Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giúp Đọc Nôm Và Hán Việt (NXB Đà Nẵng 2004) - Trần Văn Kiệm

Nhìn vào hai hàng chữ tiếng Việt, chúng ta thấy hàng chữ Quốc ngữ ngày nay trông đơn giản hơn hàng chữ Nôm mà tổ tiên chúng ta đã từng dùng rất nhiều. Nhưng hàng chữ Quốc ngữ diễn tả âm thanh hay cách phát âm của ngôn ngữ, trong khi hàng chữ Nôm cho chúng ta thấy sự diễn tả ý nghĩa (tượng hình) của ngôn ngữ. Đó là hai đặc điểm khác biệt cơ bản nhất của hệ thống chữ La Tinh (biểu âm) và hệ thống chữ Hán (biểu hình).

Ngày nay, sau hơn một thế kỷ chúng ta chính thức dùng chữ Quốc ngữ (hệ thống phiên âm chữ La tinh) để viết tiếng Việt thay thế hoàn toàn cho hệ chữ Hán Nôm, chữ viết của chúng ta trở thành chữ viết rất dễ nhớ và dễ học. Tuy nhiên chính việc dùng chữ Quốc ngữ và ngừng dạy chữ Hán Nôm sau một khoảng thời gian dài đã càng làm cho tiếng Việt của chúng ta ngày càng xa rời cội nguồn của nó. Tiếng Việt của chúng ta có cội nguồn từ hệ thống chữ viết tượng hình nằm trong khối Hán văn (bao gồm Trung Quốc, Nhật, Triều Tiên và Việt Nam), và cũng là một thứ ngôn ngữ có khá nhiều từ đồng âm dị nghĩa mà vốn dĩ trước kia chúng ta dùng hệ thống chữ Hán Nôm để phân biệt. Ngày nay dùng chữ Quốc ngữ, sự phân biệt này thường thông qua văn cảnh. Tuy nhiên, nếu so sánh với nguồn gốc của từ ngữ trong tiếng Việt thì chúng ta có thể liệt kê ra nhiều từ được viết bằng chữ Quốc ngữ được hiểu sai và dùng sai, và khi dùng nhiều trở thành thông dụng và đương nhiên những từ sai cũng được chấp nhận và đưa vào trong vốn từ vựng tiếng Việt hiện đại. Hệ thống chữ Hán là chữ tượng hình dùng để viết lên thứ ngôn ngữ theo lối diễn tả hình tượng và ý nghĩa. Trong khi hệ thống chữ viết theo mẫu tự La Tinh biểu diễn âm thanh, qua âm thanh chúng ta mới hiểu được ý nghĩa. Theo tôi nghĩ, mỗi một thứ chữ viết có những ưu nhược điểm khác nhau. Nếu chữ viết của chúng ta ngày nay dùng hệ phiên âm chữ La tinh có ưu điểm là dễ nhớ dễ học, nhưng lại có nhược điểm là chỉ nhằm cấu tạo phần âm thanh mà không làm nổi bật được đặc tính cấu tạo hình ảnh và nghĩa. Còn chữ Hán, và chữ Nôm của Việt Nam, tuy phức tạp nhưng lại diễn tả được phần nghĩa và giải quyết được phần lớn hiện tượng các từ đồng âm dị nghĩa vốn có rất nhiều trong ngữ vựng của các ngôn ngữ khối Hán văn.

Giúp Đọc Nôm Và Hán Việt

NXB Đà Nẵng 2004

Trần Văn Kiệm

918 Trang

File PDF-SCAN

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Âm Thanh Kiếm PDF (NXB Mai Linh 1936) - Điệp Hùng
Để đánh giá đầy đủ trào lưu dịch tiểu thuyết Trung Quốc rầm rộ sau khi chữ quốc ngữ trở nên thịnh hành, tác giả bài viết này đã lập một danh mục các bản dịch xuất bản thành sách (xin xem dưới đây) dựa theo thư mục đã in của Cordier và Boudet cũng như thư mục vi phim của bà C. Rageau bao gồm tất cả các tác phẩm bằng chữ quốc ngữ lưu giữ tại Thư viện quốc gia Pháp từ khi thiết lập hệ thống lưu trữ mang tính pháp lý năm 1922 cho đến 1954. Những tài liệu này được bổ sung bằng một tập tiếp theo gồm tất cả các sách vở có trước 1922 của Thư viện quốc gia. Hơn thế, nhờ sự cộng tác với bà C. Salmon, tác giả bài này lại được tiếp xúc gián tiếp với các phiếu tư liệu của thư viện Pháp ghi các ấn phẩm xuất bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai và phiếu tư liệu của Viện nghiên cứu quốc gia về ngôn ngữ và văn minh phương Đông. Thư mục, gồm 316 bản dịch (không kể sách tái bản) này chỉ ghi những tác phẩm đã xác định được nguyên tác. Hiển nhiên con số ở đây là rất nhỏ so với thực tế. Tuy vậy tác giả tin rằng nó đại diện trung thực cho trào lưu dịch thuật bắt đầu dấy lên vào quãng 1905 và kéo dài cho đến khi Nhật chiếm đóng. Chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo nên một đứt đoạn rất rõ rệt trong hoạt động xuất bản, song thư mục này không tiêu biểu lắm cho con số thực các bản dịch, bản in lại những ấn phẩm trước Chiến tranh thế giới thứ hai và các bản dịch mới.Âm Thanh KiếmNXB Mai Linh 1936Điệp Hùng272 TrangFile PDF-SCAN
Đông Hải Triều Âm PDF (NXB Trung Bắc Tân Văn 1935) - Nguyễn Huy Xương
Đông Hải Triều Âm chia làm 3 phần: 1) Tôn chỉ Phật giáo, bài diễn văn của ông Nguyễn Huy Xương đại biểu Hải Dương. 2) Nghi văn lễ Phật. 3) Nghi lễ niệm Phật của ban giảng diễn Hải Dương. In tại nhà in Trung Bắc Tân Văn - Hà Nội 1935Đông Hải Triều ÂmNXB Trung Bắc Tân Văn 1935Nguyễn Huy Xương32 TrangFile PDF-SCAN
Hai Mươi Tuổi - Kiều Thanh Quế PDF (NXB Đức Lưu Phương 1940)
Tôi viết Hai Mươi Tuổi với tất cả hăn- hái, u-buồn, hoài- nghi của tuổi hai mươi, tôi mạnh dạn cầm bút viết "Hai mươi tuổi". Ở đây, tôi trình bày tất cả các hạng hai mươi tuổi không lý - tưởng, toàn là bạn thân hay không thân của tôi, ở đâu, tôi nói xấu cũng như nói tốt họ. Ở đâu, quản bút tôi đang cầm nó bắt tôi khai hết sự thiệt. Tôi không viết sách bao giờ. Tôi chỉ biết là khi nào thấy thần-trí bị ám-ảnh bởi một sự vật, tâm tư thắc mắc bởi một đau khổ ...Hai Mươi TuổiNXB Đức Lưu Phương 1940Kiều Thanh Quế156 TrangFile PDF-SCAN
Hận Ngày Xanh PDF (NXB Tân Dân 1942) - Hoàng Cầm
Có phải chăng tiếng sóng bể, tiếng gió khơi đã giội vào hàng thông trên bãi, có phải chăng tiếng rung động của đôi lòng trong trắng đang hòa nhạc nêu đương dưới nắng thu vàng ? Có phải chăng tiếng thổn-thức từ trái tim rũ héo của người xưa ? Hay chính là bản nhạc đầu thương nhớ trong thời xuân xanh của bạn bay về ? Thế là bạn đã có một bài thơ, một bản đàn. Ẩm-điệu lẩn vào tâm-tư, tùy ở bạn nghĩ đến lòng đau của thi-nhân ngày trước. Giọt lệ thi-nhân! bạn hứng lấy mà xem! Bạn sẽ thấy ngạc nhiên khi thấy bóng mình ở trong ấy, đang nghe tiếng hận ngày xanh...Hận Ngày XanhNXB Tân Dân 1942Hoàng Cầm196 TrangFile PDF-SCAN