấy đã đến lúc chúc mừng anh một lần nữa,” Rufus nói, nâng ly về phía Jack. “Đúng thế, cừ lắm.” Adam, luật sư cùng công ty với Jack, cũng hùa vào. “Lại một chiến thắng nữa trong tay cậu.” “Vụ ấy khá rõ ràng,” Jack khiêm tốn đáp. “Mặc dù có đôi chút khó khăn vì phải chứng minh những vết thương đó không phải do thân chủ của tôi tự gây ra, trong khi cô ấy có xu hướng tự gây thương tích cho mình.” “Nhưng nhìn chung, chẳng phải các vụ ngược đãi thường rất dễ chứng minh sao?” Rufus hỏi, trong khi Diane nói với Esther, phòng trường hợp cô chưa biết, rằng Jack là người bênh vực cho những người yếu thế, cụ thể hơn là cho những người vợ bị ngược đãi. “Tôi không muốn chê bôi những việc làm tuyệt vời của anh, nhưng các vụ ấy thường có bằng chứng vật lý hay nhân chứng mà, đúng không?” “Jack có biệt tài khiến các nạn nhân tin tưởng và kể hết cho anh ấy nghe những chuyện đã xảy ra,” Diane giải thích, tôi nghi cô ta đã đem lòng thích Jack. “Rất nhiều phụ nữ không biết phải trông cậy vào ai và sợ sẽ chẳng ai tin mình.” “Cậu ấy còn đảm bảo những kẻ gây ra tội ác phải trả giá trong một thời gian dài,” Adam thêm vào. “Trước những kẻ bị phát hiện giở trò bạo lực với vợ mình, tôi không có cảm giác gì khác ngoài khinh thường,” Jack tuyên bố chắc nịch. “Chúng xứng đáng nhận mọi hình phạt dành cho mình.” “Tôi xin uống mừng điều đó,” Rufus lại nâng ly. “Anh chưa bao giờ thua vụ nào, đúng không Jack?” Diane hỏi. “Chưa, tôi cũng không có ý định sẽ để thua vụ nào hết.” “Thành tích không gián đoạn - đúng là tuyệt vời,” Rufus trầm ngâm vẻ ấn tượng. Esther nhìn sang tôi. “Em gái Millie của chị nhỏ hơn chị khá nhiều tuổi nhỉ,” cô nhận xét, hướng cuộc trò chuyện về chủ đề chúng tôi đang nói dở. “Đúng, chúng tôi cách nhau mười bảy năm. Millie ra đời khi mẹ tôi đã bốn mươi sáu. Lúc đầu, do không biết mình đang mang thai nên mẹ tôi có hơi sốc trước việc sẽ được làm mẹ một lần nữa.” “Millie sống với cha mẹ chị à?” “Không, nó học nội trú tại một ngôi trường tuyệt vời ở Bắc London. Nhưng nó sẽ lên mười tám vào tháng Tư nên phải rời trường vào mùa hè này, âu cũng đáng tiếc vì nó rất thích ngôi trường ấy.” “Vậy con bé sẽ đi đâu? Về nhà cha mẹ chị à?” “Không.” Tôi dừng một lát vì biết điều mình sắp nói sẽ khiến cô sửng sốt. “Cha mẹ tôi sống ở New Zealand.” Mất một lúc Esther mới phản ứng lại. “New Zealand?” “Đúng thế. Họ nghỉ hưu và chuyển đến đó vào năm ngoái, ngay sau đám cưới của chúng tôi.” “Tôi hiểu rồi,” cô nói. Nhưng tôi biết cô chẳng hiểu gì. “Millie sẽ chuyển đến sống cùng chúng tôi,” Jack giải thích. Anh nhìn tôi mỉm cười. “Tôi biết đó là điều kiện để Grace đồng ý kết hôn với tôi và tôi hoàn toàn vui lòng chấp nhận.” “Anh cao thượng thật đấy,” Esther nói. “Hoàn toàn không phải thế - tôi rất mừng vì Millie sẽ sống ở đây. Việc đó sẽ mở ra một khía cạnh mới cho cuộc sống của chúng tôi, phải không, em yêu?” Tôi nâng ly nhấp một ngụm rượu để khỏi phải trả lời. “Rõ là anh rất hòa hợp với con bé,” Esther nhận xét. “Chậc, tôi hy vọng con bé cũng yêu quý tôi như tôi yêu quý nó, mặc dù vẫn phải mất một thời gian sau khi tôi và Grace kết hôn mới được như thế.” “Sao lại thế?” “Tôi nghĩ việc chúng tôi kết hôn với nhau khiến con bé bị sốc,” tôi trả lời cô. “Con bé ngay từ đầu đã rất quý Jack, nhưng khi chúng tôi trở về sau tuần trăng mật và Millie hiểu ra Jack sẽ ở bên tôi mãi mãi, nó lại thấy ghen tị. Nhưng giờ thì ổn rồi. Jack lại là người con bé yêu quý nhất rồi.” “May sao, George Clooney đã thế chỗ tôi trở thành đối tượng đáng ghét trong lòng Millie,” Jack phá lên cười. “George Clooney?” Esther thắc mắc. “Đúng thế.” Tôi gật đầu, hài lòng vì Jack đã đề cập đến việc này. “Tôi thích anh ta…” “Ai mà chẳng thích,” Diane lẩm bẩm. “… và Millie ghen tị đến nỗi, khi mấy người bạn tặng tôi một tờ lịch in hình George Clooney vào lễ Giáng sinh, nó đã nguệch ngoạc viết lên đó ‘Tôi không thích George Clooney’, có điều nó viết tên anh ta theo cách phát âm - J-O-R-J K-O-O-N-Y - con bé gặp khó khăn khi phát âm chữ ‘L’,” tôi giải thích. “Đáng yêu thế chứ.” Ai cũng cười. “Giờ thì gặp ai nó cũng nói chỉ thích tôi chứ không thích anh ta. Nghe gần như tụng kinh vậy - ‘Em thích anh, Jack ạ, nhưng em không thích George Clooney.’ “ Jack mỉm cười. “Phải thừa nhận là tôi thấy rất khoái khi được so sánh với anh ta,” anh khiêm tốn nói thêm. Esther nhìn Jack. “Anh biết không, trông anh cũng khá giống anh ta đấy.” “Trừ một điều, Jack đẹp trai hơn nhiều.” Adam nhe răng cười. “Cô không hình dung nổi tất cả chúng tôi đã cảm thấy nhẹ nhõm đến mức nào khi cậu ấy kết hôn với Grace đâu. Ít ra thì đám phụ nữ trong văn phòng không còn mộng tưởng về Jack nữa, cả nam giới cũng vậy,” anh ta vui vẻ thêm vào. Jack thở dài hiền hậu. “Đủ rồi đấy, Adam.” “Chị không đi làm, đúng không?” Esther quay sang hỏi tôi. Tôi nhận ra giọng cô thoáng ẩn giấu sự coi thường mà phụ nữ đi làm thường dành cho những người chỉ ở nhà, điều đó thôi thúc tôi phải bào chữa cho mình. “Ngày trước thì có, nhưng tôi đã nghỉ làm ngay trước khi chúng tôi kết hôn.” “Thật sao?” Esther nhíu mày. “Tại sao lại thế?” “Cô ấy không muốn thôi việc,” Jack xen vào. “Nhưng cô ấy đã có một công việc chức trọng quyền cao và tôi không muốn về nhà khi đã kiệt sức chỉ để thấy Grace cũng kiệt sức như mình. Có lẽ tôi đã ích kỷ khi đề nghị cô ấy thôi việc, nhưng tôi muốn được về nhà để trút bỏ mọi căng thẳng trong ngày hơn là bị người khác trút lên mình. Công việc của cô ấy cũng đòi hỏi phải đi lại khá nhiều và tôi không muốn về một ngôi nhà trống, như cách tôi đã sống suốt bao năm qua.” “Chị làm gì?” Esther hỏi, đôi mắt xanh nhạt nhìn thẳng vào tôi. “Tôi nhập hàng cho Harrods[2].” Mắt cô sáng lên, cho thấy cô rất ấn tượng, nhưng việc cô không hỏi thêm nữa chứng tỏ cô chưa muốn cho tôi thấy điều đó. “Chị ấy thường đi khắp thế giới trên khoang hạng nhất,” Diane nín thở nói. “Không phải khắp thế giới đâu,” tôi chỉnh lại. “Chỉ tới Nam Mỹ thôi. Tôi tìm nguồn hoa quả ở đó, chủ yếu từ Chile và Argentina,” tôi bổ sung, chủ yếu để cho Esther biết. Rufus nhìn tôi đầy thán phục. “Chắc là thú vị lắm.” “Đúng thế.” Tôi gật đầu. “Tôi yêu từng giây từng phút được làm công việc của mình.” “Thế thì chắc chị nhớ lắm,” Esther lại tuyên bố. “Không, cũng không hẳn,” tôi nói dối. “Ở đây có khối việc chiếm trọn thời giờ của tôi rồi.” “Chẳng mấy chốc, chị lại phải chăm sóc cho cả Millie nữa.” “Millie rất tự chủ và dù sao thì con bé cũng sẽ dành phần lớn thời gian làm việc ở Meadow Gate.” “Ở nhà vườn ấy hả?” “Đúng thế. Con bé rất thích cây cối hoa lá và đã may mắn được nhận vào làm một công việc hoàn hảo.” “Thế cả ngày chị thường làm gì?” “Thì cũng như hiện tại thôi - cô biết rồi đấy, nấu ăn, dọn dẹp, làm vườn - nếu thời tiết cho phép.” “Sau này cô phải tới dự bữa trưa Chủ nhật để thăm vườn mới được,” Jack nói. “Grace mát tay trồng trọt lắm.” “Trời ạ,” Esther nhẹ nhàng nói. “Chị nhiều tài thật đấy. Thật mừng là tôi được mời làm việc ở St Polycarp. Ở nhà cả ngày tôi thấy chán lắm.” “Bao giờ cô bắt đầu?” “Tháng sau. Tôi thế chỗ cho một cô giáo nghỉ sinh con.” Tôi quay sang Rufus. “Jack nói với tôi vườn của anh lớn lắm,” tôi gợi ý, và trong khi tôi lấy thêm thịt bò Wellington được giữ ấm cùng rau quả trên bếp điện, cuộc chuyện trò bên bàn bắt đầu xoay quanh chủ đề phong cảnh thay vì về tôi. Khi mọi người cười nói với nhau, tôi thấy mình bâng khuâng nhìn hai người phụ nữ kia, tự hỏi nếu mình là Diane hoặc Esther thì sẽ ra sao, hay nếu không phải chăm lo cho Millie thì tôi sẽ thế nào. Tôi lập tức thấy có lỗi vì tôi yêu Millie hơn cả cuộc đòi này và sẽ không đánh đổi con bé để lấy bất cứ thứ gì. Chỉ cần nghĩ đến Millie, lòng tôi dâng lên một quyết tâm mới và tôi cố ý đứng dậy. “Đã ai muốn ăn tráng miệng chưa?” tôi hỏi. Jack và tôi dọn bàn, sau đó anh theo tôi vào bếp. Tôi bỏ đĩa bát gọn gàng vào bồn rửa để lát nữa xối nước cho sạch, trong khi Jack cất con dao lạng thịt về chỗ cũ. Món tráng miệng tôi làm quả là kiệt tác - một ổ bánh trứng đường hoàn hảo, không một vết rạn, cao bảy phân, phủ đầy kem tươi Devon. Tôi lấy số hoa quả đã chuẩn bị từ trước rồi cẩn thận xếp các khoanh xoài, dứa, đu đủ và kiwi lên trên lớp kem, sau đó thêm dâu tây, mâm xôi và việt quất. Khi cầm quả lựu lên, cảm giác của nó trong lòng bàn tay đưa tôi quay về một thời điểm khác, một địa điểm khác, nơi ánh mặt trời ấm áp rọi trên mặt và tiếng trò chuyện háo hức là những thứ tôi coi như nghiễm nhiên được hưởng trên đời. Tôi nhắm mắt lại trong giây lát, nhớ tới cuộc đời mình từng sống trước đây. Nhận thấy Jack đang giơ tay ra đợi, tôi đưa quả lựu cho anh cắt ra làm đôi, rồi tôi dùng thìa nạo hạt rắc lên chỗ hoa quả kia. Món tráng miệng đã hoàn thành, tôi bê ra phòng ăn, nơi những tiếng trầm trồ trước sự xuất hiện của nó khẳng định Jack đã đúng khi chọn món này thay vì bánh ga tô sô cô la hạt dẻ tôi muốn làm. “Cậu có tin là Grace chưa bao giờ học nấu ăn không?” Diane nói với Esther và cầm thìa lên. “Tớ thật ngưỡng mộ sự hoàn hảo này, cậu có thấy thế không? Mặc dù tớ sẽ không tài nào mặc vừa bộ bikini vừa mua nữa,” cô ta đế thêm, rên rỉ vỗ tay vào bụng dưới lớp váy lanh màu xanh nước biển. “Tớ không nên ăn mới phải, nhất là khi vừa đặt một chuyến nghỉ mát vào mùa hè này, nhưng ngon thế kia thì làm sao cưỡng nổi!” “Hai người định đi đâu?” Rufus hỏi. “Thái Lan,” Adam trả lời. “Chúng tôi định đi Việt Nam, nhưng sau khi xem ảnh kỳ nghỉ vừa rồi của Jack và Grace ở Thái Lan, chúng tôi quyết định sẽ đi Việt Nam vào năm sau.” Anh ta nhìn Diane cười. “Mọi chuyện được quyết ngay khi Diane trông thấy khách sạn họ đã ở.” “Vậy hai người sẽ ở đúng khách sạn ấy chứ?” “Không, khách sạn ấy đã kín chỗ. Không may là chúng tôi không được phép đi nghỉ ngoài thời gian làm việc.” “Hãy cố tận hưởng hết mức có thể,” Esther nói, quay sang nhìn tôi. “Tôi cũng định thế.” “Năm nay hai cậu có định quay lại Thái Lan không?” Adam hỏi. “Nếu có thì phải đi trước tháng Sáu, nhưng chắc tôi không đi được vì vụ Tomasin sắp tới,” Jack nói. Anh ném một cái nhìn đầy ẩn ý về phía tôi ở đầu bàn bên kia. “Còn sau đó thì Millie sẽ đến sống cùng chúng tôi.” Tôi nín thở, hy vọng không ai gợi ý rằng nếu kiên nhẫn chờ đợi, chúng tôi sẽ có thể đưa cả Millie đi cùng. “Vụ Tomasin hả?” Rufus nhướn mày. “Tôi có nghe được chút ít. Có phải vợ anh ta là một trong số các thân chủ của anh?” “Đúng thế.” “Dena Anderson,” anh ta trầm ngâm. “Chắc là một vụ rất thú vị.” “Quả vậy,” Jack đồng tình. Anh quay lại nhìn tôi. “Em yêu, nếu mọi người đã ăn xong, sao em không cho Esther xem ảnh lần trước bọn mình đi nghỉ ở Thái Lan nhỉ?” Tim tôi chùng xuống. “Chắc cô ấy không muốn xem ảnh đi nghỉ của chúng mình đâu,” tôi cố tình nói sao cho thật nhẹ nhàng. Nhưng chỉ một dấu hiệu nhỏ nhoi cho thấy sự bất hòa giữa hai chúng tôi cũng đã đủ cho Esther. “Tôi rất thích xem!” cô kêu lên. Jack đẩy ghế lùi lại rồi đứng dậy. Anh lấy cuốn album ảnh ra khỏi ngăn kéo và đưa cho Esther. “Vậy thì tôi với Grace đi pha cà phê trong khi cô xem ảnh nhé. Sao cô không sang phòng khách mà ngồi, ở đó thoải mái hơn nhiều.” Lúc chúng tôi mang khay cà phê trở lại từ trong bếp thì Diane đang trầm trồ khen ảnh, trong khi Esther chẳng nói gì nhiều. Tôi phải thừa nhận đó là những tấm ảnh tuyệt vời. Tôi có mặt ở tấm nào là y như rằng đều phô ra ưu điểm của mình trong tấm đó: làn da rám nắng tuyệt đẹp, thân hình thanh mảnh như hồi còn đôi mươi, mặc một trong hằng hà sa số các bộ bikini của mình. Hầu như trong ảnh nào tôi cũng đang đứng trước một khách sạn hạng sang, hoặc nằm dài trên bãi biển riêng, hay ngồi ở một quầy bar hoặc nhà hàng, bên cạnh ly cocktail sặc sỡ cùng một đĩa đồ ăn mới lạ trước mặt. Xem ảnh nào cũng thấy tôi tươi cười nhìn máy ảnh, quả là một ví dụ hoàn hảo về kiểu phụ nữ vô lo được cưng chiều và yêu chồng tha thiết. Jack khá cầu toàn khi chụp ảnh và thường chụp đi chụp lại một kiểu đến khi nào ưng mới thôi, vậy nên tôi đã học cách diễn cho chuẩn ngay lần đầu. Cũng có một số tấm ảnh hai chúng tôi chụp chung, do những người lạ dễ tính nháy máy hộ. Chính Diane đã trêu chọc và chỉ ra rằng trong những bức ảnh ấy, Jack với tôi thường nhìn nhau say đắm chứ chẳng hề nhìn đến ống kính. Jack rót cà phê. “Có ai muốn ăn sô cô la không?” tôi hỏi, cố hết sức làm ra vẻ ngẫu nhiên với lấy hộp sô cô la Esther mang tới. “Anh nghĩ tất cả đều đã ăn khá no rồi,” Jack gợi ý, nhìn quanh tìm kiếm sự đồng tình. “Quả vậy,” Rufus nói. “Tôi không thể ăn thêm bất cứ thứ gì nữa,” Adam rên rỉ. “Thế thì tôi cất đi để dịp khác vậy.” Jack chìa tay đón hộp kẹo. Tôi đang tưởng sẽ phải chấp nhận không bao giờ được nếm chúng thì Diane đã kịp đứng ra giải cứu. “Đừng cất đi - em nghĩ mình còn ăn được một, hai viên sô cô la.” “Nhắc cho em nhớ tới bikini chắc cũng vô ích,” Adam thở dài, lắc đầu tuyệt vọng chế giễu vợ. “Hoàn toàn vô nghĩa,” Diane đồng ý rồi lấy một viên sô cô la từ chiếc hộp Jack đưa cho mình, sau đó chuyền cho tôi. Tôi lấy một viên, bỏ tọt vào miệng và đưa hộp cho Esther. Thấy cô từ chối không ăn, tôi lại lấy thêm một viên nữa trước khi trả hộp cho Diane. “Sao chị làm được như thế?” Diane hỏi, nhìn tôi đầy băn khoăn. “Làm gì cơ?” “Ăn nhiều thế mà chẳng tăng cân chút nào.” “Nhờ may mắn,” tôi nói, thò tay ra lấy thêm một viên kẹo nữa. “Và có kiểm soát.” Đến tận khi đồng hồ nhích đến mười hai rưỡi, Esther mới nhắc đến chuyện đi về. Jack đưa áo khoác cho mọi người khi chúng tôi ra tới hành lang. Trong lúc anh giúp Diane và Esther mặc áo khoác, tôi đồng ý sẽ gặp họ trong thị trấn vào thứ Sáu tới để ăn trưa tại nhà hàng Chez Louis lúc mười hai rưỡi. Diane ôm tôi chào tạm biệt. Khi bắt tay Esther, tôi nói tôi mong được gặp lại cô vào bữa trưa đã hẹn. Hai người đàn ông hôn tạm biệt tôi và trong lúc tất cả ra về, họ đều cảm ơn chúng tôi vì một buổi tối hoàn hảo. Trên thực tế, từ “hoàn hảo” cứ vang lên khắp hành lang khi Jack đóng cửa sau lưng các vị khách, khiến tôi biết chắc mình đã thắng cuộc. Nhưng tôi phải đảm bảo Jack biết rằng tôi đã thắng. “Ngày mai ta sẽ phải lên đường vào lúc mười một giờ,” tôi nói, xoay lại nhìn anh. “Để tới nơi đúng giờ đưa Millie đi ăn trưa.” Mời bạn đón đọc Sau Cánh Cửa Đóng của tác giả B. A. Paris & Lan Young (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dòng Sông Hắc Ám
“Một ngày nào đó cô sẽ hiểu được thứ gì đang đến với cô. Nó không đến từ tôi đâu. Mà từ một trong số chúng, một trong những người mà cô tin tưởng… Sẽ thú vị lắm đây.” Đó là lời cảnh báo trước khi chết của kẻ sát nhân bệnh hoạn Melvin Royal dành cho Gwen Proctor. Có lẽ hắn nói đúng, nhưng chỉ một phần… Melvin đã nằm sâu dưới nấm mồ, còn Gwen phải tiếp tục đấu tranh để chữa lành những vết sẹo của quá khứ, giải quyết những mối đe dọa ở hiện tại và sẵn sàng cho một tương lai đầy bấp bênh. Liệu những thử thách mới, những âm mưu mới có thể đánh gục được người mẹ giàu lòng trắc ẩn và dũng cảm như sắt đá? Ở thế giới bên kia, liệu Melvin có thể có cơ hội chứng kiến Gwen sụp đổ và vụn vỡ hay không? Tiếp nối thành công của hai tập trước trong series ăn khách Stillhouse - Dòng sông hắc ám không chỉ đem tới cho độc giả những khoảnh khắc hồi hộp, gay cấn, mà còn cả những phút giây lắng đọng, xúc động và giàu chiêm nghiệm. ----- “Và tôi cần phải đối phó với hắn, bởi hắn đang đe dọa đến tính mạng của con tôi. Con tôi. Tôi chưa bao giờ có cảm giác mạnh mẽ như thế này trước đây - cảm giác muốn được bảo vệ Connor bằng mọi giá. Cảm giác ấy, ước muốn ấy, nó không hề mất đi, vẫn luôn chôn sâu bám rễ vào trong máu thịt của tôi.” ----- Tác giả Rachel Caine là một trong những tác giả ăn khách nhất thế giới với hơn năm mươi đầu tiểu thuyết nằm trong danh sách bán chạy, bao gồm hai series truyện dành cho tuổi thiếu niên là Ma cà rồng vùng Morganville và Đại Thư viện. Các dòng sách bà theo đuổi gồm có: tiểu thuyết giật gân, huyền bí, kỳ ảo hiện đại, khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết siêu linh dành cho giới trẻ. Bà hiện sống cùng gia đình tại Fort Worth, bang Texas, Mỹ. *** Bốn ngày trước Khi giáo viên của Ellie White, cô Willingham, nói với cô bé rằng tài xế sẽ đến trường học sớm hơn thường lệ để đón cô bé, Ellie biết đó không phải toàn bộ sự thật. Bác Lou chưa bao giờ đến sớm như vậy cả, trừ khi cô bé bị ốm. “Tại sao ạ?” Cô bé hỏi. Cô bé thích đưa ra những câu hỏi mỗi khi có điều chưa rõ. Có thể cô bé chỉ mới sáu tuổi, nhưng bố đã dạy cô bé phải hỏi nếu không hiểu. Mẹ lúc nào cũng có chút xấu hổ bởi cô bé cứ làm theo lời dặn của bố một cách máy móc như vậy. “Cô e rằng… Cô e rằng đó là vì bố con đã nhờ bác ấy làm vậy.” Cô Willingham nói. Cô ấy là một phụ nữ da trắng tử tế với một lọn tóc màu bạc điểm xuyết trên mái tóc nâu, và cô là một giáo viên tốt. Mặc dù bố Ellie rất giàu có, cô chưa bao giờ đối xử với Ellie khác biệt so với những học sinh trong lớp. Kể cả khi Ellie có làn da màu nâu đậm, đậm hơn bất cứ bé gái nào khác ở đây - những cô bé có làn da trắng như những trang giấy. “Bố sẽ không làm vậy…” Ellie nói. “Có điều gì đó không ổn.” Cô Willingham đưa mắt về phía Ellie, nhưng không nhìn thẳng vào cô bé: “Ừ thì, mẹ con bị ốm…” Cô nói. “Vậy nên ông ấy mới điều xe đến đón và đưa con tới bệnh viện nơi ông ấy đang ở cùng với mẹ con. Như vậy được rồi chứ?” Cô giúp Ellie mặc chiếc áo len dài tay. Chiếc áo này Ellie không thích, nhưng cũng không muốn bỏ lại. Tiếp đến là chiếc cặp sách. “Cô Willingham?” Ellie hỏi, ngước lên nhìn cô giáo của mình. “Cô đang khóc đấy ạ?” “Không, bé con ạ. Cô ổn mà. Đi nào. Ra khỏi đây thôi, bác ấy đang đợi.” “Nhưng bố có nhắc đến mật mã nữa chứ ạ?” “Ông ấy có nhắc đến mật mã…” Cô Willingham nói. “Mật mã của hôm nay là chim hét đen, phải không nào?” Ellie gật đầu. Thứ Năm là chim hét đen. Mỗi ngày sẽ là một loài chim nào đó, bởi vì cô bé rất thích chim và mẹ luôn luôn gọi cô bé là chim ruồi nhỏ do cô bé luôn phóng đi rất nhanh. Nhưng Chủ nhật mới là chim ruồi. Trước tiên, cô Willingham bước xuống bậc thềm của trường học để nói chuyện với bác Lou, bác đang đợi trong chiếc xe đậu ở khúc quành nằm giữa những bậc thềm và đài phun nước lớn làm bằng đá cẩm thạch. Nguyên tắc là Ellie không bao giờ được tới chỗ chiếc xe cho đến khi cô Willingham xác nhận rằng mọi thứ đều ổn. Cô và bác Lou nói chuyện rất lâu. Cô Willingham cứ khóc mãi không ngừng. Hôm nay thời tiết nóng và ẩm, nhưng đài phun nước trông rất mát mẻ và đẹp đẽ. Tia nước bắn ra từ những chiếc vỏ sò làm bằng bê tông, rơi vào một chiếc vỏ sò lớn hơn nằm ở chính giữa. Mẹ từng nói với Ellie rằng đã từng có một nàng tiên rất xinh đẹp sống ở trong vỏ sò, nhưng một vài bậc phụ huynh đã buộc nhà trường phải đưa nàng ấy ra ngoài, và giờ đây nàng ấy phải ở trong kho chứa đồ, điều này thật đáng buồn làm sao. Cô Willingham bước trở lại bậc thềm để đón lấy tay cô bé. Ellie ngước lên nhìn cô. “Mọi thứ sẽ ổn thôi…” Cô nói, nhưng giọng cô lạc đi. Đôi mắt cô đỏ lên. “Cô xin lỗi, bé con. Nhưng cô phải làm điều này. Cô cũng có gia đình của mình.” Ellie cảm thấy lo lắng cho gia đình của cô giáo. “Goa đình của cô ổn cả chứ, cô Willingham?” Cô bé không có ý định làm cho người phụ nữ phải khóc. “Ừ, Ellie ạ, họ sẽ ổn thôi. Con có thể giúp cô đảm bảo rằng họ sẽ ổn chứ?” Ellie không rõ mình phải làm điều đó như thế nào, nhưng cô bé vẫn gật đầu. Cô bé thích giúp đỡ mọi người, ngay cả khi cô bé không thực sự chắc chắn tại sao cô Willingham lại nghĩ rằng cô bé có thể giúp. Cô Willingham mở cửa xe và nâng Ellie lên. Đây vốn là công việc của bác Lou. Sau đó, người phụ nữ ôm lấy cô bé. “Hãy mạnh mẽ, Ellie. Con sẽ ổn cả thôi.” “Nhưng còn gia đình của cô thì sao ạ?” Ellie hỏi. “Cô không định đi với con để cùng giúp họ sao?” Cô Willingham bụm miệng, những giọt nước mắt lăn dài trên má, và cô chỉ còn biết lắc đầu. Cô đóng sầm cánh cửa xe, và đó là khi Ellie biết rằng có điều gì đó thực sự không ổn. Cô giáo Willingham đã nói dối, nhưng cô bé không biết tại sao cô phải làm vậy. Và rồi Ellie nhận ra rằng điều này còn tồi tệ hơn những gì cô bé nghĩ, bởi mặc dù chiếc xe trông giống với chiếc xe vẫn thường đưa đón cô bé, nó không hề có mùi dừa mà cô bé vẫn yêu thích. “Bác Lou?” Cô bé cất tiếng gọi người tài xế. Tiếng chốt cửa xe vang lên nặng trịch. Cô bé có thể nhìn thấy người đàn ông đang ngồi ở ghế trước, đó là một người to lớn đội chiếc mũ lưỡi trai. Ngồi ở băng ghế sau, Ellie cảm thấy mình nhỏ bé hơn bình thường, và khi chiếc xe bắt đầu di chuyển, cô bé nhanh chóng thắt dây an toàn; bác Lou không bao giờ cho xe chạy cho đến khi cô bé thắt dây an toàn xong xuôi. “Bác Lou? Có chuyện gì với mẹ cháu vậy? Cô Willingham nói rằng…” Cô bé ngừng lại câu hỏi bởi lẽ người đàn ông đang lái xe không phải bác Lou. Đôi mắt nhìn vào cô bé trong gương chiếu hậu không phải là của bác ấy. “Thắt dây an toàn vào.” Ông ta nói. Còn bác Lou sẽ luôn nói xin hãy. “Cháu đã thắt rồi…” Cô bé nói. Cô bé cảm thấy sợ hãi, nhưng cô bé sẽ không thể hiện điều đó ra ngoài. “Bác có biết mật mã không?” “Chim hét đen.” Ông ta nói. “Phải không?” “Bác là ai?” “Tôi là người sẽ đưa cháu đến một nơi nào đó thật an toàn…” Ông ta nói. “Cũng giống như mong muốn của bác Lou vậy. Được rồi chứ?” “Cháu sẽ gọi cho bố.” Ellie nói, và rồi mở khóa cặp sách để lấy chiếc điện thoại di động. Nó không có ở đó. Cô bé biết rằng mình không được để điện thoại lung tung. Chiếc điện thoại rất đắt tiền, quan trọng, và cô bé luôn luôn để nó ở trong chiếc túi đó. Cô bé cảm nhận được nước mắt đang chực trào ra, nhưng cô bé sẽ không để mình khóc. Họ muốn cô bé phải khóc, bất kỳ ai đã lấy mất chiếc điện thoại. Bất kỳ ai đang chơi trò chơi đểu cáng này. “Bác là ai?” “Không ai cả.” Người lái xe nói. “Giờ thì ngồi im và yên lặng đi.” Ông ta lái chiếc SUV vào trục đường chính. Cô bé cố gắng nhìn xem họ đang đi đâu, nhưng nhanh chóng bị mất phương hướng; cô bé chưa bao giờ phải chú ý đến những điều như thế này trước đây. Ngôi trường đã khuất sau quả đồi, và ông ta rẽ ngoặt nhiều hơn, cô bé hoàn toàn không biết họ đang ở đâu. Cô bé không biết phải làm gì. Bố luôn nói với cô bé rằng có rất nhiều người xấu ở ngoài kia, và cô bé không nên đi với họ nếu họ không biết mật mã. Thế nhưng, ông ta biết nó, và cô bé cũng không thể nhấn nút “cuộc gọi khẩn cấp” nếu không có chiếc điện thoại nào ở đây. “Để cháu đi.” Cô bé nói. Cô bé cố gắng để giọng mình nghe giống với giọng của mẹ: lạnh lùng và tự tin. “Bác có thể dừng xe ở đây.” “Im mồm.” Người lái xe nói. “Giữ yên lặng. Nếu còn ồn ào, tao sẽ dán miệng mày lại.” Điều đó thậm chí còn khiến cô bé hoảng sợ hơn việc phải ngồi trên một chiếc xe lạ hoắc và không có điện thoại ở bên, nhưng cô bé sẽ không để người đàn ông này biết được điều đó. Cô bé sẽ không khóc. Cô bé nhìn xung quanh và cố gắng nghĩ ra việc khác để làm. Cánh cửa không thể mở. Phần kính cũng thế. Chiếc SUV được gắn kính tối màu, cũng giống như chiếc xe của bác Lou; nó có tác dụng chống nắng. Nhưng nó cũng được tạo ra để mọi người không thể nhìn được vào bên trong. Ellie nhận ra một điều cực kỳ tồi tệ. Cô bé là cái bóng ngồi bên trong một chiếc xe màu đen, đằng sau những ô cửa tối màu, không ai có thể nhìn thấy, và cô bé không biết phải làm gì tiếp theo. Khi cô bé bắt đầu gào thét để tìm kiếm sự giúp đỡ từ những chiếc xe chạy qua, người lái xe rẽ vào đường nhánh, đỗ xe dưới một cây cầu nằm giữa những tán cây xanh rì, dán băng dính quanh miệng cũng như quanh tay và chân cô bé. Ông ta đưa cô bé vòng ra phía sau chiếc SUV. Phía sau trống trơn, chỉ có một chiếc túi ngủ có in hình các công chúa Disney. Cô bé hét lên dưới lớp băng dính, ngọ nguậy và cố gắng để thoát ra, nhưng ông ta đặt cô bé lên chiếc túi ngủ và lắc đầu. “Đi ngủ đi…” Ông ta nói với cô bé, rồi quệt mồ hôi trên mặt. “Chúng ta còn một quãng đường dài phía trước. Mày chú ý cách cư xử và tao sẽ cho mày ăn trong một vài giờ tới. Mấy ngày nữa mày sẽ trở về nhà cùng một câu chuyện thật hay ho để kể.” Bố đã luôn dặn cô bé rằng: “Nếu rơi vào tay kẻ xấu, đừng bao giờ tin lời chúng nói.” Cô bé hoàn toàn không tin rằng chúng sẽ đưa mình trở về nhà. Cô bé thật sự sợ hãi khi thấy mình bắt đầu sổ mũi và khó thở với băng dính dán kín miệng. Vì vậy, cô bé nằm yên hít thở, chậm rãi, đều đặn. Cô bé vẫn còn hoảng sợ, lại thêm kiệt sức nữa, và cuối cùng, cô bé nhắm mắt lại và cố gắng giả vờ như mình đang ở một nơi nào đó khác, được trở về nhà với mẹ. Một cách khó nhọc, cô bé giả vờ rằng mình đang ngủ thiếp đi và cuộn người lại trên đùi của mẹ. Khi tỉnh lại, cô bé rất muốn nói với người đàn ông rằng mình muốn đi vệ sinh, nhưng ông ta thì lại đang nói chuyện điện thoại, và họ đang ở trong một khu rừng, vào giữa đêm tối. Ông ta thấy cô bé ngồi dậy. Ông ta quay đầu lại. Và rồi qua tấm kính chắn gió ô tô, cô bé trông thấy tấm biển báo “phía trước có lối ngoặt” cùng với luồng ánh sáng bừng lên xung quanh nó. Luồng ánh sáng đang chiếu thẳng về phía bọn họ. Cô bé cố hét lên về phía ông ta, nhắc ông ta coi chừng chiếc xe, nhưng ông ta chỉ cau mày và nói: “Tao đã nói là im…” Và rồi chiếc xe kia đâm sầm vào họ, tất cả lộn nhào và vỡ vụn; cô bé nghĩ mình đã nghe thấy người đàn ông hét lên. Cứu với, Ellie muốn nói điều đó, nhưng cô bé quá sợ hãi và quá đau đớn, rồi người đàn ông ngưng la hét, mọi thứ đều trở nên im bặt. Mời các bạn mượn đọc sách Dòng Sông Hắc Ám của tác giả Rachel Caine & Yến Nhi (dịch).
Dư Tội
Trung Quốc thập niên 90, làn sóng đóng cửa các quốc xĩ khiến không ít gia đình tan nát, trong đó có cả gia đình Dư Tội. Mẹ hắn bỏ đi khi hắn vẫn còn ắm ngửa, Dư Tội được người cha đặt lên xe bán hoa quả kéo đi khắp nơi kiếm sống. Từ nhỏ Dư Tội đã tiếp xúc đủ thủ đoạn đường phố, thiếu thốn tình cảm từ mẹ, thêm kiểu giáo dục đòn roi từ cha. Dư Tội biến thành kẻ bất trị, từ trộm cắp, đánh nhau, thu tiền bảo kê, không chuyện tệ hại nào không làm. Lo cho tương lai của con, cha Dư Tội dồn hết tiền bạc chạy cho hắn vào trường cảnh sát, mong con thành người tử tế. Dư Tội càng lớn càng hiểu chuyện, biết cha mình nuôi mình không dễ, hắn chỉ có một ước mơ nhỏ bé, được về quê làm cảnh sát để bảo kê cho cha bán hoa quả. Ngày tốt nghiệp sắp tới gần, Dư Tội vô ý đắc tội với hoa khôi trường cảnh sát, rắc rối kéo tới ngay hôm đó khi Dư Tội bị một đám người đột nhập vào trường tấn công. Bằng vào thủ đoạn ranh ma, Dư Tội không những thoát được mà còn truy ra nguồn gốc của chúng, dẫn theo đám anh em được gọi là 13 con sâu hại đánh cho những kẻ này nhập viện. Sự việc bị trường phát hiện, 13 con sâu hại đối diện với nguy cơ đuổi học … đây cũng trở thành bước ngoặt cuộc đời của Dư Tội. *** Tác giả Thường Thư Hân một quái kiệt hiếm có của làng văn học mạng, cái tên anh không được biết tới nhiều ở Việt Nam, nhưng chắc hẳn không ít độc giả biết tới Hắc Oa, Dư Tội, Đối Dịch, Hương Sắc Khuynh Thành... Thứ tự đọc truyện Lão Thường là: Hắc Oa - Dư Tội - Hương Sắc Khuynh Thành - Đối Dịch, tuy đọc riêng bất kỳ truyện nào cũng không hề gì. Mặc dù sau đó đang ở đỉnh cao sự nghiệp, Thường Thư Hân và tập đoàn Văn Duyệt xảy ra tranh chấp bản quyền dữ dội, hai bên kéo nhau ra tòa, phiên tòa kéo dài bốn năm. Kết quả không có gì bất ngờ, một tác giả sao chống nổi tập đoàn lớn như thế, Thường Thư Hân thua, thậm chí tập đoàn Văn Duyệt sở hữu tên Thường Thư Hân tận 15 năm sau khi anh chết, khiến Thường Thư Hân phải đổi tên sáng tác, làm sự nghiệp của anh ảnh hưởng nghiêm trọng. Thế nhưng bộ đôi Hắc Oa, Dư Tội là viên ngọc quý trong giới văn học mạng, Văn Duyệt chẳng thể vùi dập được. Thường Thư Hân từ nhỏ mê tiểu thuyết võ hiệp, anh thích nhất Vi Tiểu Bảo dưới ngòi bút của Kim Dung, vì thế Dư Tội trong lòng anh cũng là người bình thường như vậy, không muốn làm anh hùng, chỉ muốn sống sao cho không hối tiếc, sống hết mình, không thẹn với lòng mà thôi. Đi ra ngoài một chuyến, anh hiểu ra, không bằng cấp tử tế, không dễ tìm việc tử tế. Thường Thư Hân ra tù về Sơn Tây, anh tự học một năm, thi đỗ vào trường đại học địa phương, không thể không nói đây là kỳ tích vì thời đó đại học vẫn có giá lắm, không tràn lan như sau này, thi vào đại học không hề dễ.  -------------o0o------------- Dư Tội, từ truyện ra đời, từ đời vào truyện. (Bài khá dài và khá chi tiết, nên đừng vì thấy dài mà không đọc hết nhé, kẻo bỏ qua một siêu phẩm đấy!) (Đáng lẽ bài này sẽ chia làm 2 phần, nhưng sợ các bạn chờ phần tiếp theo lâu sẽ mất hứng nên gộp luôn) Tác giả Thường Thư Hân một quái kiệt hiếm có của làng văn học mạng, cái tên anh không được biết tới nhiều ở Việt Nam, nhưng chắc hẳn không ít độc giả biết tới Dư Tội. Đây là tác phẩm hiếm hoi đạt thành công lớn ở cả ba mặt, tiểu thuyết mạng, sách in và cả phim truyền hình, một thời độ hot không gì sánh bằng, hãy thử nhìn lại năm xưa Dư Tội từng hot thế nào. Đầu tiên nói tới phim truyền hình, vì nhờ phim mà tên tuổi của anh vang dội khắp cả nước. Ngay từ mùa đầu lên sóng, Dư Tội trở thành hiện tượng, được cư dân mạng Trung Quốc xưng tụng là Hunger Games phiên bản Trung Quốc đạt 600 triệu lượt xem. Tới mùa thứ hai, chiếu chưa được một ngày, lượt xem đột phá 100 triệu, điểm douban lên tới 8.6. Chỉ cần tìm kiếm ở Trung Quốc phim hình sự hay nhất, chắc chắn có cái tên Dư Tội.   Trước khi trở thành bộ phim siêu hot trên mạng, nguyên tác Dư Tội được đăng trên Chuangshi, một trang web đăng truyện thuộc tập đoàn Văn Duyệt giống Qidian. Dư Tội chính là tổng quán quân tuyệt đối hai năm liên tiếp của Chuangshi. Khi truyện mới viết được hết quyển 1 trên 8 quyển, đã được Đằng Tấn mua bản quyền chuyển thể phim truyền hình. Đến lúc sách in phát hành, cơn sốt Dư Tội vẫn chưa hạ nhiệt, chỉ trong vòng 2 tháng, truyện phải in thêm tới ba lần, tới nay lượng tiêu thụ đột phá 100 vạn, trở thành tác phẩm best seller 5 năm liên tiếp của thể loại hình sự điều tra, thành tích này bị chặn lại bởi chính sách khác của anh. Khi Dư Tội đạt được sự thành công rực rỡ đó, nhiều tác phẩm của Thường Thư Hân lọt được vào mắt xanh đông đảo độc giả khắp nơi. Nhiều người nhận ra, Thường Thư Hân thậm chí còn có một tác phẩm xuất sắc hơn, cảm xúc mạnh mẽ hơn Dư Tội, đó chính là Hắc Oa. Ngay trong năm đó, Hắc Oa được in thành sách, Đằng Tấn tuyên bố, bấm máy phim Hắc Oa ( Cảnh sát Oa ca), khiến vô số độc giả thốt lên, đó là năm của Thường Thư Hân. Mặc dù sau đó đang ở đỉnh cao sự nghiệp, Thường Thư Hân và tập đoàn Văn Duyệt xảy ra tranh chấp bản quyền dữ dội, hai bên kéo nhau ra tòa, phiên tòa kéo dài bốn năm. Kết quả không có gì bất ngờ, một tác giả sao chống nổi tập đoàn lớn như thế, Thường Thư Hân thua, thậm chí tập đoàn Văn Duyệt sở hữu tên Thường Thư Hân tận 15 năm sau khi anh chết, khiến Thường Thư Hân phải đổi tên sáng tác, làm sự nghiệp của anh ảnh hưởng nghiêm trọng. Thế nhưng bộ đôi Hắc Oa, Dư Tội là viên ngọc quý trong giới văn học mạng, Văn Duyệt chẳng thể vùi dập được. Trong khuôn khổ bài viết này, mình sẽ chỉ nói tới Dư Tội. Dư Tội kể về một học viên trường cảnh sát có tên vô cùng kỳ lạ Dư Tội, vì tranh chấp nhỏ trong trường, Dư Tội và 12 người anh em trong trường, được gọi là 13 con sâu hại đối diện với nguy cơ đuổi học. Bọn họ không biết rằng đó là cái cớ, cả 13 người được đưa vào chương trình lựa chọn tinh anh, từ đó bắt đầu cuộc đời cảnh sát đầy câu chuyện cảm động, hoang mang, nhiệt huyết cùng kích động. Điều đầu tiên nói về Dư Tội thì y là kẻ sống sót, bất kể hoàn cảnh thế nào, người tồn tại cuối cùng sẽ là y. Dư Tội không phải là nhân vật lương thiện, tử tế gì, vì từ nhỏ đã phải lăn lộn phố phường nhiễm vô số thói hư tật xấu của tiểu thị dân, phải nói là nhân vật khó ưa nhưng đồng thời tính cách đa diện cũng làm người ta khó ghét, tính cách phóng túng tùy tiện, nhưng nhìn rõ bản thân, cũng nhìn rõ đối thủ vì thế y luôn là kẻ sống sót rút lui một cách an toàn nhất. Nhìn bề ngoài tựa một kẻ bất chính, gian xảo, tư lợi, hèn hạ kỳ thực đối với người thân, bạn bè, lại thực lòng chân thành, có sự lương thiện thuần túy. Tuy bị gọi là máu lạnh nhưng biết cảm thông, nhìn tựa kẻ hận đời sống buông thả lại khao khát sống đàng hoàng ... rất nhiều mâu thuẫn tập trung vào một nhân vật, khiến tính cách trở nên chân thực phong phú, cả cãi xấu cái tốt lẫn lộn, khiến Dư Tội thành một cảnh sát ưu tú nhất vươn tới tầm cao khiến tất cả phải ngước nhìn. Dư Tội tuy nổi tiếng là tác phẩm hình sự xuất sắc nhất trong thể loại, nhưng so với việc nói nó là tiểu thuyết trinh thám, không bằng nói nó là tác phẩm tuổi trẻ về lý tưởng và tình yêu. Truyện lấy chuyện vụ án chỉ để nói chuyện đời, truyện không đưa ra bài học cho độc giả, nhưng tin rằng khi đọc Dư Tội, không ít đoạn khiến độc giả bỏ sách xuống mà suy ngẫm. Vì sao Dư Tội thành công lớn như thế, rất nhiều người nói "tiểu thuyết quá chân thật". Làm sao không chân thực cho được, vì nguyên hình của nhân vật Dư Tội chính là tác giả, khi phóng viên liên hệ với Thường Thư Hân người được gọi là "Lão Thường" một ông chú lôi thôi đang ẩn cư ở thành phố nhỏ, người mà không ít cư dân mạng suy đoán là một hình cảnh, năm xưa lại là tên tội phạm cướp của bị bắt vào tù, từng là một tên lưu manh đầu đường xó chợ không hơn không kém. Khi được phóng viên hỏi tới chuyện cũ, Lão Thường ở bên kia điện thoại thoải mái kể lại chuyện năm xưa, chính vì trải nghiệm phong phú đầy vị cuộc sống đó thành chất dinh dưỡng tốt nhất cho tác phẩm của anh. Lão Thường thừa nhận, nguyên hình Dư Tội chính là mình. Phóng viên vốn muốn hẹn tới nhà Lão Thường xin phỏng vấn, Lão Thường gạt đi, nói mình không phải minh tinh, không cần tốn công như thế, huống hồ nhà anh rất xa, vất vả thế là không đáng. Tuy chỉ là cuộc phỏng vấn qua điện thoại, Lão Thường không vì thế mà qua loa, phóng viên hối hận, nếu biết trước được nghe câu chuyện đặc sắc như thế, dù vất vả thế nào cũng phải tới tận nơi, chỉ để tận mắt thấy Lão Thường, so với trong truyện, cuộc đời Lão Thường còn là truyền kỳ hơn nhiều. Anh sinh năm 1975, năm 1993 vừa tròn 18 tuổi, vào cái thời phương nam hừng hực cải cách mở cửa, anh bất chấp người nhà khuyên can, học theo người ta chạy tới Quảng Châu kiếm tiền. Nào ngờ, tiền chẳng kiếm nổi, đến cơm ăn chẳng no, tuổi trẻ kích động, anh sinh ra ý nghĩ nông nổi, đi cướp. Khi đó Lão Thường nấp ở một bến tàu hỏa, nhìn người ra rút NDT từ ví ra, chuẩn bị đưa vào cửa sổ thu phí, anh xông tới cướp ví chạy luôn. Kết quả lần đầu gây án đã thất bại, trả giá bằng 8 tháng tù giam. Lão Thường nói "Đó không phải chuyện hay ho gì, bình thường tôi xấu hổ không nói ra.". Ở trong tù, anh quen đủ loại người từ buôn ma túy, trộm cắp vặt, làm hàng giả, giết người ...v...v...v.. tất cả những người đó là nguyên nhân lớn sau này tác phẩm của Thường Thư Hân luôn sinh động chân thực. "Cảnh sát kể về vụ án thường không tỉ mỉ đôi khi còn phải bảo mật. Nhưng tội phạm thì khác, nhất là ở trong tù, thời gian rảnh nhiều mà." Lần lỡ bước đó làm Thường Thư Hân khi còn rất trẻ đã ý thức được, thì ra người bình thường đi theo hướng tà ác lại chỉ cách một bước mà thôi. Trong những năm tháng trong tù, anh được thấy khát vọng trần trụi nhất của con người, cùng nhân tính nguyên thủy nhất, về sau anh đặt tên tiểu thuyết là Dư Tội ( Tội lỗi che giấu) là vì thế. Thường Thư Hân từ nhỏ mê tiểu thuyết võ hiệp, anh thích nhất Vi Tiểu Bảo dưới ngòi bút của Kim Dung, vì thế Dư Tội trong lòng anh cũng là người bình thường như vậy, không muốn làm anh hùng, chỉ muốn sống sao cho không hối tiếc, sống hết mình, không thẹn với lòng mà thôi. Đi ra ngoài một chuyến, anh hiểu ra, không bằng cấp tử tế, không dễ tìm việc tử tế. Thường Thư Hân ra tù về Sơn Tây, anh tự học một năm, thi đỗ vào trường đại học địa phương, không thể không nói đây là kỳ tích vì thời đó đại học vẫn có giá lắm, không tràn lan như sau này, thi vào đại học không hề dễ.  Tuy quyết tâm thay đổi con người, nhưng thời gian trong tù ảnh hưởng tới anh nhiều hơn anh nghĩ, tính cách nóng nảy, ưa bao lực, vì xích mích nhỏ không nhịn được, anh đánh nhau trong trường, vì thế học được hơn một năm đã bị khai trừ. Không lâu sau khi bị đuổi học anh lại nghe tin dữ, cha qua đời bởi tai nạn giao thông, thành hối tiếc suốt cuộc đời Thường Thư Hân, vì tới tận khi cha mất, anh vẫn là đứa lông bông chưa thể làm cha mẹ yên lòng. Vừa có tiền án, lại bị đuổi học, anh không cách nào tìm được công việc đàng hoàng ngoài xã hội. Vì mưu sinh, anh làm tới ba bốn chục công việc khác nhau, bán rau, bán sách, bán vé số, kéo xe ba bánh, đi khai khoáng, tiếp thị, nấu ăn … "Có những lúc tôi làm liền mấy việc, cái gì kiếm được tiền là tôi làm. Bán rau, nghề này tính thời vụ cao, thu đông kiếm nhiều, mùa hè bình thường. Bán sách, nghề này chỉ được một hai tháng lúc khai trường, còn là bán sách in lậu." Công việc duy nhất anh làm lâu dài làm công nhân cho công ty điện tín đương địa, bắt đầu từ vác thang, kéo dây điện. Mỗi ngày làm việc xong phải viết báo cáo công tác, đó là việc rườm ra phiền phức tốn thời gian mà chẳng ai muốn làm cả, thế nên trong đội đẩy cho anh làm. Kết quả do báo cáo của Thường Thư Hân do gọn gàng đâu ra đó, câu chữ thông thuận, hoàn toàn khác người ta. Dần dà, anh được điều tới văn phòng làm văn thư. Mới đầu anh còn chịu khó học thêm máy tính, một lòng phấn đấu tiến bộ. Đáng tiếc quá khứ lần nữa níu kéo, ngay cả hi vọng ký hợp đồng chính thức cũng vô vọng, không thể tốn thời gian làm việc tạm thời thế này, anh liền từ chức. Có lẽ suốt thời gian đó, chuyện vui duy nhất của anh là trong thời gian đi bán sách lậu, cơ duyên thế nào, anh quen được một cô giáo, rất xinh xắn. Quen nhau ba năm, cô giáo trẻ không chê anh nghèo, chẳng chê anh có quá khứ không tốt, bất chấp cha mẹ ngăn cản, anh có được cái gật đầu của cô, hai người thành vợ chồng. “Có lẽ cô ấy mê món ăn tôi làm.” Lão Thường cười ha hả. Lão Thường không kể nhiều về khó khăn của mình, vì đó thành vốn sống quý nhất của anh, cũng hun đúc cho anh một ánh mắt thấu hiểu cuộc đời. Lại nói rời công ty điện tín, anh chuyển sang bán máy vi tính, ở cửa hàng vi tính, rảnh rỗi anh vào mạng xem tiểu thuyết. Khi đó anh vừa mua nhà để cưới vợ, áp lực khoản vay mua nhà rất lớn, anh không thể dựa vào vợ nuôi được, thấy người ta ở trên mạng viết tiểu thuyết kiếm nhiều tiền lắm, đó là năm 2008 giai đoạn tiểu thuyết mạng bắt đầu bùng nổ, anh muốn thử xem sao. Sau hai tác phẩm sáng tác thử, bộ tiểu thuyết chính thức đầu tiên của anh trên mạng là Hồng Nam Lục Nữ, đề tài đô thị, lượng người mua vip cũng được vài nghìn, mỗi tháng anh viết mấy chục vạn chữ, tiền thù lao là 900 đồng, tuy ít nhưng anh kích động lắm, dù sao anh chỉ tranh thủ sáng tác lúc rảnh rỗi thôi. Khi đó tôi nghĩ "Nghề này sống được đấy." Sang tới tác phẩm thứ hai Hắc Oa nhờ tích lũy được ít độc nhà từ bộ trước, lần này anh yên tâm sáng tác hơn nhiều, thành tích ngày càng tốt, nhiều độc giả thốt lên, té ra tiểu thuyết mạng còn có thể viết tới mức này. Anh chính thức trở thành tác giả toàn thời gian. Đến khi sáng tác Dư Tội, bắt đầu có công ty lớn phát hiện ra viên ngọc bị bỏ quên, mới viết được xong quyển một, người ta đã mua bản quyền truyền hình.  "Khi đó tôi còn chưa có tiếng tăm gì, bản quyền bán quá rẻ, chỉ được 60 vạn, xung quanh biết được, đều bảo tôi ngốc." Thế nhưng ông trời rất công bằng, nhờ thành công lớn của Dư Tội, Thường Thư Hân bán thêm bản quyền truyền hình 3 tác phẩm nữa, trong đó Hắc Oa bán với giá 280 vạn. Quay lại với Dư Tội, Thương Thư Hân hồi ức, khi anh đang Dư Tội trên mạng, rất nhanh anh có được lượng fan cực lớn. Tháng 10 năm đó, có 20 fan hâm mộ vì hợp ý nhau mà tập trung ở Tấn Thành, bọn họ không ngại đường xá xa xôi tới từ khắp nơi trên cả nước lặn lội tới huyện thành nhỏ vùng tây bắc, họ tới tìm Lão Thường. Làm anh bất ngờ là, 12 người trong đó là cảnh sát. Tất nhiên số cảnh sát đó còn bất ngờ hơn, họ nói "Chúng tôi cứ tưởng anh là đồng nghiệp." "Thái độ của tôi với cảnh sát khi đó là kính nhi viễn chi, dù sao tôi từng bị bắt, chẳng may họ tra ra tôi có an thì xấu hổ lắm. Có cả một tạp chí thuộc sở công an liên hệ với tôi, họ tưởng tôi tốt nghiệp trường cảnh sát, mời tôi phụ trách chuyên đề, tôi tất nhiên là từ chối." Rồi Dư Tội xuất bản thành sách, một số hình cảnh trong đại đội hình sự thành phố lái xe mang theo đống sách tới nhờ tôi ký tên, họ nói "Cả đại đội hình sự là fan của anh, chúng tôi đi xin chữ ký thay cho họ."  Từ đó thường có cảnh sát tới tìm Thường Thư Hân trò chuyện, họ tham dự thảo luận tình tiết, còn hiến kế cho anh viết sách, cung cấp tư liệu vụ án, ví như họ nói, "anh bố trí cảnh hàm sai hết rồi, đó là hệ thống của Hong Kong, không phải Đại Lục chúng ta." Vì thế Lão Thường phát hiện sách của mình còn nhiều sai lầm, anh sửa lại không ít tình tiết trong truyện, Dư Tội anh sửa tới 5 lần, Hắc Oa sửa tới lần thứ 3, các truyện khác không có truyện nào anh đăng lên rồi thôi, mà rất chịu khó sửa lại truyện. Vụ án trộm trâu, buôn ma túy v..v..v trong Dư Tội đều là vụ án chân thực mà anh được những người bạn cảnh sát cung cấp tư liệu. Giống Dư Tội, Lão Thường là người sống có phần cô độc kín tiếng, anh không giống tác giả thời đại này, anh không tham gia quảng bá phim, không tổ chức buổi kỳ tên sách, thậm chí còn chẳng mở tài khoản công chúng giao lưu với fan. Bởi thế xung quanh anh, trừ vài người thân và những người bạn cảnh sát, chẳng ai biết được ông chú lôi thôi hay đi dép lê lang thang ngoài đường hay ngậm cọng cỏ hoặc phì phèo thuốc lá như người thất nghiệp lại là tác giả bán được hàng trăm vạn cuốn sách.  Có thể nói Lão Thường thuộc thế hệ cũ rồi, chỉ biết lặng lẽ viết truyện đăng truyện, dùng tác phẩm thay tiếng nói bản thân. Vì vậy tên tuổi anh không nổi tiếng như tác phẩm của anh, nhưng nhờ độc giả yêu thích truyền miệng, tới giờ tác phẩm của anh vẫn luôn được săn tìm. Vì chuyên tâm sáng tác, Thường Thư Hân trong thời gian sáng tác Hắc Oa đã chuyển về nhà cũ ở thôn quê gần thành phố, sống cuộc đời ẩn cư. Mỗi tối trong khói thuốc mịt mù, anh đánh máy đăng truyện, đêm ngủ tới lúc tự nhiên tỉnh, sau đó lên thành phố làm cơm cho vợ và con, cuộc sống thong dong thoải mái. Anh nói đùa anh sáng tác là nghề phụ, nghề chính là ông chồng nội trợ. Trừ đưa đón con, làm việc nhà thì anh đóng cửa đánh máy. sở thích nghiệp dư là xem tiểu thuyết, nghe nhạc, tản bộ, cùng người xung quanh đánh cờ, bốc phét với đám bạn cảnh sát. Vợ anh và con gái đang học cao trung năm thứ hai đều không đọc tiểu thuyết của anh. "Vợ tôi thích xem phim gia đình, không bao giờ xem phim cảnh sát. Con gái tôi à, nó thích xem phim Hàn, thích theo đuổi ngôi sao, nhưng sách của tôi thì nó chả ưa chút nào, tôi thấy ngôi sao duy nhất mà con gái tôi không theo đuổi, chính là tôi." Phóng viên kể, Lão Thường nói câu đó với giọng khoái trá lắm, rõ ràng rất đắc ý về cuộc đời mình.   Mời các bạn mượn đọc sách Dư Tội của tác giả Thường Thư Hân.
Vị Khách Chủ Nhật
“… Những ngọn núi sau lưng ông sừng sững như một đại giáo đường. Chúng trỗi lên thẳng đứng từ mặt biển, vĩ đại và hùng tráng, già lão và nhàn nhĩ, mỗi ngọn có khuôn mặt xám xịt riêng. Những khuôn mặt luôn luôn thay đổi, có sống cả đời cũng chưa đủ để ghi nhận hết. Khúc nhạc đại phong cảm của gió tàn phá chúng với tốc độ vô cùng chậm chạp nhưng không bao giờ ngơi nghỉ. Ông chẳng để ý gì đến chúng nữa cả. Lúc nào chúng chả đứng đó. Những người khác đến đây để ngây ngất chiêm ngưỡng núi, để trèo lên đó và lại gần bầu trời thêm một chút, có lẽ để được diện kiến các đấng thánh thần chăng. Nhưng ông cũng như những người cư ngự khác ở đây, đối với ông núi non là sự mặc định. Phải chăng có sở thích triết luận và suy tư thì ắt ông sẽ coi chúng là những người lính gác, là rào chắn mọi hiểm nguy rình rập. Đã có lần ông rời đảo, đã cố gắng đoạn tuyệt nó mà không thành. Từ đó ông chỉ vào bờ khi chẳng dừng, và đôi khi làm một chuyến du ngoạn trọn gói về phương Nam. Bây giờ ông là một người khác. Sống một cuộc sống điều độ. Ngày xưa ai dám tin chuyện đó? Cũng đôi khi tâm trí ông trôi về dĩ vãng, song ngày càng hiếm hơn . Tốt hơn hết là cái gì đã qua thì cứ để nó yên. Nhưng không phải lúc nào cũng làm được thế. Con bé ấy đã biến đi đâu? Liệu có bao giờ ông biết được không?...” - “Khi bạn đã kiệt sức và từ bỏ Dostoyevsky, hãy đọc Kanger. Nó chính là phương thuốc chữa trị tình yêu đang phai nhạt mà bạn dành cho việc đọc sách”. – Upsala Nya Tidning - “Thomas Kanger đã trở thành một tác giả trinh thám tài năng ngang tầm những tên tuổi có uy tín trong thể loại này như Mankell, Edwardson và Nesser”. – Varnamo Nyheter. - “Văn phong của Kanger ấn tượng một cách tàn nhẫn. Không đối trọng nào được phép xuất hiện trong lời tường thuật của ông. Nó cũng tương tự phương pháp sắt đá đặc sắc của Hemingway” – Eskilstuna-kurien. - “Thomas Kanger và nhân vật Elina Wiik của ông nổi bật lên như ngôi sao sáng chói nhất trên bầu trời văn học trinh thám Thụy Điển” – Gefle Dagblad. *** Hồi hộp và lôi cuốn, tác phẩm trinh thám này không chỉ lần theo dấu vết hung thủ của một vụ án sắp hết thời hiệu khiếu kiện mà còn dẫn dụ độc giả khám phá thế giới tâm lý nhân vật ở những tầng sâu thẳm… Review Tác phẩm: Vị khách chủ nhật Một vụ án mạng từ hai mươi tư năm và mười một tháng trước, chính xác là còn hai mươi lăm ngày nữa sẽ khép lại vĩnh viễn. Một phụ nữ trẻ bị bóp cổ chết. Năm tháng sau xác của cô được phát hiện với những vết răng sói cắn. Đứa con gái hoàn toàn mất tích. Bộ hồ sơ dài tới ba nghìn trang với những phần điều tra tỉ mỉ và đầy nỗ lực… Nữ cảnh sát Elina Wiik đã quyết định lật lại vụ án này từ nỗi ám ảnh của một đồng nghiệp thân thiết, khi anh bị chứng nhồi máu cơ tim. 35 tuổi, xinh đẹp và đầy bản lĩnh, Wiik mang đến cảm giác đầu tiên về một “người đàn bà thép”, khi đã quyết là không rời bỏ mục tiêu lựa chọn của mình. Và Wiik đã chọn nạn nhân Ylva Marieanne Malmberg của gần hai mươi lăm năm trước, bắt đầu từ một xuất phát điểm mà chính cô cũng thừa nhận đây là một chuyện viển vông, một vụ chưa ai làm nổi bao giờ. Có bao điều phiền toái kéo theo từ vụ án tưởng chừng đã được khép lại ấy. Công việc thường ngày của Wiik là giải quyết những vụ trộm vặt, đánh nhau đã vì thế mà bê trễ. Ba nghìn trang hồ sơ không chỉ ngốn hết thời gian của Wiik mà còn lan sang cả một vài đồng nghiệp trong cơ quan. Điều này khiến vị sếp trong cơ quan hết sức bực bội. Đã có lúc Wiik bị dồn tới bước đường cùng, buộc phải rời bỏ vụ án. Tuy nhiên, người phụ nữ trẻ này lúc nào cũng biết tìm cho mình một lối để tiếp tục đi. Có tới ba mươi tư nghi phạm được Wiik liệt kê từ những cuốn nhật ký để lại của Ylva. Và cô đã quay ngược lại thời gian để tái hiện lại tất cả những gì đã xảy ra với nạn nhân trước đó. Những kẽ hở của hồ sơ đã được phát hiện, và Wiik lúc nào cũng tin tưởng sẽ giải quyết được vụ án mạng này tới cùng. Đầy cuốn hút với các nhân vật dường như ai cũng có xu hướng không muốn bày tỏ bản thân quá nhiều. Lôi cuốn với hai tuyến nhân vật cùng lao về quá khứ, một bên là nữ cảnh sát tài ba và chuyên nghiệp, một bên là cô gái trẻ Kari muốn kiếm tìm sự thật nguồn gốc của mình. Hồi hộp với những mắt xích mãi tận đẩu đâu có thể tình cờ ghép nối được với nhau, hé mở một cách bất ngờ. Và điều kỳ diệu mà Thomas Kanger đã làm được: chỉ để tội phạm xuất hiện ở phút cuối, và kèm theo một tiết lộ gây sửng sốt không kém. Vị khách chủ nhật là cuốn sách thứ tư trong bộ tiểu thuyết trinh thám sáu tập của nhà văn Thụy Điển Thomas Kanger. Khác với những cuốn trước đó, tác phẩm này được xây dựng hoàn toàn từ hư cấu. Với cặp mắt quan sát của một phóng viên điều tra, Thomas Kanger đã đưa vào Vị khách chủ nhật cái nhìn quyết liệt tới tận cùng sự thật, khiến văn phong của ông ấn tượng một cách tàn nhẫn. Đó là lý do để Thomas Kanger và nhân vật Elina Wiik của ông nổi bật lên như ngôi sao sáng chói nhất trên bầu trời văn học trinh thám Thụy Điển. Tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch, Hà Lan…, được đề cử giải Tiểu thuyết hình sự Thụy Điển và hiện đang được Hollywood dựng thành phim. Thomas Kanger sinh năm 1951, sống gần Stockholm. Trước khi bước vào nghiệp viết tiểu thuyết trinh thám, ông là phóng viên thường trú nhiều năm ở nước ngoài. Là nhà văn, nhà báo, Thomas Kanger đã chín lần sang Việt Nam giảng dạy về báo chí, và dấu ấn này ít nhiều lưu lại trong Vị khách Chủ nhật, mở đầu với một khung cảnh ở Việt Nam. Bản lĩnh của phóng viên đã mang đến cho tác giả một cái nhìn chiều sâu sau những tác phẩm trinh thám, mà ông từng tâm sự: “Làm báo, tôi quan tâm đến vấn đề lạm dụng quyền lực; còn khi viết tiểu thuyết tôi muốn tìm hiểu xem tại sao người ta lại hành động theo cách này hay cách khác, sự phát triển trong xã hội đã ảnh hưởng đến con người ra sao, đặc biệt đối với phụ nữ”. Phúc Yên - vnexpress.net *** Tác giả Nhà văn, nhà báo Thụy Điển nổi tiếng Thomas Kanger sinh năm 1951, lớn lên ở Uppsala, sau đó sống gần hai mươi năm ở Västerås, hiện sống gần Stockholm, ông bắt đầu làm báo từ năm 1980, mười năm sau chuyển sang làm phóng viên truyền hình, từng là phóng viên thường trú nhiều năm ở nước ngoài. Thomas Kanger đã viết tổng cộng chín cuốn sách, bao gồm: năm tiểu thuyết trinh thám, một tiểu thuyết kinh dị, một cuốn sách nghiên cứu, hai cuốn sách điều tra. Thomas Kanger cũng hợp tác với Truyền hình Quốc gia Thụy Điển làm phim tài liệu phóng sự điều tra. Đề tài trong tác phẩm của ông thường gây được sự chú ý mạnh mẽ trong dư luận xã hội không chỉ ở Thụy Điển mà cả ở nước ngoài. Thomas Kanger làm báo và viết văn với niềm tin tạo ra những tác động góp phần loại bỏ những điều xấu trong xã hội. Với tài năng và tầm ảnh hưởng ngày càng mở rộng của ông, điều này đã phần nào trở thành hiện thực. Các tiểu thuyết của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, dựng thành phim. Thomas Kanger từng tham gia phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam tại Mỹ, đã đến Việt Nam chín lần để giảng dạy về báo chí. Tiểu thuyết trinh thám Vị khách Chủ nhật mở đầu với một khung cảnh Việt Nam lần đầu được dịch sang tiếng Việt sẽ là những trang sách hấp dẫn giới thiệu với độc giả Việt Nam một nhà văn tài năng đến từ đất nước Thụy Điển xa xôi. *** Chuyện kể ngày xưa lần đầu tiên sói và tuần lộc gặp nhau. Trông thấy cặp sừng to tướng và đôi mắt đen của tuần lộc, sói thất kinh. “Cậu cần sừng nhọn làm gì vậy?” sói hỏi. “Cậu nói đúng, sừng tớ nhọn lắm,” tuần lộc đáp. “Nhưng tớ vừa ra đời nên chưa rõ dùng sừng làm việc gì cả.” Không vì thế mà sói thấy yên tâm. “Tại sao đôi mắt đen to tướng của cậu lại nhìn tớ chằm chằm vậy?” sói muốn biết. “Tớ không muốn làm cậu sợ đâu, hay là tớ quay mặt đi vậy nhé,” tuần lộc nói. Giờ thì đến lượt tuần lộc hỏi sói. “Thế cậu là ai? Trông thấy răng cậu vàng khè và họng cậu đỏ chót tớ sợ phát run lên.” Nghe tuần lộc nói sợ mình, sói khẽ vẫy đuôi và gầm gừ: “Hãy liệu hồn khi gặp ta, vì lúc nào ta cũng thấy đói.” Từ đó trở đi sói là kẻ mạnh hơn và tuần lộc là con mồi của nó. Ông quen tay thả dây buộc lưỡi câu trượt xuống nước. Trời xám xịt đầy mây, không khí đã ứ hơi mưa, và xung quanh im ắng lạ thường so với biển Baltic thường ngày. Chiếc thuyền con lúc lắc trườn tới một cách thận trọng. Kinh nghiệm cho ông biết thời tiết có thể đột ngột thay đổi. Đang lặng gió đấy mà cũng có thể ầm ào ngay đấy, song chưa bao giờ vì thế mà ông không chèo thuyền ra biển. Ra tận ngoài khơi, cách xa bờ, chỉ ở đó ông mới thấy thanh thản. Những ngọn núi sau lưng ông sừng sững như một đại giáo đường. Chúng trồi lên thẳng đứng từ mặt biển, vĩ đại và hùng tráng, già lão và nhàu nhĩ, mỗi ngọn có khuôn mặt xám xịt riêng. Những khuôn mặt luôn luôn thay đổi, có sống cả đời cũng chưa đủ để ghi nhận hết. Khúc nhạc đại phong cầm của gió tàn phá chúng với tốc độ vô cùng chậm chạp nhưng không bao giờ ngơi nghỉ. Ông chẳng để ý gì đến chúng nữa cả. Lúc nào chúng chả đứng đó. Những người khác đến đây để ngây ngất chiêm ngưỡng núi, để trèo lên đó và lại gần bầu trời thêm một chút, có lẽ để được diện kiến các đấng thánh thần chăng. Nhưng ông cũng như những người ngụ cư khác ở đây, đối với ông núi non là sự mặc định. Phải chăng có sở thích triết luận và suy tư thì ắt ông sẽ coi chúng là những người lính gác, là rào chắn mọi hiểm nguy rình rập. Đã có lần ông rời đảo, đã cố gắng đoạn tuyệt nó mà không thành. Từ đó ông chỉ vào bờ khi chẳng đừng, và đôi khi làm một chuyến du ngoạn trọn gói về phương Nam. Bây giờ ông là một người khác. Sống một cuộc sống điều độ. Ngày xưa ai dám tin chuyện đó? Cũng đôi khi tâm trí ông trôi về dĩ vãng, song ngày càng hiếm hơn. Tốt hơn hết là cái gì đã qua thì cứ để nó yên. Nhưng không phải lúc nào cũng làm được thế. Con bé ấy đã biến đi đâu? Liệu có bao giờ ông biết được không? Mời các bạn mượn đọc sách Vị Khách Chủ Nhật của tác giả Thomas Kanger & Lê Quang (dịch).